Câu hỏi ôn tập Triết Cao học - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là cơ sở lý luận của thế giới quan khoa học ; là khoa học vềnhững quy luật chung nhất của sự vận động và phát triển trong tự nhiên , xã hội và tư duy. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác -Lênin (THML01)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
CÂU 1 :
1.Nội dung cơ bản và bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng? Tại sao nói chủ nghĩa
duy vật biện chứng là hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa học?
1.1 Nội dung và bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng là cơ sở lý luận của thế giới quan khoa học ; là khoa học về
những quy luật chung nhất của sự vận động và phát triển trong tự nhiên , xã hội và tư duy
.Triết học Mác- Lenin là triết học duy vật , bởi triết học đó coi ý thức là tính chất của dạng vật
chất có tổ chức cao là bộ não người và nhiệm vụ của bộ não người là phản ánh giới tự nhiên .
Sự phản ánh có tính biện chứng bởi nhờ nó mà con người nhận thức được mối quan hệ qua lại
chung nhất giữa các sự vật ,hiện tượng của thế giới vật chất ; đồng thời nhận thức được rằng ,
sự vận động và phát triển của thế giới là kết quả của các mâu thuẫn đang tồn tại bên trong thế
giới đnag vận động đó . -
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cao nhất trong các hình thức của chủ nghĩa
duy vật . Bản chất của nó thể hiện ở
+ Giaỉ quyết duy vật biện chứng các vấn đề cơ bản của triết học
+ Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng và tạo nên chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ là phương pháp giải thích ,
nhận thức thế giới mà còn là phương pháp cải tạo thế giới của giai cấp công nhân
trong quá trình cải tạo và xây dựng xã hội
+ Quan niệm duy vật vê lịch sử là cuộc cách mạng trong học thuyết về xã hội
+ Sự thống nhất giữa tính khoa học với tính cách mạng , giữa lý luận và thực tiễn tạo
nên tính sáng tạo của triết học Mác. -
Nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng gồm nhiều bộ phận nhưng cơ bản nhất là
bản thể luận duy vật biện chứng , nhận thức luận biện chứng duy vật và biện chứng
duy vật về xã hội .Với bản chất và nội dung như vậy ,chủ nghĩa duy vật có chức năng
thế giới quan duy vật biện chứng và chức năng phương pháp luận biện chứng duy
vật ,tạo cơ sở cho sự định hướng trong hoạt động nhận thức và hoạt đông thực tiễn
b. Bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Chủ nghĩa duy vật biện chứng như đã phân tích cụ thể ở trên chính là hình thức cao nhất trong
các hình thức của chủ nghĩa duy vật. Bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng được thể
hiện ở các khía cạnh sau: Giải quyết duy vật biện chứng vấn đề cơ bản của triết học; Sự thống
nhất giữa chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng tạo nên chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật biện chứng không chỉ là phương pháp giải thích, nhận thức thế giới, mà chủ
nghĩa duy vật biện chứng còn là phương pháp cải tạo thế giới của giai cấp công nhân trong
quá trình cải tạo và xây dựng xã hội; Quan niệm duy vật về lịch sử là cuộc cách mạng trong
học thuyết về xã hội; Sự thống nhất giữa tính khoa học với tính cách mạng, lý luận với thực
tiễn tạo nên tính sáng tạo của triết học Mác – Lênin.
1.2 Tại sao nói chủ nghĩa duy vật biện chứng là hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa học?
Để tồn tại, loài người phải thích nghi với môi trường sống của mình, nhưng con người không
thích nghi với thế giới bên ngoài một cách thụ động, mà luôn luôn tìm cách biến đổi thế giới
đó theo những yêu cẩu cuộc sống của mình. Con người phải hiểu thế giới xung quanh cũng
như về chính bản thân con người. Đó là thế giới quan.
Theo quan điểm Mác Lê-nin đưa ra cách hiểu về thế giới quan như sau: “Thế giới quan là
toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và
vị trí của con người trong thế giới đó”. Thế giới quan đóng vai trò định hướng cho toàn bộ
cuộc sống của con người, từ thực tiễn đến hoạt động nhận thức thế giới cũng như tự nhận thức
bản thân để từ đó xác định lý tưởng, hệ giá lối sống, nếp sống của mình. Trong thế giới quan
có sự hoà nhập giữa tri thức và niềm tin. Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành thế giới
quan, song nó chỉ gia nhập thế giới quan khi nó đã trở thành niềm tin định hướng cho hoạt động của con người.
Xét theo quá trình phát triển thì có thể chia thế giới quan thành ba loại hình cơ bản:
+Thế giới quan huyền thoại: Thế giới quan huyền thoại là phương thức cảm nhận thế giới của
người nguyên thủy. Ở thời kỳ này, các yếu tố tri thức và cảm xúc, lý trí và tín ngưỡng, hiện
thực và tưởng tượng, cái thật và cái ảo, cái thần và cái người, v.v. của con người hoà quyện
vào nhau thể hiện quan niệm về thế giới.
+ Thế giới quan tôn giáo: Trong thế giới quan tôn giáo, niềm tin tôn giáo đóng vai trò chủ
yếu; tín ngưỡng cao hơn lý trí, cái ảo lấn át cái thực, cái thần vượt trội cái người.
+ Thế giới quan triết học: Triết học diễn tả quan niệm của con người dưới dạng hệ thống các
phạm trù, quy luật đóng vai trò như những bậc thang trong quá trình nhận thức thế giới. Triết
học được coi như trình độ tự giác trong quá trình hình thành và phát triển của thế giới quan.
Nếu thế giới quan được hình thành từ toàn bộ tri thức và kinh nghiệm sống của con người
trong đó tri thức của các khoa học cụ thể là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành những quan
niệm nhất định về từng mặt, từng bộ phận của thế giới, thì triết học, với phương thức tư duy
đặc thù đã tạo nên hệ thống lý luận bao gồm những quan niệm chung nhất về thế giới với tư
cách là một chỉnh thể.
Triết học là nhận thức có tính hạt nhân lý luận của thế giới quan, là hệ thống các quan điểm lý
luận chung nhất về thế giới và về vị trí của con người trong thế giới đó. Triết học là thế giới
quan và nhân sinh quan của con người khi xem xét thế giới và loài người trong mối quan hệ
giữa ý thức và vật chất, giữa con người với con người trong tự nhiên và xã hội.
Như vậy, triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới
quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri
thức do các khoa học đưa lại; triết học giữ vai trò định hướng cho quá trình củng cố và phát
triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử.
CÂU 2 : Phân tích nội dung, ý nghĩa phương pháp luận của các quy luật cơ bản của
phép biện chứng duy vật và sự vận dụng nó trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
2.1. Nội dung ,ý nghĩa phương pháp luận của các quy luật cơ bản của phép biến chứng duy vật
a.Quy luật Lượng –chất
- Nội dung của quy luật Lượng – chất
Lượng là phạm trù triết học được dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số
lượng, quy mô trình độ của sự vận động và phát triển cũng như là các thuộc tính khác đã cấu thành lên sự vật.
Đặc trưng của lượng sẽ được biểu thị bằng con số hoặc các đại lượng chỉ kích thước dài hoặc
ngắn, quy mô, tổng số hay trình độ. Nhưng đối với các trường hợp phức tạp thì không thể chỉ
diễn tả bằng những con số đòi hỏi sự chính xác cao mà còn phải được nhận thức bằng khả năng trừu tượng hóa.
