Chương 1:
1/ sao trong quá trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con
đường cách mạng vô sản?
Những năm đầu thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam đứng trước những thách thức mới,
đó tìm ra con đường giải phóng dân tộc đúng đắn. Trong thời kì đế quốc Pháp xâm
chiếm đô hộ nước ta, nước ta trở thành một nước thuộc địa, người dân bị chèn ép,
Không chịu nổi cảnh bị áp bức n bạo man, nhân dân ta đã vùng lên đấu tranh
chống lại chính quyền Pháp. thế các cuộc đấu tranh liên tiếp nổ ra, phong trào
đấu tranh yêu nước giải phóng dân tộc diễn ra khắp mọi miền tổ quốc. Tiêu biểu như
phong trào Cần Vương theo khuynh ớng phong kiến hay Phong trào Đông du của
Phan Bội Châu và Phong trào Duy tân của Phan Chu Trinh theo khuynh hướng tư sản.
Nhưng diễn ra mạnh mẽ sôi nổi nhưng các hoạt động phong trào đấu tranh cũng
đều thất bại. Hồ Chí Minh rất khâm phục tinh thần ý chí cách mạng của Phan
Bội Châu Phan Chu Trinh nhưng Người không đồng tình cách làm của họ, Người
đã nhận ra sai lầm trong chủ chương đường lối cách mạng của họ Người nhận thấy lý
do các phong trào đều thất bại hệ tư tưởng của họ dựa vào đã trở nên lỗi thời không
đáp ứng được yêu cầu của cuộc cách mạng. Nhờ thấu hiểu điều đó, Người hiểu phải
tìm ra cho cách mạng Việt Nam con đường lối đi mới, tránh đi vào lối mòn lịch sử.
Bằng những hoạt động thực tiễn của mình Nguyễn Ái Quốc đã những nhận thức về
cách mạng thế giới những con đường cứu nước, từ đó Bác lựa chọn con đường
đúng đắn cho dân tộc ta.
Năm 1911, Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước. Người đã bôn ba khắp năm
châu, bước đầu những nhận thức về bạn thù(trích dẫn câu nói của bác). Năm
1917, Cách mạng Tháng ời Nga giành thắng lợi, chủ nghĩa Mác nin đã trở
thành hiện thực, đồng thời mở ra một thời đại mới thời đại cách mạng chống đế
quốc, thời đại giải phóng dân tộc”. ch mạng Tháng Mười đã nêu tấm gương sáng
trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức. Nguyễn Ái Quốc Khẳng định: “Cách
mạng Tháng ời như tiếng sét đã đánh thức nhân dân Châu Á tỉnh giấc mê hàng thế
kỷ nay”. Thắng lợi của cách mạng hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga và những chính
sách tiến bcủa thực sự đem lại lợi ích cho đông đảo quần chúng nhân dân.
chứng tỏ được sự tiến bộ của hình thức cách mạng này.Trong khi đó, chiến tranh thế
giới thứ nhất kết thúc đã để lại những hậu quả cùng nặng nề. Loài người căm gét
chiến tranh. Trong khi đó cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Nga thực sự đem lại hòa bình
tự do cho con người
Người đánh giá cao tưởng tự do, bình đẳng, bác ái quyền con người của c
cuộc cách mạng sản tiêu biểu như Cách mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789)
nhưng cũng nhận thức những hạn chế của các cuộc cách mạng sản. Nguyễn
Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng sản không thể đưa lại độc lập hạnh
phúc thật sự cho nhân dân các nước nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng.(trích
dẫn câu nói). Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm tìm hiểu cách mạng tháng ời nga
1917. Người rút ra kết luận: trong thế giới bấy giờ chỉ Cách mệnh Nga thành
công, thành công đến nơi, nghĩa dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do,
bình đẳng thật”
Việc Bác lựa chọn con đường cách mạng sản cũng xuất phát từ tình hình của cách
mạng ớc ta lúc đó, cũng như từ yêu cầu của cách mạng:Là nước thuộc địa nửa
phong kiến, chịu ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp. Pháp áp đặt chính sách cai trị
thực dân, đồng thời cấu kết với giai cấp địa chủ trong việc bóc lột kinh tế áp bức
chính trđối với nhân dân Việt Nam. Mặc nền kinh tế những chuyển nhưng về
bản vẫn nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn, què quặt, lệ thuộc vào Pháp. Dưới ách
thống trị của thực dân Pháp, đời sống của nhân dân lao động hết sức khốn khổ. Xã hội
phân hóa ngày càng sâu sắc. Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thựcn
Pháp bọn tay sai lên đến đỉnh điểm.Yêu cầu của cách mạng lúc này phải giải
quyết hai nhiệm vụ cách mạng, đó là: Nhiệm vụ dân tộc nhằm đánh đuổi thực dân
pháp, giành lại độc lập cho dân tộc. Và nhiệm vụ dân chủ nhằm đánh đổ chế độ phong
kiến đem lại ruộng đất cho nông dân. Trong hai nhiệm vụ trên, nhiệm vụ dân tộc
nhiệm vụ hàng đầu, quan trọng nhất. Con đường giải phóng dân tộc phải thực hiện
được cả hai nhiệm vụ đó.
Tại Đại Hội Đảng Xã hội Pháp ( tháng 2 1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành
việc gia nhập quốc tế cộng sản tham gia thành lập Đảng Cộng Sản Pháp. Sự kiện
này đánh dấu ớc ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của người từ người
yêu nước trở thành người cộng sản tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn: “muốn
cứu nước giải phóng dân tộc không con đường nào khác con đường cách mạng
vô sản”
Việc lựa chọn con đường giải phóng đúng đắn cho dân tộc cũng xuất phát từ tấm lòng
yêu quê hương, đất ớc bờ, với sự quyết tâm tìm ra con đường cứu nước cao cả,
tất cả trở thành động lực, hun đúc thành ngọn lửa cứu ớc,bằng tài năng mẫn cảm
chính trị của mình cũng như những hoạt động miệt mài, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra
con đường giải phóng cho cả dân tộc.
2/ Bằng các sự kiện lịch sử chọn lọc, chứng minh sự ra đời của Đảng cộng sản
Việt Nam là một tất yếu lịch sử
bối cảnh quốc tế, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Chủ nghĩa bản chuyển từ tự do
cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Chính bước chuyển này đã làm cho mâu
thuẫn trong thế giới TBCN ngày càng trở nên gay gắt. Trong lúc phong trào cộng sản
công nhân quốc tế đang phát triển mạnh mẽ, đặc biệt khi được trang bị bởi một
học thuyết cách mạng khoa học, cuộc cách mạng sản đầu tiên nổ ra giành
thắng lợi tại Nga m 1917. Thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng ời đã cổ
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân nhân dân lao động trên thế giới, đặc
biệt nhân dân các nước thuộc địa. Thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Mười Nga
1917 cổ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân nhân dân lao
động trên thế giới, dẫn tới sự ra đời của hàng loạt các đảng cộng sản. Tình hình đó đòi
hỏi phải một tổ chức quốc tế đứng ra lãnh đạo, tập trung sức mạnh của phong trào
ở tất cả các quốc gia, dân tộc. Tháng 3- 1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập.
tình hình trong nước, trước 1930, phong trào yêu nước Việt Nam nổ ra mạnh m
nhưng đều thất bại, do bị khủng hoảng về đường lối cách mạng. nh hình đó đặt ra
yêu cầu phải có Đảng của giai cấp tiên tiến nhất để lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Từ 1919 -1929, thông qua hoạt động của Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị về tưởng,
chính trị tổ chức cho sự thành lập Đảng. Nguyễn Ái Quốc đã ra sức tuyên truyền
chủ nghĩa Mác- Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về tưởng chính trị. Thành lập hội
Việt Nam cách mạng thanh niên để thông qua tổ chức này truyền chủ nghĩa Mác-
Lênin vào Việt Nam.
Những năm 1928 1929, chủ nghĩa Mác Lênin được truyền sâu rộng vào Việt
Nam, làm cho phong trào công nhân phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ. Một
yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải đảng của giai cấp sản lãnh đạo. Đáp ứng yêu cầu
đó ở Việt Nam lần lượt xuất hiện ba tổ chức cộng sản. Sự hoạt động riêng rẽ của ba tổ
chức cộng sản gây ảnh hưởng không tốt đến tiến trình cách mạng Việt Nam.
Cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản đã
nhận thức được sự cần thiếtcấp bách phải thành lập một Đảng cộng sản thống nhất,
chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào cộng sản Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã tổ
chức chủ trì hội nghị hợp nhất Đảng tại ơng Cảng, Trung Quốc từ ngày 6-1 đến
ngày 7-2-1930. Hội nghị đã quyết định hợp nhất 3 tổ chức Đảng ông Dương Cộng
sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) thành Đảng
Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt Điều lệ vắn tắt của Đảng. vậy, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã quyết nghị lấy ngày 3-2 hàng năm làm ngày kỷ
niệm thành lập Đảng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Đảng cộng sản Việt Nam thành một Đảng Cộng sản
duy nhất, theo một đường lối chính trị đúng đắn đã tạo nên sự thống nhất về tư tưởng,
chính trị hành động của phong trào cách mạng cả nước, hướng tới mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc đấu
tranh giai cấp, sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và
hệ tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam việc ngay từ khi ra đời, Đảng đã
Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng giải phóng dân tộc
theo phương hướng cách mạng sản, chính sở để Đảng Cộng sản Việt Nam
vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết
được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấpnh đạo cách mạng
diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất
nước Việt Nam.
Đề cương 3a,b/11,12
3/ Tại sao nói cương lĩnh chính trị đầu tiên do nguyễn ái quốc soạn thảo là cương
lĩnh đúng đắn sáng tạo, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính dân tộc tính
nhân văn
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc dự
thảo được thông qua tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản (1/1930) gồm các văn
kiện: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Lời kêu gọi
nhân dịp thành lập Đảng.
Tính cách mạng đúng đắn sáng tạo của Cương lĩnh đầu tiên đó được thể hiện qua
những nội dung sau :
-Cương lĩnh vạch tính chất của cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn:
cách mạng sản dân quyền (về sau gọi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân)
cách mạng hội chủ nghĩa (“làm sản dân quyền cách mạng thổ địa cách mạng
để đi tới xã hội cộng sản”).
Như vậy, ngay từ đầu, Đảng ta đã thấu suốt con đường phát triển tất yếu của ch
mạng Việt Nam là giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
-Cương lĩnh đề ra nhiệm vụ của cách mạng sản dân quyền ớc ta: đánh đổ đế
quốc Pháp, vua quan phong kiến và tư sản phản cách mạng.
Mục tiêu:
+ Làm cho nước Việt Nam độc lập.
+ Dựng lên chính phủ công nông binh.
+ Tổ chức ra quân đội công nông.
+ Tịch thu sản nghiệp lớn của bọn đế quốc ruộng đất của bọn đế quốc, bọn phản
cách mạng đem chia cho dân cày nghèo, chuẩn bị cách mạng thổ địa.
Như vậy, Cương lĩnh bao gồm nội dung dân tộc dân chủ, chống đế quốc chống
phong kiến nhưng nổi bật chống đế quốc và tay sai phản động, giành độc lập tự do
cho toàn thể dân tộc.
-Lực lượng cách mạng chủ yếu công nông, đồng thời phải lôi o tiểu sản, trí
thức, trung nông về phe giai cấp vô sản, còn phú nông, trung, tiểu địa chủ, tư sản Việt
Nam chưa lộ rõ bộ mặt phản động thì phải lợi dụng và làm cho họ trung lập. Như vậy,
Nguyễn Ái Quốc đã tranh thủ tối đa lực lượng cách mạng, lập tối đa lực lượng kẻ
thù. Thành lập mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của đảng, trên sở công
-nông-trí liên minh.
-Cương lĩnh khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhân tố quyết
định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
-Đảng phải lấy chủ nghĩa Marx Lenin làm nền tảng tư tưởng.
- Đảng phải trách nhiệm phục vụ đại bộ phận giai cấp công nhân, làm cho giai cấp
mình lãnh đạo được quần chúng. Phải thu phục đại đa số dân cày, dựa vững o dân
cày. Đồng thời phải liên minh với các giai cấp và tầng lớp yêu nước khác, đoàn kết, tổ
chức họ đấu tranh chống đế quốc và phong kiến.
-Cương lĩnh đầu tiên của Đảng còn coi cách mạng nước ta một bộ phận của cách
mạng sản thế giới, đứng về phía mặt trận cách mạng gồm các dân tộc thuộc địa bị
áp bức giai cấp ng nhân thế giới. Như vậy, ơng lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn sáng tạo, nhuần
nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tính dân tộc tính nhân văn với tưởng
cốt lõi là Độc lập Tự do cho dân tộc.
-Nội dung con đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là con đường cách mạng
sản, do giai cấp công nhân lãnh đạo, lực ợng nòng cốt ng nông, đồng thời
phải đoàn kết với tiểu sản, trí thức, trung, tiểu địa chủ, sản dân tộc phú nông,
dùng bạo lực cách mạng.
4/ Vai trò lãnh đạo của đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc 1930-1945
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 03-2-1930), đã đánh dấu một bước ngoặt lịch
sử trong cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống ách đô hộ của thực dân Pháp. Từ đây,
cách mạng Việt Nam đã đội tiên phong, trực tiếp nắm chắc ngọn cờ lãnh đạo để
dẫn dắt nhân dân ta tiến tới cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Thứ nhất, Đảng lãnh đạo cao trào cách mạng 1930-1931
Cao trào cách mạng 1930-1931 không phải là hiện tượng ngẫu nhiên, mà kết quả tất
yếu của các điều kiện khách quan chủ quan trong đời sống hội của nước ta lúc
đó. Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã thúc đẩy thực dân Pháp tăng cường cấu
kết với thế lực phong kiến thuộc địa ra sức bóc lột nhân dân Việt Nam và đẩy đời sống
của toàn thể nhân dân lâm vào tình trạng cùng cực; buộc nhân dân ta vùng dậy đấu
tranh chống bọn thực dân đế quốc phong kiến thuộc địa. Đảng ra đời nhân tố
quyết định nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cao trào cách mạng 1930-1931
đỉnh cao Viết Nghệ Tĩnh. Cao trào cách mạng 1930-1931 cuộc tổng diễn tập
đầu tiên của cách mạng Việt Nam để tiến tới giành chính quyền trên cả nước.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo cao trào dân chủ Đông Dương 1936-1939
Tháng 7-1936, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Thượng Hải
(Trung Quốc) do đồng chí Hồng Phong chủ trì, nhận định: Nhiệm vụ bản của
cách mạng sản dân quyền (chống đế quốc, chống phong kiến để dành độc lập cho
dân tộc ruộng đất cho nông dân) không thay đổi, nhưng lúc này chưa phải nhiệm
vụ trực tiếp. Yêu cầu cấp thiết trước mắt của nhân dân lúc này tự do, dân chủ, cải
thiện đời sống. Do đó, Đảng phải lãnh đạo thành lập mặt trận dân chủ công khai
rộng rãi, bao gồm các giai cấp, các tôn giáo, các đảng phái, các đoàn thể chính trị,
nhằm tập trung chống kẻ thù cụ thể, trực tiếp trước mắt chủ nghĩa phát xít bọn
phản động ở thuộc địa Việt Nam để bảo vệ hoà bình, đòi thực hiện tự do, dân chủ, cải
thiện đời sống cho nhân dân.
Thứ ba, Đảng lãnh đạo cao trào giải phóng dân tộc 1939-1945
Ngay khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (tháng 9-1939), Trung ương Đảng đã
họp Hội nghị lần thứ 6 (tháng 11-1939) để điều chỉnh chiến lược ch mạng với nội
dung: Đặt nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai, giành độc lập dân tộc lên hàng đầu. Hội
nghị quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương, nhằm thu
hút tất cả các dân tộc, giai cấp, đảng phái, n giáo các nhân yêu ớc để đánh
đổ đế quốc tay sai, giành độc lập hoàn toàn cho c dân tộc Đông Dương. Trung
ương Đảng đã kịp thời chỉ đạo các tổ chức đảng quần chúng nhanh chóng rút vào
hoạt động mật, chuyển hướng hoạt động về nông thôn, tránh sự đàn áp khủng bố
của kẻ thù.
Tháng 11-1940, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 7 họp Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc
Ninh), khẳng định chủ trương của Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6 là đúng, và cử
đồng chí Trường Chinh làm thư Trung ương Đảng lâm thời. Tháng 02-1941 lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam.
Tháng 5-1941, Hội ngh Trung ương Đảng lần thứ 8 đã họp tại Pắc Bó (Cao Bằng), do
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ trì. Hội nghị này đã cụ thể hóa hoàn thiện
thêm một bước đường lối giải phóng dân tộc của cách mạng Việt Nam. Hội nghị chủ
trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ mỗi nước Đông Dương chủ
trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất mỗi nước. Tại Việt Nam, Hội nghị
quyết định thành lập tổ chức Việt Nam Độc lập đồng minh, gọi tắt Mặt trận Việt
Minh, gồm các đoàn thể cứu quốc trên cả nước. Hội nghị nhấn mạnh công tác chuẩn
bị cho tổng khởi nghĩa nhiệm vụ trung m dự kiến một số chủ trương, chính
sách khi Tổng khởi nghĩa thắng lợi.
Tháng 8-1942, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lấy tên mới là Hồ Chí Minh với danh nghĩa
đại diện của Việt Minh sang Trung Quốc để liên hệ với các lực lượng đồng minh quốc
tế chống phát xít vận động những người yêu nước ớc ngoài tham gia cách
mạng. m 1943, bản “Đề ơng văn hoá Việt Nam” của Đảng được công bố, nhằm
lôi cuốn các tầng lớp tri thức, văn nghệ cùng toàn dân tham gia phong trào cách
mạng. Được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Đông Dương, tháng 6-1944, Đảng Dân
Chủ Việt Nam - một chính đảng của sản dân tộc tiểu sản tri thức yêu nước,
tiến bộ đã ra đời. Đảng Dân chủ Việt Nam tham gia vào Mặt trận Việt Minh đã p
phần thúc đẩy mặt trận dân tộc thống nhất phát triển ngày càng sâu rộng. Đội du kích
Bắc n (ra đời từ Khởi nghĩa Bắc Sơn tháng 9-1940); Đội du ch Ba (ra đời từ
Khởi nghĩa Ba tháng 3-1945),... đã phát triển đấu tranh vũ trang. Ngày 22-12-
1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập tại Nguyên Bình,
tỉnh Cao Bằng, do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ đạo.
Trên sở đó, Mặt trận Việt Minh, lực lượng trang cách mạng cả căn cứ địa
cách mạng, đều phát triển mạnh mẽ, không chỉ khu Việt Bắc. Trên khắp cả nước,
đâu đâu cũng diễn ra các phong trào đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. Qua các
cuộc vận động cách mạng đó, Đảng ta đã nhiều kinh nghiệm, hình thành các chủ
trương, quyết sách, đồng thời đẩy mạnh xây dựng một cách toàn diện các lực lượng
cách mạng (Mặt trận Việt Minh, lực lượng trang, n cứ cách mạng,...) gấp t
chuẩn bị cho cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi.
Thứ tư, Đảng phát động cao trào chống Nhật, cứu nước, dự kiến thời khởi nghĩa
giành chính quyền
Từ đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ 2 bước vào giai đoạn kết thúc. Tại khu
vực Đông Dương, do lo sợ quân đồng minh sẽ đổ bộ lên Đông Dương, Nhật tiến hành
đảo chính lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương (vào đêm 09-3-1945). Ngay lúc đó,
Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp tại Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), để đánh
giá tình hình ra chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau hành động của chúng ta”. Bản ch
thị vạch rõ: Cuộc đảo chính Nhật - Pháp làm cho các điều kiện khởi nghĩa nhanh
chóng chín muồi. Kẻ thù chính, cụ thể trước mắt của nhân dân Đông Dương lúc này
phát xít Nhật; phải nhanh chóng phát động cao trào chống Nhật, cứu nước, đồng thời
thực hiện khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền từng bộ phận, chuẩn bị mọi điều
kiện để tiến tới tổng khởi nghĩa.
Trước tình hình phát xít Nhật thẳng tay vét, bóc lột, gây ra một nạn đói khủng
khiếp làm chết gần hai triệu người, Đảng kịp thời đề ra khẩu hiệu “Phá kho thóc
của Nhật để cứu đói”. Khẩu hiệu đó đã lôi cuốn hàng triệu quần chúng, nhất nông
dân, đứng lên chống Nhật, giành chính quyền về tay nhân dân. Từ giữa tháng 3-1945,
cách mạng Việt Nam đã nhanh chóng trở thành cao trào. Đến giữa tháng 8-1945, lực
lượng cách mạng, bao gồm cả lực lượng chính trị trang, đã phát triển rộng rãi
khắp nông thôn và đô thị.
Ngày 13-8-1945, Chính phủ Nhật đã đầu hàng Liên và các nước Đồng minh
điều kiện. Quân Nhật Đông Dương lâm vào tình thế bị liệt. Chính phủ tay sai
Trần Trọng Kim hoang mang cực độ. Trước tình nh đó, Đại hội quốc dân đã họp
Tân Trào (Tuyên Quang) từ ngày 13 đến ngày 15-8-1945 dưới sự chủ trì của Hồ Chí
Minh, thống nhất với chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương nhanh chóng
phát động toàn dân kịp thời đứng lên tổng khởi nghĩa, quyết tâm giành chính quyền từ
tay phát xít Nhật. Đại hội đã cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng do Hồ Chí Minh làm
chủ tịch để lãnh đạo tổng khởi nghĩa.
Mệnh lệnh khởi nghĩa của Uỷ ban dân tộc giải phóng lời kêu gọi cả ớc đứng lên
tổng khởi nghĩa giành chính quyền của Hồ Chủ tịch được các địa phương nhiệt liệt
hưởng ứng. Từ ngày 14 đến 28-8-1945, cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền đã
thắng lợi hoàn toàn trên cả nước. Chính quyền từ trung ương đến các địa phương đã
thuộc về nhân dân Việt Nam. Ngày 02-9-1945, tại Quảng Trường Ba Đình lịch sử, Hồ
Chủ tịch đã đọc Bản Tuyên ngôn độc lập, long trọng tuyên bố với nhân dân trong cả
nước các quốc gia trên thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ra đời, có
chủ quyền độc lập như mọi quốc gia khác trên toàn thế giới.
5/ Tính chất, ý nghĩabài học của Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Đề cương trang 98
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 mang ý nghĩa lịch sử đối với dân tộc Việt Nam và
các giá trị thời đại.
Thứ nhất, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thực sự là một cuộc cách mạng đã phát
huy và làm rạng rỡ truyền thống giữ nước, dựng nước của dân tộc Việt Nam
Đây thực sự một cuộc cách mạng lần đầu tiên diễn ra trong lịch sử Việt Nam, bởi
các yếu tố nội tại của nó, như: sự lãnh đạo của một Đảng Cộng sản với cách đội
tiên phong đại diện tiêu biểu cho lợi ích của giai cấp ng nhân đồng thời của cả
dân tộc Việt Nam; chính cương tính chất dân chủ rộng rãi của các lực ợng tham
gia Mặt trận Việt minh; quá trình vận động nội tại với các cao trào cách mạng 1930-
1931, 1936-1939 1941-1945; sự tiến triển chín muồi cũng như việc nắm bắt kịp
thời thời cách mạng; giành chính quyền bằng một cuộc tổng khởi nghĩa, chủ yếu
mang tính chất đấu tranh chính trị, chứ không phải một kiểu bạo lực trang; mục
đích giành chính quyền được hoàn tất trong khoảng 15 ngày; bảo vệ được chính quyền
và tiến hành xây dựng chế độ xã hội mới.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân;
trong đó nổi bật tính chất giải phóng dân tộc. Đây là một cuộc cách mạng có tính điển
hình về tinh thần chủ động, ng tạo, biết tranh thủ thời chung, kịp thời tự mình
đứng lên giải phóng cho mình, không đợi chờ lại vào lực lượng bên ngoài đất nước.
giành được chính quyền từ tay các thế lực thực dân, phát xít của chủ nghĩa đế quốc
chủ nghĩa phong kiến; quan trọng hơn bảo vệ được chính quyền trong tình thế
”ngàn cân treo sợi tóc” bằng cách “ứng vạn biến” với các thế lực thù địch bắt tay
vào xây dựng chế độ hội mới do nhân dân chủ làm chủ. Thông qua đó, Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 đã kết tinh làm rạng rỡ truyền thống giữ nước, dựng
nước của dân tộc Việt Nam.
Thứ hai, phát huy làm rạng rỡ truyền thống anh hùng, đoàn kết sáng tạo của
toàn thể nhân dân Việt Nam
Qua các cao trào ch mạng suốt từ những năm 1930-1931 đến năm 1945, các tầng
lớp nhân dân Việt Nam được động viên, bồi dưỡng, phát huy làm rạng rỡ truyền
thống anh hùng, đoàn kết và sáng tạo của dân tộc Việt Nam. Kết quả tiêu biểu trong
thời khắc phải chớp thời cơ lịch sử, khắp nơi nhân dân thể hiện được tấm lòng vì nước
quên thân, nức tự vệ trang, hừng hực khí thế sẵn sàng tổng khởi nghĩa đã
nhất tề vùng dậy giành chính quyền. Cuộc tổng khởi nghĩa diễn ra với ý chí triệu
người như một. Sự ng tạo của các tầng lớp nhân dân tại các địa phương gần như
diễn ra đồng thời: Đầu tiên Tuyên Quang giành được chính quyền vào ngày 14-8;
Nội: ngày 19-8; Huế: ngày 23-8; Sài Gòn: ngày 25-8;.... Tiên, tỉnh cực Nam của
Tổ quốc, khởi nghĩa thắng lợi cũng trong thời khắc của tháng tám lịch sử năm 1945
(ngày 28-8-1945). Như vậy cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên cả nước,
được hoàn thành trong khoảng 15 ngày.
Thứ ba, mở ra khả năng thực hiện cuộc cách mạng dân chủ kiểu mới tại một nước
thuộc địa - nửa phong kiến ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chdừng lại khuôn khổ của một cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc. Tất cả các yếu tố chủ quan khách quan của Cách mạng,
như sự lãnh đạo của một Đảng Cộng sản, tính chất dân chủ rộng rãi của các lực lượng
tham gia cách mạng, quá trình vận động của các cao trào cách mạng trong suốt 15
năm từ những năm 1930-1931 đến năm 1945 - đã tất yếu kết nối tính chất dân tộc với
tính chất dân chủ nhân dân. Hơn nữa, những diễn biến lịch sử sau Cách mạng lại càng
thúc đẩy định hình tính chất dân chủ kiểu mới của cách mạng Việt Nam là: không
đóng khung trong giới hạn một cuộc cách mạng dân chủ sản, ới sự lãnh đạo
của một Đảng Cộng sản, phát triển thành cuộc cách mạng dân chủ kiểu hội chủ
nghĩa nhằm từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Với ý nghĩa đó, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã phá vỡ một mảng quan trọng
của chủ nghĩa đế quốc tại khâu yếu nhất của chế độ thuộc địa - nửa phong kiến;
mở ra thời kỳ sụp đổ, tan không cách cứu vãn nổi của chủ nghĩa thực dân
mới, cổ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc phong trào đấu tranh cho
dân chủ, tiến bộ xã hội trên thế giới.
Chương 2
1/ Vì sao nói sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính quyền cách mạng Việt
Nam rơi vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc
Đề cương trang 32. Phần 1a
2/ Hãy chứng minh rằng thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược (1946-1954) kết quả của cuộc chiến tranh nhân n “Toàn dân, toàn
diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính”
Khi hội tìm kiếm giải pháp hòa bình không còn, Chủ tịch Hồ Chí Minh Trung
ương Đảng chủ động mở đầu cuộc kháng chiến đúng thời điểm kịp thời chuyển c
nước vào thời chiến, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân.
Về phía Pháp, với bản chất cố hữu của kẻ thực dân, nên sau khi được tăng cường lực
lượng, chúng mở rộng vùng chiếm đóng, ráo riết thực hiện đòn tấn công quyết định
sớm kết thúc chiến tranh. Thu - Đông năm 1947, Bộ Chỉ huy quân viễn chinh Pháp
Đông Dương huy động lực lượng lớn, mở cuộc hành quân lên Việt Bắc nhằm tiêu diệt
quan đầu não, tiêu diệt quân chlực, phá tan căn cứ kháng chiến của ta. Nhưng
dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Trung ương Đảng tinh thần sáng tạo, quân, dân ta
chiến đấu ngoan cường, giành thắng lợi vẻ vang trong chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông
năm 1947, làm thất bại hoàn toàn chiến lượcđánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân
Pháp, mở ra giai đoạn mới cho cuộc kháng chiến. Không thể sớm kết thúc chiến tranh
theo ý định, các nhà cầm quân Pháp buộc phải chuyển sang “đánh kéo dài”, thực hiện
chính sách “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, đồng
thời tiến hành “Chiến tranh tổng lực”, tăng cường đánh phá nhiều sở của ta. Đến
năm 1950, lực lượng kháng chiến của ta trưởng thành về mọi mặt, Đảng và Chính phủ
quyết định mở Chiến dịch Biên giới nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực
địch, giải phóng một phần vùng biên giới phía Bắc, mở rộng củng cố căn cứ địa
Việt Bắc, khai thông đường liên lạc quốc tế với các nước XHCN.
Lợi dụng sự sa lầy cuộc chiến tranh Đông ơng của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ tăng
cường viện trợ cho Pháp, ngày càng can thiệp sâu vào cuộc chiến y nhằm thực hiện
âm mưu ngăn chặn phong trào cộng sản tràn xuống Đông Nam Á sẵn sàng thay
Pháp để kéo dài chiến tranh. Trước tình hình đó, Đại hội toàn quốc lần thứ II của
Đảng (tháng 2-1951) xác định nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Việt Nam lúc này
tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành độc lập, thống
nhất hoàn toàn, bảo vệ hòa bình thế giới. Phát huy thế tiến công chiến ợc, quân dân
ta giành được những thắng lợi quan trọng trên các chiến trường như Hòa Bình, Tây
Bắc, Thượng Lào,…
Chiến tranh nhân dân phát triển đã đẩy quân địch lún sâu vào thế bị động. Trong khi
đó, thế lực của cuộc kháng chiến ngày càng được củng cố, lực lượng trang ba
thứ quân được tăng cường, bộ đội chủ lực ngày càng mạnh, hậu phương được củng cố
chỗ dựa, góp phần quan trọng vào thắng lợi của tiền tuyến. Hòng xoay chuyển tình
thế, dựa vào viện trợ của Mỹ, Pháp lập kế hoạch Nava nhằm lấy lại quyền chủ động,
tiến tới tiêu diệt bộ đội chủ lực ta để kết thúc chiến tranh.
Tuy nhiên, trước sự chỉ đạo chủ động, linh hoạt của Trung ương Đảng, Bộ Tổng
lệnh, sự chiến đấu kiên cường dũng cảm của quân dân ta, kế hoạch trên bị thất bại,
buộc Nava phải đưa quân chủ lực lên Điện Biên Phủ, biến nơi đây thành tập đoàn cứ
điểm khổng lồ để tiêu diệt “chủ lực Việt Minh”. Sau 56 ngày đêm chiến đấu kiên
cường, quân và dân ta đập tan căn cứ quân sự lớn nhất của thực dân Pháp, tạon “cột
mốc bằng vàng” trong lịch sử chống ngoại m, tạo điều kiện thuận lợi cho đấu tranh
ngoại giao đi đến kết Hiệp định Genève, chấm dứt chiến tranh Đông Dương.
Miền Bắc ớc ta được hoàn toàn giải phóng. Cách mạng Việt Nam bước vào một
thời kỳ mới: thời kỳ xây dựng CNXH miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc n
chủ ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc.
3/ Tại sao đại hội III của đảng ( 9/1960) được xem đại hội hoàn chỉnh đường lối
chiến lược cách mạng hai miền Nam - Bắc
Đại hội đã nghe Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do đồng c
Duẩn trình bày; Báo cáo về sửa đổi Điều lệ Đảng do đồng chí Đức Thọ trình
bày; Báo cáo về phương hướngnhiệm vụ kế hoạch 5 năm lần thứ nhất do đồng chí
Nguyễn Duy Trinh trình bày và nhiều tham luận khác.
Phân tích tình hình đất nước ta tạm thời bị chia làm hai miền với hai chế độ chính trị -
hội khác nhau, bản báo cáo xác định: “Nhiệm vụ cách mạng của nhân dân ta trong
giai đoạn hiện nay là: tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững
hòa bình, đẩy mạnh cách mạng hội chủ nghĩa miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà
trên sở độc lập dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe hội chủ nghĩa
bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới”1.
Hai nhiệm vụ cách mạng miền Bắc miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau,
song hai nhiệm vụ đó trước mắt đều một mục tiêu chung thực hiện hòa bình
thống nhất Tổ quốc, đều nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả ớc mâu thuẫn
giữa Nhân dân ta với đế quốc Mcùng tay sai của chúng. Giải quyết mâu thuẫn
chung ấy trách nhiệm của cả nước, song mỗi miền nhiệm vụ chiến lược riêng
có vị trí khác nhau.
“Nhiệm vụ cách mạng hội chủ nghĩa ở miền Bắc... nhiệm vụ quyết định nhất đối
với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước
nhà của nhân dân ta”[1]. Còn “cách mạng miền Nam một vị trí rất quan trọng.
tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách
thống trị của đế quốc Mỹ tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà,
hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước
2
.
Xuất phát từ những nhiệm vụ bản của cách mạng miền Bắc, đặc điểm lớn nhất
đi từ một nền kinh tế lạc hậu, chủ yếu dựa trên sở sản xuất nhỏ thể, sở kinh
tế bản chủ nghĩa hết sức kém cỏi tiến thẳng lên chủ nghĩa hội, cho nên “công
cuộc cách mạng hội chủ nghĩa miền Bắc phải một quá trình cải biến cách
mạng về mọi mặt nhằm đưa miền Bắc từ nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu thể về
liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân sở
hữu tập thể, từ chế độ sản xuất nhỏ tiến lên chế độ sản xuất lớn hội chủ nghĩa, từ
tình trạng kinh tế rời rạc lạc hậu, xây dựng thành một nền kinh tế cân đối hiện
đại, làm cho miền Bắc tiến bộ mau chóng, thành sở ngày càng vững chắc cho sự
nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà
3
.
Quá trình cải biến cách mạng miền Bắc là một quá trình kết hợp cải tạo và xây dựng
chủ nghĩa xã hội, là quá trình đấu tranh gay go và phức tạp giữa con đường xã hội chủ
nghĩa con đường bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
tưởng, văn hóa và kỹ thuật.
Từ sự phân tích đó, Đại hội đã xác định đường lối chung của Đảng trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa hội miền Bắc “đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu
nước nồng nàn và truyền thống phấn đấu anh dũng, lao động cần cù của nhân dân ta,
đồng thời tăng cường đoàn kết với các nước hội chủ nghĩa anh em do Liên
đứng đầu, để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa
hội, xây dựng đời sống ấm no hạnh phúc miền Bắc củng cố miền Bắc thành sở
vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, góp phần
tăng cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới.
Để thực hiện một bước công nghiệp hóa hội chủ nghĩa, xây dựng bước đầu sở
vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa hội, đồng thời hoàn thành cải tạo hội chủ
nghĩa làm cho nền kinh tế miền Bắc nước ta thành một nền kinh tế hội chủ nghĩa,
Đại hội xác định những nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất:
- Ra sức phát triển công nghiệp nông nghiệp, thực hiện một bước việc ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện, công
nghiệp thực phẩm, công nghiệp nhẹ...
- Hoàn thành công cuộc cải tạo hội chủ nghĩa đối với ng nghiệp, thủ công
nghiệp, thương nghiệp nhỏ công thương nghiệp bản doanh, củng cố tăng
cường thành phần kinh tế quốc doanh, mở rộng quan hệ sản xuất hội chủ nghĩa
trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Nâng cao trình độ học vấn của nhân dân, đẩy mạnh đào tạo cán bộ công nhân lành
nghề, nâng cao năng lực quản kinh tế của cán bộ, xúc tiến công tác khoa học k
thuật.
- Cải thiện thêm một bước đời sống vật chất văn hóa của nhân dân, mở mang phúc
lợi công cộng, xây dựng đời sống mới ở nông thôn và thành thị.
- Ra sức củng cố quốc phòng, trật tự an ninh xã hội.
Các nhiệm vụ đó liên hệ mật thiết với nhau.
Đại hội cũng quyết định các chủ trương tăng ờng nhà nước dân chủ nhân dân, củng
cố sự nhất trí về chính trịtinh thần của nhân dân miền Bắc, đoàn kết quốc tế và đẩy
mạnh xây dựng Đảng.
4/ Tại sao nói cuộc Tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 một ch
trương táo bạo sáng tạo của Đảng, đánh thẳng vào ý chí xâm lược của giới
cầm quyền Mỹ?
Trước những thất bại liên tiếp của địch thắng lợi dồn dập của ta trên khắp chiến
trường, từ cuối năm 1966 đầu năm 1967, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động
Việt Nam (nay Đảng Cộng sản Việt Nam) đi tới chủ trương tạo điều kiện tiến tới
mở ra cục diện “vừa đánh, vừa đàm”, “vừa đàm vừa đánh”; đó là sách lược hỗ trợ cho
dấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị của quân và dân ta.
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13 đã trình bày “Đề cương báo cáo về công tác đấu
tranh ngoại giao”, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta hiện
nay, đấu tranh quân sự đấu tranh chính trị miền Nam nhân tố chủ yếu quyết
định thắng lợi trên chiến trường, làm sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. Tuy
nhiên, đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến
trường, trong tình hình quốc tế hiện nay, với tính chất cuộc chiến tranh giữa ta
địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động
Cuộc Tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 diễn ra khi nỗ lực xâm lược của
Mỹ Việt Nam lên tới đỉnh cao, khi lực lượng so sánh giữa ta địch trên chiến
trường nghiêng mạnh về phía Mỹ chính quyền tay sai i Gòn. Bằng cuộc tiến
công nổi dậy đồng loạt, táo bạo, dũng mãnh, nhằm vào đô thị trên toàn miền Nam,
