Câu hỏi ôn tập môn Pháp luật doanh nghiệp

 

Tài liệu học tập môn Pháp luật doanh nghiệp tại trường Học viện Chính sách và Phát triển. Tài liệu gồm 19 trang bao gồm câu hỏi và bài tập giúp bạn ôn tập hiệu quả và đạt điểm cao! Mời bạn đọc đón xem! 
 
Môn:
Thông tin:
19 trang 11 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Câu hỏi ôn tập môn Pháp luật doanh nghiệp

 

Tài liệu học tập môn Pháp luật doanh nghiệp tại trường Học viện Chính sách và Phát triển. Tài liệu gồm 19 trang bao gồm câu hỏi và bài tập giúp bạn ôn tập hiệu quả và đạt điểm cao! Mời bạn đọc đón xem! 
 
97 49 lượt tải Tải xuống
MỤC LỤC
Trang
MỞ
ĐẦU
3
1. Vị trí, tầm quan trọng của Biển Đông và thực trạng tình
hình 5
quốc phòng - an ninh trên các vùng biển của nước ta hiện nay
1.1. Vị trí, tầm quan trọng ca Biển
Đông 5
1.2. Thực trạng tình hình quc phòng - an ninh trên các vùng biển
của 7
nước ta hiện nay
2. Nhũng giải pháp cơ bản bảo vệ vững chắc chủ quyền
biển, 15
đảo trong tình hình mi
2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước trong bảo v
chủ quyền biển, đảo 15
2.2. Xây dựng và thực hiện chiến lược phát trin kinh tế biển toàn diện, có
trọng tâm, trọng điểm, sớm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh
tế biển, gắn với bảo đảm quốc png, an ninh và hợp tác quốc tế 16
2.3. Xây dựng lực lượng quản lý, bảo vệ biển, đảo vững mạnh vmọi
mặt 17
2.4. Kiên quyết, kiên trì giải quyết tranh chấp trên biển, đảo bằng
biện phápa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế 18
2.5. Thực hiện tốt công tác đối ngoại quốc
phòng 19
2.6. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo thiêng 20
liêng của Tổ quc
KẾT LUẬN 22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM
KHẢO 23
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn chủ đề tiểu luận
Biển Đông và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa có vtrí chiến
lược quan trọng vào hàng bậc nhất thế giới về giao thông, kinh tế, quốc
phòng, an ninh. Biển Đông chi phối lợi ích của nhiều nước trên thế giới
trong khu vực trong
đó có Việt Nam. Tình hình Biển Đông hiện nay diễn biến rất phức tạp,
khó lưng. Các Chuyên gia của Viện Hàn lâm Nga đánh giá: Tình hình
trên Biển Đông đang lâm vào trạng thái rất nguy hiểm. Nếu so sánh diễn
biến tình nh trong khu vực này với cuộc khủng hoảng Berlin năm 1948,
thì Biển Đông được gọi là “Đa Trung Hải tương lai của châu Á”, “Sức
nóng của điểmng mới” của hành tinh. Đại hội lần thứ XIII của Đảng
cũng đã đưa ra nhận định: "Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó
Đông Nam Á có vtrí chiến lược ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh
tranh gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ
quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết
liệt hơn. Hoà bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không
trên Biển Đông đng trước thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột".
Biển, đảo Việt Nam vtrí chiến lược rất quan trọng trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền
biển, đảo vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Đây được xem là nhiệm v cực kỳ
quan trọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đòi hỏi phải phát huy sức
mạnh tổng hợp của mọi lực lượng, kết hợp chặt chẽ các biện pháp đấu
tranh chính trị, kinh tế, pháp lý, ngoại giao quân sự. Chính từ vị trí,
tầm quan trọng của Biển Đông và hai qun đảo Hoàng Sa, Trường Sa
trong tình hình hiện nay nên tôi chọn: Những giải pháp cơ bản bảo vệ
vững chắc chủ quyền biển, đảo trong nh hình mới” làm chủ đề tiểu luận
của mình.
2. Giới hạn của tiểu luận
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứunhng giải pháp cơ bản bảo vệ vững chắc
chủ quyền biển đảo, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
* Phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận nghiên cứu vị trí, tầm quan trọng của Biển Đông, thực
trạng tình hình quốc phòng - an ninh trên các vùng biển của nưc ta hiện
nay theo 5 khu vực, gồm: Khu vực Vịnh Bắc Bộ; khu vực biển miền
Trung; khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; khu vực Thềm lục địa
phía Nam; khu vc vùng biển
Tây Nam và chiến lược của mt số nước trong và ngoài khu vc, từ đó
đưa ra một số giải pháp cơ bản bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo.
Các số liệu, tư liệu giới hạn từ năm 1947 đến nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để đưa ra được những giải pháp cơ bản bảo vvững chắc chủ
quyền biển đảo, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lưc bảo v
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, cần phải sử dụng tổng hợp các
phương pháp nghiên cứu khoa học. Đặc biệt là các phương pháp phân
tích, tổng hợp, so sánh, chứng minh, khái quát hoá, trừu tượng hoá, lô gíc
lịch sử.
4. Ý nghĩa của tiểu luận
Kết quả nghiên cứu của tiểu luận gp cho mỗi cá nhân nắm được
tình hình Biển Đông và mt svấn đề đặt ra trong đấu tranh bảo vệ chủ
quyền biển đảo Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó định hướng, nâng cao
nhận thức trong thực hiện quan điểm, chủ trương ca Đảng, Nhà nước ta
trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc làm cơ sở đấu tranh
chống lại những quan điểm sai trái trong giải quyết vấn đề Biển Đông.
Tiểu luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ nghiên cứu
giảng dạy.
5. Cấu trúc tiểu luận
Tiểu luận gồm: Phần mở đu; nội dung gồm 2 tiết; kết luận; tài liệu tham khảo.
NỘI DUNG
1. Vị trí, tầm quan trọng của Biển Đông và thực trạng tình
hình quốc phòng - an ninh trên các vùng biển của nước ta hiện nay
1.1. Vị trí, tầm quan trọng của Biển Đông
Biển Đông có mt vị trí chiến lược quan trọng vào hàng bậc nhất
thế giới. Là một trong 380 biển trên thế giới, Biển Đông có diện tích gần
3,5 triệu km
2
(gấp 8 lần Biển Đen; 1,2 lần Địa Trung Hải) là biển lớn thứ
2 sau Taxman (nằm giữa Ôxtrâylia và Niudilân).
Về Giao thông: Là 1 trong số 10 tuyến đường hàng hải lớn nhất
trên thế giới. Giao thông nhộn nhịp đng thứ 2 thế giới (sau Địa Trung
Hải). Hàng ngày có khoảng 200 - 300 tàu từ 5.000 tấn trở lên qua lại
(không kể dưới 5.000 tấn) chiếm 1/4 lưu lượng tàu hoạt động trên biển
của Thế giới. Là tuyến đường hàng hải và hàng không huyết mạch mang
tính chiến lược ca các nước trong khu vực và thế giới. Nối liền Thái
Bình Dương vi Ấn Độơng; Châu Âu, Trung Đông với Châu Á và
giữa các nước Châu Á với nhau. Mỗi năm, 1/3 hoạt động vận tải hàng hải
toàn cầu đi qua đây, vi lượng hàng hóa tơng mại trị giá hơn 3.000 tỷ
USD. Chuyên chở 1/2 sản lượng dầu thô và các sản phẩm toàn cầu. (Mỹ:
Là tuyến hoạt động chính của Hạm đội 7, có 90% hàng hóa của Mỹ và
đồng minh chuyên chở qua Biển Đông. Các nước trong khu vực có nền
kinh tế hầu như phụ thuộc sống còn vào con đường Biển Đông. Hàng
năm, hàng hóa xuất nhập khẩu của Nhật Bản, Trung Quốc... đều được
vận chuyển bằng con đường này. Trung Quốc: Khoảng 60% khối lượng
hàng hóa xuất nhập khẩu. Nhật Bản: có khoảng 70% khối lượng dầu m
nhập. Đặc biệt nền kinh tế Singapore hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào
Biển Đông).
Về Kinh tế: Biển Đông có nguồn tài nguyên thn nhn dồi dào, là
1 trong 4 khu vực dầu khí n trên biển ca Thế giới. Trữ lưng dầu khí
khu vực Biển Đông (bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa) đưc đánh giá rất
khác nhau: Chẳng hạn, Mỹ (USGS 1993 -1994) dự báo, trữ lượng dầu khí
khu vực Biển Đông khoảng 28 tỷ thùng dầu và khí. Gần đây, Thời báo
Hoàn cầu (Trung Quốc)
cho rằng, Biển Đông theo “đường lưỡi bò” có trữ lượng 50 tỷ tấn dầu
thô, hơn 20.000 t m3 khí đốt và băng cháy, được gọi là Vùng Vịnh thứ 2
của thế giới (Trên vùng biển Việt Nam, hiện đã biết tới 35 loại khoáng
sản: nhiên liệu, kim loại, vật liệu xây dựng, đá quý …)
Biển Đông là vùng biển trữ lượng hải sản lớn. (Riêng vùng biển
thuộc chủ quyền Việt Nam, có 11.000 loài sinh vật cư trú trong 20 h
sinh thái thuộc 6 vùng đa dạng sinh học, với trên 2.000 loài cá, 230 loài
tôm… trữ lượng hải sản khoảng 5 triệu tấn, có thể khai thác bền vững
hàng năm 1,5 - 2 triệu tấn, triển vọng ni trồng thủy sản rất khả quan).
Về chính trị, quốc phòng, an ninh: Là nơi tập trung các mâu thuẫn
chính trị, kinh tế. Là nơi diễn ra tranh chấp quyết liệt, phức tạp nhất. Liên
quan đến nhiều quốc gia nhất kể cả nước có chủ quyền và không có chủ
quyền, kể cả các nước trong khu vực và các nước trên Thế giới. Nếu
khủng hoảng: Giao thông gián đoạn; hậu quả nặng về kinh tế, nhiều nền
kinh tế suy thoái; Ảnh hưởng đến an ninh Thế giới. Các Chuyên gia của
Viện Hàn lâm Nga đánh giá: Tình hình trên Biển Đông đang lâm vào
trạng thái rất nguy hiểm. Nếu so sánh diễn biến nh hình trong khu vực
này với cuộc khủng hoảng Berlin năm 1948, thì Biển Đông được gọi là
“Địa Trung Hải tương lai của châu Á”, “Sức nóng của điểm nóng mới”
của hành tinh.
Đối với Việt Nam: Bờ biển dài hơn 3.260 km. Nằm trong số 10
nước trên thế giới có chỉ số cao nhất về chiều dài bờ biển so với diện tích
lãnh thổ (không kể một số đảo). Dọc bờ biển Việt Nam có hơn 100 cảng
biển, 48 vng, vịnh và trên 112 cửa sông, cửa lạch đổ ra biển.
Vùng biển Việt Namhơn 3.000 đảo lớn, nhỏ. Hệ thống đảo
được phân bố khá đều theo chiều dài bờ biển đất nước, tạo thành tuyến
bảo vệ trực tiếp cho đất liền, có vị trí đặc biệt quan trọng như mt tuyến
phòng thủ tiền tiêu để bảo vệ sườn phía Đông của đất nước.
Vị trí chiến lược của biển nước ta: Mặt tiền, sân trưc, cửa ngõ
quốc gia. Biển, đảo, thềm lục địa và đất liền hình thành phên dậu, chiến
lũy nhiều lớp,
nhiều tầng. Bố trí thành tuyến phòng thủ liên hn bảo vTổ quốc. Lịch
sử tổng kết lại đã cho thấy có tới 10 trong số 14 cuộc chiến tranh xâm
lược nước ta kẻ thù tiến công bằng đường biển.
Tài nguyên, kinh tế biển: Biển, đảo nước ta còn có trữ lượng ngun
khoáng sản rất lớn, đặc biệt là dầu khí: Bể sông Hồng khoảng 350 triệu
m
3
dầu. Bể Nam P Khánh (Nam Trung Bộ): 500 triệu m
3
. Bể Cửu Long
(Đông Namng Tàu): 850 triệu m
3
. Bể Namn Sơn 600 triu đến 1 tỷ
m
3
. Mỏ Bạch Hổ đã khoan khai thác hơn 100 triệu m
3
dầu, hơn 6 t m
3
khí.
Việt Nam đứng thứ 35 thế giới về sản lượng dầu khí. Ước tính, quy mô
kinh tế biển Việt Nam đạt khoảng 47-48% GDP cả nước. Trong đó, các
ngành kinh tế diễn ra trên biển chiếm tới 98%.