Theo Mac – Lênin thì lượng là cái khách quan vốn có bên trong của sự vật. Toàn bộ sự so
sánh giữa lượng và chất chỉ là tương đối, không có tuyệt đối.
Chất chính là chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, được coi là sự thống nhất hữu
cơ của những thuộc tính làm cho sự vậy là nó chứ không phải những sự vật khác.
Từ đó có thể thấy chất và thuộc tính không thể đồng nhất với nhau. Bởi mỗi sự vật, hiện
tượng đều chứa đựng rất nhiều thuộc tính, nhưng những thuộc tính này không thể cùng tham
gia vào việc quy định chất như nhau, mà chỉ có những thuộc tính cơ bản nhất mới có thể
quyết định được bản chất của sự vật.
Do đó, chỉ khi nào những thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất của sự vật mới thay đổi theo,
đồng nghĩa với việc khi các thuộc tính không cơ bản dù có thay đổi hay không thì cũng không
làm biến đổi bản chất của sự vật.
Tuy nhiên các thuộc tính cũng như chất của sự vật sẽ luôn có mối quan hệ cụ thể với nhau, vì
vậy việc phân biệt này chỉ mang tính tương đối. -
Y nghĩa phương pháp luận
Quá trình vận động và phát triển của sự vật diễn ra theo chiều hướng tích lũy về lượng đến
một giới hạn nhất định, sau đó sẽ chuyển hóa về chất. Từ đó đã rút ra được những tư tưởng
mang tính định hướng, hạn chế được tư tưởng chủ quan, duy ý chí trong việc thực hiện những bước nhảy vọt.
Trong quá trình hoạt động thì con người luôn vận dụng linh hoạt các hình thức khác nhau. Và
sự vận dụng này tùy thuộc vào việc phân tích đúng đắn những điều kiện khách quan tùy vào
từng trường hợp cụ thể.
Mặt khác, xã hội loài người đang càng ngày phát triển, đa dạng theo chiều hướng tích cực do
rất nhiều yếu tố tác động thành, từ đó ta cần thực hiện đổi mới thành công trên từng lĩnh vực
nhất định của đời sống xã hội để tạo ra các bước nhảy về chất.
Do đó để có thể thực hiện các bước nhảy vọt thì trước hết phải thực hiện các bước nhảy cục
bộ để làm thay đổi từng yếu tố của chất.
b. Quy luật mâu thuẫn
Nội dung của quy luật mâu thuẫn
Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối
lập tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân nó, sự thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập là nguồn gốc của sự vận động và phát triển, làm cho cái cũ mất đi cái mới ra đời.
+ Sự vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng mà nguyên nhân chính
tạo nên nguồn gốc của là sự tác động lẫn nhau giữa chúng và giữa các mặt đối lập trong chúng.
+ Các sự vật, hiện tượng có hai loại tác động lẫn nhau dẫn đến vận động, đó
là sự tác động lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng và sự tác động lẫn nhau giữa
các mặt đối lập trong một sự vật, hiện tượng nhưng chỉ loại tác lẫn nhau giữa các mặt đối lập
do mâu thuẫn giữa chúng tạo nên mới làm cho sự vật, hiện tượng phát triển. * Các loại mâu thuẫn:
+ Dựa vào quan hệ đối với sự vật được xem xét: ta có mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
+ Dựa vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật: ta có
mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản
+ Dựa vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật
trong một giai đoạn nhất định: mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
+ Dựa vào tính chất của các quan hệ lợi ích trong xã hội: phân chia than mâu
thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng
Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật mâu thuẫn:
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn chúng ta cần phải nắm vững quy luật
thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập để rút ra được ý nghĩa phương pháp luận quan trọng:
Thứ nhất, để nhận thức đúng, đầy đủ bản chất của sự vật, hiện tượng trước
hết phải nhận thức sự vật, hiện tượng như một thực thể đồng nhất, tiếp đó phải
nghiên cứu những mặt khác nhau, những mặt đối lập và tác động qua lại giữa các
mặt đối lập để nhận biết mâu thuẫn và nguồn gốc của sự vận động và phát triển.
Thứ hai, thông qua việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh giữa
các mặt đối lập sẽ giúp chúng ta nhận thức đúng bản chất của sự vật và tìm ra
phương hướng, giải pháp đúng cho hoạt động nhận thức thực tiễn của bản thân.
Thứ ba, phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn phù hợp với từng
loại mâu thuẫn, trình độ phát triển của mâu thuẫn. Không được điều hòa mâu thuẫn.
Phải tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng để giải quyết mâu thuẫn khi
điều kiện đã chín muồi.
c. Quy luật phủ định của phủ định
- Nôi dung của quy luật
Thế giới vận động không ngừng thông qua quá trình phủ định của phủ định; tức là sự vật mới
ra đồi như là kết quả của sự phủ định biện chứng cái cũ, rồi đến lược nó bị cái mới hơn phủ
định, cứ thế tạo ra khuynh hướng vận động và phát triển của sự vật từ thấp đến cao 1 cách vô
tận theo hình xoắn ốc; sau mỗi chu kỳ của sự phát triển, sự vật lại trở lại cái ban đầu nhưng
trên cơ sở mới, cao hơn.
Sự phát triển theo khuynh hướng phủ định của phủ đinh đã từng được các nhà biện chứng tự
phát nêu ra, song do chưa nhận thức sâu sắc tính biện chứng của quá trình phát triển nên đã
tuyệt đối hóa tính ;lặp lại sau 1 chu kỳ phát triển, coi đó như là 1 quá trình diễn ra theo vòng tròn khép kín.
Những nhà triết học duy vật biện chứng thì cho rằng sự vận động diễn ra theo nhiều xu
hướng, tính vô cùng vô tận của thế giới vật chất cũng được biểu hiện trong tính vô cùng vô
tận của các khuynh hướng vận động; theo đó sự vận động theo vòng tròn khép kín chỉ là 1
trong những khuynh hướng có thể, đó không phải là khuynh hướng duy nhất.
Sự phát triển biện chứng thông qua nhiều lần phủ định biện chứng, chính là sự thống nhất loại
bỏ, kế thừa và phát triển; mỗi lần phủ định biện chứng sẽ mang ;lại những nhân tố tích cực
mới; do đó sự phát triển thông qua những lần phủ định biện chứng sẽ tạo ra xu hướng tiến lên
không ngừng; sự phát triển tiến lên không ngừng đó, không phái diễn ra theo đường thẳng mà
theo đường xoắn ốc, mỗi vòn xoáy biểu hiện một trình độ cao hơn của sự phát triển.
Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển do mâu thuẫn; mỗi lần phủ định là kết
quả đấu tranh chuyển hóa các mặt đối lập trong bản thân sự vật, sự phủ định lần thứ nhất được
thực hiện một cách căn bản sẽ làm cho sự vật cũ trở thành cái đối lập của mình; lần phủ định
tiếp theo dẫn đến sự ra đời của sự vật mới mang nhiều đặc trưng đối lập với cái trung gian,
như vậy về hình thức sẽ trở lại cái xuất phát nhưng về thực chất không phải giống nguyên cái
cũ, mà dường như lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn. -
Y nghĩa phương pháp luận
Quy luật phủ định của phủ định giúp ta hiểu biết 1 cách đúng đắn về xu hướng của sự phát
triển và được diễn ra trong quá trình quanh co, phức tạp, đặc biệt là trong lĩnh vực đời sống xã hội.
