Câu hỏi quy phạm pháp luật - Pháp luật đại cương | Đại học Tôn Đức Thắng
Câu 7: Trình bày khái niệm văn bản quy phạm pháp luật ? Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành ở nước tavà yêu cầu chung của việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Pháp luật đại cương (PL101)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Câu 7: Trình bày khái niệm văn bản quy phạm pháp luật ? Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành ở nước ta
và yêu cầu chung của việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Bài làm :
1. Khái niệm, định nghĩa và các đặc trưng của văn bản quy phạm pháp luật. .
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật
định, trong đó có các quy tắc xử sự chung được Nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo
định hướng XHCN và được áp dụng nhiều lần trong thực tế đời sống. Văn bản quy phạm pháp luật là một trong 3 hình
thức pháp luật được giai cấp thống trị sử dụng để nâng ý chí của giai cấp thống trị sử dụng để nâng ý chí của giai cấp
mình thành pháp luật là: tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật. Pháp luật XHCN có bản chất khác
với bản chất của các kiểu pháp luật trước đó, vì vậy nó cũng đòi hỏi phải có những hình thức biểu hiện phù hợp với bản chất đó
Từ định nghĩa trên, ta thấy văn bản quy phạm pháp luật có những đặc trưng sau:
- Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành , nghĩa là, không
phải mọi văn bản đều có thể gọi là văn bản quy phạm pháp luật, mà chỉ những văn bản nào được cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền ban hành mới có thể trở thành văn bản quy phạm pháp luật. Đặc trưng này cần chú ý một số điểm như sau :
Một là không phải bất kỳ cơ quan nào trong bộ máy Nhà nước đều có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật,
mà chỉ có những cơ quan được pháp luật quy định mới có được thẩm quyền này. Hai là thẩm quyền của các cơ quan ban
hành văn bản quy phạm pháp luật quyết định nội dung điều chỉnh, phạm vi điều chỉnh và mức độ điều chỉnh của văn bản.
Ba là cơ chế phân công và phối hợp, phân cấp thẩm quyền cũng như các nguyên tắc tập trung dân chủ và pháp chế trong
tổ chức, hoạt động của cơ quan Nhà nước là yếu tố quy định sự hình thành một trật tư nghiêm ngặt về hiệu lực pháp lý của các văn bản.
- Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa đựng quy tắc xử sự chung, được áp dụng đối với mọi chủ thể
của pháp luật. Như vậy những văn bản mặc dù có ý nghĩa pháp lý nhưng không chứa đựng những quy tắc xử sự chung
thì không phải là văn bản quy phạm pháp luật (ví dụ như Nhà nước XHCN có thể ra các văn bản mang tính chính trị như:
Lời kêu gọi, tuyên bố, thông báo, nghị quyết …. Các văn bản đó mặc dù có ý nghĩa pháp lý, nhưng không phải là văn bản
quy phạm pháp luật). Đây là tiêu chí chủ yếu để phân biệt văn bản quy phạm pháp luật với các văn bản Nhà nước khác
như văn bản áp dụng pháp luật, các loại giấy tờ hành chính
- Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần trong đời sống, được áp dụng trong mọi trường hợp khi
có sự kiện pháp lý xảy ra. Như vậy, các quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần đối với một đối tượng hoặc một
nhóm đối tượng có hiệu lực trong phạm vi toàn quốc hoặc trong từng địa phương, chỉ khi nào văn bản quy phạm pháp
luật hết hiệu lực hoặc bị bãi bỏ do cơ quan có thẩm quyền quyết định.
- Văn bản quy phạm pháp luật có nhiều loại, mỗi loại từ tên gọi, nội dung, phạm vi điều chỉnh, giá trị pháp lý, thủ
tục, trình tự ban hành đều do luật định.
- Văn bản quy phạm pháp luật được Nhà nước bảo đảm thi hành bằng các biện pháp như: tuyên truyền, giáo dục
thuyết phục; các biện pháp về tổ chức hành chính, kinh tế. Trong trường hợp cần thiết thì Nhà nước áp dụng bằng biện
pháp cưỡng chế bắt buộc thi hành và quy định chế tài đối với người có hành vi vi phạm
2. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. .