1.2. Thực trạng tình hình quốc phòng - an ninh trên các vùng
biển của nước ta hiện nay
Về tình hình quốc phòng - an ninh trên các vùng biển của nước ta
hiện nay theo 5 khu vực, gồm: Khu vc Vịnh Bắc Bộ; khu vực biển miền
Trung; khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; khu vực Thm lục địa
phía Nam; khu vc vùng biển Tây Nam. Cụ thể:
1.2.1. Khu vực Vịnh Bắc B
Trong Vịnh Bắc Bộ: Ngày 25/12/2000 Việt Nam và Trung Quốc
đã chính thức ký Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác
nghề cá Việt Nam - Trung Quốc. Việt Nam quản lý 53,23% diện tích (có
đảo Bạch Long V). Trung Quốc qun lý 46,77%); hai Hiệp định này
hiệu lực ngày 30/6/2004 (tính từ thời điểm bắt đầu đàm phán năm 1974
đến khi ký, năm 2000 là 26 năm và đến khi Hiệp định có hiệu lực là 30
năm).
Từ năm 2005 đến nay, Hải quân Việt Nam và Hải quân Trung
Quốc duy trì tờng xuyên hoạt động tuần tra chung. Đã tổ chức chuyến
tuần tra chung thứ 17 vào tháng 11/2015. Ngoài ra, Việt Nam và Trung
Quốc còn thường xuyên tổ chức hoạt động tuần tra nghề chung, do lực
lượng Cảnh sát biển Việt Nam và Ngư chính Trung Quốc thực hiện, đến
nay đã thực hiện 7 đợt. Sau khi Việt
Nam và Trung Quốc ký Hiệp định phân đnh Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định
hợp tác nghề cá Việt Nam - Trung Quốc, đã tạo được môi trường hoà
bình,n định để ngư dân ta yên tâmm ăn trên biển, nhìn chung an ninh
trong Vịnh cơ bản ổn định.
Ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ: Năm 2006, Việt Nam và Trung Quốc
thiết lập diễn đàn đàm phán của Nhóm công tác liên hợp về phân định
vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ Việt Nam - Trung Quốc. Ngày
6/01/2009 hai bên đã trải qua 5 vòng đàm phán về vấn đề này, song tạm
dừng, chuyển qua đàm phán “Thỏa thuận về nhng nguyên tắc cơ bản chỉ
đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nưc Cộng hòa Xã hội hủ nghĩa Việt
Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa” vì nhận thức hai bên còn
nhiều khác biệt. Vùng biển được đàm phán là “Đoạn từ Quảng Bình đến
Đà Nẵng” khu vực này, bờ biển Việt Nam - Trung Quốc cách nhau ới
400M, vì vy theo Công ước Liên hợp quốc về Luật biển ban hành năm
1982 (UNCLOS), ranh giới được đàm phán là ranh giới vùng đặc quyền
kinh tế.
Khu vực này tương đối phức tạp, Trung Quốc nhiều lần cho tàu
nghiên cứu thăm... vượt qua phía Tây đường trung tuyến bờ - bờ để
khảo sát; có lực lượng vũ trang bảo vvới số lượng đông và sẵn sàng
chấp nhận va chạm. Năm 2012 hai nước đã nối lại các vòng đàm phán,
năm 2014 diễn ra vòng đàm phán thứ VI. Với tinh thần nhận thức chung
của lãnh đạo hai nước: Vững bước tc đẩy đàm phán phân định vùng
biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời ch cực thúc đẩy hợp tác cùng
phát triển tại vùng biển này. Trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng và đoàn đại biểu cấp cao Đảng, Nhà nước ta, hai
n đã thống nhất thành lập T công tác bàn về hợp tác và phát triển trên
biển, đề nghị hai bên “Sớm khởi đng cùng khảo sát trên vùng biển ngoài
cửa Vịnh Bắc Bộ”.
1.2.2. Khu vực biển Miền Trung
khu biển tđảo Lý Sơn đến Phú Quý. Hàng năm, Trung Quốc
thông báo vùng cấm đánh bắt cá (mùa cá đẻ.) Từ ngày 01/6 đến ngày
01/8 t vĩ độ 12
0
Bắc trở lên, trong đó có nhiều vùng biển thuộc chủ
quyền Việt Nam (từ năm
2009 thông báo sớm hơn 15 ny, bắt đầu từ 12 giờ ngày 16/5 đến 12 giờ
ngày 01/8, ai vi phạm sẽ bị phạt tới 8.000 USD và bị tịch thu tài sản, tàu
thuyền) với việc thông báo cấm trên, thì họ coi các vùng biển này đương
nhn thuộc chủ quyền của họ.
Một số hoạt động của Trung quốc đáng chú ý: Ngày 26/5/2011, tàu
khảo sát địa chấn Bình Minh 02 đang hoạt động tại khu vực lô 148 ngoài
khơi bờ biển Nha Trang, cách mũi Đại Lãnh (Phú Yên) 116 hải lý, nằm
hoàn toàn trong khu vực vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt
Nam, 03 tàu Hải giám của Trung Quốc đã có hành động phá hoại, cắt đứt
cáp thăm của tàu Bình Minh 02. Ngày 23/6/2012 Tổng công ty Dầu
khí hải dương Trung Quốc (CNOOC) đã công bố mời thầu quốc tế 9 lô
dầu khí (theo cách phân lô của Trung Quốc) nằm u vào thềm lục địa
Việt Nam. Đặc biệt từ ny 02/5 - 15/7/2014, Trung Quốc ngang nhiên
đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào hạ đặt trái phép trong vùng đặc
quyền kinh tế và thm lc địa của Việt Nam.
1.2.3. Khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Quần đảo Hoàng Sa: Trước năm 1954, dưới thời Pháp thuộc nhà
nước phong kiến Việt Nam đã chiếm hữu và thực hiện chủ quyền đối với
quần đảo này. Ngày 20/7/1954, hiệp đnh Giơnevơ về đình chiến ở Đông
Dương được ký kết. Theo Hiệp định, nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt
thành hai miền qua vĩ tuyến 17; từ vĩ tuyến 17 trở ra thuộc Việt Nam dân
chủ cộng hoà quản lý; từ vĩ tuyến 17 trở vào thuc Việt Nam Cộng hòa
quản lý (lúc này Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do chính quyền Việt
Nam Cộng Hoà quản lý). Tháng 4/1956, Trung Quốc dùng vũ lực chiếm
đóng toàn bộ nhóm đảo phía Đông. Sau đó, tháng 01/1974 Trung Quốc
đưa quân đội đánh chiếm nm đảo phía Tây quần đảo từ tay chính
quyền Việt Nam Cộng hòa. Hiện tại, Trung Quốc đang chiếm đóng trái
phép hoàn toàn quần đảo Hoàng Sa (30/30 đảo, đá, bãi đá ngầm),y
dựng khá vững chắc, hiện đại và quy mô. Xây dựng trụ sở hành cnh;
Sân bay Phú Lâm; Cầu cảng và các âu tàu lớn; Dự kiến xây dựng đảo Phú
Lâm như Hồng Kông.
Quần đảo Trường Sa: Trước năm 1956, dưới thời Pháp thuộc nhà
nước phong kiến Việt Nam đã chiếm hữu và thực hiện chủ quyền đối với
quần đảo Trường Sa. Sau hiệp định Giơnevơ, chính quyền Việt Nam
Cộng hoà thực hiện chủ quyền đối với quần đảo và đóng quân trên một số
đảo nổi. Trong Chiến dịch Tổng tiếnng và nổi dậy mùa xuân năm
1975, Hải quân nhân dân Việt Nam đã phối hợp với một b phận lực
lượng vũ trang Quân khu 5 giải phóng quần đảo Trường Sa từ chính
quyền Việt Nam Cộng hòa; cho tới nay chúng ta đã khẳng định chủ
quyền và đóng giữ phần lớn các đảo thuộc quần đảo Trường Sa.
Thực trạng trên quần đảo Trường Sa hiện nay: Hiện diện lực lưng
của 4 nước 5 bên và yêu sách về chủ quyền có 5 nước 6 bên: Cụ thể:
Trung Quốc: chiếm đóng 7 đảo, đá; Đài Loan: chiếm đóng 1 đảo;
Philippin: chiếm đóng 9 đảo, bãi đá; Malaixia: chiếm đóng 7 đảo;
Brunây: Kng có đảo nào nhưng vẫn tuyên bố chủ quyền đối với quần
đảo Trường Sa; Việt Nam: Thực hiện chủ quyền và đóng giữ số đảo
nhiều nhất vi 21 đảo: Gồm 9 đảo nổi 12 đảo đá ngầm với 33 điểm đóng
quân (9 đảo nổi: Đảo Trường Sa, Trường Sa Đông, An Bang, Sinh Tồn
Đông, Phan Vinh, Song Tử Tây, Nam Yết, Sinh Tồn, Sơn Ca; 12 đảo đá
ngầm: Đá Nam, Đá Lớn, Đá Lát, Đá Đông, Đá Tây, Đá Thị, Thuyền
Chài, Cô Lin, Len Đao, Tiên Nữ, Núi Le, Tốc Tan). Là nước duy nhất
ngư dân đang làm ăn, sinh sống trên một số đảo của quần đảo Trường
Sa.
1.2.4. Khu vực thềm lục địa phía Nam
Khu vực DK1: Nằm phía Đông Nam bờ biển Nam Bộ Việt Nam
(bao gồm vùng Tư Chính - Vũng Mây và Bồn trũng Namn Sơn) khu
vực DK1 là vùng biển nằm trên thềm lục địa phía Nam Tổ quốc có v trí
về chính trị, kinh tế, quốc phòng rất quan trọng đối với đất nưc, nằm án
ngữ đường hàng hải quốc tế từ Đông Bắc Á xuống Đông Nam Á, án ngữ
tuyến đường hàng hải chính qua Biển Đông. Đây là khu vực có nhiều
tiềm năng về kinh tế biển.
Hiện nay: Có 15 nhà gn hiện diện vững chắc trên c bãi ngầm
khu vực DK1; thường trực tại đây các lực lượng bộ đội Hải qn,
cùng cán bộ, nhân viên của các ngành bảo đảm hàng hải, khí tượng, thuỷ
n, dầu khí ngày đêmm nhiệm v bảo vệ và phục v quốc kế dân
sinh.
1.2.5. Vùng biển phía Nam - Tây Nam
Vùng biển Việt Nam - Campuchia: Ngày 07/7/1982, Chính phủ 2
nước Việt Nam - Campuchia đã ký Hiệp định vvùng nước lịch sử, ngoài
nội dung xác định vùng nước lịch sử giữa hai nước trong Vịnh Thái Lan,
Hiệp định cũng tha thuận sẽ hoạch định đường biên giới biển giữa hai
nước vào thời điểm thích hợp.
Vùng biển Việt Nam - Thái Lan: Ngày 09/8/1997, Việt Nam và
Thái Lan đã ký kết Hiệp định về phân đnh ranh giới trên biển giữa 2
nước. Hiệp định nàyhiệu lực từ ngày 27/02/1998. ĐâyHiệp đnh
biên giới biển đầu tiên Việt Nam ký kết vi các nước láng giềng.
Vùng biển Việt Nam - Iônêxia: Ngày 26/6/2003, Chính phủ 2
nước đã ký kết Hiệp định phân định ranh giới thềm lục địa giữa Việt
Nam - Inđônêxia. Hiệp định nàyhiệu lực từ ngày 29/5/2007.
Vùng biển này mật độ tàu thuyền hoạt động cao (đánh bắt, buôn
n) nên an ninh trật tự phức tạp.
1.2.6. Biển Đông trong chiến lược của một số nước
Tập trung chủ yếu vào 3 nước lớn: Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc và Asean.
Đối với Mỹ: Biển Đông có vị trí quan trọng trong chiến c an ninh khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương, thể hin 5 điểm: M không đng về bên
nào trong tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông; Mỹ phản đối bất k sự
sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực của bất k bên nào; Các bên
tham gia tranh chấp theo đuổi các tuyên bố chủ quyền và các quyền kèm
theo đối vi vùng biển phải phù hợp vi Công ước Liên hợp quc vLuật
Biển; M cũng như c quốc gia khác có lợi ích quốc gia trong việc đảm
bảo tự do hàng hải, quyền tự do tiếp cận các vùng biển chung của châu Á
sự tôn trọng luật pháp quc tế ở Biển Đông; Mỹ sẵn sàng hỗ trợ các
sáng kiến và biện pháp xây dựng lòng tin phù hợp với DOC. Mỹ chủ
trương chuyển trọng tâm chiến lược sang khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương vi mục tiêu kiềm chế, nn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc. Để
đạt mục tiêu xuyên suốt chiến lược toàn cầu của Mỹ là giành quyền duy
nhất “lãnh đạo” thế giới và không để bất kỳ quốc gia nào có thể thay thế,
Mỹ đã và đang thực
hiện: Tăng cường quan hệ liên minh quân sự vi các đồng minh truyền
thống. Đồng minh quân sự truyền thống của Mỹ là Nhật Bản, Hàn Quốc,
Philippin, Thái Lan... trong đó liên minh Nhật Bản và M là cốt lõi của
hệ thống an ninh trong khu vực của Mỹ; Tận dụng và khai thác “Mối đe
dọa tên lửa hạt nhân” từ Triều Tiên để xúc tiến mạnh mẽ việc xây dựng lá
chắn tên lửa ở Đông Á; Tăng cường tham gia tạo ảnh hưng ca Mỹ tới
các tổ chức và diễn đàn khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (APEC;
ASEAN; ARF...) để qua đó can d hiệu quả vào khu vực này; Tăng
cường sự hiện diện quân sự ở Châu Á - Thái Bình Dương, qua đó thúc
đẩy chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của Mỹ.
Đối với Nhật Bản: Luôn coi Biển Đông là con đường biển có tm
quan trọng sống còn đối với nn kinh tế ca mình. Có khoảng 70% lượng
dầu nhập khẩu và 45% hàng hóa được vận chuyển qua Biển Đông. Đông
Nam Á là thtrường quan trọng của Nhật Bản và là nơi đang diễn ra sự
tranh chấp gay gắt giữa Nhật Bản vi Trung Quốc. Vì vy, Nhật Bản cho
rằng, Biển Đông có tầm quan trọng sống còn về kinh tế và an ninh.
Hiện nay Nhật Bản muốn tăng cường ảnh hưng và hạn chế tham
vọng của Trung Quốckhu vực này. Muốn tham gia nhiều hơn vào việc
giải quyết các vấn đề của Biển Đông, trong đó có Trường Sa, muốn thăm
, khai thác tài nguyên ở Biển Đông và đặc biệt quan tâm đến nguồn
dầu khí lớn ở đây, vì sẽ có lợi hơn nhiều so vi nhập dầu từ Trung Đông.
Nhật Bản đã ra tuyên bố đòi hỏi quyền bảo đảm an ninh cho các tuyến
hàng hải cách Nhật Bản tới 1.000M về phía Nam, bao gồm toàn b
đường hàng hải trên Biển Đông.
Đối với Trung Quốc: Độc chiếm biển Đông là mc tiêu nhất quán,
xuyên suốt và lâu dài của Trung Quốc. Đâymục tiêu chiến lược để m
rộng kng gian sinh tồn, chi phối các nước trong khu vực Đông Nam Á
ngăn chặn ảnh hưởng của các nước lớn đến khu vực này, đồng thời
nhằm nn chặn, phá thế bao vây chiến lược của Mỹ khu vực Đông
Nam Á và tạo bàn đạp mở rộng ảnh hưởng ở khu vực Ấn Độ Dương, để
bảo đảm an ninh kinh tế, hàng hải cho Trung Quốc (Với lộ trình 3 bước:
Kiểm st - Làm ch- Độc chiếm biển Đông).
Trung Quốc đang triển khai mạnh mẽ, đồng bộ và toàn diện các
biện pháp để thực hiện mục tiêu độc chiếm Biển Đông. Các biện pháp
chính trị, kinh tế, ngoại giao, pháp lý, thực địa kiên trì theo đuổi yêu sách
chủ quyền "đường lưỡi bò", đng thời ráo riết tăng cường sức mnh quân
sự, đặc biệt là hải quân để hậu thuẫn cho các hoạt đng tranh chấp trên
biển.
Trung Quốc đưa ra chủ trương "gác tranh chấp, cùng khai thác".
Để đánh lừa dư lun, tích cực sử dụng sức ép chính trị và kinh tế để phân
hoá các nước trong khu vực, cô lập Việt Nam, tiến tới huy động lực
lượng quản lý theo yêu sách “đường lưỡi bò”. Trung Quốc coi Việt Nam
là nước có lợi ích lớn nhất ở Biển Đông, là nước có xung đột quyền lợi
nhiều nhất và là chướng ngại lớn nhất ca Trung Quốc trong thực hiện
sách lược "c tranh chấp, cùng khai thác".
Một số hoạt động ca Trung Quốc: Nghị quyết Đại hội 18 Đảng
Cộng sản Trung Quốcc định mục tiêu chiến lược Trung Quốc trở
thành “cường quốc biển”. Để thực hiện mc tiêu chiến lược đó, thời gian
gần đây hoạt động của Trung Quốc được thể hiện trên 6 điểm nổi bật:
Thnhất: Về chính trị - ngoại giao: Đầu tháng 10/2014, phía
Trung Quốc trao cho Việt Nam tấm sơ đồ ghi tọa độ 3 khu vực đề nghị
“cùng khai thác”. Việc đề nghị của Trung Quốc thực chất là tìm cách t
hoãn tiến tới ký kết bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông, điều mà không có
lợi cho họ. Nếu ta chọn hợp tác, chỉ cần hợp tác 1 trong 3 khu vực đó
thì sẽ đem đến sự thng lợi của họ, gây hệ lụy cho ta. Hiện Trung Quốc
đang tìm mọi cách để gây sức ép vi ta.
Thhai: Trung Quốc không ngừng củng cố, tăng cường đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Đến nay Trung Quốc đã hn tất việc cải tạo 7 thực thể mà nước này đã
chiếm đóng trái phép ở Trường Sa thành đảo nhân tạo đó là: Châu Viên,
Gc Ma, Tư Nghĩa, Ga Ven, Chữ Thập, Xu Bi, Vành Khăn. Đây là bước
đi tổng thể của Trung Quốc để thực hiện âm mưu biến các bãi cạn mà
Trung Quốc đánh chiếm trái phép tại Quần đảo Trường Sa của Việt Nam
thành các căn cứ hu cần, kỹ thuật của Hải quân Trung Quốc. Khả năng
tiến tới Trung Quốc sẽ thiết lập vùng nhận dạng phòng không trên Biển
Đông.
Thba: ng cường sự hiện diện và uy lực hoạt động của lực
lượng chấp pháp trên biển. Đây là động thái mới nhằm thăm phản
ứng, từng ớc đẩy tàu trực của ta ra xa khu vực Quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa (trước đây tàu Trung Quốc chỉ chạy vòng quanh hoặc thả trôi
quan sát, theo dõi, quay phim chụp ảnh sau đó về).
Thứ tư: Trung Quốc tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu,
thăm, khai thác dầu khí. Trung Quốc thường xuyên duy trì 55 - 57
giàn khoan thăm dò và khai thác dầu khí ở Biển Đông. Đầu năm 2014,
Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào hạ đặt trái phép trong
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Vừa qua giàn
khoan Hải Dương 981 di chuyển từ Trung Quốc qua vùng biển Việt Nam
đến Mianma từ ngày 01/1 sau đó rời Mi an-ma từ 6/4 quay trở lại vùng
biển Trung Quốc. Năm 2019, Trung Quốc liên tục đưa tàu khảo sát xâm
nhập vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam Bãi Tư Chính. Mới đây nhất
tháng 3 năm 2021, Trung Quốc liên tục đưa các tàun binh hiện diện
khu vực Đá Ba Đầu của Việt Nam.
Thnăm: Trung Quốc tiến hành đẩy mạnh các hoạt động đánh bắt
hải sản có tổ chức với sự hỗ trợ, bảo vệ của lực lượng chấp pháp. Đã tiến
nh lắp đặt 06 trạm thăm cá bằng sóng âm, 12 trạm điều tra nguồn
tầng trung và 27 trạm điều tra môi trường sinh thái biển. Trung Quốc đã
tiến hành xây dựng các khu thử nghiệm nuôi thủy sản ở Vành Kn và
một số thực thể chiếm đóng sau khi đã cải tạo thành đảo nhân tạo cũng
như xây dựng các cơ sở bảo đảm cho lực lượng quân sự đồn trú lâu dài.
Thứ sáu: Tiếp tục tăng cường các hoạt động qn sự. Ngân sách
quốc phòng năm 2020 là 178,6 tỷ USD tăng 6,6% so vi 2019ứng thứ
2 trên thế giới, sau Mỹ). Đẩy mạnh đầu tư phát triển vũ khí trang b hải
quân.
Đối với ASEAN: Lo ngại sâu sắc đối với tham vọng bành trướng
của Trung Quốc trên Biển Đông, coi đây là một nhân tố quan trọng làm
mất ổn đnh trong khu vực. H không muốn Trung Quốc lấp chỗ trống
quyền lực ở Biển Đông nên ủng hộ sự có mặt về quân sự ca Mỹ đây
để làm đối trọng với Trung Quốc. Mặt
khác, vì những tính toán lợi ích riêng của mình, những nước này cũng không mun
làm mất lòng Trung Quốc (mt số nước đã bị Trung Quốc mua chuộc). Tóm lại:
Biển Đông là nơi đang tồn tại những mâu thuẫn chính trị và kinh tế của thế giới.
Biển Đông đang tập trung những mặt đối lập, thuận lợi và khó khăn, hợp tác và
cạnh tranh, bạn bè và thù địch... Tất cả những yếu tố đó đang ảnh hưởng trực tiếp
đối vi sự nghiệp phát triển kinh tế và bảo đảm quốc phòng - an ninh trên biển của
nước ta trong thế k mới. Tìnhnh tranh chấp chquyền trên Biển Đông hiện nay
cũng hết sức phức tạp, đặc biệt còn những vấn đề ln liên quan trực tiếp đến chủ
quyền biển, đảo Việt Nam chưa được giải quyết: Chủ quyền trên quần đảo Hoàng
Sa; bảo vệ chủ quyền và giải quyết tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Trường Sa
giữa năm nước sáu bên; phân định ranh giới các vùng biển theo Công ước của Liên
hợp quốc vLuật biển năm 1982; xác định ranh giới ngoài vùng đặc quyền kinh tế
thềm lục địa. Cùng vi đó, những nhân t có thể gây mất ổn đnh trên Biển
Đông vẫn đang diễn ra gay gắt: xâm phạm chủ quyền, an ninh; nguy cơ xung đột
vũ trang; tranh chấp biển, đảo và thềm lục địa...
2. Những giải pháp cơ bản bảo vệ vững chắc chủ quyền biển,
đảo trong tình hình mi
2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản của N
nước trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo
Bảo vvững chắc chủ quyền biển, đảo là trách nhiệm của toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân; yếu tố quan trọng để đất nước phát triển
bền vững. Trong bối cảnh thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, k
lường, để bảo vệ chủ quyền biển, đảo, vấn đề cần quan tâm hiện nay
tăng cường sức mạnh quốc gia, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân
trên biển vững mạnh. Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương chiến
lược để vừa khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lợi kinh tế biển
phục v cho phát triển kinh tế- hội, va huy động tối đa sức mạnh tổng
hợp của toàn dân tộc, kết hợp đấu tranh toàn diện trên các lĩnh vc quân
sự, kinh tế, chính trị, ngoại giao, pháp lý nhằm bảo vệ vững chắc chủ
quyền biển
đảo và lợi ích quốc gia trên biển. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Giữ
vững độc lập, tự chủ; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hi nhập quốc tế; kiên quyết,
kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vng môi trường hoà bình, ổn định để phát
triển đất nước”.
Để tăng cường sự quản lý nhà nước về quốc phòng, trong đó có
nhiệm v quản lý về chủ quyền biển, đảo, trước tiên phải tập trung xây
dựng cấpy, tổ chức đảng trong các đơn vị trực tiếp tham gia bảo vệ chủ
quyền biển, đảo trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo toàn diện
sức chiến đấu cao, thật sự là hạt nhân lãnh đạo trong cơ quan, đơn vị;
tăng cường đoàn kết, thống nhất trong lãnh đạo, chỉ huy, thực hiện
nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng. Chú trọng kiện
toàn cơ quan, đội ngũ cán bộ làm công tác thực thi pháp luật trên biển, bổ
sung, hoàn thiện và phát huy vai trò của các biện pháp công tác của lực
lượng Hải quân, Cảnh sát biển, bộ đội Biên phòng, Kiểm ngư trong bảo
vệ chủ quyền, thực thi pháp luật trên biển. Trên cơ sở các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính
sách, pháp luật chặt chẽ, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế để bảo
vệ chủ quyền biển, đảo. Các cấp bộ, nnh, địa phương tiếp tục xây
dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang
pháp đồng bộ, thống nhất trong qun lý, thực thi và bảo vệ chủ quyền
biển, đảo.