Quy luật phủ định của phủ định giúp ta có cái nhìn về xu thế của thời đại mà ta đang sống,
mặc dù hệ thống XHCN đã tan rã, qua đó xây dựng niềm tin tất thắng của CNXH đối với CNTB.
Quy luật phủ định của phủ định giúp ta hiểu biết đầy đủ hơn về cái mới, cái mới là cái ra đời
phù hợp với quy luật phát triển của sự vật, nó luôn biểu hiện là giai đoạn cao về chất trong sự
phát triển, trong lĩnh vực tự nhiên cái mới ra đời mang tính tự phát, trong lĩnh vực xã hội cái
mới xuất hiện gắn liền với sự nhận thức và hoạt động có ý thức của con người, qua đó xây
dựng thái độ ủng hộ cái mới, đấu tranh loại trừ cái cũ trong đời sống xã hội
Câu 3:Khái niệm phương pháp và phương pháp luận. Trình bày nội dung những
nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy vật đối với quá trình
nhận thức khoa học?
3.1Khái niệm phương pháp vá phương pháp luận
Về định nghĩa phương pháp
Phương pháp chính là hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ tri thức về các quy luật khách
quan để điều chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện mục tiêu nhất
định; là cách thức xây dựng và tạo lập cơ sở cho các hệ thống triết học và tri thức khoa học; là
tổng số cách tiếp nhận và các hành động chinh phục thế giới hiện thực bằng lý luận hay thực tiễn.
Về định nghĩa phương pháp luận
Phương pháp luận là hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát chỉ đạo chủ thể
trong việc xác định phương pháp cũng như trong việc xác định phạm vi, khả năng áp dụng
chúng một cách hợp lý, có hiệu quả tối đa.
3.2 Nội dung các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy vật đối
với quá trình nhận thức khoa học
-. Nguyên tắc khách quan
Với nguyên tắc này, nhận thức về sự vật phải xuất phát từ chính bản thân sự vật hiện tượng đó
với những thuộc tính, mối liên hệ bên trong vốn có của nó.
Vì vậy, nhận thức cần đạt tới cái bản chất, cái quy luật chi phối sự vật. Đây là quá trình khó
khăn và phải trải qua nhiều giai đoạn, bởi lẽ cái bản chất thể hiện qua vô vàn các hiện tượng
phong phú, đa dạng, phức tạp và luôn vận động, biến đổi.
Bằng thực tiễn, thông qua thực tiễn, kết quả của hoạt động thực tiễn cho phép đánh giá tri
thức ấy có khách quan, đúng đắn hay không. V.I.Lênin viết: “Quan điểm về đời sống, về thực
tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”(1).
Vì vậy, trong nhận thức cần tránh thái độ thụ động, chủ quan, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng
tạo, mà cần chủ động, tích cực, thông qua hoạt động thực tiễn của con người để nhận biết
đúng các thuộc tính, các cấp độ bản chất, các hệ thống quy luật chi phối sự vật.
=> Như vậy, nguyên tắc khách quan là điều kiện cần thiết cho mọi nhận thức khoa học. Nếu
nhận thức và phương pháp hoạt động của chủ thể không tôn trọng quy luật khách quan, nếu
hoạt động thực tiễn không tuân theo quy luật khách quan, chúng ta sẽ phải gánh những kết quả không như mong muốn.
- Nguyên tắc toàn diện, phát triển và lịch sử
+ Nguyên tắc toàn diện
Theo V.I.Lênin đã viết rằng: “Muốn thực sự thấu hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và
nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó. Chúng
ta không thể làm được điều đó một cách hoàn toàn đầy đủ, nhưng sự cần thiết phải xem xét tất
cả mọi mặt sẽ đề phòng cho chúng ta khỏi phạm phải sai lầm và sự cứng nhắc”(2). Những chỉ
dẫn trên của V.I.Lênin nhắc nhở con người trong nhận thức, muốn biết chân tướng của sự vật
cần phải xem xét sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính
khác nhau của nó; phải xem xét sự vật, hiện tượng này trong mối liên hệ với sự vật hiện tượng
khác kể cả khâu trung gian của nó, phải xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn để
từ đó thấy được vị trí, vai trò của các mối liên hệ giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng
hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Qua đó, xác định được những quan hệ trọng tâm
trọng điểm cần được giải quyết trong những điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Nguyên tắc
toàn diện này cũng chỉ ra rằng, một luận điểm là đúng đắn trong những quan hệ này lại trở
thành sai lầm trong những quan hệ khác, một luận điểm, một hướng đi, một cách làm là đúng
đắn, hữu ích trong điều kiện này lại có thể là không phù hợp, có hại trong điều kiện khác.
+ Về nguyên tắc phát triển
Phép biện chứng duy vật chỉ ra rằng, liên hệ là quá trình tác động qua lại - cái tạo thành
“nguyên nhân cuối cùng của mọi sự vận động và biến đổi của sự vật”. Cho nên, mối liên hệ
phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng là nguyên nhân tạo nên sự vận động của chúng. Cũng
chính do có mối liên hệ phổ biến mà trong thế giới khách quan luôn tồn tại xu hướng phát
triển không ngừng. Vật chất không vận động đi tới tiêu vong mà tạo ra sự chuyển hóa (biến
đổi) theo những hướng khác nhau, trong đó có khuynh hướng vận động theo chiều hướng đi
lên, từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn (gọi là phát triển).
Các chủ thể cần nhận thức và chuẩn bị các điều kiện cần thiết, các phương pháp hành động
cho phù hợp để có được những biến đổi theo chiều hướng phát triển. Đây là quá trình phức
tạp, bởi lẽ, sự biến đổi theo chiều hướng phát triển của hiện thực là quá trình vận động có tính
quy luật nội tại, diễn ra trong nó, là quá trình phủ định biện chứng, phủ định có kế thừa.
+ Về nguyên tắc lịch sử
Xem xét hiện tượng xã hội, V.I. Lênin chỉ dẫn rằng, cần phải “xem xét vấn đề theo quan điểm
sau đây: một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã
trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào, và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó
để xem xét hiện nay nó đã trở thành thế nào?”.
Phép biện chứng duy vật không chỉ là một lý luận khoa học cho phép phản ánh đúng đắn các
sự vật, hiện tượng, nó còn là một công cụ sắc bén để mổ xẻ, phân tích các vấn đề xã hội và
tìm ra các giải pháp thích hợp cho từng giai đoạn phát triển lịch sử cụ thể. Chính nhờ công cụ
sắc bén này, chủ nghĩa Mác đã tìm ra các quy luật vận động của xã hội, đã nhìn xã hội như
một cơ thể sống luôn vận động, biến đổi do những mối liên hệ nội tại của nó tạo ra; thấy được
vai trò quyết định của điều kiện vật chất, của cơ sở kinh tế nhưng cũng thấy vai trò hết sức to
lớn của kiến trúc thượng tầng chính trị, của tư tưởng, văn hóa... Điều đó đã khắc phục được tư
tưởng duy tâm, siêu hình, lối nhìn nhận phản biện chứng trước đây. Khái lược điều đó cho
thấy các nguyên tắc phương pháp luận của phép biện chứng duy vật là những nguyên tắc cơ
bản để nhận thức về các mối quan hệ lớn ở nước ta hiện nay.
CÂU 4 : Khái niệm thực tiễn và lý luận? Những yêu cầu cơ bản và ý nghĩa phương pháp
luận của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn? Sự vận dụng nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn trong cách mạng Việt Nam. BÀI LÀM
4.1 Khái niệm thực tiễn và lý luận
+ Khái niệm thực tiễn:
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng thực tiễn là hoạt động nhận thức, hoạt động tinh thần.
Các nhà tôn giáo cho hoạt động sáng tạo ra vũ trụ của những lực lượng siêu nhiên là thực tiễn.
Có nhà triết học duy vật trước Mác cho rằng: hoạt động thực nghiệm khoa học là thực tiễn.
Đây là quan niệm đúng nhưng chưa đầy đủ.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng: thực tiễn là một phạm trù triết học chỉ toàn bộ hoạt động vật
chất - cảm tính có tính lịch sử xã hội của con người nhằm mục đích cải tạo tự nhiên và xã hội.
+Khái niệm lý luận:
Theo chủ nghĩa DVBC, lý luận là hệ thống những tri thức, được khái quát từ kinh nghiệm
thực tiễn, phản ánh những mối quan hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của các sự vật
hiện tượng trong thế giới và được biểu đạt bằng hệ thống, nguyên lý, quy luật, phạm trù. Lý
luận là kết quả của quá trình phát triển cao của nhận thức, là trình độ cao của nhận thức.
4.2Những yêu cầu cơ bản và ý nghĩa phương pháp luận của nguyên tắc thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn .
+ Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý luận
Đúng vậy, thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý luận; lý luận hình
thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn
Thực tiễn là cơ sở của lý luận.
- Thực tiễn là cơ sở của nhận thức là do nhu cầu của hoạt động thực tiễn buộc con người phải nhận thức thế giới.
- Thực tiễn là cơ sở của nhận thức là vì nhờ hoạt động thực tiễn, các giác quan và bộ não của
con người không ngừng được hoàn thiện và phát triển, tạo ra năng lực tư duy trừu tượng ngày càng cao.
- Thực tiễn là cơ sở của nhận thức là vì nhờ thông qua lao động, thực tiễn trang bị cho con
người công cụ, phương tiện nhận thức ngày càng tinh vi hơn, giúp con người đẩy nhanh quá
trình tìm hiểu bản chất sự vật, hiện tượng, mở rộng tầm bao quát những quá trình đang diễn ra trong thế giới.
Thực tiễn là động lực của lý luận.
- Hoạt động thực tiễn là nguồn gốc để con người hoàn thiện mình và hoàn thiện các mối quan
hệ với tự nhiên, với xã hội.
- Hoạt động thực tiễn tạo cơ sở để con người khái quát tri thức thành lý luận, làm lý luận phản
ánh hiện thực ngày càng đầy đủ, phong phú và sâu sắc hơn.
- Nhờ vậy, thực tiễn thúc đẩy sự hình thành khoa học lý luận.
Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận.
- Tính chân lý của lý luận là sự phản ánh phù hợp của lý luận với hiện thực khách quan mà nó
phản ánh và đã được thực tiễn kiểm nghiệm. Giá trị của lý luận phải được thực tiễn chứng minh.
- Không phải mọi thực tiễn đều là tiêu chuẩn của lý luận, bởi thực tiễn cũng vận động, phát
triển và chuyển hoá. Nếu lý luận chỉ phản ánh một trong những giai đoạn nào đó của thực
tiễn, thì lý luận chỉ mới chỉ là tương đối; chỉ có những lý luận nào phản ánh được thực tiễn
trong tính toàn vẹn của nó mới đạt đến chân lý.
Lý luận phải được vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn
Khi thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận; ngược lại, lý luận phải được vận dụng vào thực
tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn
Lý luận có khả năng soi đường cho thực tiễn bằng các chức năng định hướng mục đích; xác
định lực lượng, phương pháp và biện pháp thực hiện mục đích; cụ thể:
- Lý luận định hướng mục đích. Ban đầu, hoạt động chỉ để đáp ứng nhu cầu tồn tại và thông
qua đó, khái quát thành lý luận; về sau hoạt động muốn có hiệu quả cần có lý luận soi đường,
hoạt động từ bản năng chuyển sang tự giác.
- Lý luận có khả năng xác định lực lượng, phương pháp và biện pháp thực hiện mục đích.
- Lý luận dự báo khả năng phát triển, những khả năng có thể xẩy ra trong quá trình hoạt động,
bởi vậy lý luận không những giúp hoạt động hiệu quả, mà còn là cơ sở để khắc phục những
hạn chế và tăng cường năng lực hoạt động của con người.
Lý luận có vai trò giác ngộ mục tiêu, lý tưởng; liên kết các cá nhân thành cộng đồng, tạo ra
sức mạnh trong cải tạo tự nhiên, xã hội.
Lý luận phải trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn, kiểm nghiệm trong thực tiễn và tiếp tục bổ
sung, phát triển trong thực tiễn; chống lý luận suông và sự lạc hậu của lý luận so với thực tiễn.
Ý nghĩa phương pháp luận
- Phải có quan điểm thực tiễn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm thực tiễn yêu cầu:
Một là, nhận thức sự vật phải gắn với nhu cầu thực tiễn của con người. Đường lối, chủ
trương, CS của Đảng, pháp luật của nhà nước, Chính sách của địa phương của ngành chỉ đúng
đắn, phù hợp khi nó đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn, phù hợp với TT, xuất phát từ thực
tiễn của địa phương, của ngành và đất nước.
Hai là, nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học phải gắn với hành -> Bám sát
TT, hướng vào thực tiễn. Vận dụng LL vào CMVN, vào công tác cán bộ
Ba là, phải chú trọng công tác tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện phát triển lý
luận cũng như chủ trương, đường lối, chính sách. TT luôn vận động và biến đổi không ngừng
vì vậy cần phải thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung và phát triển nhận thức nâng lên
thành LL để LL ấy quay lại phục vụ cho TT. Việc tổng kết TT làm cho con người có thêm
nhiều tri thức mới, bài học kinh nghiệm. Trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta phải luôn
chú ý đến việc tổng kết thực tiễn để có những định hướng phù hợp với tình hình đất nước và
thời đại -> Đẩy mạnh công tác nghiên cứu LL, tổng kết có hệ thống sự nghiệp XD và BV Tổ
quốc, rút ra những kết luận đúng đắn.
- Phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng sai của lý luận. Phải luôn tôn trọng TT,
căn cứ vào TT để kiểm tra tính đúng đắn của nhận thức lý luận cũng như đường lối, chủ
trương, chính sách…Một đường lối, chủ trương đúng đắn hay sai lầm chỉ có thể nhận biết qua
thực tiễn, vận dụng vào TT
- Trong hoạt động thực tiễn phải chủ động ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm (là
khuynh hướng tư tưởng và hành động tuyệt đối hóa kinh nghiệm thực tiễn, đề cao vốn kinh
nghiệm bản thân, coi thường, hạ thấp lý luận, không chịu nâng cao trình độ lý luận) và bệnh
giáo điều (khuynh hướng tư tưởng và hành động tuyệt đối hóa lý luận, cường điệu vai trò của
LL, coi thường và hạ thấp kinh nghiệm thực tiễn; hoặc vận dụng kinh nghiệm của người khác,
ngành khác, địa phương khác, nước khác một cách rập khuôn máy móc, không tính đến điều
kiện thực tiễn cụ thể của mình).
- Trong công tác, mỗi cán bộ phải gương mẫu thực hiện phương châm “nói đi đôi với làm” ,
tránh nói một đằng, làm một nẻo ; nói nhiều làm ít ; nói mà không làm...
4.2 Sự vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong cách mạng Việt Nam.
- Những năm đầu thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã tìm hiểu, nghiên cứu sâu sắc truyền thống
văn hóa dân tộc, học tập những tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt nghiên cứu thực tiễn của
những cuộc cách mạng trong và ngoài nước, đúc kết thành những vấn đề lí luận cơ bản cho
đường lối cách mạng Việt Nam. Người đã vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê nin, tập hợp được lực
lượng, tổ chức đấu tranh cách mạng giành độc lập dân tộc.
- Đảng và nhân dân ta tiếp tục vận dụng sáng tạo Lý luận của CN Mác Lênin và và tư tưởng
Hồ Chí Minh vào thực tiễn vào cách mạng Việt Nam giành những thắng lợi vẻ vang, thống
nhất hoàn toàn đất nước. Những đường lối chủ trương cơ bản đúng đắn của Đảng đưa cách
mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác đã khẳng định sự vận dụng biện chứng
giữa lý luận và thực tiễn của Đảng ta.
- Sau khi đất nước thống nhất, cả nước tiến lên xây dựng CNXH bước đầu đạt những thành
tựu. Tuy nhiên, trước thời kỳ đổi mới, trong quá trình đấu tranh cải tạo, xây dựng xã hội mới,
chúng ta mắc phải những lệch lạc, sai lầm. Đôi khi chủ quan duy ý chí, rơi vào bệnh giáo
điều, đề cao lý luận; lý luận không bám sát thực tiễn hoặc rập khuôn máy móc, giáo điều về
con đường đi lên CNXH hoặc nóng vội đốt cháy giai đoạn một cách thiếu biện chứng. Do
không nhận thức đúng đắn về con đường quá độ lên CNXH, về quy luật về sự phù hợp của
QHSX với trình độ của LLSX nên đã dẫn đến những chỉ đạo sai lầm trong thực tiễn. Cụ thể,
tiến hành cải tạo XHCN nóng vội, duy ý chí, áp dụng rập khuôn mô hình của các nước XHCN
khác, vội vàng xóa bỏ một số thành phần KT (KTTB Tư nhân) trong khi nó đang tạo địa bàn
cho sự phát triển của LLSX, dẫn đến LLSX bị lãng phí, nền kinh tế đất nước bị kìm hãm,
chậm phát triển, đời sống XH gặp nhiều khó khăn, nhất là từ sau 1975 đến trước Đại hội đại
biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI năm 1986. Đó còn là việc duy trì quá lâu cơ chế
quản lý kinh tế tập trung bao cấp (chỉ phù hợp trong giai đoạn chiến tranh) trong khi thực tiễn
không còn phù hợp nữa. Do đó hiện nay, nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng
XHCN, trong đó KTNN là chủ đạo.
- Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, trước những vận động và biến đổi nhanh chóng của
thế giới, trong thời đại toàn cầu hóa, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ
biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Từ Đại hội Đảng lần thứ VI trở đi, Đảng Cộng sản Việt
Nam thực sự chú trọng đến hiệu quả của hoạt động thực tiễn. Đảng ta đã tiến hành tổng kết
thực tiễn 30 năm đổi mới, đúc kết thành lý luận (nhất là vấn đề con đường đi lên CNXH), tiếp
tục đổi mới về nhận thức tư duy, nhất là tư duy kinh tế, gắn lý luận với thực tiễn, kịp thời nắm
bắt xu thế của thời đại để xây dựng những đường lối, chủ trương đúng đắn để phát triển đất nước.
Đảng cần phải nắm vững và vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển CN Mác Lê và TTHCM,
không ngừng làm giàu trí tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực tổ chức của mình để đủ sức giải
quyết các vấn đề từ thực tiễn cách mạng đặt ra, đề ra đường lối đổi mới đúng đắn.
- Không ít cán bộ, đảng viên quá đề cao thực tiễn, xem nhẹ lý luận, sa vào chủ nghĩa kinh
nghiệm, tự mãn, thiếu sáng tạo, chậm bắt nhịp cuộc sống và xu thế vận hành, phát triển chung
của thời đại, đẩy đất nước đến nguy cơ tụt hậu. Để khắc phục bệnh kinh nghiệm và giáo điều
cần phải coi trọng cả LL lẫn TT, đồng thời phải tăng cường nâng cao trình độ lý luận và trình
độ hiểu biết của CB đảng viên, khả năng nắm bắt, tổng kết hoạt động thực tiễn.
CÂU 5 : Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất? Sự
vận dụng mối quan hệ này trong quá trình đổi mới ở Việt Nam?
5.1 Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Quy luật về sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn
tại không tách rời nhau mà tác động biện chứng lẫn nhau hình thành quy luật phổ biến
của toàn bộ lịch sử loài người, quy luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất. Quy luật này vạch rõ tính chất phụ thuộc khách quan của
quan hệ sản xuất và phát triển của lực lượng sản xuất. Đến lượt mình, quan hệ sản xuất
tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản của sự phát triển xã hội
loài người. Sự tác động của nó trong lịch sử làm cho xã hội chuyển từ hình thái kinh tế xã
hội thấp lên hình thái kinh tế xã hội cao hơn.
a. Những tác động của lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi và phát triển đều do lực lượng sản xuất quyết định.
