Câu 1. Từ nội dung lý luận về hàng hóa sức lao động, hãy nêu giải pháp để nâng
cao chất lượng của hàng hóa sức lao động Việt Nam trên thị trường sức lao động.
Khái niệm hàng hóa sức lao động:
Sức lao động là: sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực
thể chất tinh thần tồn tại trong thể, trong một con người đang sống, được
người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất một giá trị sử dụng nào đó.
Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa: 2 điều kin
Thức nhất, người lao động được tự do về thân th.
Thức hai, người lao động không có đủ các liệu sản xuất cần thiết để tự kết
hợp với sức lao động của mình tạo ra hàng hóa để bán, cho nên họ phải bán sức
lao động.
Thuộc tính của sc lao động:
Hàng hóa sức lao động cũng hai thuộc tính gồm: giá trị và giá trị sử dụng
Thứ nhất , giá trcủa hàng hóa sức lao động cũng do số lượng lao động
hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động quyết định.
Sức lao động chỉ tồn tại như ng lực con người sống, muốn tái sản xuất ra
năng lực đó người lao động phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định.
Do vậy, thời gian lao động hội cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động sẽ
được quy thành thời gian lao độnghội cần thiết để sản xuất ra những liệu ấy. Giá
trị của hàng hóa sức lao động được đo lường gián tiếp thông qua lượng giá trị của các
tư liệu sinh hoạt để tái sản xuất ra sức lao động.
Giá trị của hàng hóa sức lao động do các bộ phận sau đây hợp thành:
Một , Giá trị liệu sinh hoạt cần thiết cần thiết (cả vật chất, tinh thần) để tái
sản xuất ra sức lao động;
Hai , phí tổn đào tạo người lao động;
Ba , giá trị những liệu sinh hoạt cần thiết (vật chất tinh thần) để nuôi
con của người lao động.
Nếu đúng theo nguyên tắc ngang giá trong nền kinh tế thị trường thì giá cả của hàng
hóa sức lao động phải phản ánh lượng giá trị nếu trên
Thứ hai , giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng nhằm mục đích thỏa
mãn nhu cầu của người mua.
Người mua hàng hóa sức lao động mong muốn thỏa mãn nhu cầu được giá
trị lớn hơn, giá trị tăng thêm. Giá trị hàng hóa sức lao động được thể hiện trong quá
trình sử dụng sức lao động.
Vậy, hàng hóa sức lao động là loại hàng hóa đặc biệt, mang yếu tố tinh thần
lịch sử. Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động tính năng đặc biệt không
hàng hóa thông thường nào được, đó trong khi sử dụng nó, không những giá trị
của nó được bảo tồn còn tạo ra được lượng giá trị lớn hơn. Đây chính là chìa khóa
chỉ rõ nguồn gốc của giá trị lớn hơn giá trị thặng dư do hao phí sức lao động mà có.
Thị trường lao động - đó là một chế hoạt động tương hỗ giữa người sử dụng
lao động người lao động trong một không gian kinh xác định, thể hiện những
quan hệ kinh tế pháp giữa họ với nhau” ( theo nhà khoa học kinh tế Nga Kostin
Leonit Alecxeevich). Hay nói chi tiết hơn, thị trường lao động tập hợp những quan
hệ kinh tế, pháp lý, xuất hiện giữa người sở hữu sức lao động (người lao động)
người sử dụng (người thuê lao động) về vấn đề chỗ làm việc cụ thể, nơi hàng
hóa và dịch vụ sẽ được làm ra. Quá trình sử dụng sức lao động, lao động sẽ được hình
thành trong sản xuất chứ không phải trên thị trường. Đối với người nắm giữ sức lao
động sẽ được tạo ra hội để nhận chỗ làm việc, i anh ta thể làm việc, thể
hiện khả năng, nhận thu nhập để tái sản xuất sức lao động của mình. Đối với người
thuê lao động sẽ có cơ hội tăng lợi nhuận kinh tế.
Giải pháp:
Giải pháp về phát triển nguồn cung lao động:
Nâng cao chất lượng trình độ người lao động một giải pháp quan trọng
nhằm phát triển nguồn cung cho thị trường ng hóa sức lao động. Trước hết, cần tập
trung phát triển mạnh hệ thống trung học chuyên nghiệp, dạy nghề theo hướng đồng
bộ về cấu, ưu tiên các ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghệ cao như năng
lượng, vi điện tử, tự động hóa, công nghệ sinh học… Đồng thời, có các chính sách thu
hút nhân tài, đãi ngộ giáo viên, chế ưu đãi để khuyến khích các thành phần kinh tế,
tổ chức cá nhân tham gia vào công tác đào tạo, chuyển đổi nghề cho người lao động.
Giải pháp về phát triển nguồn cầu lao động:
Thứ nhất, giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động. Đây được xem vấn
đề cấp thiết, nóng bỏng đặt ra cho Đảng, Nhà nước ta.
Thứ hai, nhanh chóng sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước theo hướng c
phần hóa, tập trung đầu theo chiều u, hiện đại hóa thiết bị công nghệ, tạo môi
trường cạnh tranh lành mạnh để phát triển và thu hút lao động.
Thứ ba, thực hiện các chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Chuyển
dịch mạnh cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa, phát
triển các ngành nghề phi nông nghiệp, đẩy mạnh dịch vụ. Đặc biệt,chú trọng phát triển
mạnh quan hệ kinh tế với nước ngoài bằng nhiều hình thức để tạo nguồn xuất khẩu lao
động tại chỗ, tăng đầu khai thác, mở rộng xuất khẩu lao động sang các khu vực, thị
trường truyền thống và một số thị trường mới; khai thác, sử dụng hiệu quả các
nguồn vốn tạo việc làm, ưu tiên vốn vay cho các doanh nghiệp thu hút, sử dụng nhiều
lao động.
Giải pháp về hoàn thiện chính sách tiền công, tiền lương:
Để đảm bảo cuộc sống cho người lao động, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tạo điều
kiện để người lao động phát huy hết khả năng của mình, thị trường lao động Việt Nam
nên áp dụng những giải pháp sau: ng lương tối thiểu cho người lao động; cần thêm
những động thái tích cực nhằm kích cầu tiêu dùng; tăng khoảng cách giữa các bậc liền
kề trong bảng ơng; hoàn thiện chính sách tiền lương, tiền công theo hướng thị
trường; cần chế độ, chính sách về tiền lương phụ cấp đối với cán bộ, công chức
sở cho phù hợp sự phát triển kinh tế thị trường; cần quy định các nguyên tắc y
dựng thang lương, bảng ơng để người lao động người sử dụng lao động sở
xác định tiền lương, đồng thời tăng ờng công tác kiểm tra, thanh tra để đảm bảo
quyền lợi của người lao động; tăng cường sự quản giám sát của Nhà nước đối
với thị trường sức lao động; tạo cung lao động đáp ứng thị trường về số lượng, chất
lượng và cơ cấu ngành nghề, đặc biệt là tỷ lệ lao động đã qua đào tạo.
Giải pháp về xây dựng môi trường pháp lý, nâng cao năng lực cạnh tranh, vai
trò quản lý của Nhà nước:
Thứ nhất, hoàn thiện môi trường pháp lý, gắn cải cách tiền lương với cải cách
kinh tế, tạo sự gắn kết đồng bộ giữa các loại thị trường để thúc đẩy nhau phát triển
lành mạnh
Thứ hai, đầu xây dựng một trung tâm giao dịch lao động đạt tiêu chuẩn khu
vực với trang thiết bị hiện đại. Đây sẽ đầu mối cung cấp các thông tin đầy đủ nhất
về cung cầu lao động trên thị trường. Ngoài ra, một hệ thống thông tin bao gồm
hướng nghiệp dạy nghề; dịch vụ việc làm; thống thị trường lao động… cũng sẽ
được thiết lập từ thành phố đến từng quận, huyện xã, phường nhằm cung cấp thông
tin về việc làm nhanh chóng và chuẩn xác nhất cho người lao động.
Thứ ba, thực hiện phân bố lại dân lao động giữa các vùng bằng việc mở
thêm nhiều nhà y, nghiệp, khu chế xuất…tăng ờng những vùng kinh tế kém
phát triển hơn nhằm cân đối lại thị trường lao động để khai thác hết tiềm năng của đất
nước.
Thứ tư, tăng cường vai trò quảncủa Nhà nước trong thị trường sức lao động.
Theo đó, việc tuyên truyền, phổ biến rộng rãi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước về việc làm, đào tạo nghề các vấn đề liên quan đến thị trường
lao động sẽ được phổ biến sâu rộng tới người lao động. Công tác thanh tra, kiểm tra,
giám sát việc thực hiện các chế độ, chính sách đối với người lao động cũng được đẩy
mạnh. Tăng cường công tác quản Nhàớc về tiền lương, tiền công trên thị trường
lao động nhằm thúc đẩy các giao dịch trên sở đó hình thành giá cả thị trường sức
lao động, đồng thời điều tiết giám sát tiền lương, tiền công để hạn chế tính tự phát.
Công đoàn các tổ chức đoàn thể cần vai trò quan trọng trong việc điều tiết thị
trường lao động và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người lao động
Tóm lại, sự tồn tại phát triển của hàng hóa sức lao động thị trường lao
động một tất yếu khách quan. Việc thừa nhận sức lao động trở thành hàng hóa giúp
kích thích người lao động và người sử dụng lao động có những đóng góp tích cực hơn
vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước. vậy, để tồn tại phát triển, trong thị
trường thế giới đầy khắc nghiệt,c nhà kinh tế Việt Nam cần những chiến lược cụ
thể nhằm nâng cao sức cạnh trạnh của hàng hóa, đặc biệt hàng hóa sức lao động. Do
vây, cần áp dụng triệt để luận về hàng hóa sức lao động của C. Mác vào thực tế
Việt Nam một cách có hiệu quả
Câu 2. Phân tích các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong nền kinh tế th
trường.
Để thu được nhiều giá trị thặng cần phương pháp nhất định. C. Mác đã
chỉ ra nhà bản sử dụng hai phương pháp sản xuất giá trị thặng sản xuất giá trị
thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Giá trị thặng tuyệt đối giá trị thặng thu được do kéo dài ngày lao
động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao
động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi.
sở chung của chế độ bản chủ nghĩa chính phương pháp sản xuất giá trị thặng
tuyệt đối.Phương pháp này được sử dụng phổ biến trong giai đoạn đầu chủ nghĩa
bản.Trong giai đoạn này, kỹ thuật còn thấp, tiến bộ chậm chạp, lao động còn trình
độ thủ công thì phương pháp chủ yếu để tăng giá trị thặng kéo dài ngày lao động
của công nhân. Tuy nhiên sức lực con người hạn, hơn nữa công nhân đấu tranh
quyết liệt đòi rút ngắn ngày lao động nên các nhà bản không thể kéo dài ngày lao
động thời hạn. Nhưng ngày lao động cũng không được rút ngắn đến mức bằng thời
gian lao động tất yếu. Một hình thức khác của phương pháp sản xuất giá trị thặng
tuyệt đối chính tăng ờng độ lao động. Bởi tăng cường độ lao động cũng tương
tự việc kéo dài thời gian lao động trong ngày nhưng thời gian lao động cần thiết
không đổi.
Trong học thuyết của Các Mác hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư,
tuy nhiên Việt Nam đi theo con đường xã hội chủ nghĩa nên phương thức tạo ra giá trị
thặng dư tuyệt đối không sử dụng được, thời gian lao động không kéo quá 8 tiếng một
ngày hay 48 tiếng một tuần theo Điều 68 Bộ Luật Lao Động. Nhằm gạt bỏ mục đích
tính chất của chủ nghĩa bản thì tháp dụng phương pháp sản xuất giá trị
thặng tương đối biến tấu của - giá trị thặng siêu ngạch vào nền kinh tế
Việt Nam.
Sản xuất giá trị thặng tương đối. Giá trị thặng ơng đối giá trị
thặng dư thu được nhờ rút ngắn thời gian lao động tất yếu; do đó kéo dài thời gian lao
động thặng dư trong khi độ dài ngày lao động không thay đổi hoặc thậm chí rút ngắn.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng tương đối phương pháp nâng cao trình
độ bóc lột, bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết để kéo dài thời gian lao
động thặng dư trong điều kiện độ dài của ngày lao động vẫn như cũ.
Ta xét ví dụ sau: Giả sử ngày lao động 8 giờ với thời gian lao động tất yếu
4 giờ và thời gian lao động thặng dư là 4 giờ.
Do do, tỷ suất giá trị thặng là: m’ = 4/4 × 100%=100%
Giả định rằng ngày lao động không thay đổi, nhưng bây giờ công nhân chỉ cần
3 giờ lao động đã tạo ra được một lượng giá trị mới bằng với giá trị sức lao động của
mình. Do đó, tỷ lệ phân chia ngày lao động sthay đổi là: 3 giờ thời gian lao động
tất yếu và 5 giờ là thời gian lao động thặng dư.
Do do, bây giờ tỷ suất giá trị thặng sẽ là: m'=5/3 × 100%=167%
Như vậy, tỷ suất giá trị thặng dư đã tăng từ 100% lên 167%.
Để hạ thấp giá trị sức lao động thì phải giảm giá trị các liệu sinh hoạtdịch
vụ cần thiết để tái sản xuất sức lao động, do đó phải tăng năng suất lao động trong các
ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt và các ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để chế tạo
ra tư liệu sinh hoạt đó.
Trong thực tế, việc cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động diễn ra trước hết
một hoặc vài xí nghiệp riêng biệt, làm cho hàng hóa do các nghiệp ấy sản xuất ra
giá trị biệt thấp hơn giá trị hội, do đó, sẽ thu được một số giá trị thặng trội
hơn so với cácnghiệp khác. Phần giá trị thặng trội hơn đó giá trị thặng siêu
ngạch.
Xét trong từng trường hợp đơn vị sản xuất biệt, giá trị thặng siêu ngạch
một hiện tượng tạm thời, xuất hiện rồi mất đi, nhưng xét toàn bộ hội bản thì giá
trị thặng dư siêu ngạch lại là hiện tượng tồn tại thường xuyên.
Giá trị thặng siêu ngạch động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà bản ra
sức cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động. Hoạt động riêng lẻ đó của từng nhà
bản đã dẫn đến kết quả làm tăng năng suất lao động hội, hình thành giá trị thặng
tương đối, thúc đẩy lực ợng sản xuất phát triển. vậy, giá trị thặng siêu
ngạch là hình thái biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.
Kết luận: Hiện nay, hai phương pháp sản xuất giá trị thặng ý nghĩa rất to
lớn đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nước ta. Đối với quá
trình phát triển nền kinh tế quốc dân của nước ta, việc nghiên cứu sản xuất gtrị
thặng gợi mở cho các nhà hoạch định chính sách phương thức làm tăng của cải,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong điều kiện điểm xuất phát của nước ta còn thấp, để
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cần tận dụng triệt để các nguồn lực, nhất lao động
sản xuất kinh doanh. Về bản lâu dài, cần phải coi trọng việc tăng năng suất lao
động hội, coi đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân
giải pháp cơ bản để tăng năng suất lao động xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Câu 3. Từ luận về tích lũy bản hãy nêu ý nghĩa của việc tích tụ vốn tập
trung vốn sản xuất trong sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
Trong thực tế nền kinh tế thị trường bản chủ nghĩa, quá trình sản xuất liên
tục được lặp đi lặp lại không ngừng. Quá trình sản xuất được lặp đi, lặp lại không
ngừng được gọi tái sản xuất. Tái sản xuất hai hình thức chủ yếu tái sản xuất
giản đơn và tái sản xuất mở rộng.
Tái sản xuất giản đơn là sự lặp lại quá trình sản xuất với quynhư cũ. Trong
trường hợp này, ứng với nền sản xuất bản chủ nghĩa, toàn bộ giá trị thặng đã
được nhà tư bản tiêu dùng cho cá nhân.
Tuy nhiên, bản không những được bảo tồn còn phải không ngừng lớn
lên. Để thực hiện tái sản xuất mở rộng, nhà bản phải biến một bộ phận giá trị thặng
thành bản phụ thêm. Sự chuyển hóa một phần giá trthặng thành bản gọi
là tích luỹ tư bản.
Bản chất của tích lũy bản quá trình tái sản xuất mở rộng bản chủ nghĩa
thông qua việc chuyển hóa giá trị thặng thành bản phụ thêm để tiếp tục mở rộng
sản xuất kinh doanh thông qua mua thêm hàng hóa sức lao động, mở mang nhà
xưởng, mua thêm nguyên vật liệu, trang bị thêm máy móc thiết bị... Nghĩa là, nhà
bản không sử dụng hết giá thị thặng thu được cho tiêu dùng nhân biến
thành bản phthêm. Cho nên, khi thtrường thuận lợi, nhà bản bán được hàng
hóa, giá trị thặng dư vì thế sẽ ngày càng nhiều, nhà tư bản trở nên giàu có hơn.
Thực chất, nguồn gốc duy nhất của bản tích luỹ giá trị thặng dư. Nhờ
tích lũy bản, quan hệ sản xuất bản chủ nghĩa không những trở thành thống trị,
còn không ngừng mở rộng sự thống trị đó.
Với khối lượng gtrị thặng nhất định, quy tích luỹ bản phụ thuộc
vào tỷ lệ phân chia giữa tích luỹ tiêu dùng. Nếu tlệ giữa tích luỹ tiêu dùng đã
được xác định thì quy tích luỹ bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư.
Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới quy mô tích luỹ gồm:
Thứ nhất, trình độ khai thác sức lao động
Tỷ suất giá trị thặng tăng sẽ tạo tiền đề để tăng quy giá trị thặng dư. Từ
đó tạo điều kiện để tăng quy tích luỹ. Để nâng cao tỷ suất giá trị thặng dư,
ngoài sử dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng tuyệt đối sản xuất giá trị
thặng tương đối, nhà bản còn thể sử dụng các biện pháp cắt xén tiền công,
tăng ca tăng kíp, tăng cường độ lao động.
Thứ hai, năng suất lao động hội.
Năng suất lao động tăng làm cho giá trị liệu sinh hoạt giảm xuống, làm giảm
giá trị sức lao động giúp cho nhà bản thu được nhiều giá trị thặng hơn, góp phần
tạo điều kiện cho phép tăng quy mô tích luỹ.
Thứ ba, sử dụng hiệu quả máy móc.
C.Mác gọi việc này chênh lệch giữa bản sử dụng bản tiêu dùng.
Theo C.Mác, máy móc được sử dụng toàn bộ tính năng của nó, song giá trị chỉ được
tính dần vào giá trị sản phẩm qua khấu hao. Sau mỗi chu kỳ như thế, máy móc vẫn
hoạt động toàn bộ nhưng giá trị của bản thân đã giảm dần do tính giá khấu hao để
chuyển vào giá trị sản phẩm. Hệ quả là, mặc giá trị đã bị khấu hao, song tính năng
hay giá trị sử dụng thì vẫn nguyên như cũ, như lực lượng phục vụ không công trong
sản xuất. Sự phục vụ không công ấy được lao động sống nắm lấy làm cho chúng
hoạt động. Chúng được tích luỹ lại cùng với tăng quy tích luỹ bản. Đồng thời,
sự lớn lên không ngừng của quỹ khấu hao trong khi chưa cần thiết phải đổi mới bản
cổ định cũng trở thành nguồn tài chính có thể sử dụng cho mở rộng sản xuất.
Thứ tư, đại lượng bản ứng trước.
Nếu thị trường thuận lợi, hàng hóa luônn được, bản ứng trước càng lớn sẽ
là tiền đề cho tăng quy mô tích luỹ.
Theo C.Mác, quá trình tích lũy trong nền kinh tế thị trường tư bản dẫn tới các
hệ quả kinh tế mang tính quy luật như sau:
Thứ nhất, tích lũy bản làm tăng cấu tạo hữu bn.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản (ký hiệu c/v) là cấu tạo giá trị được quyết định bởi
cấu tạo kỹ thuật và phản ánh sự biến đổi của cấu tạo kỹ thuật của tư bản.
C.Mác cho rằng, nền sản xuất thể được quan sát qua hình thái hiện vật.
Cũng thể quan sát qua hình thái giá trị. Nếu quan sát qua hình thái hiện vật thì mối
quan hệ tỷ lgiữa số lượng liệu sản xuất và số lượng sức lao động được coi cấu
tạo kỹ thuật.
Cấu tạo kỹ thuật này, nếu quan sát qua hình thái giá trị phản ánh mối quan
hệ tỷ lệ giữa bản bất biến với bản khả biến. Tỷ lệ giá trị này được gọi cấu tạo
hữu cơ. Cấu tạo hữu cơ luôn xu hướng tăng do cấu tạo kỹ thuật cũng vận động theo
xu hướng tăng lên về lượng.
vậy, quá trình tích lũy bản không ngừng làm tăng cấu tạo hữu bản.
Thứ hai, tích luỹ bản làm tăng tích tụtập trung bn.
Trong quá trình tái sản xuất bản chủ nghĩa, quy của bản cá biệt tăng
lên thông qua quá trình tích tụ tập trung bản. Tích tụ bản stăng thêm quy
mô của tư bản cá biệt bằng cách tư bản hóa giá trị thặng dư.
Tích tụ bản làm tăng quy bản biệt đồng thời làm tăng quy
bản hội do giá trị thặng được biến thành bản phụ thêm. Tích tụ bản kết
quả trực tiếp của tích luỹ bản. Tập trung bản sự tăng lên của quy mô bản
biệt không làm tăng quy bản hội do hợp nhất các bản biệt vào một
chỉnh thể tạo thành một bản cá biệt lớn hơn. Tập trung bản có thể được thực hiện
thông qua sáp nhập các tư bản cá biệt với nhau.
Tích tụ tập trung bản đều góp phần tạo tiền đề để thể thu được nhiều
giá trị thặng dư hơn cho người mua hàng hóa sức lao động.
Thứ ba, quá trình tích luỹ bản làm không ngừng làm tăng chênh lệch giữa
thu nhập của nhà bản với thu nhập của người lao động làm thuê cả tuyệt đối lẫn
tương đối.
Thực tế, xét chung trong toàn bộ nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, thu nhập mà các
nhà tư bản có được, lớn hơn gấp rất nhiều lần so với thu nhập dưới dạng tiền công của
người lao động làm thuê. C.Mác đã quan sát thấy thực tế này ông gọi đó sự bần
cùng hóa người lao động. Cùng với sự gia tăng quy sản xuấtcấu tạo hữu của
bản, bản khả biến xu hướng giảm tương đối so với bản bất biến, dẫn tới
nguy thừa nhân khẩu. Do đó, quá trình tích luỹ bản tính hai mặt, một mặt thể
hiện sự tích luỹ sự giàu sang về phía giai cấp tư sản, và mặt khác tích lũy sự bần
cùng về phía giai cấp công nhân làm thuê.
Bần cùng hoá giai cấp công nhân làm thuê biểu hiện dưới hai hình thái bần
cùng hoá tương đối bần cùng hoá tuyệt đối. Bần cùng hoá tương đối là cùng với đà
tăng trưởng lực lượng sản xuất, phần sản phẩm phân phối cho giai cấp công nhân m
thuê tuy tăng tuyệt đối, nhưng lại giảm tương đối so với phần dành cho giai cấp
sản. Bần cùng hoá tuyệt đối thể hiện sự sụt giảm tuyệt đối về mức sống của giai cấp
công nhân làm thuê. Bần cùng hóa tuyệt đối thường xuất hiện đối với bộ phận giai cấp
công nhân làm thuê đang thất nghiệp và đối với toàn bộ giai cấp công nhân làm thuê
trong các điều kiện kinh tế khó khăn, đặc biệt trong khủng hoảng kinh tế.
Việc đề cập đến tình hình đất nước, các nhiệm vụ, đặc điểm của nền kinh tế,
hình thức sở hữu cũng như cấu nền kinh tế vai trò tác dụng giúp chúng ta
nhận thức về vấn đề tích tụ và tập trung tư bản đối với đất nước ta hiện nay. Tư bản
chính là vốn, được đầu vào trong sản xuất. Tích tụ và tập trung bản thực chất tích
tụ tập trung vốn o trong sản xuất. ràng đất nước ta với những đặc điểm như
trên, cùng với nó là quá trình công nghiệp a hiện đại hóa đất nước thì vấn đề tích tụ
tập trung bản vốn một trong những vấn đề bản để thực hiện thành công
chiến ợc phát triển kinh tế. Đối Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội với những nhiệm vụ kinh tế bản như: phát triển lực lượng sản xuất, coi công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ nhằm
xây dựng sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa hội. Trong thời kỳ quá độ cũng tồn
tại ba hình thức sở hữu là: sở hưu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, mỗi loại
hình sở hữu lại có nhiều hình thức sở hữu ở nhiều mức độ khác nhau.
Vốn là một nhân tố đầu vào không thể thiếu trong các hoạt động kinh tế. Thiếu
vốn, nền kinh tế không thể ng trưởng được. vậy, để nền kinh tế tăng trưởng cao
thì nhu cầu về vốn ng lớn đòi hỏi phải sử dụng hiệu quả nguồn vốn đó. Vốn
không chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế còn đóng góp vào chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo ngành vùng. Công nghiệp hóa, hiện đại a Việt Nam rất cần nguồn
bản (vốn) những hình thức vốn, đặc biệt của đối với sự phát triển của kinh tế đất
nước.

Preview text:

Câu 1. Từ nội dung lý luận về hàng hóa sức lao động, hãy nêu giải pháp để nâng
cao chất lượng của hàng hóa sức lao động Việt Nam trên thị trường sức lao động.

Khái niệm hàng hóa sức lao động:
Sức lao động là: sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực
thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể, trong một con người đang sống, và được
người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất một giá trị sử dụng nào đó.
Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa: có 2 điều kiện
Thức nhất, người lao động được tự do về thân thể.
Thức hai, người lao động không có đủ các tư liệu sản xuất cần thiết để tự kết
hợp với sức lao động của mình tạo ra hàng hóa để bán, cho nên họ phải bán sức lao động.
Thuộc tính của sức lao động:
Hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc tính gồm: giá trị và giá trị sử dụng
Thứ nhất là, giá trị của hàng hóa sức lao động cũng do số lượng lao động xã
hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động quyết định.
Sức lao động chỉ tồn tại như năng lực con người sống, muốn tái sản xuất ra
năng lực đó người lao động phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định.
Do vậy, thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động sẽ
được quy thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu ấy. Giá
trị của hàng hóa sức lao động được đo lường gián tiếp thông qua lượng giá trị của các
tư liệu sinh hoạt để tái sản xuất ra sức lao động.
Giá trị của hàng hóa sức lao động do các bộ phận sau đây hợp thành:
Một là, Giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết cần thiết (cả vật chất, tinh thần) để tái
sản xuất ra sức lao động;
Hai là, phí tổn đào tạo người lao động;
Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết (vật chất và tinh thần) để nuôi
con của người lao động.
Nếu đúng theo nguyên tắc ngang giá trong nền kinh tế thị trường thì giá cả của hàng
hóa sức lao động phải phản ánh lượng giá trị nếu trên
Thứ hai là, giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng nhằm mục đích thỏa
mãn nhu cầu của người mua.
Người mua hàng hóa sức lao động mong muốn thỏa mãn nhu cầu có được giá
trị lớn hơn, giá trị tăng thêm. Giá trị hàng hóa sức lao động được thể hiện trong quá
trình sử dụng sức lao động.
Vậy, hàng hóa sức lao động là loại hàng hóa đặc biệt, mang yếu tố tinh thần và
lịch sử. Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động có tính năng đặc biệt mà không
hàng hóa thông thường nào có được, đó là trong khi sử dụng nó, không những giá trị
của nó được bảo tồn mà còn tạo ra được lượng giá trị lớn hơn. Đây chính là chìa khóa
chỉ rõ nguồn gốc của giá trị lớn hơn giá trị thặng dư do hao phí sức lao động mà có.
Thị trường lao động - đó là một cơ chế hoạt động tương hỗ giữa người sử dụng
lao động và người lao động trong một không gian kinh té xác định, thể hiện những
quan hệ kinh tế và pháp lý giữa họ với nhau” ( theo nhà khoa học kinh tế Nga Kostin
Leonit Alecxeevich). Hay nói chi tiết hơn, thị trường lao động là tập hợp những quan
hệ kinh tế, pháp lý, xuất hiện giữa người sở hữu sức lao động (người lao động) và
người sử dụng nó (người thuê lao động) về vấn đề chỗ làm việc cụ thể, nơi và hàng
hóa và dịch vụ sẽ được làm ra. Quá trình sử dụng sức lao động, lao động sẽ được hình
thành trong sản xuất chứ không phải trên thị trường. Đối với người nắm giữ sức lao
động sẽ được tạo ra cơ hội để nhận chỗ làm việc, nơi mà anh ta có thể làm việc, thể
hiện khả năng, và nhận thu nhập để tái sản xuất sức lao động của mình. Đối với người
thuê lao động sẽ có cơ hội tăng lợi nhuận kinh tế. Giải pháp:
Giải pháp về phát triển nguồn cung lao động:
Nâng cao chất lượng và trình độ người lao động là một giải pháp quan trọng
nhằm phát triển nguồn cung cho thị trường hàng hóa sức lao động. Trước hết, cần tập
trung phát triển mạnh hệ thống trung học chuyên nghiệp, dạy nghề theo hướng đồng
bộ về cơ cấu, ưu tiên các ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghệ cao như năng
lượng, vi điện tử, tự động hóa, công nghệ sinh học… Đồng thời, có các chính sách thu
hút nhân tài, đãi ngộ giáo viên, cơ chế ưu đãi để khuyến khích các thành phần kinh tế,
tổ chức cá nhân tham gia vào công tác đào tạo, chuyển đổi nghề cho người lao động.
Giải pháp về phát triển nguồn cầu lao động:
Thứ nhất, giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động. Đây được xem là vấn
đề cấp thiết, nóng bỏng đặt ra cho Đảng, Nhà nước ta.
Thứ hai, nhanh chóng sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước theo hướng cổ
phần hóa, tập trung đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hóa thiết bị công nghệ, tạo môi
trường cạnh tranh lành mạnh để phát triển và thu hút lao động.
Thứ ba, thực hiện các chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Chuyển
dịch mạnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa, phát
triển các ngành nghề phi nông nghiệp, đẩy mạnh dịch vụ. Đặc biệt,chú trọng phát triển
mạnh quan hệ kinh tế với nước ngoài bằng nhiều hình thức để tạo nguồn xuất khẩu lao
động tại chỗ, tăng đầu tư khai thác, mở rộng xuất khẩu lao động sang các khu vực, thị
trường truyền thống và một số thị trường mới; khai thác, sử dụng có hiệu quả các
nguồn vốn tạo việc làm, ưu tiên vốn vay cho các doanh nghiệp thu hút, sử dụng nhiều lao động.
Giải pháp về hoàn thiện chính sách tiền công, tiền lương:
Để đảm bảo cuộc sống cho người lao động, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tạo điều
kiện để người lao động phát huy hết khả năng của mình, thị trường lao động Việt Nam
nên áp dụng những giải pháp sau: Tăng lương tối thiểu cho người lao động; cần thêm
những động thái tích cực nhằm kích cầu tiêu dùng; tăng khoảng cách giữa các bậc liền
kề trong bảng lương; hoàn thiện chính sách tiền lương, tiền công theo hướng thị
trường; cần có chế độ, chính sách về tiền lương và phụ cấp đối với cán bộ, công chức
cơ sở cho phù hợp sự phát triển kinh tế thị trường; cần quy định các nguyên tắc xây
dựng thang lương, bảng lương để người lao động và người sử dụng lao động có cơ sở
xác định tiền lương, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra để đảm bảo
quyền lợi của người lao động; tăng cường sự quản lý và giám sát của Nhà nước đối
với thị trường sức lao động; tạo cung lao động đáp ứng thị trường về số lượng, chất
lượng và cơ cấu ngành nghề, đặc biệt là tỷ lệ lao động đã qua đào tạo.
Giải pháp về xây dựng môi trường pháp lý, nâng cao năng lực cạnh tranh, vai
trò quản lý của Nhà nước:
Thứ nhất, hoàn thiện môi trường pháp lý, gắn cải cách tiền lương với cải cách
kinh tế, tạo sự gắn kết đồng bộ giữa các loại thị trường để thúc đẩy nhau phát triển lành mạnh
Thứ hai, đầu tư xây dựng một trung tâm giao dịch lao động đạt tiêu chuẩn khu
vực với trang thiết bị hiện đại. Đây sẽ là đầu mối cung cấp các thông tin đầy đủ nhất
về cung – cầu lao động trên thị trường. Ngoài ra, một hệ thống thông tin bao gồm
hướng nghiệp dạy nghề; dịch vụ việc làm; thống kê thị trường lao động… cũng sẽ
được thiết lập từ thành phố đến từng quận, huyện và xã, phường nhằm cung cấp thông
tin về việc làm nhanh chóng và chuẩn xác nhất cho người lao động.
Thứ ba, thực hiện phân bố lại dân cư và lao động giữa các vùng bằng việc mở
thêm nhiều nhà máy, xí nghiệp, khu chế xuất…tăng cường ở những vùng kinh tế kém
phát triển hơn nhằm cân đối lại thị trường lao động để khai thác hết tiềm năng của đất nước.
Thứ tư, tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trong thị trường sức lao động.
Theo đó, việc tuyên truyền, phổ biến rộng rãi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước về việc làm, đào tạo nghề và các vấn đề liên quan đến thị trường
lao động sẽ được phổ biến sâu rộng tới người lao động. Công tác thanh tra, kiểm tra,
giám sát việc thực hiện các chế độ, chính sách đối với người lao động cũng được đẩy
mạnh. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về tiền lương, tiền công trên thị trường
lao động nhằm thúc đẩy các giao dịch trên cơ sở đó hình thành giá cả thị trường sức
lao động, đồng thời điều tiết giám sát tiền lương, tiền công để hạn chế tính tự phát.
Công đoàn và các tổ chức đoàn thể cần có vai trò quan trọng trong việc điều tiết thị
trường lao động và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người lao động…
Tóm lại, sự tồn tại và phát triển của hàng hóa sức lao động và thị trường lao
động là một tất yếu khách quan. Việc thừa nhận sức lao động trở thành hàng hóa giúp
kích thích người lao động và người sử dụng lao động có những đóng góp tích cực hơn
vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước. Vì vậy, để tồn tại và phát triển, trong thị
trường thế giới đầy khắc nghiệt, các nhà kinh tế Việt Nam cần có những chiến lược cụ
thể nhằm nâng cao sức cạnh trạnh của hàng hóa, đặc biệt là hàng hóa sức lao động. Do
vây, cần áp dụng triệt để lý luận về hàng hóa sức lao động của C. Mác vào thực tế
Việt Nam một cách có hiệu quả
Câu 2. Phân tích các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường.
Để thu được nhiều giá trị thặng dư cần có phương pháp nhất định. C. Mác đã
chỉ ra nhà tư bản sử dụng hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất giá trị
thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao
động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao
động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi.
Cơ sở chung của chế độ tư bản chủ nghĩa chính là phương pháp sản xuất giá trị thặng
dư tuyệt đối.Phương pháp này được sử dụng phổ biến trong giai đoạn đầu chủ nghĩa
tư bản.Trong giai đoạn này, kỹ thuật còn thấp, tiến bộ chậm chạp, lao động còn ở trình
độ thủ công thì phương pháp chủ yếu để tăng giá trị thặng dư là kéo dài ngày lao động
của công nhân. Tuy nhiên sức lực con người có hạn, hơn nữa vì công nhân đấu tranh
quyết liệt đòi rút ngắn ngày lao động nên các nhà tư bản không thể kéo dài ngày lao
động vô thời hạn. Nhưng ngày lao động cũng không được rút ngắn đến mức bằng thời
gian lao động tất yếu. Một hình thức khác của phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
tuyệt đối chính là tăng cường độ lao động. Bởi vì tăng cường độ lao động cũng tương
tự việc kéo dài thời gian lao động trong ngày nhưng thời gian lao động cần thiết là không đổi.
Trong học thuyết của Các Mác có hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư,
tuy nhiên Việt Nam đi theo con đường xã hội chủ nghĩa nên phương thức tạo ra giá trị
thặng dư tuyệt đối không sử dụng được, thời gian lao động không kéo quá 8 tiếng một
ngày hay 48 tiếng một tuần theo Điều 68 Bộ Luật Lao Động. Nhằm gạt bỏ mục đích
và tính chất của chủ nghĩa tư bản thì có thể áp dụng phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư tương đối và biến tấu của nó - giá trị thặng dư siêu ngạch vào nền kinh tế Việt Nam.
Sản xuất giá trị thặng dư tương đối. Giá trị thặng dư tương đối là giá trị
thặng dư thu được nhờ rút ngắn thời gian lao động tất yếu; do đó kéo dài thời gian lao
động thặng dư trong khi độ dài ngày lao động không thay đổi hoặc thậm chí rút ngắn.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp nâng cao trình
độ bóc lột, bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết để kéo dài thời gian lao
động thặng dư trong điều kiện độ dài của ngày lao động vẫn như cũ.
Ta xét ví dụ sau: Giả sử ngày lao động là 8 giờ với thời gian lao động tất yếu là
4 giờ và thời gian lao động thặng dư là 4 giờ.
Do do, tỷ suất giá trị thặng dư là: m’ = 4/4 × 100%=100%
Giả định rằng ngày lao động không thay đổi, nhưng bây giờ công nhân chỉ cần
3 giờ lao động đã tạo ra được một lượng giá trị mới bằng với giá trị sức lao động của
mình. Do đó, tỷ lệ phân chia ngày lao động sẽ thay đổi là: 3 giờ là thời gian lao động
tất yếu và 5 giờ là thời gian lao động thặng dư.
Do do, bây giờ tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là: m'=5/3 × 100%=167%
Như vậy, tỷ suất giá trị thặng dư đã tăng từ 100% lên 167%.
Để hạ thấp giá trị sức lao động thì phải giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch
vụ cần thiết để tái sản xuất sức lao động, do đó phải tăng năng suất lao động trong các
ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt và các ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để chế tạo
ra tư liệu sinh hoạt đó.
Trong thực tế, việc cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động diễn ra trước hết ở
một hoặc vài xí nghiệp riêng biệt, làm cho hàng hóa do các xí nghiệp ấy sản xuất ra có
giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội, do đó, sẽ thu được một số giá trị thặng dư trội
hơn so với các xí nghiệp khác. Phần giá trị thặng dư trội hơn đó là giá trị thặng dư siêu ngạch.
Xét trong từng trường hợp đơn vị sản xuất cá biệt, giá trị thặng dư siêu ngạch là
một hiện tượng tạm thời, xuất hiện rồi mất đi, nhưng xét toàn bộ xã hội tư bản thì giá
trị thặng dư siêu ngạch lại là hiện tượng tồn tại thường xuyên.
Giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản ra
sức cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động. Hoạt động riêng lẻ đó của từng nhà
tư bản đã dẫn đến kết quả làm tăng năng suất lao động xã hội, hình thành giá trị thặng
dư tương đối, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Vì vậy, giá trị thặng dư siêu
ngạch là hình thái biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.
Kết luận: Hiện nay, hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư có ý nghĩa rất to
lớn đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đối với quá
trình phát triển nền kinh tế quốc dân của nước ta, việc nghiên cứu sản xuất giá trị
thặng dư gợi mở cho các nhà hoạch định chính sách phương thức làm tăng của cải,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong điều kiện điểm xuất phát của nước ta còn thấp, để
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cần tận dụng triệt để các nguồn lực, nhất là lao động và
sản xuất kinh doanh. Về cơ bản lâu dài, cần phải coi trọng việc tăng năng suất lao
động xã hội, coi đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân là là
giải pháp cơ bản để tăng năng suất lao động xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Câu 3. Từ lý luận về tích lũy tư bản hãy nêu ý nghĩa của việc tích tụ vốn và tập
trung vốn sản xuất trong sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam hiện nay.

Trong thực tế nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, quá trình sản xuất liên
tục được lặp đi lặp lại không ngừng. Quá trình sản xuất được lặp đi, lặp lại không
ngừng được gọi là tái sản xuất. Tái sản xuất có hai hình thức chủ yếu là tái sản xuất
giản đơn và tái sản xuất mở rộng.
Tái sản xuất giản đơn là sự lặp lại quá trình sản xuất với quy mô như cũ. Trong
trường hợp này, ứng với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, toàn bộ giá trị thặng dư đã
được nhà tư bản tiêu dùng cho cá nhân.
Tuy nhiên, tư bản không những được bảo tồn mà còn phải không ngừng lớn
lên. Để thực hiện tái sản xuất mở rộng, nhà tư bản phải biến một bộ phận giá trị thặng
dư thành tư bản phụ thêm. Sự chuyển hóa một phần giá trị thặng dư thành tư bản gọi là tích luỹ tư bản.
Bản chất của tích lũy tư bản là quá trình tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa
thông qua việc chuyển hóa giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm để tiếp tục mở rộng
sản xuất kinh doanh thông qua mua thêm hàng hóa sức lao động, mở mang nhà
xưởng, mua thêm nguyên vật liệu, trang bị thêm máy móc thiết bị... Nghĩa là, nhà tư
bản không sử dụng hết giá thị thặng dư thu được cho tiêu dùng cá nhân mà biến nó
thành tư bản phụ thêm. Cho nên, khi thị trường thuận lợi, nhà tư bản bán được hàng
hóa, giá trị thặng dư vì thế sẽ ngày càng nhiều, nhà tư bản trở nên giàu có hơn.
Thực chất, nguồn gốc duy nhất của tư bản tích luỹ là giá trị thặng dư. Nhờ có
tích lũy tư bản, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa không những trở thành thống trị, mà
còn không ngừng mở rộng sự thống trị đó.
Với khối lượng giá trị thặng dư nhất định, quy mô tích luỹ tư bản phụ thuộc
vào tỷ lệ phân chia giữa tích luỹ và tiêu dùng. Nếu tỷ lệ giữa tích luỹ và tiêu dùng đã
được xác định thì quy mô tích luỹ tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư.
Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới quy mô tích luỹ gồm:
Thứ nhất, trình độ khai thác sức lao động
Tỷ suất giá trị thặng dư tăng sẽ tạo tiền đề để tăng quy mô giá trị thặng dư. Từ
đó mà tạo điều kiện để tăng quy mô tích luỹ. Để nâng cao tỷ suất giá trị thặng dư,
ngoài sử dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị
thặng dư tương đối, nhà tư bản còn có thể sử dụng các biện pháp cắt xén tiền công,
tăng ca tăng kíp, tăng cường độ lao động.
Thứ hai, năng suất lao động xã hội.
Năng suất lao động tăng làm cho giá trị tư liệu sinh hoạt giảm xuống, làm giảm
giá trị sức lao động giúp cho nhà tư bản thu được nhiều giá trị thặng dư hơn, góp phần
tạo điều kiện cho phép tăng quy mô tích luỹ.
Thứ ba, sử dụng hiệu quả máy móc.
C.Mác gọi việc này là chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng.
Theo C.Mác, máy móc được sử dụng toàn bộ tính năng của nó, song giá trị chỉ được
tính dần vào giá trị sản phẩm qua khấu hao. Sau mỗi chu kỳ như thế, máy móc vẫn
hoạt động toàn bộ nhưng giá trị của bản thân nó đã giảm dần do tính giá khấu hao để
chuyển vào giá trị sản phẩm. Hệ quả là, mặc dù giá trị đã bị khấu hao, song tính năng
hay giá trị sử dụng thì vẫn nguyên như cũ, như lực lượng phục vụ không công trong
sản xuất. Sự phục vụ không công ấy được lao động sống nắm lấy và làm cho chúng
hoạt động. Chúng được tích luỹ lại cùng với tăng quy mô tích luỹ tư bản. Đồng thời,
sự lớn lên không ngừng của quỹ khấu hao trong khi chưa cần thiết phải đổi mới tư bản
cổ định cũng trở thành nguồn tài chính có thể sử dụng cho mở rộng sản xuất.
