Câu hỏi ôn tập - Pháp luật đại cương | Đại học Tôn Đức Thắng
Trong lịch sử phát triển của nhà nước, tư tưởng “tam quyền phân lập” có từ thời cổ đại, đến thời kỳ giai cấp tưsản hình thành, nó được phát triển thêm cho đến thế kỷ thứ XVIII, S.L.Mông-tet-xkiơ nâng lên thành một học thuyếthoàn chỉnh và được xem là một giá trị của nhân loại. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Pháp luật đại cương (PL101)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
4-1
Đề 4 : Báo cáo chính trị tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng khẳng định: ”quyền lực Nhà nước là
thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp”-(Đảng Cộng sản Việt Nam: VK ĐH VIII, NXB CTQG HN, 1996, Tr129). Đồng chí hãy phân tích làm rõ
quan điểm nói trên và và liên hệ thực tiễn việc thực hiện quan điểm đó trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước ta. Bài làm :
Trong lịch sử phát triển của nhà nước, tư tưởng “tam quyền phân lập” có từ thời cổ đại, đến thời kỳ giai cấp tư
sản hình thành, nó được phát triển thêm cho đến thế kỷ thứ XVIII, S.L.Mông-tet-xkiơ nâng lên thành một học thuyết
hoàn chỉnh và được xem là một giá trị của nhân loại. Tuy nhiên, các học giả tư sản từ buổi đầu cho đến nay không hoàn
toàn thống nhất với lý thuyết này và trên thực tế các nhà nước tư sản xây dựng theo lý thuyết này chỉ là những biến
dạng vì quyền lực luôn bị nghiêng về một bên, hiện nay là nghiêng về hành pháp.
Theo quan điểm của đảng ta, quyền lực nhà nước của nhân dân là một khối thống nhất không thể phân chia, tuy
nhiên có kế thừa hạt nhân hợp lý của thuyết “tam quyền phân lập” đó là sự phân công lao động để thực hiện quyền lực,
nên khẳng định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”.
1. Cơ sở của sự thống nhất về quyền lực nhà nước :
Cơ sở của việc xác định quyền lực nhà nước là thống nhất được quy đinh khách quan từ cơ sở kinh tế và chế
độ chính trị XHCN. Về cơ sở chính trị, nó xuất phát từ bản chất của nhà nước ta là nhà nước của giai cấp công nhân
mà ý chí, nguyện vọng, lợi ích của giai cấp công nhân là thống nhất với ý chí, nguyện vọng, lợi ích của nhân dân lao
động, của dân tộc, sự thống nhất về lợi ích đó dẫn đến sự thống nhất về ý chí và hành động của tuyệt đại quần chúng
nhân dân lao động. Về cơ sở kinh tế của nhà nước, nhà nước ta được xây dựng trên nền tảng kinh tế XHCN, với chế
độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu, nghĩa là nhân dân lao động chính là chủ sở hữu của các tư liệu SX chủ
yếu. Đây chính là điều kiện để đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân, bởi vì giai cấp nào, lực lượng nào nắm giữ kinh
tế (mà chủ yếu là nắm giữ các TLSX quan trọng) thì giai cấp ấy, lực lượng ấy mới thật sự nắm giữ quyền lực chính trị.
2. Tổ chức thực hiện: 4-2
a. Quyền lực nhà nước là thống nhất :
Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) đã xác định ”Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Tuy nhiên, khi
xác định quyền lực nhà nước thuộc nhân dân, điều đó không có nghĩa là mỗi người dân đều tự hành xử theo ý chí riêng
của mình mà quyền lực đó phải được tổ chức để nhân dân thông qua tổ chức mà sử dụng quyền lực nhà nước. Tổ
chức quyền lực nhà nước đó là cơ quan đại biểu nhân dân. Cơ quan đại biểu nhân dân được hình thành từ sự tập họp
các đại biểu nhân dân do nhân dân bầu ra, đại diện cho ý chí nguyện vọng của nhân dân, được nhân dân ủy nhiệm
quyền lực nhà nước của mình và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Đến lượt mình các cơ quan đại biểu nhân dân, thay
mặt nhân dân và vì lợi ích của nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước. Nói cách khác, cơ quan nhà nước các cấp chỉ
là người chấp hành mệnh lệnh của quốc dân, chấp hành ý chí của nhân dân. Cán bộ công chức phải là công bộc của
dân, chăm lo, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân.
Con đường, biện pháp mà nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước được ghi nhận ở điều 6 của Hiến pháp năm
1992 (sửa đổi) : “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là cơ quan đại biểu
cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”. Đồng thời chính
nhân dân thực hiện quyền giám sát tối cao đối với các cơ quan nhà nước trong việc sử dụng quyền lực mà nhân dân ủy
nhiệm. Quyền giám sát đó được thực hiện bằng cơ chế hợp lý và công cụ pháp lý có hiệu quả nhất
Tóm lại, từ những phân tích trên cho thấy, ở nước ta, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân sử
dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Bằng con đường đó, nhân dân mới thật sự quyết
định công việc của đất nước mình vì lợi ích của chính mình
b. Sự phân công và phối hợp :.
Do tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, vì thế quyền lực nhà nước là luôn luôn thống nhất, không
“tam quyền phân lập” vì nếu phân chia quyền lực thì sẽ dẫn đến kiềm chế và triệt tiêu lẫn nhau, làm cho quyền lực của
nhân dân bị phân tán, không bảo đảm được tính thống nhất. Vì vậy, để bảo đảm sự thống nhất quyền lực nhà nước
phải tập trung vào cơ quan đại diện quyền lực nhà nước duy nhất và cao nhất do nhân dân bầu ra đó là Quốc hội. Về
mặt pháp lý, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất do nhân dân bầu ra thông qua phổ thông đầu phiếu
bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu 4-3 ng cuộc bầu cử dân chủ như vậy, nhân dân trao cho Quốc hội thực hiện quyền
lực nhà nước của mình.
Tuy quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công rành mạch và phối chặt chẽ giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó sự thống nhất là nền tảng, sự phân
công và phối hợp là phương thức để đạt được sự thống nhất của quyền lực.
Sự phân công quyền lực giữa các cơ quan nhà nước thể hiện ở sự phân định chức năng, nhiệm vụ của mỗi
loại hình cơ quan nhà nước. Sự phân định này càng rõ ràng, cụ thể thì hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan
nhà nước càng được nâng cao, không một cơ quan nhà nước nào có thể thâu tóm toàn bộ quyền lực nhà nước vào tay
mình và cũng không cho phép lấn át chức năng giữa chúng. Tuy vậy, sự phân công quyền lực là cơ sở để thực hiện tốt
quyền lực nhà nước thống nhất.
Sự phân công quyền lực nhà nước còn bao hàm cả sự phối hợp quyền lực. Sự phân công 3 loại quyền lực : lập
pháp, hành pháp và tư pháp trong nhà nước pháp quyền thể hiện ở chổ : quyền lực nhà nước là thống nhất, là sự thể
hiện ý chí của nhân dân và dựa trên chủ quyền của nhân dân. Nhưng mỗi loại quyền lực được phân công thực hiện các
dạng hoạt động độc lập là : quyền lập pháp - hoạt động là làm luật, quyền hành pháp, hoạt động là thi hành luật, quyền
tư pháp - hoạt động xét xử nhằm bảo vệ pháp luật, bảo vệ các quyền tự do của công dân, các lợi ích của nhà nước và xã hội. 4-4
Cách tổ chức này nhằm vừa bảo đảm tính độc lập chủ động, tính trách nhiệm cao của từng cơ quan nhà nước
trong việc thực thi quyền lực được nhân dân giao cho, vừa đảm bảo tính thống nhất, khách quan hiệu quả, tránh tình
trạng lạm quyền, chuyên quyền của hệ thống cơ quan nhà nước, đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân.