Trong quá trình sản xuất, để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao hơn, con người
luôn luôn tìm cách cải tiến, hoàn thiện công cụ lao động mới tinh xảo hơn.Cùng với sự
phát triển của công cụ lao động thì kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, kĩ năng sản
xuất, kiến thức khoa học của con người cũng tiến bộ. Lực lượng sản xuất trở thành yếu tố
cách mạng nhất. Còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, có khuynh hướng lạc
hậu hơn là sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là nội dung của
phương thức sản xuất, còn quan hệ sản xuất là hình thái xã hội của nó. Trong mối quan hệ
giữa nội dung và hình thức thì hình thức phụ thuộc nội dung, nội dung quyết định hình
thức, nội dung thay đổi trước, sau đó hình thức mới biến đổi theo.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng hình thành và biến
đổi phù hợp với tính chất và trình độ của của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó là động
lực sản xuất phát triển mạnh mẽ. Khi lực lượng sản xuất phát triển lên một trình độ mới,
quan hệ sản xuất cũ không còn phù hợp nũa nên buộc phải thay thế bằng mối quan hệ
mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
b. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
Sự hình thành, biến đổi, phát triển của quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất. Nhưng quan hệ sản xuất là hình thức xã hội mà lực lượng sản
xuất dựa vào đó để phát triển, nó tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất: Có thể thúc
đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì nó trở thành
động lực cơ bản thúc đẩy mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển . Ngược lại quan hệ
sản xuất lỗi thời không còn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, bộc
lộ mâu thuẫn gay gắt với lực lượng sản xuất thì trở thành chướng ngại kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Song sự tác dụng kìm hãm đó chỉ là tạm thời, theo tính chất
tất yếu khách quan thì nó sẽ bị thay thế bằng kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Sở dĩ quan hệ sản xuất có tác động mạnh mẽ đối
với lực lượng sản xuất vì nó quy định mục đích của sản xuất, quy định hệ thống của tổ
chức, quản lý xã hội, quy định phương thức phân phối của cải ít hay nhiều mà người lao
động được hưởng. Do đó nó ảnh hưởng đến thái độ của lực lượng sản xuất chủ yếu của xã
hội (con người), nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến
công cụ lao động, áp dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật vào sản xuất, hợp tác và
phân công lao động. Mỗi kiểu quan hệ sản xuất là một hệ thống, một chỉnh thể hữu cơ
gồm ba mặt: Quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối. Chỉ trong chỉnh thể
đó quan hệ sản xuất mới trở thành động lực thúc đẩy hành động nhằm phát triển sản xuất.
c. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất qua sự tác động lẫn nhau.
Sự thống nhất và tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội hợp
thành phương thức sản xuất. Trong sự thống nhất biện chứng này, sự phát triển của lực lượng
sản xuất đóng vai trò quyết định đối với quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất phải phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất thường xuyên vận
động, phát triển nên quan hệ sản xuất cũng luôn luôn thay đổi nhằm đáp ứng yêu cầu phát
triển của lực lượng sản xuất. Từ mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất làm hình thành quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Đây là quy luật kinh tế chung của mọi phương thức sản xuất.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất là quy luật cơ bản của sự phát triển loài người. Sự tác động của nó trong lịch sử làm
cho xã hội chuyển từ hình thái kinh tế xã hội thấp lên hình thái xã hội cao hơn.
5.2 Vận dụng mối quan hệ này trong quá trình đổi mới ở Việt Nam
Đảng ta đã vận dụng sự phù hợp của mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay và tương lai.
Trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta đã khẳng định là: “Xây dựng nước
ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan
hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất
và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, văn minh”.
Chúng ta đều biết rằng từ trước tới nay công nghiệp hoá hiện đại hoá là khuynh hướng tất yếu
của tất cả các nước. Đối với nước ta, từ một nền kinh tế tiểu nông, muốn thoát khỏi nghèo
nàn, lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ của một nước phát triển thì tất yếu cũng phải
đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá như là: “Một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc
trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội”.
Trước những năm tiến hành công cuộc đổi mới chúng ta đã xác định công nghiệp hoá là
nhiệm vụ trung tâm của các thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Song về mặt nhận thức chúng
ta đã đặt công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở vị trí gần như đối lập hoàn toàn với công nghiệp
hoá tư bản chủ nghĩa. Trong lựa chọn bước đi đã có lúc chúng ta thiên về phát triển công
nghiệp nặng, coi đó là giải pháp xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội, mà
không coi trọng đúng mức việc phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Công nghiệp hoá
cũng được hiểu một cách đơn giản là quá trìng xây dựng một nền sản xuất được khí hoá trong
tất cả các nghành kinh tế quốc dân.
Công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá, kết hợp những bước tiến tuần tự về cônh nghiệp
với việc tranh thủ các cơ hội đi tắt, đón đầu, hình thành những mũi nhọn phát triển theo trình
độ tiên tiến của khoa học công nghệ thế giới. Mặt khác chúng ta phải chú trọng xây dựng nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo thị trường, có sự điều tiết của nhà nước và
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là hai nhiệm vụ được thực hiện đồng thời, chúng luôn
tác động thúc đẩy hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển . Bởi lẽ “Nếu công nghiệp hoá hiện đại hoá
tạo lên lực lượng sản xuất cần thiết cho chế độ xã hội mới, thì việc phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp”
CÂU 6 : Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội? Sự
vận dụng mối quan hệ này trong quá trình đổi mới ở Việt Nam?
6.1 Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội
Mỗi một xã hội đều có cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của nó , đây là 2 mặt của đời
sống xã hội và được hình thành một cách khách quan ,gắn liền với các điều kiện lịch sử cụ
thể .Không như các quan niệm duy tâm giải thích sự vận động của các quan hệ kinh tế bằng
những nguyên nhân thuộc về ý thức ,tư tưởng hay thuộc về vai trò của nhà nước và pháp
quyền, trong Lời Tựa góp phần phế phán Khoa Kinh tế chính trị ,C.Mác đã khẳng định :
Không thể lấy bản thân những quan hệ pháp quyền hay những hình thái nhà nước ,hay lấy cái
gọi là sự phát triển chung của tinh thần con người ,để giải thích những quan hệ và hình thái đó
,mà trái lại phải thấy rằng những hình thái và quan hệ đó bắt nguồn từ những điều kiện sinh hoạt vât chất . -
Thứ nhất vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng được thể hiện qua :
+ Mỗi một cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với
nó. Tính chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết
định.Trong xã hội có giai cấp ,giai cấp nào thống tri về kính tế thì cũng chiếm địa vị
thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội . Các mâu thuẫn trong kinh
tế ,xét đến cùng ,quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng ,chính trị ; cuộc
đấu tranh giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu hiện những đối kháng trong đời sống
kinh tế .Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước ,pháp quyền ,triết
học ,tôn giáo ..đều phụ thuộc trực tiếp hay gián tiếp vào cơ sở hạ tầng ,do cơ sở hạ tầng quyết định .
++ Khi cơ sở hạ tầng thay đổi kéo theo kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. Quá
trình thay đổi diễn ra không chỉ trong giai đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế – xã hội
này sang hình thái kinh tế – xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi hình
thái kinh tế – xã hội. Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến làm thay đổi kiến trúc thượng
tầng diễn ra rất phức tạp. Trong đó, có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay
đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi cơ sở hạ tầng như chính trị, pháp luật, -
Thứ hai tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
+ Tất cả các yếu tố cấu thành lên kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở hạ
tầng .Tuy nhiên mỗi yêu tố khác nhau có vai trò khác nhau ,có cách thức tác động khác nhau.
+ Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều
.Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì
nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển , nếu tác động ngược lại ,nó sẽ kìm
hãm sự phát triển kinh tế ,sự phát triển xã hội
+ Tuy kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển kinh tế, nhưng
không làm thay đổi được tiến trình phát triển khách quan của xã hội
6.2 Vận dụng mối quan hệ này trong quá trình đổi mới ở Việt Nam
Có thể thấy trong quá trình lãnh đạo cách mạng ,Đảng cộng sản Việt Nam đã rất quan tâm đến
nhận thức và vận dụng quy luật này .Điều đó thể hiện ở chỗ : trong thời kì đổi mới đất
nước ,ĐCS Việt Nam chủ trương đổi mới toàn diện về kinh tế và chính tri , trong đố đổi mới
kinh tế là trung tâm ,đồng thời đổi mới chính trị từng bước thận trọng vững chắc ,bằng những
hình thức ,bước đi thích hợp ,giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới- ổn đinh- phát triển ,giữ
vững định hướng XHCN. Nói cách khác ,Trong hơn 30 năm qua Ddảng , Nhà nước đã xử lý
thành công mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta trên 3 vấn đề then
chốt .Một là , đã xây dựng ,vận hành nền kinh tế thị trường phù hợp với điều kiện cụ thể của
đất nước và dân tộc . Hai là ,đã xây dựng ,vận hành nền kinh tế thị trường phù hợp với chế độ
chính trị xã hội chủ nghĩa .Ba là, đã xác lập hệ thống chính trị với mô hình ,cơ cấu và cơ chế
hoạt động phù hợp với nền kinh tế thị trường ,nhà nước pháp quyền và dân chủ XHCN
Ở nước ta, trong quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng xã
hội chủ nghĩa, chúng ta không chỉ quán triệt và vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, mà còn phải quán triệt và vận dụng một cách khoa học và
sáng tạo mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Cơ sở hạ tầng kinh tế của nước ta hiện nay là một kết cấu kinh tế nhiều thành phần với
nhiều hình thức sở hữu đan xen lẫn nhau. Thừa nhận sự tồn tại của một kết cấu kinh tế với
nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế cùng tồn như vậy là một tất yếu khách
quan. Bởi lẽ, trình độ lực lượng sản xuất của chúng còn thấp và chưa đồng đều. Song, đây lại
là một nền kinh tế năng động, phong phú. Chính tính chất đan xen của kết cấu kinh tế ấy nó
đặt ra nhu cầu khách quan là kiến trúc thượng tầng cũng phải được đổi mới để đáp ứng đòi
hỏi của cơ sở kinh tế. Lẽ dĩ nhiên, không phải với nền kinh tế nhiều thành phần và nhiều hình
thức sở hữu khác nhau thì nhất thiết phải đa đảng và đa nguyên về chính trị, nhưng nhất thiết
phải đổi mới kiến trúc thượng tầng theo hướng: đổi mới tổ chức, đổi mới bộ máy hành chính
nhà nước, đổi mới con người, đổi mới phong cách lãnh đạo, đa dạng hoá các tổ chức, đoàn
thể, hiệp hội, mở rộng dân chủ (đặc biệt là dân chủ cơ sở), tăng cường khối đại đoàn kết dân
tộc… nhằm tập trung sức mạnh của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đổi mới kinh tế là cơ sở, tiền đề cho đổi mới chính trị. Song, muốn đổi mới kinh tế phải
đổi mới chính trị để tạo điều kiện thuận lợi cho đổi mới kinh tế. Đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị là hai quá trình gắn bó hữu cơ với nhau trên tinh thần ổn định chính trị để đổi kinh tế
một cách toàn diện và có hiệu quả trong sự nghiệp đổi mới.
CÂU 7: Phân tích luận điểm của C.Mác: “Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã
hội là một quá trình lịch sử- tự nhiên”.
Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của CNDVLS dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn
nhất định ,với những quan hệ sản xuất của nó thích ứng với LLSX ở một trình độ nhất định
và với một KTTT được xây dựng lên trên những QHSX đó
Phân tích : Phạm trù hình thái kinh tế -xã hội coscacs đặc trưng là một chỉnh thể sống , vận
động ,có cơ cấu phức tạp . Trong đó có 3 mặt cơ bản ,phổ biến nhất là : LLSX,QHSX và
KTTT . Các mặt đó gắn bó và tác động biện chứng tạo nên những quy luật phổ biến của sự
vận động ,phát triển xã hội.
Trong các yếu tố cấu thành hình thái kinh tế -xã hội thì LLSX là nền tảng vật chất kỹ thuật
của mọi hình thái kinh tế - xã hội , QHSX là cơ sở kinh tế , CSHT của xã hội là tiêu chuẩn
khách quan để phân biệt xã hội với xã hội khác . KTTT có chức năng , vai trò duy trì ,bảo
vệ ,phát triển CSHT va các mặt của đời sống xã hội .
Sự phát triển của các hình thái kinh tế -xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên vì :
+ Con người tạo nên lịch sử của mình , nhưng không phải theo ý muốn chủ quan mà theo quy
luật khách quan . Đó là hoạt động của họ , tuy do ý thức chỉ đạo, nhưng lại diễn ra trong hoàn
cảnh khách quan nhất định mà họ phải thích ứng
+ TRong quan hệ xã hội khách quan lại tạo nên hoàn cảnh thì quan hệ kinh tế xét đến cùng là
quan hệ quyết định và quan hệ kinh tế đó lại dựa trên một trình độ nhất định của LLSX
+ Sự phát triển của hình thái kinh tế do sự tác động của các quy luật phổ biến khách quan là
quy luật là quy luật QHSX phù hợp với trình độ của LLSX , quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT
+ Sự phát triển các hình thái kinh tê –xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên vừa bao hàm sự phát
triển tuần tự theo xu hướng tổng quát chung , vừa bao hàm khả năng một quốc gia này hay
một quốc gia khác trong tiến trình phát triển của mình có thể bỏ qua một chế độ này để lên
một chế độ khác cao hơn
CÂU 8 : Trình bày nội dung cơ bản và vai trò phương pháp luận của học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội của triết học Mác – Lênin. Sự vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã
hội đối với việc nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay?
1.1 Nội dung cơ bản và vai trò phương pháp luận của học thuyết hình thái kinh tế -xã
hội của triết học Mác- Lênin
Nội dung của học thuyết
Học thuyết đã chỉ ra tính tất yếu của sự thay thế hình thái kinh tế - xẫ hội tư bản chủ nghĩa
bằng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, đó là quá trình lịch sử, tự nhiên. Sự thay
thế này được thực hiện thông qua cách mạng xã hội chủ nghĩa xuất phát từ hai tiền đề vật chất
quan trọng nhất là sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự trưởng thành của giai cấp công
nhân. Học thuyết cung cấp những tiêu chuẩn thực sự duy vật, khoa học cho sự phân kỳ lịch
sử, trong đó có sự phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghãi. C.Mác cho rằng:
"Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ quá độ chính trị và
nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai
cấp vô sản". Khẳng định quan điểm này, V.I.Lenin cho rằng: "Về lý luận, không thể nghi ngừo
gì được rằng giữa chủ nghãi tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có một thười kỳ quá độ nhất định"
Về xã hội của thời kỳ quá độ, C.Mác cho rằng đó là xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ
nghĩa, xã hội chưa phát triển trên cơ sở của chính nó còn mang nhiều dấu vết của xã hội cũ để
lại. Sau này từ thực tiễn nước Nga, V.I.Lenin cho rằng, đối với những nước chưa có chủ nghĩa
tư bản phát triển cao "cần phải có thời kỳ quá độ lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội". Ông cũng nhấn mạnh lại học thuyết hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời
và có quá trình phát triển qua các giai đoạn, từ trình độ thấp lên trình độ cao hơn. Ông cho
rằng "giai đoạn thấp" là xã hội chủ nghĩa (hay chủ nghĩa xã hội), "giai đoạn cao" là xã hội
cộng sản chủ nghĩa (hay chủ nghĩa cộng sản), đặc biệt là phát triển lý luận về "thời kỳ quá độ
khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội".