Hiện nay, theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
năm 2002, thì hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta chia làm 2 loại cơ bản : văn bản luật và văn bản dưới luật.
a- Văn bản luật : là văn bản quy phạm pháp luật do Quốc Hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất ban hành
theo trình tự và thủ tục được quy định trong Hiến pháp. Các văn bản này có giá trị pháp lý cao nhất. Mọi văn bản khác
(dưới luật) khi ban hành đều phải dựa trên cơ sở của văn bản luật và không được trái với các quy định trong các văn bản
đó. Văn bản gồm có : Hiến pháp, Luật (hoặc bộ luật), nghị quyết.
- Hiến pháp là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất, là nền tảng, cơ sở để ban hành các luật
và văn bản dưới luật. Hiến pháp quy định những vấn đề cơ bản nhất là nhà nước và xã hội như chế độ chính trị, chế độ
kinh tế, văn hoá xã hội, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà
nước. Các quy phạm Hiến pháp vừa bao quát các quan hệ XH mà pháp luật điều chỉnh lại vừa mang tính khái quát cao.
Do vậy, Hiến pháp như là “luật nguồn”, “luật mẹ”, “luật của các luật” để cơ quan nhà nước có thẩm quyền dựa vào để ban
hành các văn bản quy phạm khác, hình thành nên toàn bộ toà nhà pháp lý
- Luật hoặc bộ luật: Quốc hội nước ta giữ quyền ban hành hiến pháp, luật và bộ luật. Chính vì thế Quốc hội còn
được gọi là cơ quan lập hiến, lập pháp. Quốc hội ban hành luật, bộ luật căn cứ vào các quy định Hiến pháp và để thực
hiện quyền “quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh
của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hội động
của công dân … thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước ” (Điều 83 Hiến pháp 1992).
Luật, bộ luật đều có nguồn từ các quy định của Hiến pháp. Nó chứa đựng các quy phạm pháp luật, là những văn bản có
hiệu lực pháp lý sau hiến pháp, phù hợp với hiến pháp; vừa là văn bản cụ thể hóa Hiến pháp, bảo đảm cho Hiến pháp
được thực hiện, vừa là cơ sở cho các cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm PL để thực hiện quản lý
các lĩnh vực của đời sống XH.
- Pháp lệnh: Do UBTVQH ban hành; Pháp lệnh chỉ quy định những vấn đề cụ thể do Quốc hội quyết định và giao
ủy quyền, trên cơ sở chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc Hội. Vì thế, pháp lệnh là văn bản lập pháp ủy
quyền, thuộc phạm trù lập pháp. Đó thường là các vấn đề có ý nghĩa cấp bách, những vấn đề mới, không ổn định, còn
thiếu kinh nghiệm thực tiễn mà chưa có điều kiện để điều chỉnh bằng luật hoặc chưa cần thiết phải điều chỉnh bằng luật.
Thực tiễn lập pháp cho thấy, Quốc hội khóa VIII, IX, X và hiện nay là Quốc hội khóa XI đều giao cho UB Thường vụ Quốc
hội ban hành pháp lệnh để quy định những vấn đề thuộc phạm vi quy định của luật nhưng chưa đủ điều kiện ban hành
luật. Hiệu lực của Pháp lệnh thấp hơn luật
Bên cạnh việc ban hành luật và pháp lệnh, Quốc hội và UB Thường vụ Quốc hội còn ra nghị quyết. Có thể coi
nghị quyết là văn bản có tính quy phạm hoặc văn bản quy phạm bởi nó có hiệu lực pháp lý như luật, pháp lệnh. Về nội
dung, nghị quyết thể hiện quyết định quan trọng của Quốc hội đối với kế hoạch phát triển KT-XH, các chính sách cơ bản
về tài chính, tiền tệ quốc gia, dân tộc, tôn giáo, đối ngoại, an ninh, quốc phòng, về ngân sách nhà nước, phê chuẩn các điều ước quốc tế
b- Văn bản dưới luật : Văn bản dưới luật là những văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước ban hành
theo trình tự, thủ tục và hình thức được pháp luật qui định. Những văn bản này có giá trị pháp lý thấp hơn các văn bản
luật, vì vậy khi ban hành phải chú ý sao cho những quy định của chúng phải phù hợp với những qui định của Hiến pháp và Luật.
