




Preview text:
Câu hỏi thảo luận: Tìm hiểu về chính sách "Khoán hộ" và "Bù giá vào lương"? 
*Khoán hộ 
Kim Ngọc, ông tên thật là Kim Văn Nguộc, sinh ngày 10/10/1917 và mất năm 1979 
tại thôn Đại Nội, xã Bình Định, huyện An Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, Ông là nguyên Bí thư 
Tỉnh ủy tỉnh Vĩnh Phúc, mệnh danh là "cha đẻ của khoán hộ" mà người ta quen gọi là 
"khoán mười", "cha đẻ của Đổi mới trong nông nghiệp" ở Việt Nam. 
Sự ra đời của khoán hộ vào năm 1968 
Cuối năm 1959, đầu những năm 1960, phong trào hợp tác hóa miền Bắc diễn ra rầm 
rộ. Đồng nhất hợp tác hóa với tập thể hóa, do đó khi công hữu hóa tư liệu sản xuất đã 
không phân biệt cụ thể mà tiến hành công hữu hóa tràn lan, kể cả những tư liệu sản 
xuất giản đơn như cày bừa, cây cối lưu niên, vườn tược của các hộ xã viên. 
Thêm vào đó là áp dụng một cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đối với hợp tác xã, vì 
thế chẳng bao lâu những nhược điểm, khuyết điểm của hợp tác hóa dần dần bộc lộ. 
Nông dân chẳng còn thiết tha với ruộng đồng, sản xuất theo kiểu đối phó, năng suất 
lúa năm sau tuột hơn năm trước. Nạn đói diễn ra thường xuyên. Tỉnh Vĩnh Phúc cũng 
nằm trong hoàn cảnh trên. Điều đó khiến ông Kim Ngọc mất ăn mất ngủ. 
Với nhãn quan nhạy cảm, Kim Ngọc đã nhìn thấy hướng đi cho hợp tác xã qua việc 
thay đổi cách khoán của các hợp tác xã. Việc thường xuyên gặp gỡ trao đổi với nông 
dân, cộng với khảo sát của cán bộ trong cơ quan được cử đến các hợp tác xã, ông 
Kim Ngọc rút ra được những kết luận hết sức quan trọng. 
Trước hết tuy có hàng vạn thanh niên vào bộ đội nhìn chung lao động ở nông thôn 
còn khá dồi dào, nhưng do không quản lý tốt, sử dụng không hợp lý nên để lãng phí 
một lực lượng lao động đáng kể. Kết luận thứ hai: khi xây dựng hợp tác xã, người ta 
coi hộ là yếu tố cơ bản để tính quy mô hợp tác xã, phân bố tư liệu sản xuất, giao chỉ 
tiêu sản xuất kinh doanh. Nhưng trong quá trình sản xuất lại tách hộ khỏi tư liệu sản 
xuất cơ bản nhất, do vậy đã triệt tiêu động lực của sự phát triển nên sản xuất kém  hiệu quả. 
Rồi như tìm ra một chân lí: Có lẽ phải chuyển sang mô hình khoán kiểu khác cho 
người nông dân. Và thế là ngày 10/9/1966, Nghị quyết 68 của Đảng bộ Vinh Phúc về     
một số vấn đề quản lý lao động nông nghiệp trong hợp tác xã hiện nay đã ra đời, một 
nghị quyết mang tính đột phá vào thành trì bảo thủ của nông nghiệp, dám thẳng thắn 
phê bình sự thụt lùi, yếu kém của mô hình hợp tác xã lúc ấy. 
Nghị quyết mang số 68 do ông Trần Quốc Phi, phó bí thư tỉnh ủy, Trưởng ban công 
tác nông thôn, ký. Sau này bà con nông dân thường gọi tắt là nghị quyết 68 hoặc là  nghị quyết khoán hộ. 
Nghị quyết 68 đề ra nhiều cách khoán như: 
+ Khoán cho hộ làm một khẩu hoặc nhiều khâu sản xuất trong một thời gian dài. 
+ Khoán cho hộ các khâu dài ngày hoặc suốt vụ. 
+ Khoán sản lượng cho hộ, cho nhóm. 
+ Khoán trắng ruộng đất cho hộ. Hình thức khoán trắng đơn giản, dễ tính toán nên 
được nông dân hưởng ứng rầm rộ và tự nó đã thành phong trào quần chúng rộng rãi 
trong toàn tỉnh Vĩnh Phúc. Có thể nói khoán hộ là bước mở đầu cho một tư duy mới 
về quản lý kinh tế hợp tác xã 
Khoán hộ là cách hợp tác xã trực tiếp giao ruộng cho người lao động để từng hộ chủ 
động canh tác. Hợp tác xã chỉ cung cấp giống, kĩ thuật, phân bón, thuốc trừ sâu và đến 
vụ thu hoạch thì người lao động chia lại một phần lúa cho hợp tác xã từ sản lượng lúa 
mà họ thu hoạch được. 
Nông dân hiểu và làm theo rất đơn giản: Cái gì mật thiết bới họ thì họ chọn và họ đã 
chọn đúng. Hạt lúa đã gắn với công sức và quyền lợi người nông dân. Nếu họ chăm 
chỉ làm việc thì lúa sẽ tốt hứa hẹn vụ mùa đó sẽ thu hoạch được nhiều hơn cho mình 
và hợp tác xã. Đó là một chân lí đơn giản. Nhân dân toàn huyện phấn khởi nhân khoán  và hăng say sản xuất. 
Chỉ sau 1 năm khoán hộ, bộ mặt nông nghiệp của Vĩnh Phúc đã thay đổi rất mạnh. 
Mặc dù chiến tranh ác liệt nhưng trải qua hai vụ sản xuất với hình thức khoán mới, 
nền nông nghiệp Vĩnh Phúc đã có bước tiến vượt bậc. Năm 1967 tuy chiến tranh ác 
liệt, hạn hán kéo dài nhưng toàn tỉnh đã có hai huyện, 46 xã và 160 hợp tác xã (hơn 
70 % số hợp tác xã) đạt năng suất bình quân từ 5 tấn đến trên 7 tấn/ha. Trong đó có bảy             
mây u ám nhỏ để sau này tụ lại thành đám mây lớn tạo nên những cơn sấm sét giáng 
xuống đầu ông Kim Ngọc. 
Mặc dù có đôi ba ý kiến phản đối gay gắt nhưng khoán hộ vẫn được áp dụng phần đất 
thuộc Phú Thọ cũ. Cũng như ở tỉnh Vĩnh Phúc trước đây, nhờ áp dụng khoán hộ nên 
huy động được lực lượng lao động đông đảo thay thế cho người ta mặt trận, khuyến 
khích mọi người hăng hái sản xuất, năng suất lúa ngày một tăng, đời sống nông dân 
ngày càng được cải thiện. Để tránh tình trạng cho chung không 
ai khóc, một số hợp tác xã còn mạnh dạn bán lại những vật tư thô sơ như xe cải | tiến, 
cày bừa, cào cải tiến, bình bơm thuốc trừ sâu... cho hộ xã viên. 
Nhưng ngày vui ngắn chẳng tày gang. Một tô phái viên của trung ương được cử lên 
Vĩnh Phú đề “kiểm tra” tình hình sản xuất của các hợp tác xã nông nghiệp. Ngày 6-
111968, tại hội nghị cán bộ tỉnh Vĩnh Phú chủ trương khoán hộ bị phê phán gay gắt: 
“Nói tóm lại việc khoán ruộng cho hộ đã dẫn đến hậu quả tai hại là phát triển tư 
tưởng tự tư tự lợi, làm phai nhạt ý thức tập thể của xã viên, thủ tiêu phong trào thi 
đua yêu nước trong hợp tác xã. Kìm hãm và đẩy lùi cách mạng kỹ thuật trong nông 
nghiệp; giảm nhẹ vai trò của lao động tập thể xã hội chủ nghĩa và phục hồi  *Bù giá vào lương 
Giai đoạn 1981-1985, tình hình đất nước vô cùng khó khăn. Đặc biệt là cuộc chiến 
“làm giá” giữa định giá nhà nước và hình thành giá thị trường. Khi đó, tiền lương 
danh nghĩa của cán bộ, công chức, viên chức không cao. Nhưng bù lại, họ phân chia 
một số nhu yếu phẩm với giá trợ cấp. 
Mỗi tháng cán bộ, công chức được mua 13 kg gạo; công nhân được mua 15-20 kg 
gạo tùy theo loại hình công việc; nửa lít nước mắm; 0,3-0,5 kg thịt; 0,3 kg đường; 
chất đốt. 4 lít dầu hỏa hoặc 20 kg than đá ... được thu mua theo giá cung ứng, thấp 
hơn rất nhiều so với giá trị thực tế trên thị trường. Trung bình, 30 phần trăm thu nhập 
của một sĩ quan hoặc công nhân là tiền lương; 70 phần trăm còn lại là nhu yếu phẩm 
được mua theo giá nhà nước thông qua phiếu giảm giá.     
Tuy nhiên, qua phân phối tem phiếu, hệ thống tiền lương đã bị biến thành tiền lương 
vật chất, đã triệt tiêu động lực thúc đẩy người lao động và phá vỡ nguyên tắc phân  phối theo công việc. 
Bí thư Tỉnh ủy Long An, ông Nguyễn Văn Chính - lãnh đạo phía Nam, quyết định 
phải làm gì đó để thay đổi cơ chế giá, tiền lương. Ông lựa chọn trong số các trí thức 
địa phương và gọi ông Hồ Đắc Hi, lúc đó là phó giám đốc Sở Thương mại, để thảo  luận. 
Ông đã soạn thảo kế hoạch cải cách lưu thông và phân phối Long An. Dự án này xác 
định lại rằng giá cả, tiền lương phải dựa trên quy luật giá trị, quy luật cung cầu và các 
nguyên tắc khác của kinh tế học hàng hóa chứ không chỉ dựa trên ý chí. Tuy nhiên, do 
chất lượng hàng hóa thấp, tiêu chuẩn thấp, hàng hóa cung ứng và nhu cầu không phù 
hợp, ... nên mức lương này chỉ đạt hiệu quả 50-70%. 
Trong hoàn cảnh này, khi nhà nước bán hàng ra thị trường, hầu hết hàng hóa đều do 
“ngoại”, “tay trong” mua. Khi nhà nước hết hàng, họ bán ra thị trường với giá cao 
hơn. Hoặc nếu người tiêu dùng lo sợ không có hàng trong thời gian tới mà cố gắng 
mua càng nhiều càng tốt để dự trữ sẽ gây ra tình trạng khan hiếm ảo. Giải pháp ở đây 
là chia mặt hàng cần bán thành ba. Bằng cách này, người mua sẽ hiểu rằng nước sẽ 
không được bán chỉ một lần. Điều này có nghĩa là: Đầu cơ sẽ thất bại. 
Trong ba tháng cuối năm 1979, tất cả các sản phẩm khác của Long An (trừ gạo) đều 
được bán ra thị trường. Tất cả các mặt hàng đều được quy đổi thành tiền mặt theo giá  thị trường. 
Người dân cả nước rất phấn khởi, thị trường sôi động hẳn lên, chỉ số giá tiêu dùng 
giảm mạnh. Lần thứ nhất, người Long nhãn (quan công). Quỹ lương tỉnh tăng gấp bảy  lần.