Như vậy, về mặt lý luận và thực tiễn, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng
sản, được hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất, đối với các nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản phát
triển, cần thiết phải có thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội -
những cơn đau đẻ kéo dài. Thứ hai, đối với những nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát
triển, giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản có một thời kỳ quá độ nhất định - quá độ
chính trị, thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia, từ thời kỳ quá độ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.
1.2 Sự vận dụng lý luận hình thái kinh tế- xã hội đối với việc nhận thức về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Nhận thức về chủ nghĩa xã hội thông qua học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội
Cương lĩnh chính trị đầu tiên được hội nghị thành lập Đảng (2-1930) thông qua đã nêu rõ mục
tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam là: "Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập",
"để đi tới xã hội cộng sản". Luận cương chính trị tháng 10 - 1930 nhấn mạnh con đường phát
triển của Cách mạng Việt Nam "bỏ qua thời kỳ tư bản mà tranh đấu thẳng lên con đường xã
hội chủ nghĩa". Sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa đã rõ ràng và dứt khoát ngay từ khi
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
Tuy nhiên, nước ta vẫn chưa có những điều kiện cần thiết để đủ tiến lên con đường phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Luận cương cách mạng Việt Nam được Đại hội II của
Đảng (2-1951) thông qua đã xác định phương hướng rõ ràng là: hoàn thành giải phóng dân
tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới CNXH. Luận cương nêu rõ "nhiệm vụ trung tâm của
Đảng là đẩy mạnh việc kỹ nghệ hoá, phát triển kỹ nghệ nặng, phát triển thật rộng bộ phận
kinh tế Nhà nước, tập thể hoá nông nghiệp dần dần, thực hiện những kế hoạch dài hạn để gây
thêm và củng cố cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, đặng tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội. Những
bước cụ thể của giai đoạn này phải tuỳ theo điều kiện cụ thể của tình hình trong nước và ngoài
nước khi đó mà quyết định. Song một điều chắc chắn là chừng nào ta chưa chuẩn bị cơ sở
kinh tế đầy đủ và chưa làm cho số đông quần chúng nhân dân nhận rõ chủ nghĩa xã hội là cần
thiết thì chủ nghĩa đó chưa thể thực hiện được. Ở nước ta, thời gian chuẩn bị đó, so với các
nước dân chủ nhân dân khác, nhất định sẽ lâu hơn, vì ta phải kiến quốc trên cơ sở một nước
nông nghiệp lâu năm bị đế quốc thống trị, tàn phá.
. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ những ngày đầu
Những điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại hội II của
Đảng nêu ra phản ánh sự nhận thức đúng đắn về CNXH từ thực tiễn Việt Nam có ý nghĩa chỉ
đạo thực tiễn. Sau khi miền Bắc được giải phóng, Đảng khẳng định dù hàon cảnh như nào,
miền Bắc cũng phải tiến lên CNXH. Đó là yêu cầu khách quan bảo đảm sự phát triển của
miền Bắc, đồng thời còn là yêu cầu của sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước. Miền Bắc trải qua 3 năm khôi phục nền kinh tế và hoàn thành những nhiệm vụ còn
lại của Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (cải cách ruộng đất) và cũng là chuẩn bị những
điều kiện cần thiết và phát triển nhận thức để chính thức thực hiện cách mạng xã hội chủ
nghĩa theo Nghị quyết trung ương 14 (1958) và Nghị quyết Đại hội II (9/1960)
2. Tuy vậy, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng đã phạm phải sai lầm, khuyết điểm trong
chính sách kinh tế, xã hội dẫn tới khủng hoảng từ năm 1979. Chúng ta đã không tuân thủ
những chỉ dẫn của C.Mác và Ph.Angghen về xoá bỏ chế độ tư hữu nên đã có tư tưởng chủ
quan, nóng vội, duy ý chí muốn xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân trong
một thời gian ngắn, cho rằng quốc doanh hoá, tập thể hoá càng nhanh, càng nhiều thì càng
thì càng mau chóng có chủ nghĩa xã hội. Nhưng trên thực tế không phải như vậy. Đảng đã
kịp thời tự phê bình và chỉ ra các nguyên nhân cần phải khắc phục, đó là bệnh nóng vội,
chủ quan, duy ý chí, giáo điều, chưa nắm vững hoàn cảnh, đặc điểm thực tiễn đất nước,
chưa nhận thức rõ quy luật khách quan. Đảng đã từng bước đổi mới tư duy lý luận, nhất là
tư duy kinh tế, từng bước sửa đổi cơ chế chính sách cho phù hợp, phát huy tính tích cực
của các thành phần kinh tế, của cơ chế thị trường, chú trọng lợi ích của người lao động,
sửa đổi cách thức quản lý nặng về tập trung và hành chính, bao cấp cản trở những động
lực của sự phát triển. Nghị quyết Trung ương 6 khoá IV (8-1979) là bước đột phá đầu tiên,
tiếp theo là chỉ thị 100 (13-1-1981) về khoán sản phẩm trong nông nghiệp, Quyết định
25CP, 26 CP (21/1/1981), Nghị quyết Trung ương 8 khoá V (6/1985) và Kết luận của Bộ
chính trị tháng 8/1986 là quá trình khải nghiệm thực tiễn để đi đến đường lối mới tại Đại hội VI (12/1986)
. Sự vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội trong quá trình tiến lên Chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam
Đại hội VI của Đảng (12/1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện dựa trên phân tích thấu đáo
điều kiện, hoàn cảnh đất nước và nhận thức rõ hơn những vấn đề của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, những luận điểm của V.I.Lenin và Hồ Chí Minh. Đại hội VI đã tổng kết những
bài học lớn có giá trị lý luận và chỉ đạo thực tiễn, trong đó nhấn mạnh bài học: Đảng phải luôn
luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận
thức và hành động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng".
Ngoài ra, Đại hội VI của Đảng thẳng thắn nêu rõ "Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ: lực lượng sản
xuất bị kiềm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu mà cả khi quan hệ sản
xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lưc
lượng sản xuất". Thực hiện đường lối đổi mới của Đại hội VI, Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII đề ra (6/1991) và Cương lĩnh (bổ
sung, phát triển), năm 2011 là quá trình không ngừng phát triển nhận thức về chủ nghĩa xã hội
và con đường xã hội chủ nghĩa dựa trên cơ sở tổng kết thực tiễn đổi mới của Việt nam. Nhận
thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn.
Tiến đến Đại hội XIII của Đảng, tổng kết 35 năm đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991
và 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(Bổ sung và phát triển năm 2011), nhiều vấn đề được tổng kết để nhận thức rõ hơn và giải
quyết những yêu cầu bức thiết do thực tiễn đặt ra, nhất là vấn đề xây dựng quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất; vấn đề an sinh xã hội, phân hoá giàu nghèo;
vấn đề xây dụng văn hoá, con người trong xã hội văn minh, tiến bộ; vấn đề chống suy thoái,
tham nhũng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam xã
hội chủ nghĩa hùng cường, sớm trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Khi kết thúc
thời kỳ quá độ, xâu dựng được về cơ bản nền kinh tế của CNXH với kiến trúc thượng tầng về
chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp.