-
Thông tin
-
Quiz
Câu hỏi ôn tập tư tưởng Hồ Chí Minh | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về tính tất yếu sự ra đời, phát triển của Đảng và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về các nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Tư tưởng Hồ Chí Minh (TTHCM) 69 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 2.5 K tài liệu
Câu hỏi ôn tập tư tưởng Hồ Chí Minh | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về tính tất yếu sự ra đời, phát triển của Đảng và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về các nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (TTHCM) 69 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 2.5 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:














Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
Câu 6: Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về tính tất yếu sự ra đời, phát triển của Đảng và
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- CM trước hết phải có Đảng CM
Trong tác phẩm Đường cách mệnh (năm 1927), Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng trước
hết phải có “đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc
với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững, cách mệnh mới thành
công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy” .
- Sự ra đời của Đảng trước hết là vì sự sống còn của dân tộc.
- ĐCS là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của CM
Khẳng định đảng cộng sản “như người cầm lái” cho con thuyền là quan điểm nhất quán của
Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt cả quá trình cách
mạng, cả trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cả trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Như vậy, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu, vai trò lãnh đạo
của Đảng cũng là một tất yếu – điều đó xuất phát từ yêu cầu phát triển của dân tộc Việt
Nam. Thực tế quá trình cách mạng Việt Nam vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
đã nói lên rằng, sự bảo đảm, phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
suốt tiến trình phát triển của đất nước theo mục tiêu chủ nghĩa xã hội là một nguyên tắc
vận hành của xã hội Việt Nam từ khi có Đảng.
- Quy luật ra đời của ĐCS Việt Nam + Chủ nghĩa Mác – Lênin
+ Giai cấp công nhân và phong trào công nhân
+ Phong trào yêu nước Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện là một đảng chính trị
tồn tại và phát triển theo những quan điểm của V.I.Lênin về đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.
Hồ Chí Minh là người trung thành với học thuyết Mác - Lênin, trong đó có lý luận của
V.I.Lênin về đảng kiểu mới của giai cấp vô sản, đồng thời vận dụng sáng tạo và phát triển lý
luận đó vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Trên thế giới, nói chung, sự ra đời của một đảng
cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân.
Còn đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng: Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết
quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước. Như vậy, so với học thuyết Mác - Lênin thì Hồ Chí Minh đưa thêm vào yếu tố thứ ba
nữa, đó là phong trào yêu nước.
Quan điểm của Hồ Chí Minh trên đây là hoàn toàn phù hợp với xã hội thuộc địa và phong
kiến như Việt Nam, khi mọi giai cấp, tầng lớp, trừ tư sản mại bản và đại địa chủ, còn đều có
mâu thuẫn dân tộc. Đó là mâu thuẫn cơ bản giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với các thế
lực đế quốc và tay sai. Trong thực tế, những phong trào đấu tranh của công nhân đã kết
hợp được rất nhuần nhuyễn với phong trào yêu nước. Một số người Việt Nam yêu nước lúc 1
đầu đi theo xu hướng dân chủ tư sản, nhưng qua thực tế được sự tác động của chủ nghĩa
Mác - Lênin, đã dần dần tiến theo xu hướng cộng sản, rõ nhất là từ năm 1925 trở đi. Hàng
loạt tổ chức yêu nước ra đời, trong đó nổi rõ nhất là tổ chức Hội Việt Nam Cách mệnh
Thanh niên do Hồ Chí Minh lập ra. Đấu tranh giai cấp quyện chặt với đấu tranh dân tộc.
Thật khó mà tách bạch mục tiêu cơ bản giữa các phong trào đó, tuy lực lượng, phương
thức, khẩu hiệu đấu tranh có khác nhau, nhưng mục tiêu chung là: Giành độc lập, tự do cho
dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tồn tại và phát triển chính là do nhu cầu tất yếu
của xã hội Việt Nam từ đầu năm 1930 trở đi. Đảng đã được toàn dân tộc trao cho sứ mệnh
lãnh đạo đất nước trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Câu 7: Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Nhà nước của nhân dân
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, nhà nước của nhân dân là nhà nước mà tất cả mọi quyền
lực trong nhà nước và xã hội đều thuộc về nhân dân. Người khẳng định rằng, "Trong Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà của chúng ta, tất cả mọi quyền lực đều là của nhân dân."
Nguyên lý "dân là chủ" đặt ra nguyên tắc làm chủ của nhân dân, nơi họ là chủ thể tối cao của mọi quyền lực.
Trong Nhà nước dân chủ, nhân dân thực thi quyền lực thông qua hai hình thức chính: dân
chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Dân chủ trực tiếp là khi nhân dân trực tiếp quyết định
mọi vấn đề liên quan đến vận mệnh của quốc gia, dân tộc và quyền lợi của dân chúng.
Ngoài ra, dân chủ gián tiếp hay dân chủ đại diện là hình thức khác được sử dụng để thực thi
quyền lực của nhân dân. Trong hình thức này, nhân dân thực thi quyền lực thông qua các
đại diện mà họ lựa chọn, bầu cử và thiết lập các cơ chế quyền lực. Quan điểm của Hồ Chí
Minh về dân chủ gián tiếp bao gồm những điểm sau:
- Quyền lực nhà nước là “thừa ủy quyền” của nhân dân. Tự bản thân nhà nước không có quyền lực.
- Nhân dân có quyền kiểm soát, phê bình nhà nước, có quyền bãi miễn những đại biểu mà
họ đã lựa chọn, bầu ra và có quyền giải tán những thiết chế quyền lực mà họ đã lập nên.
- Luật pháp dân chủ và là công cụ quyền lực của nhân dân. Nhà nước do nhân dân
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước được xây dựng bởi nhân dân, đặc biệt sau thắng lợi
của cách mạng toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhân dân không
chỉ "cử ra" mà còn "tổ chức nên" nhà nước, dựa trên nền tảng pháp luật của một chế độ
dân chủ và theo các trình tự dân chủ, bao gồm quyền bầu cử, quyết định, và các quyền khác.
Khái niệm "nhà nước do nhân dân" cũng có nghĩa là "dân làm chủ." Hồ Chí Minh rõ ràng
khẳng định: "Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ." "Dân làm
chủ" không chỉ về vị thế của nhân dân đối với quyền lực nhà nước mà còn nhấn mạnh 2
quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân trong vai trò chủ thể. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh,
nhân dân, khi làm chủ, phải tuân theo pháp luật, giữ đạo đức công dân, và thực hiện nghĩa
vụ công dân như giữ gìn trật tự, đóng góp (nộp thuế), tham gia công việc cộng đồng, bảo vệ
tài sản công cộng, và bảo vệ Tổ quốc.
Hồ Chí Minh không chỉ tuyên bố quyền làm chủ của nhân dân mà còn đặt ra yêu cầu và
động viên nhân dân chuẩn bị năng lực để thực hiện vai trò làm chủ, thể hiện tư tưởng dân
chủ triệt để của ông về nhà nước do nhân dân. Nhà nước vì nhân dân
Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có
đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Hồ Chí Minh là một vị Chủ tịch
vì dân và Người yêu cầu các cơ quan nhà nước, các cán bộ nhà nước đều phải vì nhân dân
phục vụ. Người nói: "Các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy
nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng
phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”.
Theo Hồ Chí Minh, thước đo một Nhà nước vì dân là phải được lòng dân. Hồ Chí
Minh đặt vấn đề với cán bộ Nhà nước phải “làm sao cho được lòng dân, dân tin, dân mến,
dân yêu”, đồng thời chỉ rõ: “muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, trước hết phải yêu
dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư”. Trong
Nhà nước vì dân, cán bộ vừa là đầy tớ, nhưng đồng thời phải vừa là người lãnh đạo nhân
dân. Hai đòi hỏi này tưởng chừng như mâu thuẫn, nhưng đó là những phẩm chất cần có ở
người cán bộ nhà nước vì dân. Để dân đói, rét, ốm, dốt là lỗi của Đảng, Chính phủ. NN phải
biết kết hợp các loại lợi ích của dân tộc, đảm bảo sự thống nhất, hài hòa, công bằng.
Câu 8: Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về các nguyên tắc xây dựng và hoạt động
của Mặt trận dân tộc thống nhất.
Nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Mặt trận dân tộc thống nhất cần được xây dựng và hoạt động
trên cơ sở các nguyên tắc:
Một là: Phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công nhân - nông dân - trí thức và
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hồ Chí Minh xác định mục đích chung của mặt trận dân tộc thống nhất là nhằm tập hợp tới
mức cao nhất lực lượng dân tộc vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mặt trận là một khối
đoàn kết chặt chẽ, có tổ chức trên nền tảng khối liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân, đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là nguyên tắc cốt lõi trong chiến
lược đại đoàn kết toàn dân tộc của Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó để mở rộng Mặt trận, làm
cho Mặt trận thực sự quy tụ được cả dân tộc, kết thành một khối vững chắc trong Mặt trận.
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên, vừa là lực lượng lãnh đạo, Đảng không có lợi ích 3
riêng, mà gắn liền với lợi ích toàn xã hội, toàn dân tộc. Đảng lãnh đạo đối với mặt trận thể
hiện ở khả năng nắm bắt thực tiễn, phát hiện ra quy luật khách quan sự vận động của lịch
sử để vạch đường lối và phương pháp cách mạng phù hợp, lãnh đạo Mặt trận hoàn thành
nhiệm vụ của mình là đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, kết hợp độc lập
dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Hai là: Phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân.
Mục đích chung của Mặt trận được Hồ Chí Minh xác định cụ thể, phù hợp với từng giai
đoạn cách mạng, nhằm tập hợp tới mức cao nhất lực lượng dân tộc vào khối đại đoàn kết.
Theo Người, đại đoàn kết phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân, trên cơ sở yêu nước,
thương dân, chống áp bức bóc lột, nghèo nàn lạc hậu. Người cho rằng, nếu nước được độc
lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì. Vì
vậy, đoàn kết phải lấy lợi ích tối cao của dân tộc, lợi ích căn bản của nhân dân lao động làm
mục tiêu phấn đấu, đây là nguyên tắc bất di bất dịch, là ngọn cờ đoàn kết và là mẫu số
chung để quy tụ các tầng lớp, giai cấp, đảng phái, dân tộc và tôn giáo vào trong Mặt trận.
Ba là: Phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của cả dân tộc, bao gồm
nhiều giai cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo khác nhau, với nhiều lợi ích khác nhau.
Do vậy, hoạt động của Mặt trận phải dựa trên nguyên tắc hiệp thương dân chủ, Mọi vấn đề
của Mặt trận đều phải được đem ra để tất cả các thành viên cùng nhau bàn bạc công khai,
để đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức. Những lợi ích riêng chính
đáng, phù hợp với lợi ích chung của đất nước, của dân tộc cần được tôn trọng, những gì
riêng biệt, không phù hợp sẽ dần được giải quyết bằng lợi ích chung của dân tộc, bằng sự
nhận thức ngày càng đúng đắn hơn của mỗi người, mỗi bộ phận về mối quan hệ giữa lợi ích
chung và lợi ích riêng. Do vậy, hoạt động của Mặt trận phải theo nguyên tắc hiệp thương
dân chủ mới quy tụ được được các tầng lớp, giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo vào Mặt
trận dân tộc thống nhất.
Bốn là: Phải đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết trong Mặt trận phải là lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân
thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Trong Mặt trận, các thành viên có những điểm
tương đồng nhưng cũng có những điểm khác biệt, nên cần có sự bàn bạc để đi đến nhất trí.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu đồng tồn dị”, lấy cái chung để hạn chế cái
riêng, cái khác biệt; đồng thời Người nêu rõ: “Đoàn kết thực sự nghĩa là mục đích phải nhất
trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh,
học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường
thân ái, vì nước, vì dân” để tạo nên sự đoàn kết gắn bó chặt chẽ, lâu dài tạo tiền đề mở
rộng khối đại đoàn kết trong mặt trận dân tộc thống nhất. 4
Câu 9: Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại. - Giữ gìn BSVHDT:
Nội dung: Bản sắc văn hóa dân tộc được thể hiện qua lòng yêu nước, tinh thần độc lập, tự
cường, tự tôn dân tộc. Đây là thành quả của lao động, sản xuất, chiến đấu và giao lưu của con người Việt Nam.
Hình thức: Cốt cách văn hóa dân tộc biểu hiện ở ngôn ngữ, phong tục, tập quán, lễ hội,
truyền thống, cách cảm và nghĩ.
Giá trị truyền thống theo quan điểm của Hồ Chí Minh:
1. Yêu nước, bất khuất, anh hùng trong dựng nước và giữ nước:
- Nhân dân Việt Nam có truyền thống yêu nước nồng nàn, ghi những trang oanh liệt trong
lịch sử đấu tranh xây dựng và bảo vệ độc lập của Tổ quốc.
- Tinh thần này là chuẩn mực đạo đức cao nhất trong giá trị đạo đức của con người Việt Nam.
2. Hiếu học, tôn sư trọng đạo, trọng dụng hiền tài:
- Truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo được thể hiện trong việc coi trọng vai trò của
tri thức và tổ chức các kỳ thi để tìm kiếm nhân tài
3. Uống nước nhớ nguồn, đoàn kết, nhân hậu, cần cù, lao động sáng tạo:
- Tinh thần đoàn kết là nguyên tố quan trọng tạo nên sức mạnh của cả dân tộc, quyết định
đến sự tồn vong của đất nước.
- Nhân dân ta có truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, và giúp đỡ lẫn nhau vượt qua
khó khăn, thể hiện trong phương châm "lá lành đùm lá rách".
4. Hòa hiếu, yêu chuộng hòa bình:
- Nhân dân Việt Nam yêu chuộng hòa bình, nhưng cũng quyết không bao giờ lùi bước
trước đe dọa của bất kỳ đế quốc nào.
- Sự hòa hiếu thể hiện trong cách ứng xử với láng giềng và bạn bè, sử dụng đại nghĩa và
chí nhân trong mối quan hệ quốc tế.
Bản sắc văn hóa dân tộc chứa đựng giá trị lớn và có một ý nghĩa quan trọng đối với
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nó phản ánh những nét độc đáo, đặc tính dân
tộc. Theo Bác, “dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”; “càng
thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin càng phải coi trọng những truyền thống tốt đẹp
của cha ông”. “Mỗi dân tộc cần phải chăm lo đặc tính dân tộc mình trong nghệ thuật”.
- Tiếp thu tinh hoa VH nhân loại:
Hồ Chí Minh nhấn mạnh sự quan trọng của việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại
trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc:
1. Quy luật tiếp biến văn hóa:
- Tiếp biến văn hóa, tức là tiếp nhận và biến đổi, là một quy luật của văn hóa. 5
- Văn hóa Việt Nam được ảnh hưởng chung đúc từ văn hóa Đông phương và Tây
phương, với mục đích là lấy những điều tốt từ cả hai để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam
thuần túy và hợp với tinh thần dân chủ.
2. Chắt lọc tinh hoa văn hóa nhân loại:
- Hồ Chí Minh chú trọng chắt lọc tinh hoa văn hóa nhân loại mà không trở thành kẻ bắt chước.
- Mục đích là mở rộng kiến thức về văn hóa thế giới, đặc biệt là văn hóa Xôviết, mà
người Việt thiếu hụt, nhưng đồng thời tránh rơi vào nguy cơ trở thành kẻ bắt chước.
3. Mục đích tiếp thu văn hóa nhân loại:
- Mục đích của việc tiếp thu văn hóa nhân loại là làm giàu văn hóa Việt Nam và xây
dựng văn hóa Việt Nam hợp với tinh thần dân chủ.
- Nội dung tiếp thu là toàn diện, bao gồm cả Đông, Tây, kim, cổ, tất cả các mặt, các khía cạnh.
- Tiêu chí tiếp thu là lấy những điều hay và tốt từ mọi nguồn
4. Mối quan hệ với giữ gìn cốt cách văn hóa dân tộc:
- Phải lấy văn hóa dân tộc làm gốc, đó là điều kiện và cơ sở để tiếp thu văn hóa
nhân loại, giữ gìn cốt cách văn hóa dân tộc.
Câu 10: Nêu quan điểm Hồ Chí Minh về các chuẩn mực đạo đức cách mạng và trình
bày một chuẩn mực trong đó. (trình bày về ý a)
Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
a. Trung với nước, hiếu với dân
Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất đạo đức bao trùm quan trọng nhất và chi phối các phẩm chất khác.
Trung và hiếu là những khái niệm đạo đức cũ đã có từ lâu trong tư tưởng đạo đức truyền
thống Việt Nam và phương Đông, phản ánh mối quan hệ lớn nhất và cũng là phẩm chất bao
trùm nhất: “Trung với vua, hiếu với cha mẹ”. Phẩm chất này được Hồ Chí Minh sử dụng với
những nội dung mới, rộng lớn: “Trung với nước, hiếu với dân”, đã tạo nên một cuộc cách
mạng sâu sắc trong lĩnh vực đạo đức. Người nói: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống
đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu
ngửng lên trời”. Đầu năm 1946, Người chỉ rõ: “Đạo đức, ngày trước thì chỉ trung với vua,
hiếu với cha mẹ. Ngày nay, thời đại mới, đạo đức cũng phải mới. Phải trung với nước. Phải
hiếu với toàn dân, với đồng bào”.
Tư tưởng “trung với nước, hiếu với dân” của Hồ Chí Minh không những kế thừa giá trị yêu
nước truyền thống của dân tộc, mà còn vượt qua những hạn chế của truyền thống đó.
Trung với nước là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Khi Hồ Chí Minh đặt
vấn đề “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân… Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Nói tóm lại,
quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Đảng và Chính phủ là “đầy tớ nhân dân” chứ 6
không phải “quan nhân dân để đè đầu cưỡi cổ nhân dân”, thì quan niệm về nước và dân đã
hoàn toàn đảo lộn so với trước; rất ít lãnh tụ cách mạng đã nói về dân như vậy, điều này
càng làm cho tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vượt xa lên phía trước. Thư gửi thanh niên
(1965), Người viết: “Phải luôn luôn nâng cao chí khí cách mạng “trung với nước, hiếu với
dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh
thắng”. Luận điểm đó của Hồ Chí Minh vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng
chính trị - đạo đức cho mỗi người Việt Nam không chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng
trước đây, hôm nay, mà còn lâu dài về sau nữa.
Hồ Chí Minh cho rằng, trung với nước phải gắn liền hiếu với dân. Trung với nước, là phải
yêu nước,tuyệt đối trung thành với Tổ quốc,suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng,
phải làm cho “dân giàu, nước mạnh”. Hiếu với dân,là phải thương dân, tin dân, thân dân,
học hỏi dân, lấy trí tuệ ở dân, kính trọng dân, lấy dân làm gốc, “hết lòng hết sức phục vụ
nhân dân. Phải yêu kính nhân dân. Phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.
Tuyệt đối không được lên mặt “quan cách mạng” ra lệnh ra oai”. ----
Phân tích thêm (nếu cần)
1. Trung với nước, hiếu với dân trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh không phải là
những điều mới được đặt ra, mà đó là những phẩm chất đạo đức vốn có từ xa xưa
trong tư tưởng đạo đức truyền thống phương Ðông nói chung và đạo đức truyền
thống Việt Nam nói riêng.
2. Trung với nước, hiếu với dân theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được thể hiện
trong mọi công việc cách mạng của Ðảng, trong từng suy nghĩ, việc làm cụ thể của
mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân. Dù mục tiêu, nhiệm vụ trong từng thời kỳ
cách mạng khác nhau, nhưng yêu cầu về trung, hiếu luôn nhất quán và là tiêu chí
chung cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân học tập và rèn luyện. Ðó là,
lòng yêu nước thương nòi, tự hào với truyền thống vẻ vang của dân tộc; là bổn phận
và trách nhiệm của mỗi người dân với cộng đồng, với sự nghiệp của Ðảng và dân tộc,
với sự hưng vong của đất nước; là ý chí và nghị lực vươn lên vượt qua mọi khó khăn,
thử thách, sẵn sàng hy sinh vì mục tiêu chung của sự nghiệp cách mạng; là sự tin yêu,
kính trọng nhân dân. Vì vậy, trong suốt quá trình xây dựng Ðảng, lãnh đạo cách
mạng, Bác thường xuyên quan tâm tới việc nâng cao tinh thần trung, hiếu ở mỗi
người dân Việt Nam yêu nước nói chung, cán bộ, đảng viên nói riêng, và đòi hỏi họ
phải luôn ghi sâu trong lòng những chữ "trung với nước, hiếu với dân".
3. Sau Ðại thắng Mùa Xuân 1975, nhân dân cả nước cùng chung sức xây dựng đất nước.
Hậu quả nặng nề sau chiến tranh và những biến động sâu sắc của tình hình thế giới
đã dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội kéo dài, đời sống của nhân dân gặp
nhiều khó khăn. Khắc ghi lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhiệm vụ của Ðảng là
lãnh đạo quần chúng chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng đời sống ấm no, hạnh 7
phúc cho nhân dân, một lần nữa tinh thần "trung với nước, hiếu với dân" của đội ngũ
những người cách mạng được phát huy cao độ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
b. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Đạo đức cách mạng theo Hồ Chí Minh được tóm gọn trong năm phẩm chất cơ bản: Cần,
Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư. Đây là những giá trị đạo đức gắn liền với cuộc sống hàng
ngày, được lọc bỏ từ truyền thống và điều chỉnh để đáp ứng yêu cầu của cách mạng. Cần
biểu thị sự siêng năng và nỗ lực, Kiệm là tinh thần tiết kiệm và không hoang phí, Liêm là sự
trong sạch và không tham lam, Chính là thẳng thắn và không tà, Chí công vô tư là hết sức
công bằng và không vì tư lợi cá nhân. Hồ Chí Minh nhấn mạnh sự quan trọng của việc cán
bộ và đảng viên phải làm mẫu, thực hành những phẩm chất này để tránh rơi vào tình trạng
hủ bại và duy trì lòng tin của nhân dân.
c. Thương yêu con người, sống có tình có nghĩa
Hồ Chí Minh là người kế thừa truyền thống nhân nghĩa, với lòng yêu thương sâu sắc đối với
nhân loại và khát khao xây dựng một xã hội công bằng. Người coi tình thương con người là
đặc trưng cao đẹp nhất, thể hiện qua sự hy sinh vì độc lập và hạnh phúc của dân tộc. Tình
thương này đặc biệt được chú trọng đối với những người nghèo khổ, bị áp bức, mất quyền,
và không phân biệt về màu da hay dân tộc. Hồ Chí Minh xác định rằng tình thương con
người là lý tưởng chính trị, đạo đức và nhân văn, yêu cầu mỗi người sống với nhau có tình có nghĩa.
d. Tinh thần quốc tế trong sáng
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan trọng nhất của đạo đức cộng sản
chủ nghĩa, xuất phát từ bản chất của giai cấp công nhân và hướng tới mối quan hệ vượt ra
khỏi ranh giới quốc gia dân tộc. Hồ Chí Minh, được coi là biểu tượng của chủ nghĩa yêu
nước chân chính, kết hợp một cách hài hòa với chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Tư tưởng chủ nghĩa quốc tế trong triết lý của Hồ Chí Minh không chỉ hướng đến sự đoàn
kết với giai cấp vô sản toàn cầu, mà còn bao gồm sự tôn trọng, hiểu biết, và đoàn kết với
các dân tộc bị áp bức. Người chống lại mọi hình thức chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng và
phân biệt chủng tộc, đồng thời phản đối chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, biệt lập và chủ nghĩa bành trướng bá quyền.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã tích cực xây dựng tinh thần
đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và cộng đồng quốc tế. Người đặt ra mô hình
quan hệ quốc tế mới, thể hiện qua đối thoại thay vì đối đầu, nhằm xây dựng một nền văn
hóa hòa bình cho nhân loại.
II. Nhóm 2 (Đánh giá khả năng vận dụng kiến thức, 3 điểm) 8
Câu 1: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vào
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Độc lập Dân tộc:
- Độc lập, tự do được coi là quyền thiêng liêng, không thể xâm phạm của mọi dân tộc.
- Độc lập dân tộc liên quan chặt chẽ đến tự do, cơm no, áo ấm, và hạnh phúc của nhân dân.
- Độc lập dân tộc cần phải là độc lập thực sự, hoàn toàn và triệt để.
- Độc lập dân tộc đi đôi với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Chủ nghĩa xã hội:
Quan niệm chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh:
- Chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản, nơi nhân dân lao động làm chủ.
- Con người sống ấm no, tự do, hạnh phúc trong một xã hội có tính chất công bằng và thống nhất.
Tiến lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan:
- Quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội phản ánh những quy luật khách quan, đặc biệt
là trong sản xuất vật chất.
- Các quốc gia có thể tiến lên chủ nghĩa xã hội theo các con đường khác nhau, tùy
thuộc vào bối cảnh cụ thể.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
- Phát triển kinh tế cao, gắn bó với mục tiêu chính trị.
- Xây dựng nền văn hóa mang tính dân tộc, khoa học, và tiếp thu văn hóa thế giới.
- Bảo đảm dân chủ, công bằng, và văn minh trong quan hệ xã hội.
4. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vào
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong giai
đoạn hiện nay đòi hỏi việc tích cực thực hiện các nghị quyết của Đảng, đặc biệt là những
nghị quyết về xây dựng và củng cố vị trí của Đảng. Hồ Chí Minh đã kiên định mục tiêu và con
đường cách mạng của mình, tập trung tiến tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, coi
đây là sự lựa chọn đúng đắn và khẳng định của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng của Hồ Chí Minh được xem là cơ sở và nền
tảng để phát triển đất nước. Chủ nghĩa xã hội không chỉ giúp đất nước phát triển mạnh mẽ
mà còn tạo ra nền tảng vững chắc để bảo vệ độc lập dân tộc và góp phần vào sự bảo vệ hoà bình thế giới.
Phát huy sức mạnh dân chủ xã hội chủ nghĩa đòi hỏi việc bảo đảm quyền lực thuộc về
nhân dân, thực hiện dân chủ một cách đầy đủ và nghiêm túc. Nâng cao hệ thống pháp luật, 9
tôn trọng và bảo đảm quyền con người, cùng với việc tăng cường trách nhiệm công dân và
đạo đức xã hội, là những yếu tố quan trọng trong việc phát huy sức mạnh này.
Củng cố, kiện toàn, và phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị, một đặc điểm của
chính trị ở Việt Nam, cũng là một mục tiêu quan trọng. Hệ thống chính trị ở Việt Nam được
đặc trưng bởi tính nhất nguyên và thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, với mục tiêu chính trị là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Cuối cùng, đấu tranh chống những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
và lối sống trong nội bộ là một nhiệm vụ quan trọng. Tăng cường xây dựng và chỉnh đốn
Đảng, ngăn chặn sự suy thoái là để đảm bảo rằng Đảng tiếp tục thực hiện tư tưởng Hồ Chí
Minh và duy trì vị thế của mình như một đội ngũ cầm quyền đúng đắn, đảm bảo mục tiêu
xây dựng đất nước theo hướng dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.
Câu 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản vào công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. - TTHCM về ĐCS Việt Nam:
+ Tất yếu, vai trò lãnh đạo
+ Phải trong sạch, vững mạnh: Mục đích hoạt động của Đảng là giải phóng dân tộc, xây
dựng xã hội công bằng và tự do cho nhân dân. Đảng phải luôn trung thành với lợi ích toàn
dân tộc, không có mục đích riêng, và phải đấu tranh để đất nước trở nên hùng cường, tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đặt nặng việc rèn luyện đội ngũ Đảng viên, yêu cầu họ
thấm nhuần đạo đức cách mạng, kiệm liêm chính, và trung thành với nhân dân.Trong giai
đoạn cầm quyền, Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, đồng thời
chú trọng đến việc ngăn chặn và chống lại các tiêu cực trong tổ chức. Ngoài ra, Đảng cần có
quan hệ quốc tế tích cực, không chỉ vì lợi ích dân tộc Việt Nam mà còn vì hòa bình, hữu
nghị, và phát triển toàn cầu. Điều này thể hiện cam kết của Đảng với độc lập, chủ quyền,
thống nhất, và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia khác.
3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác xây dựng Đảng và xây dựng Nhà nước Xây dựng Đảng:
Đường lối và chủ trương:Quan trọng của đường lối và chủ trương được nhấn mạnh,
đề xuất phải dựa trên lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với hoàn cảnh
từng giai đoạn của đất nước.
Thực hiện đường lối: Cần tổ chức thực hiện đường lối một cách tốt, biến chúng
thành hành động tích cực của hệ thống chính trị. Đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán
bộ chiến lược, phải nêu cao trách nhiệm và làm gương tốt.
Chỉnh đốn Đảng: Công tác chỉnh đốn Đảng được đặc biệt chú trọng. Sự thành công
của sự nghiệp cách mạng và đổi mới đất nước phụ thuộc lớn vào chất lượng của Đảng. Cần
thường xuyên chỉnh đốn nội bộ để Đảng đáp ứng được trách nhiệm làm lãnh đạo và đày tớ trung thành của nhân dân. 10
Thống nhất giữa nói và làm: Thiếu sự thống nhất giữa nói và làm trong Đảng được
đánh giá là điều thiếu sót quan trọng. Cần quán triệt tư tưởng và hành động của Hồ Chí
Minh về thống nhất này, cũng như tăng cường kiểm tra, giám sát để Đảng sử dụng quyền lực một cách tích cực.
Vai trò của sinh viên:Sinh viên đảng viên cần thực hiện đường lối, quan điểm và chủ
trương của Đảng. Những sinh viên chưa là đảng viên được khuyến khích nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh, đóng góp vào sự phát triển của đất nước. Xây dựng Nhà nước:
Sạch và vững mạnh:Cần xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Việc hoàn thiện
pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật được đề xuất để nâng cao hiệu lực và hiệu quả của Nhà nước.
Pháp luật và dân chủ hóa: Hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo quyền con người,
quyền và nghĩa vụ của công dân. Đề cao quản lý đất nước theo pháp luật và xây dựng nền
tảng đạo đức xã hội.
Cơ chế phân công và phối hợp: Xác định rõ cơ chế phân công và phối hợp trong thực
hiện quyền lực nhà nước, đồng thời quản lý quyền lực giữa các cơ quan nhà nước và cấp
chính quyền địa phương.
Đội ngũ cán bộ và công chức: Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức với
phẩm chất và năng lực, thông qua quy trình đánh giá và đào tạo. Chú trọng đến công tác
chống tham nhũng và lãng phí.
Lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước: Đảng cần tăng cường lãnh đạo đổi mới và
nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính, và cải cách tư pháp. Sự trong sạch và
vững mạnh của Đảng được coi là quan trọng đối với thành công của xây dựng Nhà nước
theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Câu 3: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ vào công tác cán bộ của
Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ đã trở thành kim chỉ nam cho Đảng ta
trong công tác xây dựng Đảng ở mỗi giai đoạn và thời kỳ cách mạng. “Cán bộ là gốc của
công việc”, mọi quyết sách của Đảng đều phụ thuộc vào yếu tố con người, việc thành hay
bại là ở cán bộ. Sinh thời, khi nói hoặc viết về công tác cán bộ của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh thường quan tâm đến các vấn đề hết sức cốt lõi và mang tính nguyên tắc như:
●Phải đánh giá đúng cán bộ: đây là yêu cầu xuất phát để tiến hành các mặt khác của
công tác cán bộ. Nếu không đánh giá đúng cán bộ và tình hình công tác cán bộ thì
không thể đề bạt, sử dụng cán bộ một cách đúng đắn được.
●Phải huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ một cách toàn diện
●Phải sử dụng và bố trí đúng cán bộ
●Phải kiên quyết chống các biểu hiện tiêu cực trong công tác cán bộ 11
Vận dụng vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay: Xây dựng
Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh:
Phải đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn.
Sai một ly thì đi một dặm, đó là tầm quan trọng của đường lối, chủ trương của Đảng.
Đường lối, chủ trương này phải dựa trên nền tảng lý luận Mác - Lênin sáng tạo và tư tưởng
Hồ Chí Minh; phải phù hợp với hoàn cảnh của đất nước từng giai đoạn, thời kỳ.
Phải tổ chức thực hiện thật tốt đường lối, chủ trương của Đảng.
Phải thể chế hóa và phải biến thành hành động tích cực nhất của tất cả các tổ chức của
hệ thống chính trị, trong đó đặc biệt quan trọng là thực thi và phát huy đầy đủ vai trò, trách
nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đối với đội ngũ cán bộ chiến lược, đặc biệt
quan trọng nữa là người đứng đầu phải nêu cao trách nhiệm làm gương tốt để mọi người noi theo.
Phải chú trọng hơn nữa công tác chỉnh đốn Đảng.
Thường xuyên chỉnh đốn nội bộ để Đảng xứng đáng là người cầm quyền, để đảng viên
luôn xứng đáng vừa là người lãnh đạo vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân.
Phải làm cho Đảng luôn là “Đảng là đạo đức, là văn minh” như Hồ Chí Minh đã nêu. Cái
thiếu nhất hiện nay là sự thống nhất giữa nói và làm trong Đảng.
Phải quán triệt sâu sắc hơn nữa trong Đảng tư tưởng và hành động của Hồ Chí Minh về
thống nhất giữa nói và làm. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để Đảng sử dụng và
phát huy tốt quyền lực do dân giao phó nhằm phục vụ sự phát triển của dân tộc, đưa đất
nước tiến những bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, làm cho đất nước hùng cường, nhân
dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc như tiêu đề mà Hồ Chí Minh đã viết trong các văn bản hành chính.
Câu 4: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân vào xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân
được nhấn mạnh là một bước đột phá trong tư duy xây dựng nhà nước trong giai đoạn đổi
mới. Các điểm quan trọng của tư tưởng này bao gồm:
Nhà nước Dân chủ: Hồ Chí Minh hình thành tư tưởng về xây dựng một nhà nước dân
chủ, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Có nền dân chủ lập hiến, quản lý đất nước
bằng pháp luật, và Đảng áp dụng sáng tạo, ngày càng hoàn thiện theo thời kỳ đổi mới.
Nền tảng Lý luận:Tư tưởng này dựa trên nền tảng lý luận Hồ Chí Minh và được coi là
cơ sở chính trị cho việc nghiên cứu và đổi mới hệ thống chính trị, đặc biệt là về nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Nhiệm vụ của Đảng: Đảng lãnh đạo quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền, với
nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. 12
Chống tham nhũng và Tiết kiệm: Đề xuất đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham
nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, và thực hành tiết kiệm trong cơ quan nhà
nước và đội ngũ cán bộ, công chức.
Lãnh đạo của Đảng: Quan điểm rằng sự trong sạch và vững mạnh của Đảng là yếu tố
quyết định cho sự thành công trong xây dựng Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng
cần lãnh đạo một cách hiệu quả và đổi mới trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Cuối cùng, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền vẫn giữ nguyên
ý nghĩa lớn và tiếp tục được áp dụng trong bối cảnh đổi mới và hội nhập, nhằm đảm bảo sự
dân chủ, trong sạch và vững mạnh của Nhà nước Việt Nam.
Câu 5: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân vào xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh ở nước ta hiện nay.
Phải xây dựng Nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh. Cần đẩy mạnh việc hoàn thiện
pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà
nước; bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để
nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước. Quản lý đất nước theo pháp luật,
đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội.
Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người,
quyền và nghĩa vụ của công dân.
Phải xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế
kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất; xác định rõ hơn quyền
hạn và trách nhiệm của mỗi quyền. Đồng thời, quy định rõ hơn cơ chế phối hợp trong việc
thực hiện và kiểm soát các quyền ở các cấp chính quyền. Tiếp tục phân định rõ thẩm quyền
và trách nhiệm giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương và của mỗi cấp
chính quyền địa phương.
Chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Đảng phải tập trung lãnh đạo về
đường lối, chủ trương, xây dựng tiêu chí, tiêu chuẩn, cơ chế, chính sách về cán bộ, công
chức. Đẩy mạnh dân chủ hóa công tác cán bộ, quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của
mỗi tổ chức, mỗi cấp trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có bản lĩnh chính trị vững
vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp để thực thi
đầy đủ trách nhiệm công vụ, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới. Thực hiện thí điểm dân
trực tiếp bầu một số chức danh ở cơ sở và ở cấp huyện; mở rộng đối tượng thi tuyển chức
danh cán bộ quản lý. Hoàn thiện tiêu chí đánh giá và cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát
việc thực thi công vụ; xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan
hành chính. Rà soát, sửa đổi, bổ sung chính sách đối với cán bộ, công chức theo hướng
khuyến khích cán bộ, công chức nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức công
vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ; lấy bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, hiệu quả 13
thực thi nhiệm vụ để đánh giá, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ. Xây dựng cơ chế, chính sách đãi
ngộ, thu hút, trọng dụng nhân tài.
Đẩy mạnh hơn nữa cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách
dịch, cửa quyền; thực hành tiết kiệm trong các cơ quan nhà nước và trong đội ngũ cán bộ, công chức.
Đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Tiếp tục nâng cao hiệu
quả thực hiện và đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng các chủ trương, chính sách lớn, lãnh đạo thể chế hóa các
quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật, lãnh đạo xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất và năng lực, lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu
quả các chủ trương, chính sách và hệ thống pháp luật; chú trọng lãnh đạo đổi mới, nâng
cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp; các tổ chức của Đảng và
đảng viên phải gương mẫu tuân thủ pháp luật. Bản chất, tính chất của Nhà nước gắn liền
với vai trò, trách nhiệm của Đảng cầm quyền, do đó, đến lượt Đảng, một tiền đề tất yếu
được đặt ra là sự trong sạch, vững mạnh của Đảng là yếu tố quyết định cho sự thành công
của việc xây dựng Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh. 14