Thứ tư, đại lượng tư bản ứng trước.
Nếu thị trường thuận lợi, hàng hóa luôn bán được, tư bản ứng trước càng lớn sẽ
là tiền đề cho tăng quy mô tích luỹ.
Theo C.Mác, quá trình tích lũy trong nền kinh tế thị trường tư bản dẫn tới các
hệ quả kinh tế mang tính quy luật như sau:
Thứ nhất, tích lũy tư bản làm tăng cấu tạo hữu cơ tư bản.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản (ký hiệu c/v) là cấu tạo giá trị được quyết định bởi
cấu tạo kỹ thuật và phản ánh sự biến đổi của cấu tạo kỹ thuật của tư bản.
C.Mác cho rằng, nền sản xuất có thể được quan sát qua hình thái hiện vật.
Cũng có thể quan sát qua hình thái giá trị. Nếu quan sát qua hình thái hiện vật thì mối
quan hệ tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản xuất và số lượng sức lao động được coi là cấu tạo kỹ thuật.
Cấu tạo kỹ thuật này, nếu quan sát qua hình thái giá trị nó phản ánh ở mối quan
hệ tỷ lệ giữa tư bản bất biến với tư bản khả biến. Tỷ lệ giá trị này được gọi là cấu tạo
hữu cơ. Cấu tạo hữu cơ luôn có xu hướng tăng do cấu tạo kỹ thuật cũng vận động theo
xu hướng tăng lên về lượng.
Vì vậy, quá trình tích lũy tư bản không ngừng làm tăng cấu tạo hữu cơ tư bản.
Thứ hai, tích luỹ tư bản làm tăng tích tụ và tập trung tư bản.
Trong quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa, quy mô của tư bản cá biệt tăng
lên thông qua quá trình tích tụ và tập trung tư bản. Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy
mô của tư bản cá biệt bằng cách tư bản hóa giá trị thặng dư.
Tích tụ tư bản làm tăng quy mô tư bản cá biệt đồng thời làm tăng quy mô tư
bản xã hội do giá trị thặng dư được biến thành tư bản phụ thêm. Tích tụ tư bản là kết
quả trực tiếp của tích luỹ tư bản. Tập trung tư bản là sự tăng lên của quy mô tư bản cá
biệt mà không làm tăng quy mô tư bản xã hội do hợp nhất các tư bản cá biệt vào một
chỉnh thể tạo thành một tư bản cá biệt lớn hơn. Tập trung tư bản có thể được thực hiện
thông qua sáp nhập các tư bản cá biệt với nhau.
Tích tụ và tập trung tư bản đều góp phần tạo tiền đề để có thể thu được nhiều
giá trị thặng dư hơn cho người mua hàng hóa sức lao động.
Thứ ba, quá trình tích luỹ tư bản làm không ngừng làm tăng chênh lệch giữa
thu nhập của nhà tư bản với thu nhập của người lao động làm thuê cả tuyệt đối lẫn tương đối.
Thực tế, xét chung trong toàn bộ nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, thu nhập mà các
nhà tư bản có được, lớn hơn gấp rất nhiều lần so với thu nhập dưới dạng tiền công của
người lao động làm thuê. C.Mác đã quan sát thấy thực tế này và ông gọi đó là sự bần
cùng hóa người lao động. Cùng với sự gia tăng quy mô sản xuất và cấu tạo hữu cơ của
tư bản, tư bản khả biến có xu hướng giảm tương đối so với tư bản bất biến, dẫn tới
nguy cơ thừa nhân khẩu. Do đó, quá trình tích luỹ tư bản có tính hai mặt, một mặt thể
hiện sự tích luỹ sự giàu sang về phía giai cấp tư sản, và mặt khác tích lũy sự bần
cùng về phía giai cấp công nhân làm thuê.
Bần cùng hoá giai cấp công nhân làm thuê biểu hiện dưới hai hình thái là bần
cùng hoá tương đối và bần cùng hoá tuyệt đối. Bần cùng hoá tương đối là cùng với đà
tăng trưởng lực lượng sản xuất, phần sản phẩm phân phối cho giai cấp công nhân làm
thuê tuy có tăng tuyệt đối, nhưng lại giảm tương đối so với phần dành cho giai cấp tư
sản. Bần cùng hoá tuyệt đối thể hiện sự sụt giảm tuyệt đối về mức sống của giai cấp
công nhân làm thuê. Bần cùng hóa tuyệt đối thường xuất hiện đối với bộ phận giai cấp
công nhân làm thuê đang thất nghiệp và đối với toàn bộ giai cấp công nhân làm thuê
trong các điều kiện kinh tế khó khăn, đặc biệt trong khủng hoảng kinh tế.
Việc đề cập đến tình hình đất nước, các nhiệm vụ, đặc điểm của nền kinh tế,
hình thức sở hữu cũng như cơ cấu nền kinh tế và vai trò có tác dụng giúp chúng ta
nhận thức rõ về vấn đề tích tụ và tập trung tư bản đối với đất nước ta hiện nay. Tư bản
chính là vốn, được đầu vào trong sản xuất. Tích tụ và tập trung tư bản thực chất là tích
tụ và tập trung vốn vào trong sản xuất. Rõ ràng đất nước ta với những đặc điểm như
trên, cùng với nó là quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước thì vấn đề tích tụ
và tập trung tư bản vốn là một trong những vấn đề cơ bản để thực hiện thành công
chiến lược phát triển kinh tế. Đối Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội với những nhiệm vụ kinh tế cơ bản như: phát triển lực lượng sản xuất, coi công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ nhằm
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ quá độ cũng tồn
tại ba hình thức sở hữu là: sở hưu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, mỗi loại
hình sở hữu lại có nhiều hình thức sở hữu ở nhiều mức độ khác nhau.
Vốn là một nhân tố đầu vào không thể thiếu trong các hoạt động kinh tế. Thiếu
vốn, nền kinh tế không thể tăng trưởng được. Vì vậy, để nền kinh tế tăng trưởng cao
thì nhu cầu về vốn càng lớn và đòi hỏi phải sử dụng hiệu quả nguồn vốn đó. Vốn
không chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn đóng góp vào chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo ngành và vùng. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam rất cần nguồn tư
bản (vốn) những hình thức vốn, đặc biệt của nó đối với sự phát triển của kinh tế đất nước.