quân dân ta đã đánh đòn quyết định vào ý chí m lược của đế quốc Mỹ, buộc
chúng phải đơn phương “xuống thang chiến tranh”, khởi đầu cho một quá trình đi
xuống về mặt chiến ợc. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân đánh vào các
thành phố lớn, nơi tập trung lực lượng quân sự chính trị quan trọng của Mỹ
ngụy quyền Sài Gòn. Đây một cách đánh mới, chưa từng trong lịch sử chiến
tranh thế giới.
Như vậy, thắng lợi lớn nhất quan trọng nhất của cuộc Tổng tiến công nổi dậy
Tết Mậu Thân 1968 ta đã làm đảo lộn chiến lược chiến tranh xâm lược Việt Nam
của Mỹ - một cường quốc đế quốc giàu mạnh nhất, làm lung lay tận gốc ý chí xâm
lược của chúng. Trong chiến tranh, thắng lợi quy chiến dịch, chiến thuật rất
quan trọng, song chỉ khi làm đảo lộn kế hoạch chiến lược chiến tranh của đối phương
mới tạo chuyển biến lớn, thay đổi cục diện chiến trường. Đó là vấn đề có tính quy luật
thuộc nghệ thuật chỉ đạo điều hành chiến tranh, tác động lớn đến tiến trình
kết cục cuộc chiến tranh. Bằng cuộc Tổng tiến côngnổi dậy Tết Mậu Thân 1968, ta
đã giáng một đòn quyết định vào chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ, đánh bại
cố gắng quân sự cao nhất của chúng trong chiến tranh xâm ợc Việt Nam. Thắng lợi
oanh liệt Tết Mậu Thân 1968 của quân n ta đưa tới nguy cơ, lần đầu tiên trong
lịch sử nước Mỹ, quân Mỹ bị đánh bại trong một cuộc chiến tranh với Việt Nam - một
dân tộc nhỏ ở cách xa nước Mỹ.
Hơn nữa, Tổng tiếnng và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 biểu tượng sáng ngời về ý
chí sức mạnh quật cường của quân dân Việt Nam, tinh thần độc lập, tự chủ,
sáng tạo, tài mưu lược trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng ta, nổi bật
nghệ thuật nắm bắt thời để chủ động giáng đòn quyết định làm chuyển biến cục
diện chiến tranh; nghệ thuật tiến công bằng cách đánh chiến lược mới, giành thế bất
ngờ, đưa chiến tranh vào thành thị; nghệ thuật tổ chức, bố trí sử dụng lực ợng
“lấy nhỏ đánh lớn”, “lấy ít địch nhiều”, “lấy chất lượng cao thắng số lượng đông”, lấy
trí tuệ của con người Việt Nam đchiến thắng khí trí tuệ của bmáy điều hành
chiến tranh của Mỹ. Cuộc Tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân diễn ra vào dịp
Tết Nguyên đán, thời điểm mà quân và dân ta thường được nghỉ ngơi, quân địch được
thả lỏng cảnh giác. Đây một quyết định táo bạo, bởi nếu thất bại, quân ta sẽ phải
chịu thiệt hại nặng nề.
Thực tiễn cuộc Tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 để lại nhiều bài học
kinh nghiệm quý báu.
+ Thứ nhất là bài học về xây dựng quyết tâm chiến đấu và ý chí quyết đánh Mỹ, quyết
thắng Mỹ cho toàn thể quân và dân miền Nam.
+Thứ hai, Đảng ta đã sớm đánh giá đúng kẻ thù, chủ trương, lựa chọn phương pháp
tác chiến phù hợp, lãnh đạo cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 thắng
lợi.
+ Thứ ba, cuộc Tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 ta thực hiện đồng loạt
tiến công kết hợp với nổi dậy nhiều thành phố; sử dụng lực lượng với quy lớn,
kết hợp cả đấu tranh quân sự chính trị bất ngờ tiến công đồng loạt thẳng vào
quan đầu não của địch, vào tận hậu phương, sào huyệt của chúng, nơi chúng cho an
toàn nhất.
+ Thứbài học tạo yếu tố bất ngờ về thời cơ, thời điểm tiến hành tiến công và nổi
dậy.
+ Thứ năm i học về giữ mật tuyệt đối, từ ý đồ chiến lược của Trung ương đến
kế hoạch tiến côngnổi dậy sở, nhất các trọng điểm lớn như Sài Gòn, Huế,
Đà Nẵng.
4/ Tại sao nói cuộc Tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 một
chủ trương táo bạo và sáng tạo của Đảng, đánh thẳng vào ý chí xâm lược của giới
cầm quyền Mỹ.
Thứ nhất, Đảng ta đã sớm đánh giá đúng kẻ thù, có chủ trương, lựa chọn phương pháp
tác chiến phù hợp, lãnh đạo cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 thắng
lợi. Với tầm nhìn xa trông rộng, Đảng ta Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy
rằng: Ðương đầu với kẻ thù tiềm lực sức mạnh kinh tế, quân sự lớn hơn ta gấp
nhiều lần, chúng ta phải biết thắng từng bước đánh vào ý chí xâm lược của kẻ thù.
Tháng 12 năm 1967, Bộ Chính trị họp dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa
ra chủ trương chiến lược quyết định mở cuộc tổng công kích tổng khởi nghĩa
trên toàn miền Nam. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 14 khóa III (tháng 1
năm 1968) chỉ rõ: “Trong quá trình tổng ng kích tổng khởi nghĩa, chúng ta phải
quán triệt nguyên tắc: Tập trung lực lượng quân sựchính trị đến mức cao nhất; kiên
quyết tiến công, liên tục tiến công nhằm vào những nơi xung yếu của địch đánh
những đòn quyết định; phải tuyệt đối giữ cho được yếu tố bất ngờ; phải biết giành
thắng lợi từng giờ, từng phút và không ngừng mở rộng thắng lợi; kiên quyết chống trả
bẻ gãy các cuộc phản công của địch truy kích địch đến cùng để giành thắng lợi
cao nhất” .
Thứ hai, cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968 ta thực hiện đồng loạt tiến công kết
hợp với nổi dậy ở nhiều thành phố; sử dụng lực lượng với quy mô lớn, kết hợp cả đấu
tranh quân sự chính trị bất ngờ tiến công đồng loạt thẳng vào quan đầu não của
địch, vào tận hậu phương, sào huyệt của chúng, nơi chúng cho an toàn nhất. Lần
đầu tiên, Quân giải phóng miền Nam thực hiện việc “đưa chiến tranh vào tận trung
tâm các thành phố lớn”, nơi tập trung các quan đầu não trung ương địa phương
của chính quyền nguỵ Sài Gòn; thực hiện đòn đánh hiểm, đánh đau, đánh vào yết hầu
của địch.
Thứ ba, tạo yếu tố bất ngờ về thời cơ, thời điểm tiến hành tiến công nổi dậy. Chọn
thời thời khắc giao thừa Tết Nguyên Đán đồng loạt nổ súng mở màn nét đặc
sắc của nghệ thuật tạo bất ngờ; bởi đây lúc địch hở chủ quan nhất. Cân nhắc,
nghiên cứu tính toán rất kỹ, cụ thể từng chi tiết, phong tục tập quán Tết cổ truyền
của dân tộc trên đất phương Nam; việc “điều binh, khiển ớng” của Quân lực Việt
Nam cộng a từ nhiều năm trước đó, sau khi sự thống nhất giữa quan chỉ đạo
tối cao chỉ huy các chiến trường, Bộ thống soái quyết định chọn thời điểm Giao
thừa “giờ G” làm hiệu lệnh nổ súng mở màn cuộc Tổng tiến công nổi dậy Tết
Mậu Thân.
Với sự tính toán mưu lược chu tất như vậy, nên khi ta tiến công, địch hoàn toàn bị bất
ngờ, không kịp đối phó. Ngay sau khi sự kiện Tết Mậu Thân diễn ra, giới chỉ huy
quân sự học giả Mỹ cũng như phương Tây đã xác nhận: Vào những ngày Tết Mậu
Thân, các đơn vị của Quân đội Việt Nam cộng hòa chỉ có một nửa quân số, khiến cho
Bộ Chỉ huy Quân sự Mỹ Sài Gòn cùng lúng túng trong việc ứng phó. Từ thực tế
đó, càng khẳng định: Việc chọn thời điểm Tết Nguyên Đán mở cuộc Tổng tiến công
ý nghĩa chiến lược, góp phần tạo bất ngờ về thời gian, thời điểm quan trọng làm
nên thắng lợi của Xuân Mậu Thân 1968.
5/ Hãy chứng minh Hiệp định Paris kết quả của quá trình “vừa đánh vừa
đàm” hội lớn cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi đến thắng lợi
hoàn toàn.
Hiệp định Paris được gọi quá trình "vừa đánh, vừa đàm" trong khi các cuộc đàm
phán được tiến hành tại Paris từ năm 1968 đến 1973, các cuộc tấn công quân sự của
Mỹ các cuộc đụng độ giữa quân đội Mỹ quân đội Việt Nam Cộng hòa tiếp tục
diễn ra. Theo đó, việc đàm phán chiến đấu diễn ra đồng thời trong suốt quá trình
này, vì vậy nó được gọi là "vừa đánh, vừa đàm".
Hai là, đỉnh cao nghệ thuật “vừa đánh, vừa đàm
Ngay từ năm 1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự đoán: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ
cũng sẽ đưa B-52 ra đánh Nội, rồi thua mới chịu thua... Việt Nam, Mỹ sẽ
nhất định thua. Nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội”(6).
Tháng 5-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh Bộ Chính trị đã chỉ thị cho đồng chí Xuân
Thủy - Trưởng đoàn đàm phán Pari khi về nước báo cáo nh hình: “Tiến công ngoại
giao một mặt tiến công quan trọng ý nghĩa chiến lược lúc này…; nắm vững thời
cơ, phối hợp với tiến công quân sự tiến công chính trị, tiến công liên tục sắc
bén, kiên trì nguyên tắc, khéo vận dụng sách lược, vừa kiên quyết, vừa linh hoạt, buộc
Mỹ phải rút quân và nhận một giải pháp chính trị đáp ứng yêu cầu cơ bản của ta”(7).
Trong suốt thời gian đàm phán tại Pari, chúng ta luôn kịp thời phát huy thắng lợi,
tranh thủ mọi hội để tố o tội ác của đế quốc Mỹ, tranh thủ sự ủng hộ của các
nước, bạn yêu chuộng hòa bình, công trên thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ.
Đỉnh cao trong việc vận dụng thành công ngh thuật “đánh - đàm” của ngoại giao Việt
Nam được thể hiện thời điểm tháng 3-1972, khi Mỹ đơn phương “ngừng không thời
hạn” Hội nghị Pari, ném bom trở lại miền Bắc với quy chưa từng có, nhằm buộc
Việt Nam phải nhân nhượng. Tuy nhiên, Trung ương Đảng vẫn chủ trương duy trì Hội
nghị Pari với mục tiêu làm diễn đàn tuyên truyền để tranh thsự ủng hộ của luận
quốc tế và kết hợp với chiến trường để đấu tranh với Mỹ về mặt ngoại giao.
Thực hiện chỉ đạo này, tại Pari, phái đoàn Việt Nam đã chủ động, tích cực đấu tranh,
đòi phía Mỹ phải nối lại đàm phán theo ớng giải quyết toàn bộ về vấn đề chiến
tranh Việt Nam. Với nghệ thuật “đánh - đàm”, trong quá trình đàm phán, Việt Nam đã
có 5 lần kéo địch xuống thang.
3. Tầm ảnh hưởng quốc tế rộng lớn của Hiệp định Pari
Hiệp định Pari “đã trở thành trung tâm chú ý của luận thế giới cuộc đấu tranh
chính trị, quân sự ngoại giao giữa Việt Nam Hoa Kỳ m điểm của những
mâu thuẫn bản của thời đại lúc bấy giờ. Việc kết Hiệp định sự tháo nút cho
cuộc chiến tranh ác liệt lâu dài nhất trên thế giới sau Chiến tranh thế giới lần thứ
hai”(10). Điều đó thể hiện tầm ảnh hưởng quốc tế rộng lớn của Hiệp định Pari, không
những với cách mạng nước ta cả Đông Dương, thu hút các nguyên thủ, chính
khách, trí thức uy tín ảnh hưởng lớn cũng như các hãng truyền thông lớn trên
thế giới.
Pháp, Đảng Cộng sản Pháp (một lực lượng chính trị rất mạnh Pháp lúc bấy giờ),
ngoài sự giúp đvề vật chất rất to lớn dành cho đoàn Việt Nam tham gia đàm phán
còn vai trò tích cực trong việc tập hợp các lực lượng chính trị nhân dân Pháp
ủng hộ cuộc kháng chiến của ta và phản đối cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ. Đảng
Cộng sản Pháp còn là cầu nối giữa Việt Nam và Pháp.
CHƯƠNG 3
1/ Quá trình tìm tòi khảo nghiệm đường lối đổi mới về kinh tế của Đảng Cộng
sản Việt Nam thời kì trước đổi mới toàn diện đất nước ( 1975 - 1086 )
2/ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời quá độ lên chnghĩa hội năm
1991 và bổ sung, phát triển năm 2011.
đề cương/61-62
3/ Làm nhận định nhận thức vchủ nghĩa hội con đường đi lên ch
nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn
Nhận định "nhận thức về chủ nghĩa hội con đường đi lên chủ nghĩa hội
Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn" được rút ra từ quá trình phát triển của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong hơn 90 năm qua.
Với tư cách là Đảng nh đạo cách mạng, ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã xác định chủ nghĩa hội mục tiêu, tưởng của cách mạng Việt Nam.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã không ngừng nghiên cứu, tổng kết thực
tiễn, bổ sung, phát triển luận về chủ nghĩa hội con đường đi lên chủ nghĩa
hội ở Việt Nam.
Trong giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng đã xác định con đường đi lên
chủ nghĩa hội Việt Nam con đường cách mạng sản, bỏ qua chế độ bản
chủ nghĩa. Con đường này đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh
đúng đắn, đưa đến thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu ớc, thống nhất
đất nước.
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát
triển luận về chủ nghĩa hội con đường đi lên chủ nghĩa hội Việt Nam.
Trên sở đó, Đảng đã xác định mục tiêu của công cuộc đổi mới là: "Xây dựng nước
Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ
nghĩa xã hội".
Để đạt được mục tiêu đó, Đảng đã xác định con đường đi lên chủ nghĩa hội Việt
Nam là: "Sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa,
tức bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất bản chủ nghĩa, giữ
vững và phát triển những thành quả cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân
dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Như vậy, nhận thức của Đảng về chnghĩa xã hội con đường đi lên chủ nghĩa
hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn, thể hiện ở những điểm sau:
Về mục tiêu: Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội Việt Nam được xác định ràng,
cụ thể, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thế giới.
Về con đường: Con đường đi lên chủ nghĩahội Việt Nam được xác định
con đường phát triển quá độ, bỏ qua chế độ bản chủ nghĩa. Con đường này
được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh là đúng đắn, phù hợp với điều
kiện của nước ta.
Về phương thức: Phương thức thực hiện mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam là sự kết hợp hài hòa giữa đổi mới và phát triển.
Với nhận thức ngày càng sáng tỏ hơn về chủ nghĩa hội con đường đi lên chủ
nghĩa hội Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đang lãnh đạo nhân dân ta
thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
4/ Làm nhận định về đối ngoại của Việt Nam: Hình ảnh vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao hơn.
Sau hơn nửa nhiệm kỳ Đại hội XIII, bất chấp những khó khăn, thách thức chưa từng
tiền lệ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn.
Đặc biệt, nhìn lại khoảng thời gian vừa qua có thể thấy việc thực hiện đường lối đối
ngoại, theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII một trong những nhiệm vụ đã để lại
nhiều dấu ấn.
Trong 3 năm trở lại đây, tại nhiều quốc gia, nhiều biến động lớn, chưa tiền lệ đã
xảy ra, dẫn đến những thách thức đối với sự ổn định và phát triển trên toàn thế giới.
Việt Nam, sau sự thành công của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII diễn vào
tháng 1 năm 2021, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương, trực tiếp thường
xuyên Bộ Chính trị, Ban thư lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội Chính
phủ, công tác đối ngoại đã đạt được nhiều kết toàn diện trên tất cả các kênh đối ngoại
Đảng, Ngoại giao Nhà nước Đối ngoại nhân dân. Trong đó, kết quả bao trùm
củng cố vững chắc hơn môi trường hòa bình, ổn định để đất nước phát triển bền vững
cũng như tiếp tục nâng cao vị thế, uy tín trên trường quốc tế.
Một trong những sự kiện nổi bật nhất chuyến thăm chính thức Trung Quốc của
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vào cuối năm ngoái ngay sau Đại hội Đảng Cộng sản
Trung Quốc lần thứ 20 - sự kiện đặc biệt quan trọng đối với cả hai nước, thu hút sự
quan tâm của thế giới.
mới đây nhất, cách đây 2 tháng, Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden thăm cấp Nhà
nước tới Việt Nam theo lời mời của Tổng thư Nguyễn Phú Trọng hai n chính
thức nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện.
Cũng trong nửa nhiệm kỳ Đại hội Đảng XIII, đã diễn ra hơn 170 hoạt động đối ngoại
cấp cao. Trong đó hơn 30 chuyến thăm của các đồng chí Lãnh đạo chủ chốt đến các
quốc gia, đón hơn 30 đoàn lãnh đạo cấp cao đến Việt Nam, hơn 80 cuộc điện đàm, hội
đàm trực tuyến đã được thực hiện.
Đến nay, Việt Nam đã quan hệ ngoại giao với 192 nước, đặc biệt quan hệ với các
đối tác quan trọng, các nước láng giềng ngày càng được mở rộng, đi vào chiều sâu,
thực chất và hiệu quả.
5/ Bài học lớn về sự lãnh đạo của đảng nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc
chủ nghĩa . Hãy chứng minh điều đó qua quá trình đảng lãnh đạo đất nước từ
năm 1930 đến nay
Từ năm 1930 đến nay, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta giành thắng lợi trong hai cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp đế quốc Mỹ, thống nhất đất ớc, xây dựng
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hội chủ nghĩa. Trong mỗi giai đoạn cách mạng, Đảng
đều kiên định nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc chủ nghĩa hội, thể hiện bản
chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng.
Trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Đảng đã lãnh đạo
nhân dân ta tiến hành hai cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ nhưng cùng anh
dũng thắng lợi. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Đảng đã xác định nhiệm
vụ chiến lược giành độc lập dân tộc, thực hiện quyền tự do, hạnh phúc của nhân
dân. Đảng đã nh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm
1945, giành thắng lợi vẻ vang, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong cuộc
kháng chiến chống Pháp sau đó, Đảng đã lãnh đạo quân và dân ta đánh thắng thực dân
Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc.
Trong giai đoạn kháng chiến chống đế quốc Mỹ (1954 - 1975), Đảng tiếp tục kiên
định ngọn cờ độc lập dân tộc, lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến trường
kỳ, gian khổ nhưng cùng anh dũng, kiên cường, giành thắng lợi hoàn toàn. Trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đảng đã xác định nhiệm vụ chiến ợc đánh thắng
đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước. Đảng đã lãnh đạo quân dân ta đánh bại
chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của Mỹ, đánh bại chiến lược "Việt Nam hóa chiến
tranh" của Mỹ, giành thắng lợi hoàn toàn, thống nhất đất nước.
Trong giai đoạn xây dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hội chủ nghĩa (1975 đến
nay), Đảng tiếp tục kiên định ngọn cờ độc lập dân tộc chủ nghĩa hội, lãnh đạo
nhân dân ta xây dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn
này, Đảng đã xác định rõ nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam hội chủ nghĩa. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đạt được nhiều

Preview text:

Chương 1:
1/ Vì sao trong quá trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con
đường cách mạng vô sản?

Những năm đầu thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam đứng trước những thách thức mới,
đó là tìm ra con đường giải phóng dân tộc đúng đắn. Trong thời kì đế quốc Pháp xâm
chiếm và đô hộ nước ta, nước ta trở thành một nước thuộc địa, người dân bị chèn ép,
Không chịu nổi cảnh bị áp bức tàn bạo dã man, nhân dân ta đã vùng lên đấu tranh
chống lại chính quyền Pháp. Vì thế mà các cuộc đấu tranh liên tiếp nổ ra, phong trào
đấu tranh yêu nước giải phóng dân tộc diễn ra khắp mọi miền tổ quốc. Tiêu biểu như
phong trào Cần Vương theo khuynh hướng phong kiến hay Phong trào Đông du của
Phan Bội Châu và Phong trào Duy tân của Phan Chu Trinh theo khuynh hướng tư sản.
Nhưng dù diễn ra mạnh mẽ sôi nổi nhưng các hoạt động phong trào đấu tranh cũng
đều thất bại. Hồ Chí Minh dù rất khâm phục tinh thần và ý chí cách mạng của Phan
Bội Châu và Phan Chu Trinh nhưng Người không đồng tình cách làm của họ, Người
đã nhận ra sai lầm trong chủ chương đường lối cách mạng của họ Người nhận thấy lý
do các phong trào đều thất bại là hệ tư tưởng của họ dựa vào đã trở nên lỗi thời không
đáp ứng được yêu cầu của cuộc cách mạng. Nhờ thấu hiểu điều đó, Người hiểu là phải
tìm ra cho cách mạng Việt Nam con đường lối đi mới, tránh đi vào lối mòn lịch sử.
Bằng những hoạt động thực tiễn của mình Nguyễn Ái Quốc đã có những nhận thức về
cách mạng thế giới và những con đường cứu nước, từ đó Bác lựa chọn con đường
đúng đắn cho dân tộc ta.
Năm 1911, Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước. Người đã bôn ba khắp năm
châu, và bước đầu có những nhận thức về bạn và thù(trích dẫn câu nói của bác). Năm
1917, Cách mạng Tháng Mười Nga giành thắng lợi, chủ nghĩa Mác – Lê nin đã trở
thành hiện thực, đồng thời mở ra một thời đại mới “ thời đại cách mạng chống đế
quốc, thời đại giải phóng dân tộc”. Cách mạng Tháng Mười đã nêu tấm gương sáng
trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức. Nguyễn Ái Quốc Khẳng định: “Cách
mạng Tháng Mười như tiếng sét đã đánh thức nhân dân Châu Á tỉnh giấc mê hàng thế
kỷ nay”. Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga và những chính
sách tiến bộ của nó thực sự đem lại lợi ích cho đông đảo quần chúng nhân dân. Nó
chứng tỏ được sự tiến bộ của hình thức cách mạng này.Trong khi đó, chiến tranh thế
giới thứ nhất kết thúc đã để lại những hậu quả vô cùng nặng nề. Loài người căm gét
chiến tranh. Trong khi đó cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Nga thực sự đem lại hòa bình tự do cho con người
Người đánh giá cao tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và quyền con người của các
cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu như Cách mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789)
… nhưng cũng nhận thức rõ những hạn chế của các cuộc cách mạng tư sản. Nguyễn
Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng tư sản không thể đưa lại độc lập và hạnh
phúc thật sự cho nhân dân các nước nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng.(trích
dẫn câu nói). Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm tìm hiểu cách mạng tháng mười nga
1917. Người rút ra kết luận: “ trong thế giới bấy giờ chỉ có Cách mệnh Nga là thành
công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”
Việc Bác lựa chọn con đường cách mạng vô sản cũng xuất phát từ tình hình của cách
mạng nước ta lúc đó, cũng như từ yêu cầu của cách mạng:Là nước thuộc địa nửa
phong kiến, chịu ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp. Pháp áp đặt chính sách cai trị
thực dân, đồng thời cấu kết với giai cấp địa chủ trong việc bóc lột kinh tế và áp bức
chính trị đối với nhân dân Việt Nam. Mặc dù nền kinh tế có những chuyển nhưng về
cơ bản vẫn là nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn, què quặt, lệ thuộc vào Pháp. Dưới ách
thống trị của thực dân Pháp, đời sống của nhân dân lao động hết sức khốn khổ. Xã hội
phân hóa ngày càng sâu sắc. Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân
Pháp và bọn tay sai lên đến đỉnh điểm.Yêu cầu của cách mạng lúc này là phải giải
quyết hai nhiệm vụ cách mạng, đó là: Nhiệm vụ dân tộc nhằm đánh đuổi thực dân
pháp, giành lại độc lập cho dân tộc. Và nhiệm vụ dân chủ nhằm đánh đổ chế độ phong
kiến đem lại ruộng đất cho nông dân. Trong hai nhiệm vụ trên, nhiệm vụ dân tộc là
nhiệm vụ hàng đầu, quan trọng nhất. Con đường giải phóng dân tộc phải thực hiện
được cả hai nhiệm vụ đó.
Tại Đại Hội Đảng Xã hội Pháp ( tháng 2 – 1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành
việc gia nhập quốc tế cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng Sản Pháp. Sự kiện
này đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của người – từ người
yêu nước trở thành người cộng sản và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn: “muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”
Việc lựa chọn con đường giải phóng đúng đắn cho dân tộc cũng xuất phát từ tấm lòng
yêu quê hương, đất nước vô bờ, với sự quyết tâm tìm ra con đường cứu nước cao cả,
tất cả trở thành động lực, hun đúc thành ngọn lửa cứu nước, và bằng tài năng mẫn cảm
chính trị của mình cũng như những hoạt động miệt mài, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra
con đường giải phóng cho cả dân tộc.
2/ Bằng các sự kiện lịch sử có chọn lọc, chứng minh sự ra đời của Đảng cộng sản
Việt Nam là một tất yếu lịch sử

Ở bối cảnh quốc tế, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do
cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Chính bước chuyển này đã làm cho mâu
thuẫn trong thế giới TBCN ngày càng trở nên gay gắt. Trong lúc phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế đang phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là khi được trang bị bởi một
học thuyết cách mạng và khoa học, cuộc cách mạng vô sản đầu tiên nổ ra và giành
thắng lợi tại Nga năm 1917. Thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng mười đã cổ vũ
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới, đặc
biệt là nhân dân các nước thuộc địa. Thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Mười Nga
1917 cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động trên thế giới, dẫn tới sự ra đời của hàng loạt các đảng cộng sản. Tình hình đó đòi
hỏi phải có một tổ chức quốc tế đứng ra lãnh đạo, tập trung sức mạnh của phong trào
ở tất cả các quốc gia, dân tộc. Tháng 3- 1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập.
Ở tình hình trong nước, trước 1930, phong trào yêu nước ở Việt Nam nổ ra mạnh mẽ
nhưng đều thất bại, do bị khủng hoảng về đường lối cách mạng. Tình hình đó đặt ra
yêu cầu phải có Đảng của giai cấp tiên tiến nhất để lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Từ 1919 -1929, thông qua hoạt động của Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị về tư tưởng,
chính trị và tổ chức cho sự thành lập Đảng. Nguyễn Ái Quốc đã ra sức tuyên truyền
chủ nghĩa Mác- Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về tư tưởng chính trị. Thành lập hội
Việt Nam cách mạng thanh niên để thông qua tổ chức này truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin vào Việt Nam.
Những năm 1928 – 1929, chủ nghĩa Mác – Lênin được truyền bá sâu rộng vào Việt
Nam, làm cho phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ. Một
yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải có đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo. Đáp ứng yêu cầu
đó ở Việt Nam lần lượt xuất hiện ba tổ chức cộng sản. Sự hoạt động riêng rẽ của ba tổ
chức cộng sản gây ảnh hưởng không tốt đến tiến trình cách mạng Việt Nam.
Cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản đã
nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một Đảng cộng sản thống nhất,
chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã tổ
chức và chủ trì hội nghị hợp nhất Đảng tại Hương Cảng, Trung Quốc từ ngày 6-1 đến
ngày 7-2-1930. Hội nghị đã quyết định hợp nhất 3 tổ chức Đảng (Đông Dương Cộng
sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) thành Đảng
Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng. Vì vậy, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã quyết nghị lấy ngày 3-2 hàng năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Đảng cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng Cộng sản
duy nhất, theo một đường lối chính trị đúng đắn đã tạo nên sự thống nhất về tư tưởng,
chính trị và hành động của phong trào cách mạng cả nước, hướng tới mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu
tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và
hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời, Đảng đã có
Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc
theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam
vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết
được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng
diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. — Đề cương 3a,b/11,12
3/ Tại sao nói cương lĩnh chính trị đầu tiên do nguyễn ái quốc soạn thảo là cương
lĩnh đúng đắn và sáng tạo, là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính dân tộc và tính nhân văn

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc dự
thảo được thông qua tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản (1/1930) gồm các văn
kiện: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, và Lời kêu gọi
nhân dịp thành lập Đảng.
Tính cách mạng đúng đắn và sáng tạo của Cương lĩnh đầu tiên đó được thể hiện qua những nội dung sau :
-Cương lĩnh vạch rõ tính chất của cách mạng Việt Nam là phải trải qua hai giai đoạn:
cách mạng tư sản dân quyền (về sau gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân) và
cách mạng xã hội chủ nghĩa (“làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng
để đi tới xã hội cộng sản”).
Như vậy, ngay từ đầu, Đảng ta đã thấu suốt con đường phát triển tất yếu của cách
mạng Việt Nam là giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
-Cương lĩnh đề ra nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền ở nước ta: đánh đổ đế
quốc Pháp, vua quan phong kiến và tư sản phản cách mạng. Mục tiêu:
+ Làm cho nước Việt Nam độc lập.
+ Dựng lên chính phủ công nông binh.
+ Tổ chức ra quân đội công nông.
+ Tịch thu sản nghiệp lớn của bọn đế quốc và ruộng đất của bọn đế quốc, bọn phản
cách mạng đem chia cho dân cày nghèo, chuẩn bị cách mạng thổ địa.
Như vậy, Cương lĩnh bao gồm nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và chống
phong kiến nhưng nổi bật là chống đế quốc và tay sai phản động, giành độc lập tự do cho toàn thể dân tộc.
-Lực lượng cách mạng chủ yếu là công nông, đồng thời phải lôi kéo tiểu tư sản, trí
thức, trung nông về phe giai cấp vô sản, còn phú nông, trung, tiểu địa chủ, tư sản Việt
Nam chưa lộ rõ bộ mặt phản động thì phải lợi dụng và làm cho họ trung lập. Như vậy,
Nguyễn Ái Quốc đã tranh thủ tối đa lực lượng cách mạng, cô lập tối đa lực lượng kẻ
thù. Thành lập mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của đảng, trên cơ sở công -nông-trí liên minh.
-Cương lĩnh khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết
định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
-Đảng phải lấy chủ nghĩa Marx Lenin làm nền tảng tư tưởng.
- Đảng phải có trách nhiệm phục vụ đại bộ phận giai cấp công nhân, làm cho giai cấp
mình lãnh đạo được quần chúng. Phải thu phục đại đa số dân cày, dựa vững vào dân
cày. Đồng thời phải liên minh với các giai cấp và tầng lớp yêu nước khác, đoàn kết, tổ
chức họ đấu tranh chống đế quốc và phong kiến.
-Cương lĩnh đầu tiên của Đảng còn coi cách mạng nước ta là một bộ phận của cách
mạng vô sản thế giới, đứng về phía mặt trận cách mạng gồm các dân tộc thuộc địa bị
áp bức và giai cấp công nhân thế giới. Như vậy, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng là cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, nhuần
nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tính dân tộc và tính nhân văn với tư tưởng
cốt lõi là Độc lập – Tự do cho dân tộc.
-Nội dung con đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là con đường cách mạng
vô sản, do giai cấp công nhân lãnh đạo, lực lượng nòng cốt là công – nông, đồng thời
phải đoàn kết với tiểu tư sản, trí thức, trung, tiểu địa chủ, tư sản dân tộc và phú nông,
dùng bạo lực cách mạng.
4/ Vai trò lãnh đạo của đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc 1930-1945
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 03-2-1930), đã đánh dấu một bước ngoặt lịch
sử trong cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống ách đô hộ của thực dân Pháp. Từ đây,
cách mạng Việt Nam đã có đội tiên phong, trực tiếp nắm chắc ngọn cờ lãnh đạo để
dẫn dắt nhân dân ta tiến tới cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Thứ nhất, Đảng lãnh đạo cao trào cách mạng 1930-1931
Cao trào cách mạng 1930-1931 không phải là hiện tượng ngẫu nhiên, mà là kết quả tất
yếu của các điều kiện khách quan và chủ quan trong đời sống xã hội của nước ta lúc
đó. Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã thúc đẩy thực dân Pháp tăng cường cấu
kết với thế lực phong kiến thuộc địa ra sức bóc lột nhân dân Việt Nam và đẩy đời sống
của toàn thể nhân dân lâm vào tình trạng cùng cực; buộc nhân dân ta vùng dậy đấu
tranh chống bọn thực dân đế quốc và phong kiến thuộc địa. Đảng ra đời là nhân tố
quyết định và là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cao trào cách mạng 1930-1931 mà
đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh. Cao trào cách mạng 1930-1931 là cuộc tổng diễn tập
đầu tiên của cách mạng Việt Nam để tiến tới giành chính quyền trên cả nước.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo cao trào dân chủ Đông Dương 1936-1939
Tháng 7-1936, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp ở Thượng Hải
(Trung Quốc) do đồng chí Lê Hồng Phong chủ trì, và nhận định: Nhiệm vụ cơ bản của
cách mạng tư sản dân quyền (chống đế quốc, chống phong kiến để dành độc lập cho
dân tộc và ruộng đất cho nông dân) không thay đổi, nhưng lúc này chưa phải là nhiệm
vụ trực tiếp. Yêu cầu cấp thiết trước mắt của nhân dân lúc này là tự do, dân chủ, cải
thiện đời sống. Do đó, Đảng phải lãnh đạo thành lập mặt trận dân chủ công khai và
rộng rãi, bao gồm các giai cấp, các tôn giáo, các đảng phái, các đoàn thể chính trị,…
nhằm tập trung chống kẻ thù cụ thể, trực tiếp trước mắt là chủ nghĩa phát xít và bọn
phản động ở thuộc địa Việt Nam để bảo vệ hoà bình, đòi thực hiện tự do, dân chủ, cải
thiện đời sống cho nhân dân.
Thứ ba, Đảng lãnh đạo cao trào giải phóng dân tộc 1939-1945
Ngay khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (tháng 9-1939), Trung ương Đảng đã
họp Hội nghị lần thứ 6 (tháng 11-1939) để điều chỉnh chiến lược cách mạng với nội
dung: Đặt nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai, giành độc lập dân tộc lên hàng đầu. Hội
nghị quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương, nhằm thu
hút tất cả các dân tộc, giai cấp, đảng phái, tôn giáo và các cá nhân yêu nước để đánh
đổ đế quốc và tay sai, giành độc lập hoàn toàn cho các dân tộc ở Đông Dương. Trung
ương Đảng đã kịp thời chỉ đạo các tổ chức đảng và quần chúng nhanh chóng rút vào
hoạt động bí mật, chuyển hướng hoạt động về nông thôn, tránh sự đàn áp khủng bố của kẻ thù.
Tháng 11-1940, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 7 họp ở Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc
Ninh), khẳng định chủ trương của Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6 là đúng, và cử
đồng chí Trường Chinh làm Bí thư Trung ương Đảng lâm thời. Tháng 02-1941 lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam.
Tháng 5-1941, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 đã họp tại Pắc Bó (Cao Bằng), do
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ trì. Hội nghị này đã cụ thể hóa và hoàn thiện
thêm một bước đường lối giải phóng dân tộc của cách mạng Việt Nam. Hội nghị chủ
trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ mỗi nước Đông Dương và chủ
trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất ở mỗi nước. Tại Việt Nam, Hội nghị
quyết định thành lập tổ chức Việt Nam Độc lập đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt
Minh, gồm các đoàn thể cứu quốc trên cả nước. Hội nghị nhấn mạnh công tác chuẩn
bị cho tổng khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm và dự kiến một số chủ trương, chính
sách khi Tổng khởi nghĩa thắng lợi.
Tháng 8-1942, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lấy tên mới là Hồ Chí Minh với danh nghĩa là
đại diện của Việt Minh sang Trung Quốc để liên hệ với các lực lượng đồng minh quốc
tế chống phát xít và vận động những người yêu nước ở nước ngoài tham gia cách
mạng. Năm 1943, bản “Đề cương văn hoá Việt Nam” của Đảng được công bố, nhằm
lôi cuốn các tầng lớp tri thức, văn nghệ sĩ cùng toàn dân tham gia phong trào cách
mạng. Được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Đông Dương, tháng 6-1944, Đảng Dân
Chủ Việt Nam - một chính đảng của tư sản dân tộc và tiểu tư sản tri thức yêu nước,
tiến bộ đã ra đời. Đảng Dân chủ Việt Nam tham gia vào Mặt trận Việt Minh đã góp
phần thúc đẩy mặt trận dân tộc thống nhất phát triển ngày càng sâu rộng. Đội du kích
Bắc Sơn (ra đời từ Khởi nghĩa Bắc Sơn tháng 9-1940); Đội du kích Ba Tơ (ra đời từ
Khởi nghĩa Ba Tơ tháng 3-1945),... đã phát triển đấu tranh vũ trang. Ngày 22-12-
1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập tại Nguyên Bình,
tỉnh Cao Bằng, do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ đạo.
Trên cơ sở đó, Mặt trận Việt Minh, lực lượng vũ trang cách mạng và cả căn cứ địa
cách mạng, đều phát triển mạnh mẽ, không chỉ ở khu Việt Bắc. Trên khắp cả nước,
đâu đâu cũng diễn ra các phong trào đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. Qua các
cuộc vận động cách mạng đó, Đảng ta đã có nhiều kinh nghiệm, hình thành các chủ
trương, quyết sách, đồng thời đẩy mạnh xây dựng một cách toàn diện các lực lượng
cách mạng (Mặt trận Việt Minh, lực lượng vũ trang, căn cứ cách mạng,...) gấp rút
chuẩn bị cho cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi.
Thứ tư, Đảng phát động cao trào chống Nhật, cứu nước, dự kiến thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền
Từ đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ 2 bước vào giai đoạn kết thúc. Tại khu
vực Đông Dương, do lo sợ quân đồng minh sẽ đổ bộ lên Đông Dương, Nhật tiến hành
đảo chính lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương (vào đêm 09-3-1945). Ngay lúc đó,
Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp tại Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), để đánh
giá tình hình và ra chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Bản chỉ
thị vạch rõ: Cuộc đảo chính Nhật - Pháp làm cho các điều kiện khởi nghĩa nhanh
chóng chín muồi. Kẻ thù chính, cụ thể trước mắt của nhân dân Đông Dương lúc này là
phát xít Nhật; phải nhanh chóng phát động cao trào chống Nhật, cứu nước, đồng thời
thực hiện khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền từng bộ phận, chuẩn bị mọi điều
kiện để tiến tới tổng khởi nghĩa.
Trước tình hình phát xít Nhật thẳng tay vơ vét, bóc lột, gây ra một nạn đói khủng
khiếp và làm chết gần hai triệu người, Đảng kịp thời đề ra khẩu hiệu “Phá kho thóc
của Nhật để cứu đói”. Khẩu hiệu đó đã lôi cuốn hàng triệu quần chúng, nhất là nông
dân, đứng lên chống Nhật, giành chính quyền về tay nhân dân. Từ giữa tháng 3-1945,
cách mạng Việt Nam đã nhanh chóng trở thành cao trào. Đến giữa tháng 8-1945, lực
lượng cách mạng, bao gồm cả lực lượng chính trị và vũ trang, đã phát triển rộng rãi
khắp nông thôn và đô thị.
Ngày 13-8-1945, Chính phủ Nhật đã đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng minh vô
điều kiện. Quân Nhật ở Đông Dương lâm vào tình thế bị tê liệt. Chính phủ tay sai
Trần Trọng Kim hoang mang cực độ. Trước tình hình đó, Đại hội quốc dân đã họp ở
Tân Trào (Tuyên Quang) từ ngày 13 đến ngày 15-8-1945 dưới sự chủ trì của Hồ Chí
Minh, thống nhất với chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương là nhanh chóng
phát động toàn dân kịp thời đứng lên tổng khởi nghĩa, quyết tâm giành chính quyền từ
tay phát xít Nhật. Đại hội đã cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng do Hồ Chí Minh làm
chủ tịch để lãnh đạo tổng khởi nghĩa.
Mệnh lệnh khởi nghĩa của Uỷ ban dân tộc giải phóng và lời kêu gọi cả nước đứng lên
tổng khởi nghĩa giành chính quyền của Hồ Chủ tịch được các địa phương nhiệt liệt
hưởng ứng. Từ ngày 14 đến 28-8-1945, cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền đã
thắng lợi hoàn toàn trên cả nước. Chính quyền từ trung ương đến các địa phương đã
thuộc về nhân dân Việt Nam. Ngày 02-9-1945, tại Quảng Trường Ba Đình lịch sử, Hồ
Chủ tịch đã đọc Bản Tuyên ngôn độc lập, long trọng tuyên bố với nhân dân trong cả
nước và các quốc gia trên thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ra đời, có
chủ quyền độc lập như mọi quốc gia khác trên toàn thế giới.
5/ Tính chất, ý nghĩa và bài học của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 Đề cương trang 98
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 mang ý nghĩa lịch sử đối với dân tộc Việt Nam và
các giá trị thời đại.
Thứ nhất, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thực sự là một cuộc cách mạng đã phát
huy và làm rạng rỡ truyền thống giữ nước, dựng nước của dân tộc Việt Nam

Đây thực sự là một cuộc cách mạng lần đầu tiên diễn ra trong lịch sử Việt Nam, bởi
các yếu tố nội tại của nó, như: sự lãnh đạo của một Đảng Cộng sản với tư cách là đội
tiên phong và đại diện tiêu biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân đồng thời của cả
dân tộc Việt Nam; chính cương và tính chất dân chủ rộng rãi của các lực lượng tham
gia Mặt trận Việt minh; quá trình vận động nội tại với các cao trào cách mạng 1930-
1931, 1936-1939 và 1941-1945; sự tiến triển và chín muồi cũng như việc nắm bắt kịp
thời thời cơ cách mạng; giành chính quyền bằng một cuộc tổng khởi nghĩa, chủ yếu
mang tính chất đấu tranh chính trị, chứ không phải một kiểu bạo lực vũ trang; mục
đích giành chính quyền được hoàn tất trong khoảng 15 ngày; bảo vệ được chính quyền
và tiến hành xây dựng chế độ xã hội mới.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân;
trong đó nổi bật tính chất giải phóng dân tộc. Đây là một cuộc cách mạng có tính điển
hình về tinh thần chủ động, sáng tạo, biết tranh thủ thời cơ chung, kịp thời tự mình
đứng lên giải phóng cho mình, không đợi chờ ỷ lại vào lực lượng bên ngoài đất nước.
Nó giành được chính quyền từ tay các thế lực thực dân, phát xít của chủ nghĩa đế quốc
và chủ nghĩa phong kiến; và quan trọng hơn bảo vệ được chính quyền trong tình thế
”ngàn cân treo sợi tóc” bằng cách “ứng vạn biến” với các thế lực thù địch và bắt tay
vào xây dựng chế độ xã hội mới do nhân dân là chủ và làm chủ. Thông qua đó, Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 đã kết tinh và làm rạng rỡ truyền thống giữ nước, dựng
nước của dân tộc Việt Nam.
Thứ hai, phát huy và làm rạng rỡ truyền thống anh hùng, đoàn kết và sáng tạo của
toàn thể nhân dân Việt Nam

Qua các cao trào cách mạng suốt từ những năm 1930-1931 đến năm 1945, các tầng
lớp nhân dân Việt Nam được động viên, bồi dưỡng, phát huy và làm rạng rỡ truyền
thống anh hùng, đoàn kết và sáng tạo của dân tộc Việt Nam. Kết quả tiêu biểu là trong
thời khắc phải chớp thời cơ lịch sử, khắp nơi nhân dân thể hiện được tấm lòng vì nước
quên thân, nô nức tự vệ vũ trang, hừng hực khí thế sẵn sàng tổng khởi nghĩa và đã
nhất tề vùng dậy giành chính quyền. Cuộc tổng khởi nghĩa diễn ra với ý chí triệu
người như một. Sự sáng tạo của các tầng lớp nhân dân tại các địa phương gần như
diễn ra đồng thời: Đầu tiên Tuyên Quang giành được chính quyền vào ngày 14-8; Hà
Nội: ngày 19-8; Huế: ngày 23-8; Sài Gòn: ngày 25-8;.... Hà Tiên, tỉnh cực Nam của
Tổ quốc, khởi nghĩa thắng lợi cũng trong thời khắc của tháng tám lịch sử năm 1945
(ngày 28-8-1945). Như vậy cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên cả nước,
được hoàn thành trong khoảng 15 ngày.
Thứ ba, mở ra khả năng thực hiện cuộc cách mạng dân chủ kiểu mới tại một nước
thuộc địa - nửa phong kiến ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chỉ dừng lại ở khuôn khổ của một cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc. Tất cả các yếu tố chủ quan và khách quan của Cách mạng,
như sự lãnh đạo của một Đảng Cộng sản, tính chất dân chủ rộng rãi của các lực lượng
tham gia cách mạng, quá trình vận động của các cao trào cách mạng trong suốt 15
năm từ những năm 1930-1931 đến năm 1945 - đã tất yếu kết nối tính chất dân tộc với
tính chất dân chủ nhân dân. Hơn nữa, những diễn biến lịch sử sau Cách mạng lại càng
thúc đẩy và định hình tính chất dân chủ kiểu mới của cách mạng Việt Nam là: không
đóng khung trong giới hạn một cuộc cách mạng dân chủ tư sản, mà dưới sự lãnh đạo
của một Đảng Cộng sản, phát triển thành cuộc cách mạng dân chủ kiểu xã hội chủ
nghĩa nhằm từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Với ý nghĩa đó, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã phá vỡ một mảng quan trọng
của chủ nghĩa đế quốc tại khâu yếu nhất của nó là chế độ thuộc địa - nửa phong kiến;
và mở ra thời kỳ sụp đổ, tan rã không cách gì cứu vãn nổi của chủ nghĩa thực dân cũ
và mới, cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc và phong trào đấu tranh cho
dân chủ, tiến bộ xã hội trên thế giới. Chương 2
1/ Vì sao nói sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính quyền cách mạng Việt
Nam rơi vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”

Đề cương trang 32. Phần 1a
2/ Hãy chứng minh rằng thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược (1946-1954) là kết quả của cuộc chiến tranh nhân dân “Toàn dân, toàn
diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính”

Khi cơ hội tìm kiếm giải pháp hòa bình không còn, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung
ương Đảng chủ động mở đầu cuộc kháng chiến đúng thời điểm và kịp thời chuyển cả
nước vào thời chiến, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân.
Về phía Pháp, với bản chất cố hữu của kẻ thực dân, nên sau khi được tăng cường lực
lượng, chúng mở rộng vùng chiếm đóng, ráo riết thực hiện đòn tấn công quyết định
sớm kết thúc chiến tranh. Thu - Đông năm 1947, Bộ Chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở
Đông Dương huy động lực lượng lớn, mở cuộc hành quân lên Việt Bắc nhằm tiêu diệt
cơ quan đầu não, tiêu diệt quân chủ lực, phá tan căn cứ kháng chiến của ta. Nhưng
dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Trung ương Đảng và tinh thần sáng tạo, quân, dân ta
chiến đấu ngoan cường, giành thắng lợi vẻ vang trong chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông
năm 1947, làm thất bại hoàn toàn chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân
Pháp, mở ra giai đoạn mới cho cuộc kháng chiến. Không thể sớm kết thúc chiến tranh
theo ý định, các nhà cầm quân Pháp buộc phải chuyển sang “đánh kéo dài”, thực hiện
chính sách “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, đồng
thời tiến hành “Chiến tranh tổng lực”, tăng cường đánh phá nhiều cơ sở của ta. Đến
năm 1950, lực lượng kháng chiến của ta trưởng thành về mọi mặt, Đảng và Chính phủ
quyết định mở Chiến dịch Biên giới nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực
địch, giải phóng một phần vùng biên giới phía Bắc, mở rộng và củng cố căn cứ địa
Việt Bắc, khai thông đường liên lạc quốc tế với các nước XHCN.
Lợi dụng sự sa lầy cuộc chiến tranh Đông Dương của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ tăng
cường viện trợ cho Pháp, ngày càng can thiệp sâu vào cuộc chiến này nhằm thực hiện
âm mưu ngăn chặn phong trào cộng sản tràn xuống Đông Nam Á và sẵn sàng thay
Pháp để kéo dài chiến tranh. Trước tình hình đó, Đại hội toàn quốc lần thứ II của
Đảng (tháng 2-1951) xác định nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Việt Nam lúc này là
tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành độc lập, thống
nhất hoàn toàn, bảo vệ hòa bình thế giới. Phát huy thế tiến công chiến lược, quân dân
ta giành được những thắng lợi quan trọng trên các chiến trường như Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào,…
Chiến tranh nhân dân phát triển đã đẩy quân địch lún sâu vào thế bị động. Trong khi
đó, thế và lực của cuộc kháng chiến ngày càng được củng cố, lực lượng vũ trang ba
thứ quân được tăng cường, bộ đội chủ lực ngày càng mạnh, hậu phương được củng cố
là chỗ dựa, góp phần quan trọng vào thắng lợi của tiền tuyến. Hòng xoay chuyển tình
thế, dựa vào viện trợ của Mỹ, Pháp lập kế hoạch Nava nhằm lấy lại quyền chủ động,
tiến tới tiêu diệt bộ đội chủ lực ta để kết thúc chiến tranh.
Tuy nhiên, trước sự chỉ đạo chủ động, linh hoạt của Trung ương Đảng, Bộ Tổng tư
lệnh, sự chiến đấu kiên cường dũng cảm của quân và dân ta, kế hoạch trên bị thất bại,
buộc Nava phải đưa quân chủ lực lên Điện Biên Phủ, biến nơi đây thành tập đoàn cứ
điểm khổng lồ để tiêu diệt “chủ lực Việt Minh”. Sau 56 ngày đêm chiến đấu kiên
cường, quân và dân ta đập tan căn cứ quân sự lớn nhất của thực dân Pháp, tạo nên “cột
mốc bằng vàng” trong lịch sử chống ngoại xâm, tạo điều kiện thuận lợi cho đấu tranh
ngoại giao đi đến ký kết Hiệp định Genève, chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương.
Miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng. Cách mạng Việt Nam bước vào một
thời kỳ mới: thời kỳ xây dựng CNXH ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc.
3/ Tại sao đại hội III của đảng ( 9/1960) được xem là đại hội hoàn chỉnh đường lối
chiến lược cách mạng hai miền Nam - Bắc

Đại hội đã nghe Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do đồng chí
Lê Duẩn trình bày; Báo cáo về sửa đổi Điều lệ Đảng do đồng chí Lê Đức Thọ trình
bày; Báo cáo về phương hướng và nhiệm vụ kế hoạch 5 năm lần thứ nhất do đồng chí
Nguyễn Duy Trinh trình bày và nhiều tham luận khác.
Phân tích tình hình đất nước ta tạm thời bị chia làm hai miền với hai chế độ chính trị -
xã hội khác nhau, bản báo cáo xác định: “Nhiệm vụ cách mạng của nhân dân ta trong
giai đoạn hiện nay là: tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững
hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà
trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và
bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới
”1.
Hai nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau,
song hai nhiệm vụ đó trước mắt đều có một mục tiêu chung là thực hiện hòa bình
thống nhất Tổ quốc, đều nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước là mâu thuẫn
giữa Nhân dân ta với đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai của chúng. Giải quyết mâu thuẫn
chung ấy là trách nhiệm của cả nước, song mỗi miền có nhiệm vụ chiến lược riêng và có vị trí khác nhau.
“Nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc... là nhiệm vụ quyết định nhất đối
với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước
nhà của nhân dân ta
”[1]. Còn “cách mạng miền Nam có một vị trí rất quan trọng. Nó
có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách
thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà,
hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước
”2.
Xuất phát từ những nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Bắc, mà đặc điểm lớn nhất
là đi từ một nền kinh tế lạc hậu, chủ yếu dựa trên cơ sở sản xuất nhỏ cá thể, cơ sở kinh
tế tư bản chủ nghĩa hết sức kém cỏi tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, cho nên “công
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc phải là một quá trình cải biến cách
mạng về mọi mặt nhằm đưa miền Bắc từ nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về
tư liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và sở
hữu tập thể, từ chế độ sản xuất nhỏ tiến lên chế độ sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, từ
tình trạng kinh tế rời rạc và lạc hậu, xây dựng thành một nền kinh tế cân đối và hiện
đại, làm cho miền Bắc tiến bộ mau chóng, thành cơ sở ngày càng vững chắc cho sự
nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà
”3.
Quá trình cải biến cách mạng ở miền Bắc là một quá trình kết hợp cải tạo và xây dựng
chủ nghĩa xã hội, là quá trình đấu tranh gay go và phức tạp giữa con đường xã hội chủ
nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư
tưởng, văn hóa và kỹ thuật.
Từ sự phân tích đó, Đại hội đã xác định đường lối chung của Đảng trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc là “đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu
nước nồng nàn và truyền thống phấn đấu anh dũng, lao động cần cù của nhân dân ta,
đồng thời tăng cường đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa anh em do Liên Xô
đứng đầu, để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã
hội, xây dựng đời sống ấm no hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở
vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, góp phần
tăng cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới.

Để thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng bước đầu cơ sở
vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đồng thời hoàn thành cải tạo xã hội chủ
nghĩa làm cho nền kinh tế miền Bắc nước ta thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa,
Đại hội xác định những nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất:
- Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện một bước việc ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện, công
nghiệp thực phẩm, công nghiệp nhẹ...
- Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công nghiệp, thủ công
nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh, củng cố và tăng
cường thành phần kinh tế quốc doanh, mở rộng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Nâng cao trình độ học vấn của nhân dân, đẩy mạnh đào tạo cán bộ và công nhân lành
nghề, nâng cao năng lực quản lý kinh tế của cán bộ, xúc tiến công tác khoa học và kỹ thuật.
- Cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, mở mang phúc
lợi công cộng, xây dựng đời sống mới ở nông thôn và thành thị.
- Ra sức củng cố quốc phòng, trật tự an ninh xã hội.
Các nhiệm vụ đó liên hệ mật thiết với nhau.
Đại hội cũng quyết định các chủ trương tăng cường nhà nước dân chủ nhân dân, củng
cố sự nhất trí về chính trị và tinh thần của nhân dân miền Bắc, đoàn kết quốc tế và đẩy mạnh xây dựng Đảng.
4/ Tại sao nói cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là một chủ
trương táo bạo và sáng tạo của Đảng, đánh thẳng vào ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ?

Trước những thất bại liên tiếp của địch và thắng lợi dồn dập của ta trên khắp chiến
trường, từ cuối năm 1966 đầu năm 1967, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động
Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) đi tới chủ trương tạo điều kiện tiến tới
mở ra cục diện “vừa đánh, vừa đàm”, “vừa đàm vừa đánh”; đó là sách lược hỗ trợ cho
dấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị của quân và dân ta.
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13 đã trình bày “Đề cương báo cáo về công tác đấu
tranh ngoại giao”, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta hiện
nay, đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam là nhân tố chủ yếu quyết
định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. Tuy
nhiên, đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến
trường, mà trong tình hình quốc tế hiện nay, với tính chất cuộc chiến tranh giữa ta và
địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 diễn ra khi nỗ lực xâm lược của
Mỹ ở Việt Nam lên tới đỉnh cao, khi lực lượng so sánh giữa ta và địch trên chiến
trường nghiêng mạnh về phía Mỹ và chính quyền tay sai Sài Gòn. Bằng cuộc tiến
công và nổi dậy đồng loạt, táo bạo, dũng mãnh, nhằm vào đô thị trên toàn miền Nam,
quân và dân ta đã đánh đòn quyết định vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc
chúng phải đơn phương “xuống thang chiến tranh”, khởi đầu cho một quá trình đi
xuống về mặt chiến lược. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân đánh vào các
thành phố lớn, nơi tập trung lực lượng quân sự và chính trị quan trọng của Mỹ và
ngụy quyền Sài Gòn. Đây là một cách đánh mới, chưa từng có trong lịch sử chiến tranh thế giới.
Như vậy, thắng lợi lớn nhất và quan trọng nhất của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
Tết Mậu Thân 1968 là ta đã làm đảo lộn chiến lược chiến tranh xâm lược Việt Nam
của Mỹ - một cường quốc đế quốc giàu mạnh nhất, làm lung lay tận gốc ý chí xâm
lược của chúng. Trong chiến tranh, thắng lợi ở quy mô chiến dịch, chiến thuật là rất
quan trọng, song chỉ khi làm đảo lộn kế hoạch chiến lược chiến tranh của đối phương
mới tạo chuyển biến lớn, thay đổi cục diện chiến trường. Đó là vấn đề có tính quy luật
thuộc nghệ thuật chỉ đạo và điều hành chiến tranh, có tác động lớn đến tiến trình và
kết cục cuộc chiến tranh. Bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, ta
đã giáng một đòn quyết định vào chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ, đánh bại
cố gắng quân sự cao nhất của chúng trong chiến tranh xâm lược Việt Nam. Thắng lợi
oanh liệt Tết Mậu Thân 1968 của quân và dân ta đưa tới nguy cơ, lần đầu tiên trong
lịch sử nước Mỹ, quân Mỹ bị đánh bại trong một cuộc chiến tranh với Việt Nam - một
dân tộc nhỏ ở cách xa nước Mỹ.
Hơn nữa, Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là biểu tượng sáng ngời về ý
chí và sức mạnh quật cường của quân và dân Việt Nam, là tinh thần độc lập, tự chủ,
sáng tạo, tài mưu lược trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng ta, nổi bật là
nghệ thuật nắm bắt thời cơ để chủ động giáng đòn quyết định làm chuyển biến cục
diện chiến tranh; nghệ thuật tiến công bằng cách đánh chiến lược mới, giành thế bất
ngờ, đưa chiến tranh vào thành thị; là nghệ thuật tổ chức, bố trí và sử dụng lực lượng
“lấy nhỏ đánh lớn”, “lấy ít địch nhiều”, “lấy chất lượng cao thắng số lượng đông”, lấy
trí tuệ của con người Việt Nam để chiến thắng vũ khí và trí tuệ của bộ máy điều hành
chiến tranh của Mỹ. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân diễn ra vào dịp
Tết Nguyên đán, thời điểm mà quân và dân ta thường được nghỉ ngơi, quân địch được
thả lỏng cảnh giác. Đây là một quyết định táo bạo, bởi nếu thất bại, quân ta sẽ phải
chịu thiệt hại nặng nề.
Thực tiễn cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu.
+ Thứ nhất là bài học về xây dựng quyết tâm chiến đấu và ý chí quyết đánh Mỹ, quyết
thắng Mỹ cho toàn thể quân và dân miền Nam.
+Thứ hai, Đảng ta đã sớm đánh giá đúng kẻ thù, có chủ trương, lựa chọn phương pháp
tác chiến phù hợp, lãnh đạo cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 thắng lợi.
+ Thứ ba, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 ta thực hiện đồng loạt
tiến công kết hợp với nổi dậy ở nhiều thành phố; sử dụng lực lượng với quy mô lớn,
kết hợp cả đấu tranh quân sự và chính trị bất ngờ tiến công đồng loạt thẳng vào cơ
quan đầu não của địch, vào tận hậu phương, sào huyệt của chúng, nơi chúng cho là an toàn nhất.
+ Thứ tư là bài học tạo yếu tố bất ngờ về thời cơ, thời điểm tiến hành tiến công và nổi dậy.
+ Thứ năm là bài học về giữ bí mật tuyệt đối, từ ý đồ chiến lược của Trung ương đến
kế hoạch tiến công và nổi dậy ở cơ sở, nhất là ở các trọng điểm lớn như Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng.
4/ Tại sao nói cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 là một
chủ trương táo bạo và sáng tạo của Đảng, đánh thẳng vào ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ.

Thứ nhất, Đảng ta đã sớm đánh giá đúng kẻ thù, có chủ trương, lựa chọn phương pháp
tác chiến phù hợp, lãnh đạo cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 thắng
lợi. Với tầm nhìn xa trông rộng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy
rằng: Ðương đầu với kẻ thù có tiềm lực và sức mạnh kinh tế, quân sự lớn hơn ta gấp
nhiều lần, chúng ta phải biết thắng từng bước và đánh vào ý chí xâm lược của kẻ thù.
Tháng 12 năm 1967, Bộ Chính trị họp dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa
ra chủ trương chiến lược và quyết định mở cuộc tổng công kích và tổng khởi nghĩa
trên toàn miền Nam. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 14 khóa III (tháng 1
năm 1968) chỉ rõ: “Trong quá trình tổng công kích và tổng khởi nghĩa, chúng ta phải
quán triệt nguyên tắc: Tập trung lực lượng quân sự và chính trị đến mức cao nhất; kiên
quyết tiến công, liên tục tiến công nhằm vào những nơi xung yếu của địch mà đánh
những đòn quyết định; phải tuyệt đối giữ cho được yếu tố bất ngờ; phải biết giành
thắng lợi từng giờ, từng phút và không ngừng mở rộng thắng lợi; kiên quyết chống trả
và bẻ gãy các cuộc phản công của địch và truy kích địch đến cùng để giành thắng lợi cao nhất” .
Thứ hai, cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968 ta thực hiện đồng loạt tiến công kết
hợp với nổi dậy ở nhiều thành phố; sử dụng lực lượng với quy mô lớn, kết hợp cả đấu
tranh quân sự và chính trị bất ngờ tiến công đồng loạt thẳng vào cơ quan đầu não của
địch, vào tận hậu phương, sào huyệt của chúng, nơi chúng cho là an toàn nhất. Lần
đầu tiên, Quân giải phóng miền Nam thực hiện việc “đưa chiến tranh vào tận trung
tâm các thành phố lớn”, nơi tập trung các cơ quan đầu não trung ương và địa phương
của chính quyền nguỵ Sài Gòn; thực hiện đòn đánh hiểm, đánh đau, đánh vào yết hầu của địch.
Thứ ba, tạo yếu tố bất ngờ về thời cơ, thời điểm tiến hành tiến công và nổi dậy. Chọn
thời cơ và thời khắc giao thừa Tết Nguyên Đán đồng loạt nổ súng mở màn là nét đặc
sắc của nghệ thuật tạo bất ngờ; bởi đây là lúc địch sơ hở và chủ quan nhất. Cân nhắc,
nghiên cứu và tính toán rất kỹ, cụ thể từng chi tiết, phong tục tập quán Tết cổ truyền
của dân tộc trên đất phương Nam; việc “điều binh, khiển tướng” của Quân lực Việt
Nam cộng hòa từ nhiều năm trước đó, sau khi có sự thống nhất giữa cơ quan chỉ đạo
tối cao và chỉ huy các chiến trường, Bộ thống soái quyết định chọn thời điểm Giao
thừa là “giờ G” làm hiệu lệnh nổ súng mở màn cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân.
Với sự tính toán mưu lược chu tất như vậy, nên khi ta tiến công, địch hoàn toàn bị bất
ngờ, không kịp đối phó. Ngay sau khi sự kiện Tết Mậu Thân diễn ra, giới chỉ huy
quân sự và học giả Mỹ cũng như phương Tây đã xác nhận: Vào những ngày Tết Mậu
Thân, các đơn vị của Quân đội Việt Nam cộng hòa chỉ có một nửa quân số, khiến cho
Bộ Chỉ huy Quân sự Mỹ ở Sài Gòn vô cùng lúng túng trong việc ứng phó. Từ thực tế
đó, càng khẳng định: Việc chọn thời điểm Tết Nguyên Đán mở cuộc Tổng tiến công
có ý nghĩa chiến lược, góp phần tạo bất ngờ về thời gian, thời điểm quan trọng làm
nên thắng lợi của Xuân Mậu Thân 1968.
5/ Hãy chứng minh Hiệp định Paris là kết quả của quá trình “vừa đánh vừa
đàm” và là cơ hội lớn cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi đến thắng lợi hoàn toàn.

Hiệp định Paris được gọi là quá trình "vừa đánh, vừa đàm" vì trong khi các cuộc đàm
phán được tiến hành tại Paris từ năm 1968 đến 1973, các cuộc tấn công quân sự của
Mỹ và các cuộc đụng độ giữa quân đội Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng hòa tiếp tục
diễn ra. Theo đó, việc đàm phán và chiến đấu diễn ra đồng thời trong suốt quá trình
này, vì vậy nó được gọi là "vừa đánh, vừa đàm".
Hai là, đỉnh cao nghệ thuật “vừa đánh, vừa đàm”
Ngay từ năm 1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự đoán: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ
cũng sẽ đưa B-52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua mới chịu thua... Ở Việt Nam, Mỹ sẽ
nhất định thua. Nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội”(6).
Tháng 5-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị đã chỉ thị cho đồng chí Xuân
Thủy - Trưởng đoàn đàm phán Pari khi về nước báo cáo tình hình: “Tiến công ngoại
giao là một mặt tiến công quan trọng có ý nghĩa chiến lược lúc này…; nắm vững thời
cơ, phối hợp với tiến công quân sự và tiến công chính trị, tiến công liên tục và sắc
bén, kiên trì nguyên tắc, khéo vận dụng sách lược, vừa kiên quyết, vừa linh hoạt, buộc
Mỹ phải rút quân và nhận một giải pháp chính trị đáp ứng yêu cầu cơ bản của ta”(7).
Trong suốt thời gian đàm phán tại Pari, chúng ta luôn kịp thời phát huy thắng lợi,
tranh thủ mọi cơ hội để tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ, tranh thủ sự ủng hộ của các
nước, bạn bè yêu chuộng hòa bình, công lý trên thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ.
Đỉnh cao trong việc vận dụng thành công nghệ thuật “đánh - đàm” của ngoại giao Việt
Nam được thể hiện ở thời điểm tháng 3-1972, khi Mỹ đơn phương “ngừng không thời
hạn” Hội nghị Pari, ném bom trở lại miền Bắc với quy mô chưa từng có, nhằm buộc
Việt Nam phải nhân nhượng. Tuy nhiên, Trung ương Đảng vẫn chủ trương duy trì Hội
nghị Pari với mục tiêu làm diễn đàn tuyên truyền để tranh thủ sự ủng hộ của dư luận
quốc tế và kết hợp với chiến trường để đấu tranh với Mỹ về mặt ngoại giao.
Thực hiện chỉ đạo này, tại Pari, phái đoàn Việt Nam đã chủ động, tích cực đấu tranh,
đòi phía Mỹ phải nối lại đàm phán theo hướng giải quyết toàn bộ về vấn đề chiến
tranh Việt Nam. Với nghệ thuật “đánh - đàm”, trong quá trình đàm phán, Việt Nam đã
có 5 lần kéo địch xuống thang.
3. Tầm ảnh hưởng quốc tế rộng lớn của Hiệp định Pari
Hiệp định Pari “đã trở thành trung tâm chú ý của dư luận thế giới vì cuộc đấu tranh
chính trị, quân sự và ngoại giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ là tâm điểm của những
mâu thuẫn cơ bản của thời đại lúc bấy giờ. Việc ký kết Hiệp định là sự tháo nút cho
cuộc chiến tranh ác liệt và lâu dài nhất trên thế giới sau Chiến tranh thế giới lần thứ
hai”(10). Điều đó thể hiện tầm ảnh hưởng quốc tế rộng lớn của Hiệp định Pari, không
những với cách mạng nước ta mà ở cả Đông Dương, thu hút các nguyên thủ, chính
khách, trí thức có uy tín và ảnh hưởng lớn cũng như các hãng truyền thông lớn trên thế giới.
Ở Pháp, Đảng Cộng sản Pháp (một lực lượng chính trị rất mạnh ở Pháp lúc bấy giờ),
ngoài sự giúp đỡ về vật chất rất to lớn dành cho đoàn Việt Nam tham gia đàm phán
còn có vai trò tích cực trong việc tập hợp các lực lượng chính trị và nhân dân Pháp
ủng hộ cuộc kháng chiến của ta và phản đối cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ. Đảng
Cộng sản Pháp còn là cầu nối giữa Việt Nam và Pháp. CHƯƠNG 3
1/ Quá trình tìm tòi khảo nghiệm đường lối đổi mới về kinh tế của Đảng Cộng
sản Việt Nam thời kì trước đổi mới toàn diện đất nước ( 1975 - 1086 )

2/ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm
1991 và bổ sung, phát triển năm 2011.
đề cương/61-62
3/ Làm rõ nhận định nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn

Nhận định "nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn" được rút ra từ quá trình phát triển của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong hơn 90 năm qua.
Với tư cách là Đảng lãnh đạo cách mạng, ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã xác định chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của cách mạng Việt Nam.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã không ngừng nghiên cứu, tổng kết thực
tiễn, bổ sung, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng đã xác định con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là con đường cách mạng vô sản, bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa. Con đường này đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh là
đúng đắn, đưa đến thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thống nhất đất nước.
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát
triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trên cơ sở đó, Đảng đã xác định mục tiêu của công cuộc đổi mới là: "Xây dựng nước
Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội".
Để đạt được mục tiêu đó, Đảng đã xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam là: "Sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa,
tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giữ
vững và phát triển những thành quả cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân
dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Như vậy, nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn, thể hiện ở những điểm sau:
● Về mục tiêu: Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được xác định rõ ràng,
cụ thể, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thế giới.
● Về con đường: Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được xác định là
con đường phát triển quá độ, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Con đường này
được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh là đúng đắn, phù hợp với điều kiện của nước ta.
● Về phương thức: Phương thức thực hiện mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam là sự kết hợp hài hòa giữa đổi mới và phát triển.
Với nhận thức ngày càng sáng tỏ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang lãnh đạo nhân dân ta
thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
4/ Làm rõ nhận định về đối ngoại của Việt Nam: Hình ảnh và vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao hơn.

Sau hơn nửa nhiệm kỳ Đại hội XIII, bất chấp những khó khăn, thách thức chưa từng
có tiền lệ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn.
Đặc biệt, nhìn lại khoảng thời gian vừa qua có thể thấy việc thực hiện đường lối đối
ngoại, theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII là một trong những nhiệm vụ đã để lại nhiều dấu ấn.
Trong 3 năm trở lại đây, tại nhiều quốc gia, nhiều biến động lớn, chưa có tiền lệ đã
xảy ra, dẫn đến những thách thức đối với sự ổn định và phát triển trên toàn thế giới.
Ở Việt Nam, sau sự thành công của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII diễn vào
tháng 1 năm 2021, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương, trực tiếp và thường
xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư và lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính
phủ, công tác đối ngoại đã đạt được nhiều kết toàn diện trên tất cả các kênh đối ngoại
Đảng, Ngoại giao Nhà nước và Đối ngoại nhân dân. Trong đó, kết quả bao trùm là
củng cố vững chắc hơn môi trường hòa bình, ổn định để đất nước phát triển bền vững
cũng như tiếp tục nâng cao vị thế, uy tín trên trường quốc tế.
Một trong những sự kiện nổi bật nhất là chuyến thăm chính thức Trung Quốc của
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vào cuối năm ngoái ngay sau Đại hội Đảng Cộng sản
Trung Quốc lần thứ 20 - sự kiện đặc biệt quan trọng đối với cả hai nước, thu hút sự quan tâm của thế giới.
Và mới đây nhất, cách đây 2 tháng, Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden thăm cấp Nhà
nước tới Việt Nam theo lời mời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và hai bên chính
thức nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện.
Cũng trong nửa nhiệm kỳ Đại hội Đảng XIII, đã diễn ra hơn 170 hoạt động đối ngoại
cấp cao. Trong đó có hơn 30 chuyến thăm của các đồng chí Lãnh đạo chủ chốt đến các
quốc gia, đón hơn 30 đoàn lãnh đạo cấp cao đến Việt Nam, hơn 80 cuộc điện đàm, hội
đàm trực tuyến đã được thực hiện.
Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 192 nước, đặc biệt là quan hệ với các
đối tác quan trọng, các nước láng giềng ngày càng được mở rộng, đi vào chiều sâu,
thực chất và hiệu quả.
5/ Bài học lớn về sự lãnh đạo của đảng là nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã . Hãy chứng minh điều đó qua quá trình đảng lãnh đạo đất nước từ năm 1930 đến nay

Từ năm 1930 đến nay, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta giành thắng lợi trong hai cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong mỗi giai đoạn cách mạng, Đảng
đều kiên định nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thể hiện rõ bản
chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng.
Trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Đảng đã lãnh đạo
nhân dân ta tiến hành hai cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ nhưng vô cùng anh
dũng và thắng lợi. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Đảng đã xác định rõ nhiệm
vụ chiến lược là giành độc lập dân tộc, thực hiện quyền tự do, hạnh phúc của nhân
dân. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm
1945, giành thắng lợi vẻ vang, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong cuộc
kháng chiến chống Pháp sau đó, Đảng đã lãnh đạo quân và dân ta đánh thắng thực dân
Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc.
Trong giai đoạn kháng chiến chống đế quốc Mỹ (1954 - 1975), Đảng tiếp tục kiên
định ngọn cờ độc lập dân tộc, lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến trường
kỳ, gian khổ nhưng vô cùng anh dũng, kiên cường, giành thắng lợi hoàn toàn. Trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đảng đã xác định rõ nhiệm vụ chiến lược là đánh thắng
đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước. Đảng đã lãnh đạo quân và dân ta đánh bại
chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của Mỹ, đánh bại chiến lược "Việt Nam hóa chiến
tranh" của Mỹ, giành thắng lợi hoàn toàn, thống nhất đất nước.
Trong giai đoạn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (1975 đến
nay), Đảng tiếp tục kiên định ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lãnh đạo
nhân dân ta xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn
này, Đảng đã xác định rõ nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đạt được nhiều