Sự phân công và phối hợp của các cơ quan nhà nước thể hiện trong vị trí, tính chất, chức năng và nhiệm vụ,
quyền hạn của từng cơ quan nhà nước trên cả 3 mặt : lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Quốc hội : Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHXHCNVN, thay mặt nhân dân sử
dụng quyền lực nhà nước. Là cơ quan quyền cao nhất, Quốc hội có 2 chức năng : quyết định và giám sát Chức năng
quyết định của Quốc hội bao gồm : làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, làm luật, sửa đổi Luật; Quyết định các chính
sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, quyết định các vấn đề về tổ chức và hoạt động bộ máy nhà nước (phân công chức
năng cho các cơ quan Nhà nước trong bộ máy Nhà nước, quyết định các cán bộ chủ chốt của bộ máy nhà nước),
thành lập mới, nhập chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Chức năng giám sát : Quốc hội
thực hiện quyền giám sát tối cao tuân theo Hiến pháp, Luật và Nghị quyết của Quốc hội.
Các cơ quan của bộ máy nhà nước do Quốc hội lập ra bao gồm :
- Chủ tịch nước : là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước CHXHCNVN về đối nội và đối ngoại. Chủ
tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước được chia làm
2 nhóm : một
là những nhiệm vụ quyền hạn mà Chủ tịch nước thực hiện trong sự thống nhất ý chí với Quốc Hội, Ủy
ban thường vụ Quốc hội; hai là những nhiệm vụ quyền hạn mà Chủ tịch nước được tự mình thực hiện ((đề nghị Quốc
hội bầu ,miễn nhiệm, bãi nhiệm, bổ nhiệm, cách chức ...). Chủ tịch nước do Quốc Hội bầu ra.
- Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang bộ và UBND các cấp là các cơ quan chấp hành và hành chính nhà
nước (hành pháp), là cơ quan triển khai các văn bản của cơ quan quyền lực nhà nước để thực hiện chúng trong thực tế.
+ Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ giữ quyền hành pháp, tức là Chính phủ có chức năng thống nhất quản lý việc
thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của nhà nước, bảo đảm
hiệu lực của bộ máy nhà nước từ Trung ương đến cơ sở, bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành hiến pháp, pháp luật.
Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc Hội, UB thường vụ Quốc hội, Chủ tịch
nước ... Đứng đầu chính phủ là Thủ tướng chính phủ do Quốc hội bầu ra.
+ Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ và cơ quan ngang bộ cũng được điều chỉnh theo hướng Bộ
quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, bao quát tất cả các thành phần kinh tế trong phạm vi cả nước cung cấp dịch vụ công
+ UBND do Hội đồng nhân dân bầu ra là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân bầu ra, là cơ quan chấp
hành của Hội đồng nhân dân cơ quan hành chính ngang cấp. UBND chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội
đồng nhân dân cùng cấp.
- TAND tối cao,TAND địa phương là các cơ quan Nhà nước làm chức năng xét xử (tư pháp). Chánh tòa án
nhân dân tối cao do Quốc hội bầu ra
VKSND tối cao,VKSND địa phương là các cơ quan Nhà nước làm chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật và thực hành quyền công tố theo quy định của pháp luật (tư pháp). Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu ra. 4-5
Như vậy, Quốc hội là cơ quan hiến định thống nhất các quyền nhưng không thực thi cả ba quyền, mà tập trung
thực hiện quyền lập pháp. Chính phủ là cơ quan hiến định, nắm quyền hành pháp. Toà án nhân dân cùng với Viện kiểm
sát nhân dân được phân công thực hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của quyền lực nhà nước.
Khi xét xử, thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, không phụ thuộc vào bất cứ cơ quan nhà nước và các tổ
chức xã hội nào. Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền công tố và kiểm soát các hoạt động tư pháp theo quy định
của hiến pháp và pháp luật. Sự phân công như vậy là phù hợp, bảo đảm quyền lực nhà nước thống nhất vào Quốc hội.
Sự phân công đó là rất cần thiết để xây dựng một nền hành chính quốc gia luôn luôn ổn định, thống nhất, thông suốt từ
trung ương đến cơ sở và thật sự có hiệu lực, hiệu quả.
Tuy có sự phân công rành mạch, cụ thể nhưng trong hoạt động cụ thể các cơ quan nhà nước còn có sự phối
hợp hoạt động nhằm bảo đảm cho quyền lực nhà nước của nhân dân được thực thiện một cách có hiệu quả và thống nhất. Cụ thể như :
- Phối hợp giữa hoạt động lập pháp và hành pháp, tư pháp : thể hiện ở chổ trong hoạt động hành pháp và tư
pháp, hàng năm các cơ quan này phải xây dựng chương trình chỉnh sửa pháp luật để trình Quốc hội xem xét. Các cơ
quan này cũng phát hiện những vấn đề không phù hợp trong pháp luật hiện hành để kiến nghị Quốc hội xem xét, sửa
đổi. Đối với công tác tư pháp, hành pháp : Quốc hội không chỉ lập pháp mà còn tham gia phối hợp các hoạt động hành
pháp, tư pháp : đình chỉ và hủy bỏ các văn bản pháp luật của cơ quan hành pháp, tư pháp, thực hiện một số nhiệm vụ
thuộc quyền hành pháp và tư pháp như : Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản, những nhiệm vụ trọng yếu,
quyết định về bộ máy tổ chức và bố trí nhân sự chủ chốt trong bộ máy nhà nước. Các chức vụ chủ chốt trong cơ quan
nhà nước như : Chủ tịch nước, Thủ tướng chính phủ, Chánh tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao đều do Quốc hội cử ra và chịu trách nhiệm trước Quốc hội.
- Phối hợp giữa hoạt động hành pháp và tư pháp : các cơ quan hành pháp có quyền kiến nghị những điều vi
phạm pháp luật chuyển Toà án xem xét hoặc thông qua hoạt động công an điều tra xong thì phải chuyển sang Tòa án,
Viện kiểm sát xem xét, truy tố, xét xử. Cơ quan tư pháp cũng có quyền kiến nghị sang bên cơ quan hành pháp sửa đổi
những quy định, quyết định trái pháp luật. 4-6
c. Sự giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước đảm bảo cho quyền lực nhà
nước của nhân dân được thống nhất.
Quyền lực nhà nước là thống nhất và tập trung. Nhưng một khi đã thực hiện sự phân công chức năng, phân cấp
nhiệm vụ quyền hạn rồi thì phải có biện pháp bảo đảm cho quyền lực nhà nước được tập trung và thống nhất. Biện
pháp đó chính là thực hiện quyền giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân nhằm bảo đảm cho hoạt động của các
cơ quan khác của bộ máy nhà nước phù hợp với Hiến pháp và pháp luật, bao gồm việc nghe báo cáo, chất vấn và hủy
bỏ những văn bản sai trái của UBND cùng cấp. Sự phân công chặt chẽ và rõ ràng chỉ có thể đạt được trong thực tế nếu
có sự giám sát lẫn nhau. Giám sát là rất cần thiết nhưng giám sát không phải là đối trọng, đối lập lẫn nhau
Quốc hội còn thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước ( kể cả những người đứng
đầu bộ máy nhà nước : Chủ tịch nước, Thủ tướng chính phủ, Chánh Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao) : đây chính là nhân tố bảo đảm cho quyền lực nhà nước được thống nhất và tập trung.
Để phát huy vai trò, vị trí của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội phải được kiện toàn, tổ chức, đặc biệt
là làm tốt chức năng giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước, trước mắt tập trun 4-8
những vấn đề bức xúc như : sử dụng vốn và tài sản của nhà nước, chống tham nhũng, quan liệu, vấn đề bắt giam, điều
tra, truy tố, xét xử ... Việc giám sát của Quốc hội đối với hoạt động của Chính phủ, của các cơ quan tư pháp được thực
hiện dưới nhiều hình thức, trong đó có hình thức báo cáo công tác và trả lời chất vấn của các thành viên chính phủ, của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tại các kỳ họp quốc hội. Hình thức
này đang được cử tri cả nước đồng tình, hoan nghênh và coi đây cũng là một hình thức giám sát của mình đối với hoạt
động của nhà nước. Việc trả lời chất vấn trong các kỳ họp quốc hội cũng cần phải đổi mới theo hướng tập trung vào
những vấn đề lớn, trọng tâm của nhà nước, những vấn đề cần đông đảo nhân dân quan tâm và nâng cao trách nhiệm
của đại biểu quốc hội và của các thành viên chính phủ
d. Phương pháp xây dựng 4-7 àn thiện nhà nước ta.
Trong những năm đổi mới vừa qua, nhà nước ta đã trưởng thành về nhiều mặt, để thể hiện rõ bản chất của một
nhà nước pháp quyền của dân do dân và vì dân. Nổi bật nhất là những thành tựu về xây dựng hệ thống pháp luật để
quản lý đất nước, về xây dựng nền dân chủ XHCN, nhất là dân chủ ở cơ sở. Hoạt động của nhà nước thể hiện được tư
tưởng lấy dân làm gốc, biết dựa vào dân, thể hiện việc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Nhà nước ta luôn có
sự đổi mới tổ chức và hoạt động (như xác định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của bộ máy cơ quan nhà nước) để đáp
ứng những yêu cầu được đặt ra trong từng thời kỳ lịch sử, nhất là trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Nhà nước ta cũng dần
dần hoàn thiện cơ chế thu hút sự tham gia của nhân dân ngày càng nhiều vào việc xây dựng chính quyền nhà nước các cấp.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải thừa nhận rằng bộ máy Nhà nước ta chưa thực sự trong sạch, vững mạnh: tệ
tham nhũng, quan liêu, lãng phí của công, tình trạng mất dân chủ, phép nước, kỷ cương xã hội rải rác ở nhiều nơi còn
buông lỏng… Mặt khác, quản lý Nhà nước chưa ngang tầm với nhiệm vụ của thời kỳ đổi mới. Đó là: chưa phát huy
được những mặt tích cực, chưa khắc phục những hạn chế làm cho tình trạng bất công, bất bình đẳng có xu hướng gia
tăng… Viêc xây dựng luật pháp vừa qua tuy đã có nhiều có gắng nhưng luật pháp vẫn chưa bao trùm hết các lĩnh vực
hoạt động của XH. Việc` quản lý thực hiện pháp luật phải chặt chẽ, xử lý các vi phạm phải nghiêm, việc ngăn chặn các
tệ nạn xã hội kém hiệu quả lại chính là do thiếu sót chủ quan của bộ máy nhà nước. Đó là do luật pháp chưa đầy đủ, cơ
chế có nhiều sơ hở, ngay cả những vấn đề đã có luật pháp nhưng chưa quản lý việc thi hành luật pháp không chặt chẽ
và xử lý những vụ vi phạm luật pháp không nghiêm, thậm chí còn có cả tiêu cực trong việc xử lý các vi phạm luật pháp
Trong môi trường kinh tế xã hội hiện nay, chủ nghĩa cá nhân trong hàng ngũ cán bộ viên chức nhà nước đang
có cơ hội phát triển. Tình trạng tham nhũng trong bộ máy Đảng, nhà nước đang trở nên bức xúc. Tham nhũng đã được
Đảng đánh giá là quốc nạn. Nó lại gắn liền với quan liêu, cửa quyền, hách dịch, lãng phí ... Vấn đề xây dựng đạo đức
đang trở thành vấn đề hàng đâu của công cuộc xây dựng bộ máy nhà nước. Phải hết sức coi trọng giáo dục đạo đức
nhưng cũng không biến quá trình giáo dục thành một quá trình đạo đức đơn thuần mà đi đôi với với giáo dục phải xứ lý
nghiêm minh mọi dựa vi phạm luật pháp của bất cứ ai.
Để khắc phục những hạn chế trên, việc hoàn thiện bộ máy nhà nước được Đảng xác định bao gồm một số công tác như sau :
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm
phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng và quản lý nhà nước : mở rộng, đa dạng hóa thông tin,
nâng cao chất lượng thông tin làm cơ sở cho dân bàn bạc, tham gia xây dựng các chủ trương của Đảng, chính sách
của nhà nước, thực hiện quyền làm chủ của mình ở địa phương, cơ sở. Xây dựng cơ chế và các hình thức thích hợp
để nhân dân, cán bộ, công chức được bàn bạc, tham gia ý kiến, lấy ý kiến của nhân dân đối với các chủ trương, chính
sách lớn của Đảng và nhà nước.
- Đổi mới nâng cao chất lượng công tác lập pháp và giám sát tối cao của quốc hội đối với toàn bộ hoạt
động của nhà nước.
- Cải cách nền hành chính nhà nước : là trọng tâm của việc xây dựng, hoàn thiện nhà nước, trước mắt tập trung
những nhiệm vụ cơ bản : Về cải cách thể chế hành chính: đẩy mạnh cải cách thể chế và thủ tục hành chính trên những
lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân, giảm tối đa cơ chế “xin-cho”; tổng kết kinh nghiệm thực hiện cơ chế
thực hiện cơ chế một cửa để chỉ đạo áp dụng rộng rãi trên toàn quốc. Đồng thời với việc xắp xếp tinh gọn, cắt bỏ khâu
trung gian những bộ phận chéo chức năng, nhiệm vụ, ngăn chặn tệ cửa quyền, tham nhũng, hối lộ, vi phạm pháp luật.
Về tổ chức bộ máy: chấn chỉnh cơ cấu tổ chức, biên chế, quy chế hoạt động của bộ máy hành chính các cấp làm cho
bộ máy tinh gọn và thực thi có hiệu lực từ TW đến địa phương, cơ sở. Xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của mỗi cấp nhằm tạo điều kiện thuận lợi giải quyết kịp thời những vấn đề đặt ra mà nhân dân đòi hỏi.
- Cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp: các cơ quan tư pháp phải là mẫu mực trong việc tuân thủ pháp luật,
phải thể hiện công lý, tính dân chủ, công khai trong hoạt động, hình thành các toà án chuyên nghành và nâng cao năng
lực xét xử. Phân định rõ chức năng công tố và kiểm sát của VKSND, nâng cao chất lượng công tố (điều tra, luận tội)
tránh những chồng chéo giữa thanh tra nhà nước và Viện kiểm sát. Đồng thời với việc khắc phục tình trạnh tồn đọng án
quá nhiều, quá lâu hoặc dây dưa kéo dài thời gian thi hành án.
- Kiên quyết đấu tranh thường xuyên và có hiệu quả tệ nạn tham nhũng trong bộ máy nhà nước các cấp
nhằm xây dựng một nhà nước trong sạch, vững mạnh.
- Nâng cao chất lượng và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có chất lượng chính trị và chất lượng
chuyên môn “xây dựng đội ngũ cán bộ công chức, trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp, vững vàng về
chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức, năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân”.
- Tăng cường sự lãn 4-9
ủa Đảng đối với nhà nước trong tình hình mới trên cơ sở xây dựng, chỉnh đốn
Đảng theo Nghị quyết ĐH VIII, NQ TW3, NQ TW6 (lần 2), Nghị quyết TW 7 khoá VIII nhằm chấn chỉnh kịp thời cán bộ,
Đảng viên làm trong sạch các tổ chức Đảng từ TW đến cơ sở, nâng cao năng lực và sức chiến đấu cùa Đảng trong tình hình mới. Kết luận :
Tóm lại, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là một nhà nước được tổ chức và vận hành theo nguyên tắc “chủ
quyền tối thượng thuộc về nhân dân”, lấy pháp luật XHCN làm công cụ để điều hành - quản lý xã hội, lấy liên minh công
– nông – đội ngũ trí thức làm nền tảng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, hoạt động theo nguyên tắc thống nhất về
quyền lực nhưng có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan trong 3 mặt hành pháp, tư pháp và lập pháp. Đổi mới
tổ chức, hoạt động của nhà nước theo nguyên tắc trên là công việc vừa cơ bản, vừa cấp bách và cần phải tính toán kỹ
từng bước đi thích hợp. Nếu chúng ta quán triệt đầy đủ và thực hiện tốt nhưng yêu cầu và phương hướng đã được
Đảng đề ra trong việc kiện toàn hoạt động bộ máy nhà nước thì nhà nước pháp quyền XHCNVN sẽ được thiết định
vững chắc, ngày càng phát triển về mọi mặt, đủ sức xây dựng thành công CNXH ở nước ta.