- Văn bản lập quy của cơ quan hành chính nhà nước TW, bao gồm: văn bản của chính phủ (nghị quyết, nghị định),
của thủ tướng chính phủ (quyết định, chỉ thị) và quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
Các văn bản trên tạo thành hệ thống thể chế của nền hành chính quốc gia, vừa là văn bản cụ thể hoá văn bản lập
pháp, vừa đặc cơ sở pháp lý trực tiếp cho tổ chức và hoạt động của nền hành chính, thực hiện quản lý hành chính đối với
mọi lĩnh vực của đời sống XH.
- Văn bản lập quy của cơ quan tư pháp (Toà án, VKS). Hội đồng thẩm phán TAND tối cao ra nghị quyết để hướng
dẫn các toà án áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử. Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND
tối cao ra quyết định, thông tư, chỉ thị để qui định các biện pháp bảo đảm thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
ngành; quy định những vấn đề khác thuộc thẩm quyền của mình.
- Văn bản lập quy của chính quyền địa phương (HĐND và UBND). HĐND ra nghị quyết để quyết định những vấn đề
xây dụng địa phương vững mạnh bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh hiến pháp, luật, pháp lệnh, các nghị quyết của Quốc
hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính cấp trên. UBND ra quyết
định, chỉ thị để tổ chức thực hiện nghị quyết của HĐND cùng cấp và thực hiện chức năng của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương
- Các văn bản quy phạm pháp luật liên tịch: các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không chỉ tự mình ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật, mà còn phối hợp với các cơ quan, tổ chức để ban hành văn bản, gọi là văn bản liên tịch.
Nội dung của văn bản loại này quy định liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều tổ chức
chính trị - xã hội. Có 3 loại văn bản liên tịch sau: Thông tư liên tịch giữa các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính
phủ; Thông tư liên tịch giữa Tòa án NDTC với Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc giữa các cơ quan này với bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Nghị quyết, thông tư liên tịch giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với cơ quan
trung ương của tổ chức chính trị - xã hội
3. Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật.
Để mỗi văn bản quy phạm pháp luật được ban hành đi vào cuộc sống có thể phát huy tác dụng, bảo đảm hiệu lực
thực tế và hiệu quả điều chỉnh của văn bản, thì cần phải xác định rõ, chính xác giới hạn hiệu lực của văn bản cả về thời
gian, không gian và đối tượng thi hành. Đó cũng là điều kiện để thiết lập một trật tự thứ bậc nghiêm ngặt về hiệu lực giữa
các văn bản, bảo đảm hình thành được một hệ thống văn bản quy phạm PL có tính thống nhất cao.
- Hiệu lực về thời gian của mỗi văn bản quy phạm pháp luật là giới hạn phạm vi tác động của văn bản về thời gian,
được tính thời điểm phát sinh hiệu lực cho đến khi chấm dứt hiệu lực của văn bản. Thông thường, một văn bản quy phạm
pháp luật có hiệu lực từ ngày công bố và hết hiệu lực khi có văn bản khác thay thế hoặc hủy bỏ. Một số văn bản ghi rõ
thời điểm phát sinh và chấm dứt hiệu lực, những văn bản này mặc nhiên hết hiệu lực khi đến thời điểm đã ghi trong văn
bản. Cá biệt, một số văn bản quy phạm PL có hiệu lực sau ngày công bố một thời gian, hoặc có những quy định có hiệu
lực trước ngày công bố văn bản (gọi là hiệu lực hồi tố) và các trường hợp này được được ghi rõ trong văn bản.