2.2. Xây dựng thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển
toàn diện, có trng tâm, trọng điểm, sớm đưa nước ta trở thành quốc
gia mạnh về kinh tế biển, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp
tác quốc tế
Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 22/10/2018 về Chiến lược phát
triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm
2045 xác định: “Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu t
biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền
vững kinh tế biển gắn liền vi bảo đảm quc phòng, an ninh, giữ vững
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ”. Đại hội XIII của Đảng cũng chỉ
rõ: "Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế,
n hóa, xã hội vi củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh trên từng
vùng lãnh thổ, trên các địa bàn chiến lưc, biên giới, biển, đảo, khu kinh
tế, khu công nghiệp trọng điểm. Thực hiện chương trình, kế hoạch phát
triển kinh tế biển và vùng ven biển gắn với bảo đảm quốc png, an ninh,
tăng cường xây dựng các khu kinh tế biển, xây dựng các chương trình h
trợ ngư dân bám biển, đánh bắt xa bờ, tạo điều kiện cho việc png thủ,
bảo vệ, kiểm soát và làm chủ vùng biển". Để kinh tế phát triểnơng
xứng với tiềm năng của biển, gắn phát triển kinh tế biển vi bảo đảm
quốc phòng, an ninh, bảo vvững chắc chủ quyền biển, đảo cần phải tổ
chức lại hoạt động khai thác hải sản theo hướng giảm khai thác gần bờ,
đẩy mạnh khai thác xa bờ; thúc đẩy các hoạt động nuôi trồng, khai thác
hải sản bền vững, tăng cường bảo vệ, tái sinh nguồn lợi hải sản và môi
trường biển, nghiêm cấm các hoạt động khai thác mang tính hủy diệt.
Phát triển nhanh một số khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển, ưu
tiên phát triển các ngành ng nghiệp năng lượng, công nghiệp hàng hải,
đóng tàu, nuôi trồng, khai thác và chế biến hải sản chất lượng cao. Đẩy
nhanh tốc độ đô thị a, xây dựng các trung tâm kinh tế ven biển mạnh,
tạo thế tiến ra biển, gắn với phát triển đa dng các ngành dịch v, xuất
khẩu, du lịch, dịch vụ nghề cá, dầu khí, vận tải biển... Phát trin kinh tế
các đảo, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, thăm dò, khai thác, nuôi trồng
thủy sản gắn với bảo vệ, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, m rộng
quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế. Xây dựng các chiến lược, quy hoạch, chương
trình, dự án phát triển kinh tế - hi trên biển, đảo; tăng cường đầu tư
các nguồn lực và hoạch định cơ chế chính sách trong phòng, chống thiên
tai, thảm họa, bảo vmôi trường biển.
2.3. Xây dựng lực lượng quản lý, bảo vệ biển, đảo vững mạnh về mọi
mặt Việc tập trung nỗ lực xây dựng lực lượng quản lý biển, đảo và các
hoạt động kinh tế biển, nhất là lực lượng Hải quân, Cảnh sát biển, Biên
phòng, Dân quân tự vệ biển và lực lượng Kiểm ngư vững mạnh, đủ sức
hoàn thành tốt nhiệm
v được giaoyêu cầu bức thiết hiện nay. Trong đó, Hải quân nhân dân
Việt Nam là lực lượng chuyên trách hoạt động trên biển, giữ vai trò quan
trọng trong thực hiện nhiệm v bảo vệ các vùng biển, đảo của Tổ quốc,
cần được ưu tiên đầu tư xây dựng theo hướng hiện đại hóa và có chính
sách đãi ngộ thỏa đáng, đặc biệt là lực lượng thường xuyên tuần tra trên
biển và chốt giữ các đảo xa bờ. Cảnh sát biển Việt Nam là lực lưng
chuyên trách quản lý, duy trì thực thi pháp luật trên biển, cần được tiếp
tục củng cố, hoàn thiện về tổ chức, biên chế, tăng cường trang bhiện đại,
bảo đảm đsức hoàn thành nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Bộ đội Biên
phòng cần được đầu tư đủ trang thiết bị k thuật, phương tiện cơ động,
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự, cứu hộ, cứu nn,
chống bn lậu và các tệ nạn xã hội trên các vùng biển. n qn tự vệ
biển được xây dựng theo phương châm vững mạnh, rộng khắp, ở đâu có
tàu, thuyền, ngư dân hoạt động và dân cư sinh sống trên đảo thì ở đó
dân quân tự vệ biển; lấy doanh nghiệp nhà nước, hợp tác làm nòng cốt;
tổ chức biên chế phù hợp với đặc điểm của từng địa phương, bảo đảm
thành ba tuyến: ven bờ, lộng, khơi; coi trọng lực lưng hoạt động trên
biển. Kiểm ngư là lực lượng được tổ chức chặt chẽ, hoạt động đúng chức
năng, nhiệm v, nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lý các vi phạm của tàu
thuyền nước ngoài; hỗ trợ ndân, đảm bảo an ninh trật tự và có vai trò
quan trọng trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển của Tổ
quốc.
2.4. Kiên quyết, kiên trì giải quyết tranh chấp trên biển, đảo bằng
biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế
Là thành viên của Liên hợp quốc, của UNCLOS cũng như tuyên
bố của cácn về cách ứng xử trên biển Đông (DOC), Việt Nam luôn
tuân thủ các quy định của luật pháp quốc tế; kiên trì con đường giải quyết
các vấn đề nảy sinh bằng biện pháp hòa bình, tn cơ sở bình đẳng và tôn
trọng lẫn nhau; thông qua đàm phán, thương lượng, nhằm tìm kiếm giải
pháp cơ bản, lâu dài, đáp ứng lợi ích chính đáng của tất cả các bên liên
quan vì độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, vì hòa bình,
ổn định khu vực và quốc tế. Như tinh thần Đại hội
XIII của Đảng đã xác định: "Duy trì hòa bình, an ninh, an toàn tự do hàng
hải, hàng không ở Biển Đông; giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp
a bình trên sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp
quốc về Luật Biển năm 1982". Theo đó, những vấn đề còn đang bất đồng,
tranh chấp song phương thì giải quyết song phương; những vấn đề tranh
chấp liên quan đến nhiều bên thì giải quyết đa phương và phải hết sức
công khai, minh bạch giữa các bên có liên quan. Trong khi nỗ lực xử lý
các vấn đề nảy sinh ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, cần kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ những li ích chính đáng của ta trên biển
với quyết tâm “Việt Nam quyết không để một tấc đất, tấc biển nào bị xâm
phạm”; kiên trì tìm kiếm một giải pháp lâu dài và yêu cầu c bên ln
quan kiềm chế, không có hoạt đng làm phức tạp thêm tìnhnh, không
sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, tuân thủ cam kết giải quyết
bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở các nguyên tắc của luật pháp quốc tế,
UNCLOS và 05 nguyên tắc chung sống hòa bình, tăng cường nỗ lực xây
dựng lòng tin, hợp tác đa phương về an ninh biển, nghiên cứu khoa hc,
chống tội phạm; cùng nhau thực hiện nghiêm chỉnh DOC, hướng tới xây
dựng Bộ quy tắc ứng xử COC để Biển Đông thực sự là vùng biểna
bình,n định, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Tại các vùng biển không
phải là tranh chấp, hoàn toàn thuộc chủ quyền và quyền tài phán của quốc
gia ven biển, Việt Namquyền áp dụng các biện pháp cần thiết, phù
hợp với quy định ca UNCLOS để bảo vệ quyền lợi ích chính đáng.
2.5. Thực hiện tốt công tác đối ngoại quốc phòng
Đối ngoại quốc phòng là vấn đề quan trọng diễn ra chủ yếu trong
thời bình và cả khi có tình huống chiến tranh, thực hiện tốt vấn đề này
góp phần vừa giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ,a bình,
ổn định trên Biển Đông, vừa duy trì sự ổn định chính trị - xã hội trong
nước và môi trường quốc tế thuận lợi để phát triển kinh tế. Thực hiện tốt
công tác đối ngoại quốc phòng trong bối cảnh hội nhập quốc tế, điều
quan trọng trước hết là hợp tác chặt chẽ trên tất cả lĩnh vực, đặc biệt là
giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Đại hội XIII đã đưa ra quan điểm:
"Kiên trì, kiên định đường lối độc lập, tự chủ, đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ; nâng cao khả năng thích ứng năng
động và linh hoạt xử lý hài hòa lợi ích quốc gia với quan tâm chung, tùy
theo đối tượng, vấn đề, thời điểm, phù hợp với luật pháp quốc tế và
nguyên tắc ứng xử tại khu vực, trên tinh thần lợi ích quốc gia - dân tộc là
trên hết" với mc tiêu: "Giữ vững độc lập, tự chủ; tăng cường tiềm lực
quốc phòng, an ninh; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại,
hội nhập quốc tế; kiên quyết, kiên trì bảo vvững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi
trường h bình, ổn định để phát triển đất nước". Trên cơ sở đó, các
ngành chức năng, trọng tâm là Bộ Quốc png, Bộ Công an và Bộ Ngoại
giao cần xây dựng, hoàn thiện quy chế phối hợp, trọng tâm là công tác
nghiên cứu bản, phân tích dự báo chiến lược về tình hình thế giới, khu
vực, chiều ớng diễn biến của mối quan hệ quốc tế, về đối tác, đối
tượng của cách mạng. Từ đó, tham mưu cho Đảng, Nhà nước hoạch đnh
đường lối chiến lược và các đối sách xử lý thắng lợi các tình hung quốc
phòng, an ninh và đối ngoại. Tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác quốc
phòng với các nước, nhất là các nước trong khu vực và các nước lớn trên
thế giới để tăng sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau. Hải quân, Cảnh sát biển
cần tăng cường giao lưu với các đối tác, tổ chức các hoạt động phối hợp
tuần tra chung, diễn tập, cứu hộ, cứu nạn trên biển, góp phần giữ vững
môi trường hòa bình, ổn định và triệt tiêu nguy cơ xung đột trên biển.
2.6. Đẩy mnh công tác tuyên truyền về ch quyền biển, đảo
thiêng liêng của Tổ quốc
Thực hiện tốt nội dung này, các đơn vị Hải quân, Cảnh sát biển,
Biên phòng đóng quân ở địa phương ven biển và các đảo cần kết hợp chặt
chẽ vi địa phương và cơ quan Tuyên giáo xây dựng kế hoạch, tổ chức
bồi dưỡng báo cáo viên, biên soạn, phát hành tài liệu tuyên truyn sâu
rộng trong các tầng lớp nhân dân, nhất là cư dân sinh sống ở ven biển,
trên đảo, ngư dân làm ăn trên biển, kiều bào ta ở nước ngoài. Tuy nhiên,
trong điều kiện hiện nay, công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo
cần có sự tham gia, phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương và
các phương tiện thông tin đại chúng, dưi sự chỉ đạo
tập trung, thống nhất của các cơ quan chức năng Trung ương. Đặc biệt,
cần thông tin kịp thời, minh bạch, chính xác để mọi người dân trong
nước, người Việt Namnước ngoài và nhân dân thế giới hiểu cơ sở pháp
lý, chứng cứ lịch sử và sự chiếm hữu thực tế của Việt Nam trên c vùng
biển, đảo ở Biển Đông; hiểu rõ quan điểm, lập trường của Đảng, Nhà
nước ta về giải quyết vấn đề chủ quyền trên Biển Đông; từ đó, xây dựng
niềm tin, ý chí quyết tâm, đồng thuận của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới để bảo vệ vững
chắc chủ quyền biển, đảo và các hoạt động kinh tế biển.
Cùng với công tác truyên truyền về biển, đảo, cần kết hợp với công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật, làm cho ngư dân hiểu rõ các quy định
trong luật biển Việt Nam và pháp luật quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp
quốc về Luật biển năm 1982, làm cho ngư dân không chỉ chấp hành, mà
còn kịp thời phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật của tàu, thuyền nước
ngoài ở vùng biển Việt Nam. Cần sớm đưa các nội dung về chủ quyền
biên giới, lãnh thổ, biển, đảo vào chương trình giáo dục phổ thông và đại
học; phổ biến rộng rãi trong cộng đồng người Việt Nam và quốc tế về
chủ quyền lãnh thổ Việt Nam trên biển.
KẾT LUẬN
Biển, đảo Việt Nam vtrí chiến lược rất quan trọng trong công
cuộc xây dựng và bo vTổ quốc. Trong những năm tới tình hình tranh
chấp chủ quyền biển, đảo vẫn diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt;
a bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên Biển
Đông đứng trước thách thức ln, tiềm ẩn nguy cơ xung đột. Các nước
liên quan cần giữ nguyên hiện trạng, tự kiềm chế, tôn trọng chủ quyền
quốc gia kể cả chủ quyn đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
của các nước ven bờ, nghiêm chỉnh chấp hành “Tuyên bố về cách ứng xử
giữa các bên ở Biển Đông” (DOC), ủng hộ xây dựng “Bộ quy tắc ứng x
ở Biển Đông” (COC), tuân th luật pháp quốc tế và Công ước của Liên
hợp quốc vLuật biển năm 1982. Với thiện chí nhằm gìn giữ hoà bình
trên Biển Đông, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn luôn "Nỗ lực phấn
đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng
các biện pháp hoà bình phù hợp với luật pháp quốc tế…giữ vững môi
trường h bình, ổn định để phát triển".
Bảo vệ chủ quyền biển, đảo là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân và phải phát huy sức mạnh tng hợp của mọi lực lượng,
kết hợp chặt chẽ các biện pháp đấu tranh chính trị, kinh tế, pháp lý, ngoại
giao và quân sự. Do vy toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần tiếp tục
quán triệt quan điểm: Kiên quyết, kiên trì bảo vvững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định để phát triển”. Tăng cường xây dựng tiềm lực
kinh tế, chính trị, quốc png, an ninh, đối ngoại, chăm lo xây dựng “thế
trận lòng dân”, tăng cường khối đại đn kết toàn dân, tận dụng mọi thời
cơ phát triển đấtớc giàu mạnh đi đôi với bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong đó có chủ quyền biển, đảo thiêng liêng
của Tổ quốc.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bản tuyên bvề ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC), ký ny
4/11/2002.
2. Bộ TT&TT (2013), Tài liệu phục vụ công tác tập huấn tuyên truyền về biển,
đảo.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày
22/10/2018, "về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam
đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045".
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
5. Quốc hội (2013), Luật Biển Việt Nam.
| 1/19

Preview text:

MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3
1. Vị trí, tầm quan trọng của Biển Đông và thực trạng tình hình 5
quốc phòng - an ninh trên các vùng biển của nước ta hiện nay
1.1. Vị trí, tầm quan trọng của Biển Đông 5
1.2. Thực trạng tình hình quốc phòng - an ninh trên các vùng biển của 7 nước ta hiện nay
2. Nhũng giải pháp cơ bản bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, 15
đảo trong tình hình mới
2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước trong bảo vệ
chủ quyền biển, đảo 15
2.2. Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, có
trọng tâm, trọng điểm, sớm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh
tế biển, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế 16
2.3. Xây dựng lực lượng quản lý, bảo vệ biển, đảo vững mạnh về mọi mặt 17
2.4. Kiên quyết, kiên trì giải quyết tranh chấp trên biển, đảo bằng
biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế 18
2.5. Thực hiện tốt công tác đối ngoại quốc phòng 19
2.6. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo thiêng 20 liêng của Tổ quốc KẾT LUẬN 22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 23 MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn chủ đề tiểu luận
Biển Đông và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa có vị trí chiến
lược quan trọng vào hàng bậc nhất thế giới về giao thông, kinh tế, quốc
phòng, an ninh. Biển Đông chi phối lợi ích của nhiều nước trên thế giới và trong khu vực trong
đó có Việt Nam. Tình hình Biển Đông hiện nay diễn biến rất phức tạp,
khó lường. Các Chuyên gia của Viện Hàn lâm Nga đánh giá: Tình hình
trên Biển Đông đang lâm vào trạng thái rất nguy hiểm. Nếu so sánh diễn
biến tình hình trong khu vực này với cuộc khủng hoảng Berlin năm 1948,
thì Biển Đông được gọi là “Địa Trung Hải tương lai của châu Á”, “Sức
nóng của điểm nóng mới” của hành tinh. Đại hội lần thứ XIII của Đảng
cũng đã đưa ra nhận định: "Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó
Đông Nam Á có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh
tranh gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ
quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết
liệt hơn. Hoà bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không
trên Biển Đông đứng trước thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột".
Biển, đảo Việt Nam có vị trí chiến lược rất quan trọng trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền
biển, đảo vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Đây được xem là nhiệm vụ cực kỳ
quan trọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đòi hỏi phải phát huy sức
mạnh tổng hợp của mọi lực lượng, kết hợp chặt chẽ các biện pháp đấu
tranh chính trị, kinh tế, pháp lý, ngoại giao và quân sự. Chính từ vị trí,
tầm quan trọng của Biển Đông và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
trong tình hình hiện nay nên tôi chọn: “Những giải pháp cơ bản bảo vệ
vững chắc chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới
” làm chủ đề tiểu luận của mình.
2. Giới hạn của tiểu luận
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những giải pháp cơ bản bảo vệ vững chắc
chủ quyền biển đảo, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
* Phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận nghiên cứu vị trí, tầm quan trọng của Biển Đông, thực
trạng tình hình quốc phòng - an ninh trên các vùng biển của nước ta hiện
nay theo 5 khu vực, gồm: Khu vực Vịnh Bắc Bộ; khu vực biển miền
Trung; khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; khu vực Thềm lục địa
phía Nam; khu vực vùng biển
Tây Nam và chiến lược của một số nước trong và ngoài khu vực, từ đó
đưa ra một số giải pháp cơ bản bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo.
Các số liệu, tư liệu giới hạn từ năm 1947 đến nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để đưa ra được những giải pháp cơ bản bảo vệ vững chắc chủ
quyền biển đảo, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, cần phải sử dụng tổng hợp các
phương pháp nghiên cứu khoa học. Đặc biệt là các phương pháp phân
tích, tổng hợp, so sánh, chứng minh, khái quát hoá, trừu tượng hoá, lô gíc và lịch sử.
4. Ý nghĩa của tiểu luận
Kết quả nghiên cứu của tiểu luận giúp cho mỗi cá nhân nắm được
tình hình Biển Đông và một số vấn đề đặt ra trong đấu tranh bảo vệ chủ
quyền biển đảo Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó định hướng, nâng cao
nhận thức trong thực hiện quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta
trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc làm cơ sở đấu tranh
chống lại những quan điểm sai trái trong giải quyết vấn đề Biển Đông.
Tiểu luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ nghiên cứu và giảng dạy.
5. Cấu trúc tiểu luận
Tiểu luận gồm: Phần mở đầu; nội dung gồm 2 tiết; kết luận; tài liệu tham khảo. NỘI DUNG
1. Vị trí, tầm quan trọng của Biển Đông và thực trạng tình
hình quốc phòng - an ninh trên các vùng biển của nước ta hiện nay
1.1. Vị trí, tầm quan trọng của Biển Đông
Biển Đông có một vị trí chiến lược quan trọng vào hàng bậc nhất
thế giới. Là một trong 380 biển trên thế giới, Biển Đông có diện tích gần
3,5 triệu km2 (gấp 8 lần Biển Đen; 1,2 lần Địa Trung Hải) là biển lớn thứ
2 sau Taxman (nằm giữa Ôxtrâylia và Niudilân).
Về Giao thông: Là 1 trong số 10 tuyến đường hàng hải lớn nhất
trên thế giới. Giao thông nhộn nhịp đứng thứ 2 thế giới (sau Địa Trung
Hải). Hàng ngày có khoảng 200 - 300 tàu từ 5.000 tấn trở lên qua lại
(không kể dưới 5.000 tấn) chiếm 1/4 lưu lượng tàu hoạt động trên biển
của Thế giới. Là tuyến đường hàng hải và hàng không huyết mạch mang
tính chiến lược của các nước trong khu vực và thế giới. Nối liền Thái
Bình Dương với Ấn Độ Dương; Châu Âu, Trung Đông với Châu Á và
giữa các nước Châu Á với nhau. Mỗi năm, 1/3 hoạt động vận tải hàng hải
toàn cầu đi qua đây, với lượng hàng hóa thương mại trị giá hơn 3.000 tỷ
USD. Chuyên chở 1/2 sản lượng dầu thô và các sản phẩm toàn cầu. (Mỹ:
Là tuyến hoạt động chính của Hạm đội 7, có 90% hàng hóa của Mỹ và
đồng minh chuyên chở qua Biển Đông. Các nước trong khu vực có nền
kinh tế hầu như phụ thuộc sống còn vào con đường Biển Đông. Hàng
năm, hàng hóa xuất nhập khẩu của Nhật Bản, Trung Quốc... đều được
vận chuyển bằng con đường này. Trung Quốc: Khoảng 60% khối lượng
hàng hóa xuất nhập khẩu. Nhật Bản: có khoảng 70% khối lượng dầu mỏ
nhập. Đặc biệt nền kinh tế Singapore hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào Biển Đông).
Về Kinh tế: Biển Đông có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, là
1 trong 4 khu vực dầu khí còn trên biển của Thế giới. Trữ lượng dầu khí
khu vực Biển Đông (bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa) được đánh giá rất
khác nhau: Chẳng hạn, Mỹ (USGS 1993 -1994) dự báo, trữ lượng dầu khí
khu vực Biển Đông khoảng 28 tỷ thùng dầu và khí. Gần đây, Thời báo Hoàn cầu (Trung Quốc)
cho rằng, Biển Đông theo “đường lưỡi bò” có trữ lượng 50 tỷ tấn dầu
thô, hơn 20.000 tỷ m3 khí đốt và băng cháy, được gọi là Vùng Vịnh thứ 2
của thế giới (Trên vùng biển Việt Nam, hiện đã biết tới 35 loại khoáng
sản: nhiên liệu, kim loại, vật liệu xây dựng, đá quý …)
Biển Đông là vùng biển có trữ lượng hải sản lớn. (Riêng vùng biển
thuộc chủ quyền Việt Nam, có 11.000 loài sinh vật cư trú trong 20 hệ
sinh thái thuộc 6 vùng đa dạng sinh học, với trên 2.000 loài cá, 230 loài
tôm… trữ lượng hải sản khoảng 5 triệu tấn, có thể khai thác bền vững
hàng năm 1,5 - 2 triệu tấn, triển vọng nuôi trồng thủy sản rất khả quan).
Về chính trị, quốc phòng, an ninh: Là nơi tập trung các mâu thuẫn
chính trị, kinh tế. Là nơi diễn ra tranh chấp quyết liệt, phức tạp nhất. Liên
quan đến nhiều quốc gia nhất kể cả nước có chủ quyền và không có chủ
quyền, kể cả các nước trong khu vực và các nước trên Thế giới. Nếu
khủng hoảng: Giao thông gián đoạn; hậu quả nặng về kinh tế, nhiều nền
kinh tế suy thoái; Ảnh hưởng đến an ninh Thế giới. Các Chuyên gia của
Viện Hàn lâm Nga đánh giá: Tình hình trên Biển Đông đang lâm vào
trạng thái rất nguy hiểm. Nếu so sánh diễn biến tình hình trong khu vực
này với cuộc khủng hoảng Berlin năm 1948, thì Biển Đông được gọi là
“Địa Trung Hải tương lai của châu Á”, “Sức nóng của điểm nóng mới” của hành tinh.
Đối với Việt Nam: Bờ biển dài hơn 3.260 km. Nằm trong số 10
nước trên thế giới có chỉ số cao nhất về chiều dài bờ biển so với diện tích
lãnh thổ (không kể một số đảo). Dọc bờ biển Việt Nam có hơn 100 cảng
biển, 48 vụng, vịnh và trên 112 cửa sông, cửa lạch đổ ra biển.
Vùng biển Việt Nam có hơn 3.000 đảo lớn, nhỏ. Hệ thống đảo
được phân bố khá đều theo chiều dài bờ biển đất nước, tạo thành tuyến
bảo vệ trực tiếp cho đất liền, có vị trí đặc biệt quan trọng như một tuyến
phòng thủ tiền tiêu để bảo vệ sườn phía Đông của đất nước.
Vị trí chiến lược của biển nước ta: Mặt tiền, sân trước, cửa ngõ
quốc gia. Biển, đảo, thềm lục địa và đất liền hình thành phên dậu, chiến lũy nhiều lớp,
nhiều tầng. Bố trí thành tuyến phòng thủ liên hoàn bảo vệ Tổ quốc. Lịch
sử tổng kết lại đã cho thấy có tới 10 trong số 14 cuộc chiến tranh xâm
lược nước ta kẻ thù tiến công bằng đường biển.
Tài nguyên, kinh tế biển: Biển, đảo nước ta còn có trữ lượng nguồn
khoáng sản rất lớn, đặc biệt là dầu khí: Bể sông Hồng khoảng 350 triệu
m3 dầu. Bể Nam Phú Khánh (Nam Trung Bộ): 500 triệu m3. Bể Cửu Long
(Đông Nam Vũng Tàu): 850 triệu m3. Bể Nam Côn Sơn 600 triệu đến 1 tỷ
m3. Mỏ Bạch Hổ đã khoan khai thác hơn 100 triệu m3 dầu, hơn 6 tỷ m3 khí.
Việt Nam đứng thứ 35 thế giới về sản lượng dầu khí. Ước tính, quy mô
kinh tế biển Việt Nam đạt khoảng 47-48% GDP cả nước. Trong đó, các
ngành kinh tế diễn ra trên biển chiếm tới 98%.
1.2. Thực trạng tình hình quốc phòng - an ninh trên các vùng
biển của nước ta hiện nay
Về tình hình quốc phòng - an ninh trên các vùng biển của nước ta
hiện nay theo 5 khu vực, gồm: Khu vực Vịnh Bắc Bộ; khu vực biển miền
Trung; khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; khu vực Thềm lục địa
phía Nam; khu vực vùng biển Tây Nam. Cụ thể:
1.2.1. Khu vực Vịnh Bắc Bộ
Trong Vịnh Bắc Bộ: Ngày 25/12/2000 Việt Nam và Trung Quốc
đã chính thức ký Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác
nghề cá Việt Nam - Trung Quốc. Việt Nam quản lý 53,23% diện tích (có
đảo Bạch Long Vỹ). Trung Quốc quản lý 46,77%); hai Hiệp định này có
hiệu lực ngày 30/6/2004 (tính từ thời điểm bắt đầu đàm phán năm 1974
đến khi ký, năm 2000 là 26 năm và đến khi Hiệp định có hiệu lực là 30 năm).
Từ năm 2005 đến nay, Hải quân Việt Nam và Hải quân Trung
Quốc duy trì thường xuyên hoạt động tuần tra chung. Đã tổ chức chuyến
tuần tra chung thứ 17 vào tháng 11/2015. Ngoài ra, Việt Nam và Trung
Quốc còn thường xuyên tổ chức hoạt động tuần tra nghề cá chung, do lực
lượng Cảnh sát biển Việt Nam và Ngư chính Trung Quốc thực hiện, đến
nay đã thực hiện 7 đợt. Sau khi Việt
Nam và Trung Quốc ký Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định
hợp tác nghề cá Việt Nam - Trung Quốc, đã tạo được môi trường hoà
bình, ổn định để ngư dân ta yên tâm làm ăn trên biển, nhìn chung an ninh
trong Vịnh cơ bản ổn định.
Ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ: Năm 2006, Việt Nam và Trung Quốc
thiết lập diễn đàn đàm phán của Nhóm công tác liên hợp về phân định
vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ Việt Nam - Trung Quốc. Ngày
6/01/2009 hai bên đã trải qua 5 vòng đàm phán về vấn đề này, song tạm
dừng, chuyển qua đàm phán “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ
đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước Cộng hòa Xã hội hủ nghĩa Việt
Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa” vì nhận thức hai bên còn
nhiều khác biệt. Vùng biển được đàm phán là “Đoạn từ Quảng Bình đến
Đà Nẵng” khu vực này, bờ biển Việt Nam - Trung Quốc cách nhau dưới
400M, vì vậy theo Công ước Liên hợp quốc về Luật biển ban hành năm
1982 (UNCLOS), ranh giới được đàm phán là ranh giới vùng đặc quyền kinh tế.
Khu vực này tương đối phức tạp, Trung Quốc nhiều lần cho tàu
nghiên cứu thăm dò... vượt qua phía Tây đường trung tuyến bờ - bờ để
khảo sát; có lực lượng vũ trang bảo vệ với số lượng đông và sẵn sàng
chấp nhận va chạm. Năm 2012 hai nước đã nối lại các vòng đàm phán,
năm 2014 diễn ra vòng đàm phán thứ VI. Với tinh thần nhận thức chung
của lãnh đạo hai nước: Vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng
biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực thúc đẩy hợp tác cùng
phát triển tại vùng biển này. Trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng và đoàn đại biểu cấp cao Đảng, Nhà nước ta, hai
bên đã thống nhất thành lập Tổ công tác bàn về hợp tác và phát triển trên
biển, đề nghị hai bên “Sớm khởi động cùng khảo sát trên vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ”.
1.2.2. Khu vực biển Miền Trung
Là khu biển từ đảo Lý Sơn đến Phú Quý. Hàng năm, Trung Quốc
thông báo vùng cấm đánh bắt cá (mùa cá đẻ.) Từ ngày 01/6 đến ngày
01/8 từ vĩ độ 120 Bắc trở lên, trong đó có nhiều vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam (từ năm
2009 thông báo sớm hơn 15 ngày, bắt đầu từ 12 giờ ngày 16/5 đến 12 giờ
ngày 01/8, ai vi phạm sẽ bị phạt tới 8.000 USD và bị tịch thu tài sản, tàu
thuyền) với việc thông báo cấm trên, thì họ coi các vùng biển này đương
nhiên thuộc chủ quyền của họ.
Một số hoạt động của Trung quốc đáng chú ý: Ngày 26/5/2011, tàu
khảo sát địa chấn Bình Minh 02 đang hoạt động tại khu vực lô 148 ngoài
khơi bờ biển Nha Trang, cách mũi Đại Lãnh (Phú Yên) 116 hải lý, nằm
hoàn toàn trong khu vực vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt
Nam, 03 tàu Hải giám của Trung Quốc đã có hành động phá hoại, cắt đứt
cáp thăm dò của tàu Bình Minh 02. Ngày 23/6/2012 Tổng công ty Dầu
khí hải dương Trung Quốc (CNOOC) đã công bố mời thầu quốc tế 9 lô
dầu khí (theo cách phân lô của Trung Quốc) nằm sâu vào thềm lục địa
Việt Nam. Đặc biệt từ ngày 02/5 - 15/7/2014, Trung Quốc ngang nhiên
đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào hạ đặt trái phép trong vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
1.2.3. Khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Quần đảo Hoàng Sa: Trước năm 1954, dưới thời Pháp thuộc nhà
nước phong kiến Việt Nam đã chiếm hữu và thực hiện chủ quyền đối với
quần đảo này. Ngày 20/7/1954, hiệp định Giơnevơ về đình chiến ở Đông
Dương được ký kết. Theo Hiệp định, nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt
thành hai miền qua vĩ tuyến 17; từ vĩ tuyến 17 trở ra thuộc Việt Nam dân
chủ cộng hoà quản lý; từ vĩ tuyến 17 trở vào thuộc Việt Nam Cộng hòa
quản lý (lúc này Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do chính quyền Việt
Nam Cộng Hoà quản lý). Tháng 4/1956, Trung Quốc dùng vũ lực chiếm
đóng toàn bộ nhóm đảo phía Đông. Sau đó, tháng 01/1974 Trung Quốc
đưa quân đội đánh chiếm nhóm đảo phía Tây quần đảo từ tay chính
quyền Việt Nam Cộng hòa. Hiện tại, Trung Quốc đang chiếm đóng trái
phép hoàn toàn quần đảo Hoàng Sa (30/30 đảo, đá, bãi đá ngầm), xây
dựng khá vững chắc, hiện đại và quy mô. Xây dựng trụ sở hành chính;
Sân bay Phú Lâm; Cầu cảng và các âu tàu lớn; Dự kiến xây dựng đảo Phú Lâm như Hồng Kông.
Quần đảo Trường Sa: Trước năm 1956, dưới thời Pháp thuộc nhà
nước phong kiến Việt Nam đã chiếm hữu và thực hiện chủ quyền đối với
quần đảo Trường Sa. Sau hiệp định Giơnevơ, chính quyền Việt Nam
Cộng hoà thực hiện chủ quyền đối với quần đảo và đóng quân trên một số
đảo nổi. Trong Chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm
1975, Hải quân nhân dân Việt Nam đã phối hợp với một bộ phận lực
lượng vũ trang Quân khu 5 giải phóng quần đảo Trường Sa từ chính
quyền Việt Nam Cộng hòa; cho tới nay chúng ta đã khẳng định chủ
quyền và đóng giữ phần lớn các đảo thuộc quần đảo Trường Sa.
Thực trạng trên quần đảo Trường Sa hiện nay: Hiện diện lực lượng
của 4 nước 5 bên và yêu sách về chủ quyền có 5 nước 6 bên: Cụ thể:
Trung Quốc: chiếm đóng 7 đảo, đá; Đài Loan: chiếm đóng 1 đảo;
Philippin: chiếm đóng 9 đảo, bãi đá; Malaixia: chiếm đóng 7 đảo;
Brunây: Không có đảo nào nhưng vẫn tuyên bố chủ quyền đối với quần
đảo Trường Sa; Việt Nam: Thực hiện chủ quyền và đóng giữ số đảo
nhiều nhất với 21 đảo: Gồm 9 đảo nổi 12 đảo đá ngầm với 33 điểm đóng
quân (9 đảo nổi: Đảo Trường Sa, Trường Sa Đông, An Bang, Sinh Tồn
Đông, Phan Vinh, Song Tử Tây, Nam Yết, Sinh Tồn, Sơn Ca; 12 đảo đá
ngầm: Đá Nam, Đá Lớn, Đá Lát, Đá Đông, Đá Tây, Đá Thị, Thuyền
Chài, Cô Lin, Len Đao, Tiên Nữ, Núi Le, Tốc Tan). Là nước duy nhất có
ngư dân đang làm ăn, sinh sống trên một số đảo của quần đảo Trường Sa.
1.2.4. Khu vực thềm lục địa phía Nam
Khu vực DK1: Nằm phía Đông Nam bờ biển Nam Bộ Việt Nam
(bao gồm vùng Tư Chính - Vũng Mây và Bồn trũng Nam Côn Sơn) khu
vực DK1 là vùng biển nằm trên thềm lục địa phía Nam Tổ quốc có vị trí
về chính trị, kinh tế, quốc phòng rất quan trọng đối với đất nước, nằm án
ngữ đường hàng hải quốc tế từ Đông Bắc Á xuống Đông Nam Á, án ngữ
tuyến đường hàng hải chính qua Biển Đông. Đây là khu vực có nhiều
tiềm năng về kinh tế biển.
Hiện nay: Có 15 nhà giàn hiện diện vững chắc trên các bãi ngầm
khu vực DK1; thường trực tại đây có các lực lượng bộ đội Hải quân,
cùng cán bộ, nhân viên của các ngành bảo đảm hàng hải, khí tượng, thuỷ
văn, dầu khí ngày đêm làm nhiệm vụ bảo vệ và phục vụ quốc kế dân sinh.
1.2.5. Vùng biển phía Nam - Tây Nam
Vùng biển Việt Nam - Campuchia: Ngày 07/7/1982, Chính phủ 2
nước Việt Nam - Campuchia đã ký Hiệp định về vùng nước lịch sử, ngoài
nội dung xác định vùng nước lịch sử giữa hai nước trong Vịnh Thái Lan,
Hiệp định cũng thỏa thuận sẽ hoạch định đường biên giới biển giữa hai
nước vào thời điểm thích hợp.
Vùng biển Việt Nam - Thái Lan: Ngày 09/8/1997, Việt Nam và
Thái Lan đã ký kết Hiệp định về phân định ranh giới trên biển giữa 2
nước. Hiệp định này có hiệu lực từ ngày 27/02/1998. Đây là Hiệp định
biên giới biển đầu tiên Việt Nam ký kết với các nước láng giềng.
Vùng biển Việt Nam - Inđônêxia: Ngày 26/6/2003, Chính phủ 2
nước đã ký kết Hiệp định phân định ranh giới thềm lục địa giữa Việt
Nam - Inđônêxia. Hiệp định này có hiệu lực từ ngày 29/5/2007.
Vùng biển này mật độ tàu thuyền hoạt động cao (đánh bắt, buôn
bán) nên an ninh trật tự phức tạp.
1.2.6. Biển Đông trong chiến lược của một số nước
Tập trung chủ yếu vào 3 nước lớn: Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc và Asean.
Đối với Mỹ: Biển Đông có vị trí quan trọng trong chiến lược an ninh khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương, thể hiện 5 điểm: Mỹ không đứng về bên
nào trong tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông; Mỹ phản đối bất kỳ sự
sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực của bất kỳ bên nào; Các bên
tham gia tranh chấp theo đuổi các tuyên bố chủ quyền và các quyền kèm
theo đối với vùng biển phải phù hợp với Công ước Liên hợp quốc về Luật
Biển; Mỹ cũng như các quốc gia khác có lợi ích quốc gia trong việc đảm
bảo tự do hàng hải, quyền tự do tiếp cận các vùng biển chung của châu Á
và sự tôn trọng luật pháp quốc tế ở Biển Đông; Mỹ sẵn sàng hỗ trợ các
sáng kiến và biện pháp xây dựng lòng tin phù hợp với DOC. Mỹ chủ
trương chuyển trọng tâm chiến lược sang khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương với mục tiêu kiềm chế, ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc. Để
đạt mục tiêu xuyên suốt chiến lược toàn cầu của Mỹ là giành quyền duy
nhất “lãnh đạo” thế giới và không để bất kỳ quốc gia nào có thể thay thế, Mỹ đã và đang thực
hiện: Tăng cường quan hệ liên minh quân sự với các đồng minh truyền
thống. Đồng minh quân sự truyền thống của Mỹ là Nhật Bản, Hàn Quốc,
Philippin, Thái Lan... trong đó liên minh Nhật Bản và Mỹ là cốt lõi của
hệ thống an ninh trong khu vực của Mỹ; Tận dụng và khai thác “Mối đe
dọa tên lửa hạt nhân” từ Triều Tiên để xúc tiến mạnh mẽ việc xây dựng lá
chắn tên lửa ở Đông Á; Tăng cường tham gia tạo ảnh hưởng của Mỹ tới
các tổ chức và diễn đàn khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (APEC;
ASEAN; ARF...) để qua đó can dự có hiệu quả vào khu vực này; Tăng
cường sự hiện diện quân sự ở Châu Á - Thái Bình Dương, qua đó thúc
đẩy chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của Mỹ.
Đối với Nhật Bản: Luôn coi Biển Đông là con đường biển có tầm
quan trọng sống còn đối với nền kinh tế của mình. Có khoảng 70% lượng
dầu nhập khẩu và 45% hàng hóa được vận chuyển qua Biển Đông. Đông
Nam Á là thị trường quan trọng của Nhật Bản và là nơi đang diễn ra sự
tranh chấp gay gắt giữa Nhật Bản với Trung Quốc. Vì vậy, Nhật Bản cho
rằng, Biển Đông có tầm quan trọng sống còn về kinh tế và an ninh.
Hiện nay Nhật Bản muốn tăng cường ảnh hưởng và hạn chế tham
vọng của Trung Quốc ở khu vực này. Muốn tham gia nhiều hơn vào việc
giải quyết các vấn đề của Biển Đông, trong đó có Trường Sa, muốn thăm
dò, khai thác tài nguyên ở Biển Đông và đặc biệt quan tâm đến nguồn
dầu khí lớn ở đây, vì sẽ có lợi hơn nhiều so với nhập dầu từ Trung Đông.
Nhật Bản đã ra tuyên bố đòi hỏi quyền bảo đảm an ninh cho các tuyến
hàng hải cách Nhật Bản tới 1.000M về phía Nam, bao gồm toàn bộ
đường hàng hải trên Biển Đông.
Đối với Trung Quốc: Độc chiếm biển Đông là mục tiêu nhất quán,
xuyên suốt và lâu dài của Trung Quốc. Đây là mục tiêu chiến lược để mở
rộng không gian sinh tồn, chi phối các nước trong khu vực Đông Nam Á
và ngăn chặn ảnh hưởng của các nước lớn đến khu vực này, đồng thời
nhằm ngăn chặn, phá thế bao vây chiến lược của Mỹ ở khu vực Đông
Nam Á và tạo bàn đạp mở rộng ảnh hưởng ở khu vực Ấn Độ Dương, để
bảo đảm an ninh kinh tế, hàng hải cho Trung Quốc (Với lộ trình 3 bước:
Kiểm soát - Làm chủ - Độc chiếm biển Đông).
Trung Quốc đang triển khai mạnh mẽ, đồng bộ và toàn diện các
biện pháp để thực hiện mục tiêu độc chiếm Biển Đông. Các biện pháp
chính trị, kinh tế, ngoại giao, pháp lý, thực địa kiên trì theo đuổi yêu sách
chủ quyền "đường lưỡi bò", đồng thời ráo riết tăng cường sức mạnh quân
sự, đặc biệt là hải quân để hậu thuẫn cho các hoạt động tranh chấp trên biển.
Trung Quốc đưa ra chủ trương "gác tranh chấp, cùng khai thác".
Để đánh lừa dư luận, tích cực sử dụng sức ép chính trị và kinh tế để phân
hoá các nước trong khu vực, cô lập Việt Nam, tiến tới huy động lực
lượng quản lý theo yêu sách “đường lưỡi bò”. Trung Quốc coi Việt Nam
là nước có lợi ích lớn nhất ở Biển Đông, là nước có xung đột quyền lợi
nhiều nhất và là chướng ngại lớn nhất của Trung Quốc trong thực hiện
sách lược "gác tranh chấp, cùng khai thác".
Một số hoạt động của Trung Quốc: Nghị quyết Đại hội 18 Đảng
Cộng sản Trung Quốc xác định mục tiêu chiến lược Trung Quốc trở
thành “cường quốc biển”. Để thực hiện mục tiêu chiến lược đó, thời gian
gần đây hoạt động của Trung Quốc được thể hiện trên 6 điểm nổi bật:
Thứ nhất: Về chính trị - ngoại giao: Đầu tháng 10/2014, phía
Trung Quốc trao cho Việt Nam tấm sơ đồ ghi tọa độ 3 khu vực đề nghị
“cùng khai thác”. Việc đề nghị của Trung Quốc thực chất là tìm cách trì
hoãn tiến tới ký kết bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông, điều mà không có
lợi cho họ. Nếu ta chọn hợp tác, dù chỉ cần hợp tác 1 trong 3 khu vực đó
thì sẽ đem đến sự thắng lợi của họ, gây hệ lụy cho ta. Hiện Trung Quốc
đang tìm mọi cách để gây sức ép với ta.
Thứ hai: Trung Quốc không ngừng củng cố, tăng cường đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Đến nay Trung Quốc đã hoàn tất việc cải tạo 7 thực thể mà nước này đã
chiếm đóng trái phép ở Trường Sa thành đảo nhân tạo đó là: Châu Viên,
Gạc Ma, Tư Nghĩa, Ga Ven, Chữ Thập, Xu Bi, Vành Khăn. Đây là bước
đi tổng thể của Trung Quốc để thực hiện âm mưu biến các bãi cạn mà
Trung Quốc đánh chiếm trái phép tại Quần đảo Trường Sa của Việt Nam
thành các căn cứ hậu cần, kỹ thuật của Hải quân Trung Quốc. Khả năng
tiến tới Trung Quốc sẽ thiết lập vùng nhận dạng phòng không trên Biển Đông.
Thứ ba: Tăng cường sự hiện diện và uy lực hoạt động của lực
lượng chấp pháp trên biển. Đây là động thái mới nhằm thăm dò phản
ứng, từng bước đẩy tàu trực của ta ra xa khu vực Quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa (trước đây tàu Trung Quốc chỉ chạy vòng quanh hoặc thả trôi
quan sát, theo dõi, quay phim chụp ảnh sau đó về).
Thứ tư: Trung Quốc tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu,
thăm dò, khai thác dầu khí. Trung Quốc thường xuyên duy trì 55 - 57
giàn khoan thăm dò và khai thác dầu khí ở Biển Đông. Đầu năm 2014,
Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào hạ đặt trái phép trong
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Vừa qua giàn
khoan Hải Dương 981 di chuyển từ Trung Quốc qua vùng biển Việt Nam
đến Mianma từ ngày 01/1 sau đó rời Mi an-ma từ 6/4 quay trở lại vùng
biển Trung Quốc. Năm 2019, Trung Quốc liên tục đưa tàu khảo sát xâm
nhập vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam ở Bãi Tư Chính. Mới đây nhất
tháng 3 năm 2021, Trung Quốc liên tục đưa các tàu dân binh hiện diện ở
khu vực Đá Ba Đầu của Việt Nam.
Thứ năm: Trung Quốc tiến hành đẩy mạnh các hoạt động đánh bắt
hải sản có tổ chức với sự hỗ trợ, bảo vệ của lực lượng chấp pháp. Đã tiến
hành lắp đặt 06 trạm thăm dò cá bằng sóng âm, 12 trạm điều tra nguồn cá
tầng trung và 27 trạm điều tra môi trường sinh thái biển. Trung Quốc đã
tiến hành xây dựng các khu thử nghiệm nuôi thủy sản ở Vành Khăn và
một số thực thể chiếm đóng sau khi đã cải tạo thành đảo nhân tạo cũng
như xây dựng các cơ sở bảo đảm cho lực lượng quân sự đồn trú lâu dài.
Thứ sáu: Tiếp tục tăng cường các hoạt động quân sự. Ngân sách
quốc phòng năm 2020 là 178,6 tỷ USD tăng 6,6% so với 2019 (đứng thứ
2 trên thế giới, sau Mỹ). Đẩy mạnh đầu tư phát triển vũ khí trang bị hải quân.
Đối với ASEAN: Lo ngại sâu sắc đối với tham vọng bành trướng
của Trung Quốc trên Biển Đông, coi đây là một nhân tố quan trọng làm
mất ổn định trong khu vực. Họ không muốn Trung Quốc lấp chỗ trống
quyền lực ở Biển Đông nên ủng hộ sự có mặt về quân sự của Mỹ ở đây
để làm đối trọng với Trung Quốc. Mặt
khác, vì những tính toán lợi ích riêng của mình, những nước này cũng không muốn
làm mất lòng Trung Quốc (một số nước đã bị Trung Quốc mua chuộc). Tóm lại:
Biển Đông là nơi đang tồn tại những mâu thuẫn chính trị và kinh tế của thế giới.
Biển Đông đang tập trung những mặt đối lập, thuận lợi và khó khăn, hợp tác và
cạnh tranh, bạn bè và thù địch... Tất cả những yếu tố đó đang ảnh hưởng trực tiếp
đối với sự nghiệp phát triển kinh tế và bảo đảm quốc phòng - an ninh trên biển của
nước ta trong thế kỷ mới. Tình hình tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông hiện nay
cũng hết sức phức tạp, đặc biệt còn những vấn đề lớn liên quan trực tiếp đến chủ
quyền biển, đảo Việt Nam chưa được giải quyết: Chủ quyền trên quần đảo Hoàng
Sa; bảo vệ chủ quyền và giải quyết tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Trường Sa
giữa năm nước sáu bên; phân định ranh giới các vùng biển theo Công ước của Liên
hợp quốc về Luật biển năm 1982; xác định ranh giới ngoài vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa. Cùng với đó, những nhân tố có thể gây mất ổn định trên Biển
Đông vẫn đang diễn ra gay gắt: xâm phạm chủ quyền, an ninh; nguy cơ xung đột
vũ trang; tranh chấp biển, đảo và thềm lục địa...
2. Những giải pháp cơ bản bảo vệ vững chắc chủ quyền biển,
đảo trong tình hình mới
2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà
nước trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo
Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo là trách nhiệm của toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân; yếu tố quan trọng để đất nước phát triển
bền vững. Trong bối cảnh thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, khó
lường, để bảo vệ chủ quyền biển, đảo, vấn đề cần quan tâm hiện nay là
tăng cường sức mạnh quốc gia, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân
trên biển vững mạnh. Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương chiến
lược để vừa khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lợi kinh tế biển
phục vụ cho phát triển kinh tế-xã hội, vừa huy động tối đa sức mạnh tổng
hợp của toàn dân tộc, kết hợp đấu tranh toàn diện trên các lĩnh vực quân
sự, kinh tế, chính trị, ngoại giao, pháp lý nhằm bảo vệ vững chắc chủ quyền biển
đảo và lợi ích quốc gia trên biển. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Giữ
vững độc lập, tự chủ; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; kiên quyết,
kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước”.
Để tăng cường sự quản lý nhà nước về quốc phòng, trong đó có
nhiệm vụ quản lý về chủ quyền biển, đảo, trước tiên phải tập trung xây
dựng cấp ủy, tổ chức đảng trong các đơn vị trực tiếp tham gia bảo vệ chủ
quyền biển, đảo trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo toàn diện
và sức chiến đấu cao, thật sự là hạt nhân lãnh đạo trong cơ quan, đơn vị;
tăng cường đoàn kết, thống nhất trong lãnh đạo, chỉ huy, thực hiện
nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng. Chú trọng kiện
toàn cơ quan, đội ngũ cán bộ làm công tác thực thi pháp luật trên biển, bổ
sung, hoàn thiện và phát huy vai trò của các biện pháp công tác của lực
lượng Hải quân, Cảnh sát biển, bộ đội Biên phòng, Kiểm ngư trong bảo
vệ chủ quyền, thực thi pháp luật trên biển. Trên cơ sở các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính
sách, pháp luật chặt chẽ, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế để bảo
vệ chủ quyền biển, đảo. Các cấp bộ, ngành, địa phương tiếp tục xây
dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang
pháp lý đồng bộ, thống nhất trong quản lý, thực thi và bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
2.2. Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển
toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, sớm đưa nước ta trở thành quốc
gia mạnh về kinh tế biển, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế

Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 22/10/2018 về Chiến lược phát
triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm
2045 xác định: “Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ
biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền
vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ”. Đại hội XIII của Đảng cũng chỉ
rõ: "Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh trên từng
vùng lãnh thổ, trên các địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo, khu kinh
tế, khu công nghiệp trọng điểm. Thực hiện chương trình, kế hoạch phát
triển kinh tế biển và vùng ven biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh,
tăng cường xây dựng các khu kinh tế biển, xây dựng các chương trình hỗ
trợ ngư dân bám biển, đánh bắt xa bờ, tạo điều kiện cho việc phòng thủ,
bảo vệ, kiểm soát và làm chủ vùng biển". Để kinh tế phát triển tương
xứng với tiềm năng của biển, gắn phát triển kinh tế biển với bảo đảm
quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo cần phải tổ
chức lại hoạt động khai thác hải sản theo hướng giảm khai thác gần bờ,
đẩy mạnh khai thác xa bờ; thúc đẩy các hoạt động nuôi trồng, khai thác
hải sản bền vững, tăng cường bảo vệ, tái sinh nguồn lợi hải sản và môi
trường biển, nghiêm cấm các hoạt động khai thác mang tính hủy diệt.
Phát triển nhanh một số khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển, ưu
tiên phát triển các ngành công nghiệp năng lượng, công nghiệp hàng hải,
đóng tàu, nuôi trồng, khai thác và chế biến hải sản chất lượng cao. Đẩy
nhanh tốc độ đô thị hóa, xây dựng các trung tâm kinh tế ven biển mạnh,
tạo thế tiến ra biển, gắn với phát triển đa dạng các ngành dịch vụ, xuất
khẩu, du lịch, dịch vụ nghề cá, dầu khí, vận tải biển... Phát triển kinh tế
các đảo, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, thăm dò, khai thác, nuôi trồng
thủy sản gắn với bảo vệ, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, mở rộng
quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế. Xây dựng các chiến lược, quy hoạch, chương
trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội trên biển, đảo; tăng cường đầu tư
các nguồn lực và hoạch định cơ chế chính sách trong phòng, chống thiên
tai, thảm họa, bảo vệ môi trường biển.
2.3. Xây dựng lực lượng quản lý, bảo vệ biển, đảo vững mạnh về mọi
mặt Việc tập trung nỗ lực xây dựng lực lượng quản lý biển, đảo và các
hoạt động kinh tế biển, nhất là lực lượng Hải quân, Cảnh sát biển, Biên
phòng, Dân quân tự vệ biển và lực lượng Kiểm ngư vững mạnh, đủ sức hoàn thành tốt nhiệm
vụ được giao là yêu cầu bức thiết hiện nay. Trong đó, Hải quân nhân dân
Việt Nam là lực lượng chuyên trách hoạt động trên biển, giữ vai trò quan
trọng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ các vùng biển, đảo của Tổ quốc,
cần được ưu tiên đầu tư xây dựng theo hướng hiện đại hóa và có chính
sách đãi ngộ thỏa đáng, đặc biệt là lực lượng thường xuyên tuần tra trên
biển và chốt giữ các đảo xa bờ. Cảnh sát biển Việt Nam là lực lượng
chuyên trách quản lý, duy trì thực thi pháp luật trên biển, cần được tiếp
tục củng cố, hoàn thiện về tổ chức, biên chế, tăng cường trang bị hiện đại,
bảo đảm đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Bộ đội Biên
phòng
cần được đầu tư đủ trang thiết bị kỹ thuật, phương tiện cơ động,
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự, cứu hộ, cứu nạn,
chống buôn lậu và các tệ nạn xã hội trên các vùng biển. Dân quân tự vệ
biển
được xây dựng theo phương châm vững mạnh, rộng khắp, ở đâu có
tàu, thuyền, ngư dân hoạt động và dân cư sinh sống trên đảo thì ở đó có
dân quân tự vệ biển; lấy doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã làm nòng cốt;
tổ chức biên chế phù hợp với đặc điểm của từng địa phương, bảo đảm
thành ba tuyến: ven bờ, lộng, khơi; coi trọng lực lượng hoạt động trên
biển. Kiểm ngư là lực lượng được tổ chức chặt chẽ, hoạt động đúng chức
năng, nhiệm vụ, nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lý các vi phạm của tàu
thuyền nước ngoài; hỗ trợ ngư dân, đảm bảo an ninh trật tự và có vai trò
quan trọng trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển của Tổ quốc.
2.4. Kiên quyết, kiên trì giải quyết tranh chấp trên biển, đảo bằng
biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế
Là thành viên của Liên hợp quốc, của UNCLOS cũng như tuyên
bố của các bên về cách ứng xử trên biển Đông (DOC), Việt Nam luôn
tuân thủ các quy định của luật pháp quốc tế; kiên trì con đường giải quyết
các vấn đề nảy sinh bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở bình đẳng và tôn
trọng lẫn nhau; thông qua đàm phán, thương lượng, nhằm tìm kiếm giải
pháp cơ bản, lâu dài, đáp ứng lợi ích chính đáng của tất cả các bên liên
quan vì độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, vì hòa bình,
ổn định khu vực và quốc tế. Như tinh thần Đại hội
XIII của Đảng đã xác định: "Duy trì hòa bình, an ninh, an toàn tự do hàng
hải, hàng không ở Biển Đông; giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp
hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp
quốc về Luật Biển năm 1982". Theo đó, những vấn đề còn đang bất đồng,
tranh chấp song phương thì giải quyết song phương; những vấn đề tranh
chấp liên quan đến nhiều bên thì giải quyết đa phương và phải hết sức
công khai, minh bạch giữa các bên có liên quan. Trong khi nỗ lực xử lý
các vấn đề nảy sinh ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, cần kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ những lợi ích chính đáng của ta trên biển
với quyết tâm “Việt Nam quyết không để một tấc đất, tấc biển nào bị xâm
phạm”; kiên trì tìm kiếm một giải pháp lâu dài và yêu cầu các bên liên
quan kiềm chế, không có hoạt động làm phức tạp thêm tình hình, không
sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, tuân thủ cam kết giải quyết
bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở các nguyên tắc của luật pháp quốc tế,
UNCLOS và 05 nguyên tắc chung sống hòa bình, tăng cường nỗ lực xây
dựng lòng tin, hợp tác đa phương về an ninh biển, nghiên cứu khoa học,
chống tội phạm; cùng nhau thực hiện nghiêm chỉnh DOC, hướng tới xây
dựng Bộ quy tắc ứng xử COC để Biển Đông thực sự là vùng biển hòa
bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Tại các vùng biển không
phải là tranh chấp, hoàn toàn thuộc chủ quyền và quyền tài phán của quốc
gia ven biển, Việt Nam có quyền áp dụng các biện pháp cần thiết, phù
hợp với quy định của UNCLOS để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng.
2.5. Thực hiện tốt công tác đối ngoại quốc phòng
Đối ngoại quốc phòng là vấn đề quan trọng diễn ra chủ yếu trong
thời bình và cả khi có tình huống chiến tranh, thực hiện tốt vấn đề này
góp phần vừa giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, hòa bình,
ổn định trên Biển Đông, vừa duy trì sự ổn định chính trị - xã hội trong
nước và môi trường quốc tế thuận lợi để phát triển kinh tế. Thực hiện tốt
công tác đối ngoại quốc phòng trong bối cảnh hội nhập quốc tế, điều
quan trọng trước hết là hợp tác chặt chẽ trên tất cả lĩnh vực, đặc biệt là
giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Đại hội XIII đã đưa ra quan điểm:
"Kiên trì, kiên định đường lối độc lập, tự chủ, đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ; nâng cao khả năng thích ứng năng
động và linh hoạt xử lý hài hòa lợi ích quốc gia với quan tâm chung, tùy
theo đối tượng, vấn đề, thời điểm, phù hợp với luật pháp quốc tế và
nguyên tắc ứng xử tại khu vực, trên tinh thần lợi ích quốc gia - dân tộc là
trên hết" với mục tiêu: "Giữ vững độc lập, tự chủ; tăng cường tiềm lực
quốc phòng, an ninh; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại,
hội nhập quốc tế; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi
trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước". Trên cơ sở đó, các
ngành chức năng, trọng tâm là Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Bộ Ngoại
giao cần xây dựng, hoàn thiện quy chế phối hợp, trọng tâm là công tác
nghiên cứu cơ bản, phân tích dự báo chiến lược về tình hình thế giới, khu
vực, chiều hướng diễn biến của mối quan hệ quốc tế, về đối tác, đối
tượng của cách mạng. Từ đó, tham mưu cho Đảng, Nhà nước hoạch định
đường lối chiến lược và các đối sách xử lý thắng lợi các tình huống quốc
phòng, an ninh và đối ngoại. Tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác quốc
phòng với các nước, nhất là các nước trong khu vực và các nước lớn trên
thế giới để tăng sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau. Hải quân, Cảnh sát biển
cần tăng cường giao lưu với các đối tác, tổ chức các hoạt động phối hợp
tuần tra chung, diễn tập, cứu hộ, cứu nạn trên biển, góp phần giữ vững
môi trường hòa bình, ổn định và triệt tiêu nguy cơ xung đột trên biển.
2.6. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo
thiêng liêng của Tổ quốc
Thực hiện tốt nội dung này, các đơn vị Hải quân, Cảnh sát biển,
Biên phòng đóng quân ở địa phương ven biển và các đảo cần kết hợp chặt
chẽ với địa phương và cơ quan Tuyên giáo xây dựng kế hoạch, tổ chức
bồi dưỡng báo cáo viên, biên soạn, phát hành tài liệu tuyên truyền sâu
rộng trong các tầng lớp nhân dân, nhất là cư dân sinh sống ở ven biển,
trên đảo, ngư dân làm ăn trên biển, kiều bào ta ở nước ngoài. Tuy nhiên,
trong điều kiện hiện nay, công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo
cần có sự tham gia, phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương và
các phương tiện thông tin đại chúng, dưới sự chỉ đạo
tập trung, thống nhất của các cơ quan chức năng Trung ương. Đặc biệt,
cần thông tin kịp thời, minh bạch, chính xác để mọi người dân trong
nước, người Việt Nam ở nước ngoài và nhân dân thế giới hiểu cơ sở pháp
lý, chứng cứ lịch sử và sự chiếm hữu thực tế của Việt Nam trên các vùng
biển, đảo ở Biển Đông; hiểu rõ quan điểm, lập trường của Đảng, Nhà
nước ta về giải quyết vấn đề chủ quyền trên Biển Đông; từ đó, xây dựng
niềm tin, ý chí quyết tâm, đồng thuận của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới để bảo vệ vững
chắc chủ quyền biển, đảo và các hoạt động kinh tế biển.
Cùng với công tác truyên truyền về biển, đảo, cần kết hợp với công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật, làm cho ngư dân hiểu rõ các quy định
trong luật biển Việt Nam và pháp luật quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp
quốc về Luật biển năm 1982, làm cho ngư dân không chỉ chấp hành, mà
còn kịp thời phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật của tàu, thuyền nước
ngoài ở vùng biển Việt Nam. Cần sớm đưa các nội dung về chủ quyền
biên giới, lãnh thổ, biển, đảo vào chương trình giáo dục phổ thông và đại
học; phổ biến rộng rãi trong cộng đồng người Việt Nam và quốc tế về
chủ quyền lãnh thổ Việt Nam trên biển. KẾT LUẬN
Biển, đảo Việt Nam có vị trí chiến lược rất quan trọng trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong những năm tới tình hình tranh
chấp chủ quyền biển, đảo vẫn diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt;
hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên Biển
Đông đứng trước thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột. Các nước
liên quan cần giữ nguyên hiện trạng, tự kiềm chế, tôn trọng chủ quyền
quốc gia kể cả chủ quyền đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
của các nước ven bờ, nghiêm chỉnh chấp hành “Tuyên bố về cách ứng xử
giữa các bên ở Biển Đông” (DOC), ủng hộ xây dựng “Bộ quy tắc ứng xử
ở Biển Đông” (COC), tuân thủ luật pháp quốc tế và Công ước của Liên
hợp quốc về Luật biển năm 1982. Với thiện chí nhằm gìn giữ hoà bình
trên Biển Đông, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn luôn "Nỗ lực phấn
đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng
các biện pháp hoà bình phù hợp với luật pháp quốc tế…giữ vững môi
trường hoà bình, ổn định để phát triển".
Bảo vệ chủ quyền biển, đảo là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân và phải phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi lực lượng,
kết hợp chặt chẽ các biện pháp đấu tranh chính trị, kinh tế, pháp lý, ngoại
giao và quân sự. Do vậy toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần tiếp tục
quán triệt quan điểm: “Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định để phát triển”. Tăng cường xây dựng tiềm lực
kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, chăm lo xây dựng “thế
trận lòng dân”, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, tận dụng mọi thời
cơ phát triển đất nước giàu mạnh đi đôi với bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong đó có chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bản tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC), ký ngày 4/11/2002.
2. Bộ TT&TT (2013), Tài liệu phục vụ công tác tập huấn tuyên truyền về biển, đảo.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày
22/10/2018, "về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam
đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045".

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII
, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
5. Quốc hội (2013), Luật Biển Việt Nam.