- Hiệu lực về không gian của văn bản quy phạm pháp luật là giới hạn phạm vi tác động của văn bản về mặt không
gian, có thể là toàn bộ lãnh thố quốc qua, một vùng hoặc một địa phương nhất định. Việc xác định hiệu lực không gian có
thể dựa vào căn cứ: Dựa vào điều khoản xác định hiệu lực không gian văn bản; đối với các văn bản quy phạm pháp luật
không có điều khoản xác định hiệu lực không gian thì phải dựa vào thẩm quyền cơ quan ban hành và nội dung văn bản
để xác định hiệu lực không gian. Cá biệt có văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực ngoài lãnh thổ. Thí dụ như những
viên chức Nhà nước công tác ngoại giao ở nước ngoài vẫn phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam.
- Hiệu lực theo đối tượng thi hành (áp dụng) văn bản quy phạp PL là giới hạn phạm vi các cơ quan, tổ chức, cá
nhân có nghĩa vụ thi hành. Thông thường các văn bản pháp luật tác động đến tất cả các đối tượng nằm trong lãnh thổ mà
văn bản đó có hiệu lực về thời gian và không gian. Phù hợp với điều đó, các văn bản quy phạm pháp luật của nước ta
được ban hành nhằm tác động đến công dân Việt Nam; tuy nhiên, trong những trường hợp nhất định, pháp luật Việt Nam
còn có hiệu lực đối với người nước ngoài, người không quốc tịch cư trú trên lãnh thổ Việt Nam, trừ những trường hợp
pháp luật của Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam có ký kết hoặc tham gia có quy định khác. Cá biệt những văn
bản quy phạm PL chỉ tác động điều chỉnh đến một số đối tượng nhất định (trong một số ngành nghề, lãnh vực), trong
những trường hợp này thường được ghi rõ trong văn bản
4. Thực trạng công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong cả nước, trong ngành hoặc địa phương mình.
Trong những năm qua, Nhà nước ta đã từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo điều kiện cơ sở
pháp lý cho việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát triển văn hóa, xã hội, tăng cường quốc phòng,
giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đồng thời không ngừng mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập
kinh tế. Phát luật đã trở thành công cụ chủ yếu để quản lý Nhà nước và xã hội. Nguyên tắc pháp quyền từng bước được
đề cao và phát huy hiệu quả trên thực tế. Công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã góp phần tích cực vào việc
phát triển đất nước. Nếu chỉ tính riêng luật và pháp lệnh do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc Hội ban hành, chúng ta có
thể thấy rằng, chất lượng và số lượng các văn bản quy phạm pháp luật này ngày càng được nâng cao. Trong nhiệm kỳ
IX, Quốc Hội đã thông qua và ban hành 41 văn bản luật và bộ luật, quy chế hoạt động của các cơ quan Quốc hội, nội quy
kỳ họp Quốc Hội; Uûy ban Thường vụ Quốc Hội thông qua và ban hành 44 pháp lệnh. Trong nhiệm kỳ X, Quốc Hội thông
qua và ban hành 35 luật và bộ luật; Ủy ban Thường vụ Quốc Hội thông qua và ban hành 44 pháp lệnh. Từ đầu nhiệm kỳ
Quốc hội khóa XI đến tháng 10/2004, Quốc Hội đã thông qua 26 luật và bộ luật, 03 quy chế hoạt động của các cơ quan
Quốc hội, 01 nội quy kỳ họp Quốc Hội; Ủy ban Thường vụ Quốc Hội thông qua và ban hành 21 pháp lệnh. Xây dựng
pháp luật ở nước ta đã trở thành hình thức hoạt động cơ bản của Nhà nước, được đẩy mạnh ở cả ba cấp độ: lập pháp,
lập quy của cơ quan nhà nước Trung ương và cấp độ lập quy của chính quyền địa phương tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương. Nhờ đó, đã tạo ra cơ sở pháp lý thúc đẩy quá trình hình thành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
thúc đẩy quá trình phát triển nền dân chủ XHCN, hoàn thiện nhà nước, mở rộng quan hệ đối ngoại.
Tuy nhiên, thực trạng công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật vẫn còn những yếu kém, bất cấp, chưa theo
kịp và chưa đáp ứng đầy đủ cho quá trình đổi mới của đất nước. Thể hiện ở một số điểm cụ thể sau
- Về thẩm quyền : Trên thực tế vẫn còn một số trường hợp khi ban hành các văn bản quy phạm pháp luật chưa đúng
với chức năng, thẩm quyền. Các quy phạm pháp luật được ban hành trong các văn bản dưới Luật chiếm tỷ lệ lớn hơn so
với văn bản Luật. Điều này cho thấy vai trò của Quốc hội đối với công tác lập pháp còn hạn chế.Thêm nữa công tác xây
dựng pháp luật của chúng ta chưa tiến hành đồng bộ và với kỹ thuật lập pháp cao. Do vậy, văn bản lạc hậu, thậm chí có
những văn bản sai cả về quy định xây dựng và trái với văn bản cấp trên về mặt nội dung.
- Về trình tự ban hành : trình độ quản lý và kỹ thuật lập pháp, lập quy của các nhà chuyên môn và các thành viên của
các cơ quan chuyên môn nghiệp vụ pháp lý còn thiếu kinh nghiệm trong hoạt động lập pháp, lập quy, việc tổ chức phối
hợp giữa các cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm định và Văn phòng chính phủ trong việc xem xét, đánh giá nội dung, chất
lượng dự thảo văn bản còn chưa cao, năng lực pháp lý của các đại biểu Quốc hội chưa sâu và chưa đồng đều, hoạt
động lập pháp và lập quy chưa tranh thủ được nhiều ý kiến của các nhà chuyên môn, các chuyên gia giỏi về pháp luật và
quản lý nhà nước , việc thảo luận xin ý kiến đóng góp thì chỉ hạn chế ở một số đối tượng mà chủ yếu là các cơ quan thi
hành pháp luật. Mặt khác, việc dự thảo các văn bản lập pháp lẽ ra phải do cơ quan chuyên trách của Quốc hội thực hiện
mới đảm bảo đúng chức năng và tính khách quan, tuy nhiêu hầu hết các văn bản này hiện nay đều do Bộ, ngành chuyên
môn của Chính phủ dự thảo, điều này dễ dẫn đến vịêc hoạch định chính sách, xác định nội dung cơ bản của thể chế
chưa được chú trọng đúng mức, chưa đảm bảo tính khách quan, thiếu sự đầu tư thích đáng về thời gian, công sức.
Nhiều hoạt động ban hành và thực thi pháp luật cùng một chủ thể, theo kiểu “vừa đá bóng, vừa là trọng tài”; tính khách
quan của một số văn bản không được đảm bảo
- Về nội dung, hình thức văn bản : chưa ngang tầm với đòi hỏi của thực tiễn, Nội dung của pháp luật nhiều lúc
chưa theo kịp với sự phát triển của thực tiễn, với tồn tại kinh tế xã hội, còn mang nặng ý muốn chủ quan nên tính khả thi
và dự báo thấp, làm cho Luật phải thường xuyên sửa đổi, bổ sung. Hệ thống pháp luật phát triển thiếu đồng bộ, nhất là
đối với dân luật. Nhiều lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội không được điều chỉnh bằng pháp luật. Các luật đã ban hành
còn thiếu độ minh bạch, thiếu ổn định, nhiều quy định không trực tiếp điều chỉnh được các quan hệ XH mà phải chờ đợi
văn bản hướng dẫn mới đi vào cuộc sống nên kém hiệu lực, hiệu quả.
5. Hoàn thiện hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo các yêu cầu về thẩm quyền, thể thức và
nguyên tắc ban hành; thủ tục và trình tự ban hành; về nội dung và hình thức văn bản, về công tác quản lý văn bản.
Để khắc phục tình trạng này, việc hoàn thiện hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật là công tác hết sức
cần thiết. Yêu cầu chung của việc hoàn thiện hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật là phải theo các yêu cầu
về thẩm quyền, thể thức và nguyên tắc ban hành; thủ tục và trình tự ban hành; về nội dung và hình thức văn bản, về công tác quản lý văn bản.
a. Về thẩm quyền, thể thức và nguyên tắc ban hành văn bản :
Văn bản quy phạm pháp luật phải đảm bảo ban hành đúng thẩm quyền về chủ thể, có nghĩa là chủ thể phải được
pháp luật quy định có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Văn bản quy phạm pháp luật còn đòi hỏi phải
đảm bảo đúng thẩm quyền về nội dung, có nghĩa là nội dung của cấp dưới không được trái với với văn bản pháp luật cấp trên.
b. Về trình tự, thủ tục ban hành văn bản :
Họat động xây dựng các văn bản pháp luật để hoàn thiện phải đảm bảo thực hiện theo đúng quy trình gồm 4 bước sau:
- Giai đọan 1: Đề xuất yêu cầu ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới hay sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm
pháp luật hiện hành. Trong giai đọan này, các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được đưa vào danh sách những chủ thể có
quyền trình sáng kiến pháp luật, tiến hành chuẩn bị dự thảo các văn bản trình trước cơ quan có thẩm quyền ban hành lọai văn bản đó.
- Giai đọan 2: Sọan thảo văn bản pháp luật. Quá trình sọan thảo dự án luật gồm sọan thảo văn bản, thảo luận sơ
bộ, lấy ý kiến đóng góp của các cơ quan, tổ chức và hộ gia đình, cá nhân liên quan đến văn bản đó.
- Giai đọan 3: Thông qua dự thảo văn bản quy phạm pháp luật Thông qua hay phê chuẩn dự thảo văn bản quy
phạm pháp luật có ý nghĩa là sự ban hành hay chính thức cho ra đời văn bản quy phạm pháp luật. Đó là hành vi đơn
phương của chủ thể ban hành pháp luật. Với những đối tượng phải thi hành, nó chỉ có ý nghĩa khi đã được công bố chính
thức và đã phát sinh hiệu lực. Tuy nhiên, cùng với quá trình xây dựng và phát huy nền dân chủ XHCN, việc lấy ý kiến
nhân dân trước khi chính thức thông qua và ban hành các đạo luật ngày càng có ý nghĩa quan trọng và thiết thực.
- Giai đọan 4 : Công bố văn bản quy phạm pháp luật: Đó là hành vi làm cho đối tượng thi hành pháp luật (cá nhân,
tổ chức) biết để thi hành. Khi nào được công bố, văn bản quy phạm pháp luật mới có giá trị thực thi trong cuộc sống.
Ngòai ra, từ khi xuất hiện trên phương dịên công bố (báo, đài…) cho đến khi văn bản đó chính thức có hiệu lực pháp lí
còn có khỏang thời gian nhất định được ghi nhận bằng pháp luật là thời gian mà đối tượng thực hiện văn bản đó chưa có
nghĩa vụ phải thi hành. Ngày nay, trong điều kiện công nghệ thông tin đã có nhiều tiến bộ vượt bậc, vấn đề công bố kịp
thời, rộng rãi và thuận tiện với mọi người dân về các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành hay sửa đổi, bổ
sung có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Điều này cũng thể hiện trách nhiệm to lớn của các cơ quan và nhân viên nhà nước
trong công tác phổ biến, giáo dục và tuyên truyền pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho các tầng lớp nhân dân.
c. Về nội dung và hình thức, phong cách :
- Nội dung văn bản: phải đảm bảo tính chính trị (tính Đảng), tính pháp lý (hợp pháp), tính khoa học (hợp lý), tính
thực tiễn và tính khả thi. Song, xét về yếu tố thực tiễn trong đó đã hàm chứa tính khả thi; xét về tính khoa học thì nó cũng
hàm chứa yếu tố thực tiễn. Nhưng muốn nhấn mạnh nó nên người ta tách rời nó ra thành những yếu độc lập.
+ Tính chính trị: phải xuất phát từ môi trường kinh tế - xã hội mà con người đang sống và tính giai cấp của giai cấp
thống trị xã hội. Đường lối chính trị của Đảng quy định nội dung của pháp luật xã hội chủ nghĩa. Tính chính trị của nó thể
hiện quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng trong các văn bản quy phạm pháp luật xã hội chủ nghĩa.
+ Tính pháp lý và tính khoa học: văn bản quy phạp pháp luật phải có tính pháp lý và tính khoa học cao nhằm đảm
bảo tính đúng đắn của văn bản trên cơ sở quy định những nội dung pháp lý mang tính khoa học để thực thi các văn bản của pháp luật.
+ Tính thực tiễn và tính khả thi: các văn bản quy phạm pháp luật phải đảm bảo khả năng thực hiện được trong thực
tế để đảm bảo điều kiện khả thi của pháp luật.
- Về hình thức văn bản: là nội dung yêu cầu vế kết cấu của bố cục, diễn đạt và lập luận, hành văn và đặt câu, ngôn
ngữ và văn phong trong văn bản của Nhà nước phải đảm bảo đúng đặc điểm của phong cách hành chính trong văn bản
quy phạm pháp luật, có những đặc điểm là: chính xác, dễ hiểu, khách quan, lịch sự và khuôn mẫu.
+ Tính chính xác và tính dễ hiểu: còn được gọi chung là tính ngắn gọn là tính nổi bật của phong cách hành chính. Nó
được hiểu là được hiểu từ người soạn thảo, ký, phát hành, đọc và thi hành văn bản điều hiểu một nghĩa duy nhất và nó
không cho phép suy diễn. Trường hợp trong văn bản có sử dụng thuật ngữ thì phải có định nghĩa thuật ngữ đó. Yêu cầu
của tính chính xác và tính dễ hiểu là ngắn gọn nhưng cũng không cứng nhắc.
+ Tính khách quan: của văn bản nào ban hành cũng đều nhân danh Nhà nước chứ không phải cá nhân. Do vậy, nó
phải mang tính khách quan không được bộc lộ thái độ nghiêng lệch, không có tính trung tính (ẩn dụ, hoán dụ, nhân cách
hóa), phải bảo đảm tính nghiêm minh nhưng đồng thời phải thực sự khách quan.
+ Tính lịch sự: thể hiện trong văn bản và kể cả trong tiếp xúc dân đều phải thể hiện phong cách hành chính.
+ Tính khuôn mẫu: các văn bản thường hình thành các mẫu văn bản để tiện lợi cho việc làm việc và giao tiếp và tùy
theo hoàn cảnh mà diễn đạt cho phù hợp. Đồng thời chú ý trong văn bản thành ngữ không được dùng (vì thành ngữ
được hiểu theo nghĩa bóng), không được dùng tiếng lóng, tiếng địa phương, tiếng tục điệp ngữ mà phải dùng ngôn ngữ
Thủ đô. Đây là nguyên tắc cho mọi văn bản nói chung.
d. Công tác quản lý văn bản: Phải tuân thủ theo những qui định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật:
- Thủ tục sửa đổi hoặc bãi bỏ văn bản: Cần sửa đổi, bãi bỏ những văn bản bất hợp lý, bất hợp pháp. Phải dùng hình
thức văn bản phù hợp để sửa đổi hoặc bão bỏ văn bản theo đúng thẩm quyền.
- Thủ tục sao lục văn bản: Cần phải phân biệt ranh giới giữa sao y vào sao lục.
- Thủ tục lưu văn bản: Đối với văn bản đi cần lưu một bản ở bộ phận ban hành, một bản ở văn phòng cơ quan. Đối với
văn bản đến thì lưu tại văn phòng. Nếu văn bản có liên quan đến nhiều bộ phận thì văn phòng sao thêm để gửi đến các bộ phận.
Vì vậy, việc xác định rõ hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật, là một trong những tiền đề quan trọng bảo đảm hiệu
lực thực tế và hiệu quả điều chỉnh của văn bản. Đó cũng là điều kiện để thiết lập một trật tự thứ bậc nghiêm ngặt về hiệu
lực giữa các văn bản, bảo đảm hình thành được một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có tính thống nhất cao Kết luận :
Công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật và hoàn thiện hoạt động ban hành văn bản ở nước có vai trò hết
sức quan trọng và cấp thiết nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật làm cơ sở xây dựng một nhà nước pháp quyền thực sự
của dân, do dân và vì dân - một trong những nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hóa
- hiện đại hóa. Hiểu rõ và làm tốt những biện pháp công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật sẽ là yếu tố góp phần
không nhỏ vào sự thành công của sự nghiệp xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay