CÂU HỎI THẢO LUẬN CHƯƠNG 1
1. sao trong quá trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cách
mạng vô sản?
Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cách mạngsản do:
Nhận thức sâu sắc từ thực tiễn thế giới: Sau khi ra đi tìm đường cứu nước năm 1911,
Nguyễn Ái Quốc đã đi qua nhiều nước tư bản, thuộc địa và chứng kiến tận mắt sự bóc lột
tàn bạo của chủ nghĩa thực dân, từ đó Người kết luận: “Trên đời này chỉ hai giống
người: người bóc lột và người bị bóc lột”.
Ảnh hưởng từ Cách mạng Tháng Mười Nga (1917): Sự kiện này mở ra thời đại cách
mạng giải phóng dân tộcchống đế quốc, minh chứng sống động cho khả năng thành
công của con đường cách mạng vô sản.
Tiếp cận chủ nghĩa Mác-Lênin: Sau khi đọc bản "Sơ thảo luận cương về vấn đề dân tộc
thuộc địa" của Lênin (1920), Nguyễn Ái Quốc nhận thấy đây học thuyết đúng đắn
giúp giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân. Người gia nhập Quốc tế Cộng sảntrở thành
một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp từ đó xác định con đường cách
mạng vô sản là con đường cứu nước duy nhất đúng đắn.
2. Bằng các sự kiện lịch sử có chọn lọc, chứng minh sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
là một tất yếu lịch sử.
Tác động của cách mạng thế giới: Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi Quốc tế
Cộng sản ra đời (1919) đã thúc đẩy sự phát triển phong trào cộng sản truyền chủ
nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam.
Phong trào yêu nước thất bại: Các phong trào tiền bối như Cần Vương, Đông Du, Duy
Tân, khởi nghĩa Yên Bái đều thất bại, thể hiện sự bất lực của đường lối phong kiến
sản trong việc giải phóng dân tộc.
Phong trào công nhân phát triển mạnh m: Đặc biệt trong giai đoạn 19281929, công
nhân và nông dân ngày càng đóng vai trò quan trọng trong phong trào yêu nước.
Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị đầy đủ về tưởng chính trị tổ chức: Thành lập Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên, tổ chức huấn luyện, biên soạn tài liệu “Đường Cách
Mệnh”
Ba tổ chức cộng sản ra đời năm 1929 (Đông Dương CSĐ, An Nam CSĐ, Đông Dương
CS Liên đoàn) việc tồn tại ba tổ chức trong một quốc gia nhỏ tạo ra nhu cầu cấp thiết
phải thống nhất.
Hội nghị hợp nhất (02/1930) tại Hương Cảng do Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây kết quả tất yếu từ sự phát triển phong trào cách mạng,
sự trưởng thành của giai cấp công nhân sự truyền chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt
Nam.
3. Tại sao nói Cương lĩnh chính trị đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo cương lĩnh
đúng đắn sáng tạo, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính dân tộc, tính giai cấp tính
nhân văn?
Cương lĩnh chính trị đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo vào đầu năm 1930 một
văn kiện lịch sử mang tính định hướng chiến lược cho cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh thể hiện
sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các yếu tố: dân tộc, giai cấp nhân văn ba trụ cột luận
thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Về tính dân tộc, Cương lĩnh khẳng định nhiệm vụ hàng đầu
là “đánh đổ đế quốc Pháp và tay sai, làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập”, phản ánh đúng yêu
cầu cấp bách của một dân tộc bị áp bức. Về tính giai cấp, Cương lĩnh xác định cách mạng phải
do giai cấp công nhân lãnh đạo, liên minh chặt ch với nông dân, và tiến tới chủ nghĩa hội. Về
tính nhân văn, Cương lĩnh đề ra các mục tiêu cải thiện dân sinh như nam nữ bình quyền, phổ cập
giáo dục, giảm thuế, chia ruộng cho dân cày... Điều đó cho thấy Cương lĩnh không chỉ mang tính
luận sắc bén, còn rất gần gũi với đời sống nhân dân. Đặc biệt, trong điều kiện cụ thể của
Việt Nam lúc bấy giờ, Cương lĩnh đã sự sáng tạo khi vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin phù
hợp với đặc điểm thuộc địa nửa phong kiến, đề cao độc lập dân tộc và quyền sống của nhân dân.
Nhờ đó, Cương lĩnh trở thành kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam trong suốt các giai đoạn
tiếp theo.
4. Vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc (19301945)
Từ khi ra đời vào năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã giữ vai trò trung tâm, lãnh đạo
nhân dân ta vượt qua nhiều chặng đường đấu tranh gian khổ để giành lại độc lập dân tộc. Trong
giai đoạn 1930–1931, với đỉnh cao phong trào Viết Nghệ Tĩnh, Đảng đã chứng minh khả
năng lãnh đạo quần chúng thực hiện đấu tranh chính trị rộng khắp. Sau thời kỳ bị khủng bố,
Đảng khôi phục củng cố lại tổ chức qua Hội nghị Trung ương 1935 và tiếp tục lãnh đạo phong
trào dân chủ 1936–1939. Trong giai đoạn 19391945, Đảng thể hiện tư duy chiến lược linh hoạt,
chuyển hướng đấu tranh phù hợp với tình hình thế giới, đặc biệt sau khi phát xít Nhật đảo chính
Pháp (1945), Đảng đã ra lệnh Tổng khởi nghĩa. Việc thành lập Mặt trận Việt Minh (1941), xây
dựng lực lượng trang, phát động chiến tranh du kích… những bước đi chiến lược. Thắng
lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 minh chứng ràng nhất cho vai trò lịch sử của
Đảng đã quy tụ được sức mạnh toàn dân, kết hợp giữa đấu tranh chính trị, trang binh
vận, lãnh đạo một dân tộc bị áp bức vùng lên giành độc lập. Sự lãnh đạo tài tình, kiên cường
linh hoạt của Đảng chính là yếu tố quyết định đưa cách mạng nước ta đến thành công.
Đảng lực lượng duy nhất đủ bản lĩnh, luận thực tiễn để lãnh đạo cách mạng Việt Nam
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trong thời kỳ 1930–1945.
5. Tính chất, ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm của cuộc Cách mạng Tháng Tám m 1945
Tính chất:
o Là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, lật đổ ách thống trị của đế quốc – phong
kiến.
o Tính nhân dân sâu sắc, do toàn dân đứng lên dưới sự lãnh đạo của Đảng.
o Tính bạo lực cách mạng, kết hợp khởi nghĩa chính trị trang.
Ý nghĩa lịch sử:
o Đập tan chế độ thực dân và phong kiến.
o Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có một nhà nước dân chủ nhân dân ra đời –
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
o Đưa Việt Nam trở thành quốc gia độc lập, chủ quyền.
Kinh nghiệm quý báu:
o Nắm vững mâu thuẫn chủ yếu của dân tộc.
o Tập hợp khối đại đoàn kết dân tộc.
o Kết hợp đấu tranh chính trị, trang ngoại giao.
o Nắm thời phát động khởi nghĩa đúng lúc.
Cách mạng Tháng Tám là một trong những chiến thắng đại trong lịch sửn tộc Việt Nam
và là đóng góp lớn cho phong trào giải phóng dân tộc toàn thế giới
CÂU HỎI THẢO LUẬN CHƯƠNG 2
1. sao nói sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Việt Nam rơi vào tình thế “ngàn cân
treo sợi tóc”?
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đất nước ta giành được độc lập, nhưng
chính quyền cách mạng non trẻ lại đứng trước tình thế cực kỳ hiểm nghèo, được như “ngàn
cân treo sợi tóc”. Trên phương diện đối ngoại, ng lúc nước ta phải đối mặt với ba thế lực nước
ngoài: 20 vạn quân Tưởng kéo vào miền Bắc với âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng; ở miền
Nam, quân Anh tạo điều kiện cho thực dân Pháp quay lại xâm lược; trong khi đó, quân Nhật tuy
đầu hàng nhưng vẫn còn hiện diện, gây bất ổn. Trong nước, nạn đói năm 1945 làm hơn hai triệu
người chết, nạn dốt phổ biến với hơn 90% dân schữ, ngân sách quốc gia trống rỗng, đời
sống nhân dân cùng khốn khó. Chính quyền mới chưa được quốc tế công nhận, bộ máy tổ
chức còn khai, lại bị các lực lượng phản cách mạng chống phá quyết liệt. Trong hoàn cảnh
hiểm nghèo đó, Đảng và Chính phủ đã thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, linh hoạt giải quyết
từng vấn đề: diệt giặc đói bằng phong trào “hũ gạo cứu đói”, chống giặc dốt bằng phong trào
“bình dân học vụ”, và khôn khéo hòa hoãn với các thế lực để bảo vệ chính quyền. Như vậy, cách
mạng vừa thắng lợi đã phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thể hiện tình thế "ngàn cân treo
sợi tóc" của đất nước lúc bấy giờ.
2. Hãy chứng minh thắng lợi của kháng chiến chống Pháp (1946–1954) kết quả của cuộc
chiến tranh nhân dân “toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính”
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946–1954) một điển hình tiêu biểu của
chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây một cuộc kháng
chiến toàn dân mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, mọi vùng miền đều tham gia dưới nhiều hình thức:
chiến đấu, vận tải, tiếp tế, tình báo, hậu cần...; toàn diện không chỉ diễn ra trên mặt trận
quân sự còn đồng thời trên các mặt trận chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa. Chiến tranh
diễn ra trong điều kiện chênh lệch lực lượng, nên ta chủ trương đánh lâu dài, kết hợp chiến tranh
du kích với chiến tranh chính quy, từ các chiến dịch nhỏ như Việt Bắc thu đông 1947 đến các
chiến dịch lớn như Biên giới (1950) Điện Biên Phủ (1954). Đặc biệt, tưởng tự lực cánh
sinh được thực hiện triệt để: nhân dân đóng góp sức người, sức của; cán bộ, chiến ăn cơm
nắm, ngủ rừng, hành quân xa để chiến đấu; trong khi đó, hậu phương chi viện liên tục cho tiền
tuyến. sự ủng hộ của bạn quốc tế, nhưng lực lượng chính quyết định thắng lợi vẫn
nhân dân Việt Nam. Do đó, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp không chỉ một chiến
thắng quân sự mà còn là thành quả của cả dân tộc, thể hiện rõ đặc điểm “toàn dân, toàn diện, lâu
dài và dựa vào sức mình là chính” của chiến tranh nhân dân Việt Nam.
3. Tại sao Đại hội III (1960) được xem là Đại hội hoàn chỉnh đường lối cách mạng hai miền
Nam Bắc?
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III năm 1960 được xem dấu mốc hoàn chỉnh đường lối cách
mạng hai miền Nam Bắc, trong bối cảnh đất nước tạm thời bị chia cắt theo Hiệp định Genève
1954. Trước tình hình đó, Đảng đã xác định hai nhiệm vụ chiến lược gắn hữu nhưng
phù hợp đặc điểm từng miền. Miền Bắc vai trò hậu phương lớn của cả nước, nhiệm vụ
xây dựng chủ nghĩa hội, đồng thời làm điểm tựa vững chắc để hỗ trợ cuộc đấu tranh giải
phóng miền Nam. Trong khi đó, miền Nam phải tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, nhằm đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai, tiến tới giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước. Đại hội khẳng định đường lối cách mạng hai miền hai nhiệm vụ
chiến lược có mối quan hệ biện chứng, trong đó thắng lợi của miền nào cũng đều góp phần vào
thắng lợi chung của cả nước. Bằng việc xác lập đường lối ràng, linh hoạt nhất quán, Đại
hội III đã cụ thể hóa tư tưởng chỉ đạo của Đảng trong điều kiện đất nước tạm thời bị chia cắt,
tạo nền tảng lý luận – thực tiễn vững chắc cho những thắng lợi sau này.
4. Tại sao nói Tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 một chủ trương táo bạo
sáng tạo của Đảng, đánh thẳng vào ý chí xâm lược của Mỹ?
Cuộc Tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 một bước ngoặt lớn trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, được đánh giá một chủ trương táo bạo sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Trong bối cảnh Mỹ đẩy mạnh chiến tranh cục bộ, đưa hơn nửa triệu quân vào miền Nam,
Đảng đã quyết định mở một cuộc tổng tiến công bất ngờ vào dịp Tết cổ truyền thời điểm
địch mất cảnh giác nhất. Hơn 40 đô thịthị xã trên khắp miền Nam bị tấn công đồng loạt, trong
đó các trung tâm đầu não như Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng… Lần đầu tiên, lực lượng trang
cách mạng tiến sâu vào tận sào huyệt của địch, khiến chính quyền Mỹ chính quyền Sài Gòn
chấn động. Tuy chưa giành thắng lợi quân sự quyết định, nhưng cuộc tổng tiến công đã giáng
một đòn mạnh vào ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ, làm rạn nứt chính trường Mỹ, đẩy
phong trào phản chiến lên cao buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận đàm phán
với ta tại Hội nghị Paris. Với việc chọn thời điểm chính xác, hình thức tiến công đồng loạt
mục tiêu chiến lược ng, Tổng tiến công Mậu Thân 1968 chính minh chứng điển hình cho
bản lĩnh chỉ đạo chiến tranh của Đảng: táo bạo trong ý chí và sáng tạo trong hành động.
5. Chứng minh Hiệp định Paris năm 1973 là kết quả của quá trình “vừa đánh vừa đàm”
là cơ hội lớn để cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn
Hiệp định Paris năm 1973 thành quả nổi bật của chính sách "vừa đánh vừa đàm" Đảng ta
kiên trì thực hiện trong suốt giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Từ năm 1968, khi Mỹ
buộc phải ngồi vào bàn đàm phán, ta vừa tổ chức đàm phán tại Paris, vừa tiếp tục đẩy mạnh các
chiến dịch quân sự nhằm tạo ưu thế trên chiến trường để giành ưu thế trên bàn đàm phán. Đặc
biệt, cuộc tiến công chiến lược năm 1972, đỉnh cao là chiến thắng "Hà Nội Điện Biên Phủ trên
không", đã buộc Mỹ phải chấp nhận ký Hiệp định Paris. Nội dung của Hiệp định phản ánh thắng
lợi về cả chính trị lẫn quân sự: Mỹ cam kết rút toàn bộ quân viễn chinh quân đồng minh,
chấm dứt chiến tranh m lược; công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt
Nam. Hiệp định Paris đã mở ra hội lớn để cách mạng miền Nam tiến tới tổng công kích giải
phóng hoàn toàn, tạo điều kiện cho chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử kết thúc thắng lợi vào năm
1975. Do đó, Hiệp định Paris một thắng lợi lớn về ngoại giao, đồng thời kết tinh của sự kết
hợp nhuần nhuyễn giữa chiến lược quân sự và chính trị dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng.
CÂU HỎI THẢO LUẬN CHƯƠNG 3
1. Quá trình tìm tòi, khảo nghiệm đường lối đổi mới kinh tế của Đảng thời kỳ 1975–1986
Sau ngày thống nhất đất nước (1975), Việt Nam đứng trước yêu cầu to lớn là khôi phục và phát
triển kinh tế – xã hội, từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên, do
sai lầm trong nhận thức và vận dụng mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp
một cách cứng nhắc, đất nước lâm vào khủng hoảng trầm trọng: sản xuất đình đốn, đời sống
nhân dân khó khăn, lạm phát phi mã và năng suất thấp.
Trong hoàn cảnh đó, Đảng đã từng bước khảo nghiệm, tìm tòi hướng đi mới. Từ cuối những năm
70, nhất từ Hội nghị Trung ương 6 (1979), Đảng bước đầu điều chỉnh chính sách: cho phép
sản xuất "bung ra", công nhận sản xuất nhỏ tư nhân và thị trường tự do có vai trò nhất định. Đặc
biệt, Hội nghị Trung ương 6 khóa V (1984) đề cập khái niệm "hạch toán kinh doanh XHCN",
đánh dấu bước thay đổi nhận thức quan trọng.
Tháng 8/1986, Bộ Chính trị khóa V ra Kết luận về tình hình kinh tế - hội, thừa nhận những
yếu kém, bế tắc, từ đó chuẩn bị sở luận thực tiễn để Đại hội VI (12/1986) khởi xướng
công cuộc đổi mới toàn diện, mở ra thời kỳ phát triển mới của đất nước.
2. sao phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN bước tiến mới về duy
luận của Đảng?
Kinh tế thị trường từng bị xem sản phẩm của chủ nghĩa bản, đối lập với chủ nghĩa hội.
Tuy nhiên, từ thực tiễn Việt Nam, Đảng đã từng bước vượt qua rào cản tư duy cũ, xác lập nhận
thức mới: kinh tế thị trường không đối lập với CNXH, nếu có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và
quản lý hiệu quả của Nhà nước.
Việc lựa chọn hình "kinh tế thị trường định hướng XHCN" một bước đột phá lý luận, phản
ánh duy độc lập, sáng tạo phù hợp thực tiễn. Đảng xác định đây nền kinh tế nhiều
thành phần, vận hành theo chế thị trường, sự điều tiết của Nhà nước nhằm đảm bảo mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
duy mới này không chỉ tạo hành lang pháp cho phát triển kinh tế, còn giúp Việt Nam
hội nhập sâu rộng với thế giới mà vẫn giữ được bản sắc và định hướng XHCN.
3. So sánh đường lối công nghiệp hóa trước và sau đổi mi
Trước đổi mới (19761986), công nghiệp hóa được tiến hành theo hình kế hoạch hóa tập
trung, thiên về phát triển công nghiệp nặng và chủ yếu dựa vào viện trợ từ Liên Xô và các nước
XHCN. Tuy nhiên, do duy ý chí, xa rời thực tiễn và thiếu nguồn lực, kết quả thấp, kinh tế trì trệ.
Từ sau đổi mới, Đảng xác định công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế. Nội dung công nghiệp hóa trở nên toàn diện hơn: phát triển cả công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ; áp dụng khoa học công nghệ; huy động tối đa nội lực ngoại lực.
Sự khác biệt rõ rệt là:
Trước đổi mới: mang tính bao cấp, tập trung, chỉ đạo từ trên xuống.
Sau đổi mới: lấy hiệu quả, chất lượng hội nhập làm trọng tâm, phát huy mọi thành
phần kinh tế.
4. Quan điểm của Đảng về vai trò của văn hóa trong phát triển bền vững đất c
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Văn hóa nền tảng tinh thần của hội, vừa mục
tiêu, vừa động lực thúc đẩy phát triển bền vững đất nước”. Quan điểm này thể hiện sự nhận
thức đầy đủ, sâu sắc về vai trò trung tâm của văn hóa.
Trong quá trình phát triển kinh tế, Đảng luôn nhấn mạnh không được chạy theo tăng trưởng
thuần túy coi nhẹ đạo đức, lối sống, truyền thống dân tộc. Văn hóa là "hồn cốt", sức mạnh
mềm góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, gìn giữ bản sắc trong thời kỳ hội nhập.
Chính vậy, Đảng chủ trương xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc; phát triển con người toàn diện; gắn văn hóa với chính trị, kinh tế bảo vệ môi trường để
tạo thành trụ cột vững chắc của phát triển bền vững.
5. Bài học lớn: “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộcCNXH” qua lịch sử Đảng
Từ khi ra đời (1930), Đảng Cộng sản Việt Nam luôn trung thành và kiên định với mục tiêu chiến
lược: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử cách
mạng.
19301945: Đảng lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền, lập ra Nhà nước dân
chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
19461975: Kiên cường chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ để bảo vệ độc lập dân tộc,
thống nhất đất nước.
19761986: Nỗ lực xây dựng CNXH trong điều kiện khắc nghiệt.
Từ 1986 đến nay: Đảng khởi xướng công cuộc đổi mới, xác định con đường phát triển
kinh tế thị trường định hướng XHCN, vừa phát triển kinh tế, vừa giữ vững chủ quyền
quốc gia.
Bài học rút ra là: Chỉ khi kết hợp chặt chhai mục tiêu này, cách mạng Việt Nam mới thành
công, nhân dân mới có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
6. Thực hiện bài học “kết hợp sức mạnh dân tộc sức mạnh thời đại” trong thời kđổi
mới
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, Đảng đã vận dụng linh hoạt bài học: "Kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại", coi đó là nguyên tắc then chốt để phát triển đất nước.
Về chính trị đối ngoại: Đảng chủ trương “đa phương hóa, đa dạng hóa” quan hệ quốc
tế, giữ vững độc lập tự chủ nhưng mở rộng hội nhập, tham gia sâu vào các tổ chức như
ASEAN, APEC, WTO, CPTPP...
Về kinh tế: Phát huy nội lực (truyền thống, con người, tài nguyên) đồng thời tiếp thu tinh
hoa nhân loại: khoa học công nghệ, đầu tư nước ngoài, mô hình quản trị tiên tiến…
Về văn hóa – xã hội: Vừa giữ gìn bản sắc dân tộc, vừa tiếp thu văn minh thế giới; vừa
phát triển kinh tế số, vừa chú trọng an sinh xã hội, giáo dục, y tế.
Nhờ kết hợp hai nguồn lực này, Việt Nam từng bước vượt qua khủng hoảng, nâng cao vị thế trên
trường quốc tế, vươn mình hội nhập thành công trong thế kỷ XXI.

Preview text:

CÂU HỎI THẢO LUẬN CHƯƠNG 1
1. Vì sao trong quá trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cách mạng vô sản?
Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cách mạng vô sản do:
Nhận thức sâu sắc từ thực tiễn thế giới: Sau khi ra đi tìm đường cứu nước năm 1911,
Nguyễn Ái Quốc đã đi qua nhiều nước tư bản, thuộc địa và chứng kiến tận mắt sự bóc lột
tàn bạo của chủ nghĩa thực dân, từ đó Người kết luận: “Trên đời này chỉ có hai giống
người: người bóc lột và người bị bóc lột”.
Ảnh hưởng từ Cách mạng Tháng Mười Nga (1917): Sự kiện này mở ra thời đại cách
mạng giải phóng dân tộc và chống đế quốc, là minh chứng sống động cho khả năng thành
công của con đường cách mạng vô sản.
Tiếp cận chủ nghĩa Mác-Lênin: Sau khi đọc bản "Sơ thảo luận cương về vấn đề dân tộc
và thuộc địa" của Lênin (1920), Nguyễn Ái Quốc nhận thấy đây là học thuyết đúng đắn
giúp giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân. Người gia nhập Quốc tế Cộng sản và trở thành
một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp – từ đó xác định con đường cách
mạng vô sản là con đường cứu nước duy nhất đúng đắn.
2. Bằng các sự kiện lịch sử có chọn lọc, chứng minh sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
là một tất yếu lịch sử.

Tác động của cách mạng thế giới: Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi và Quốc tế
Cộng sản ra đời (1919) đã thúc đẩy sự phát triển phong trào cộng sản và truyền bá chủ
nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam.
Phong trào yêu nước thất bại: Các phong trào tiền bối như Cần Vương, Đông Du, Duy
Tân, khởi nghĩa Yên Bái đều thất bại, thể hiện sự bất lực của đường lối phong kiến và tư
sản trong việc giải phóng dân tộc.
Phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ: Đặc biệt trong giai đoạn 1928–1929, công
nhân và nông dân ngày càng đóng vai trò quan trọng trong phong trào yêu nước.
Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng – chính trị – tổ chức: Thành lập Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên, tổ chức huấn luyện, biên soạn tài liệu “Đường Cách Mệnh”…
Ba tổ chức cộng sản ra đời năm 1929 (Đông Dương CSĐ, An Nam CSĐ, Đông Dương
CS Liên đoàn) – việc tồn tại ba tổ chức trong một quốc gia nhỏ tạo ra nhu cầu cấp thiết phải thống nhất.
Hội nghị hợp nhất (02/1930) tại Hương Cảng do Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là kết quả tất yếu từ sự phát triển phong trào cách mạng,
sự trưởng thành của giai cấp công nhân và sự truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam.
3. Tại sao nói Cương lĩnh chính trị đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo là cương lĩnh
đúng đắn và sáng tạo, là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính dân tộc, tính giai cấp và tính nhân văn?

Cương lĩnh chính trị đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo vào đầu năm 1930 là một
văn kiện lịch sử mang tính định hướng chiến lược cho cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh thể hiện
sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các yếu tố: dân tộc, giai cấp và nhân văn – ba trụ cột lý luận và
thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Về tính dân tộc, Cương lĩnh khẳng định nhiệm vụ hàng đầu
là “đánh đổ đế quốc Pháp và tay sai, làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập”, phản ánh đúng yêu
cầu cấp bách của một dân tộc bị áp bức. Về tính giai cấp, Cương lĩnh xác định rõ cách mạng phải
do giai cấp công nhân lãnh đạo, liên minh chặt chẽ với nông dân, và tiến tới chủ nghĩa xã hội. Về
tính nhân văn, Cương lĩnh đề ra các mục tiêu cải thiện dân sinh như nam nữ bình quyền, phổ cập
giáo dục, giảm thuế, chia ruộng cho dân cày... Điều đó cho thấy Cương lĩnh không chỉ mang tính
lý luận sắc bén, mà còn rất gần gũi với đời sống nhân dân. Đặc biệt, trong điều kiện cụ thể của
Việt Nam lúc bấy giờ, Cương lĩnh đã có sự sáng tạo khi vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin phù
hợp với đặc điểm thuộc địa nửa phong kiến, đề cao độc lập dân tộc và quyền sống của nhân dân.
Nhờ đó, Cương lĩnh trở thành kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam trong suốt các giai đoạn tiếp theo.
4. Vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc (1930–1945)
Từ khi ra đời vào năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã giữ vai trò trung tâm, lãnh đạo
nhân dân ta vượt qua nhiều chặng đường đấu tranh gian khổ để giành lại độc lập dân tộc. Trong
giai đoạn 1930–1931, với đỉnh cao là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, Đảng đã chứng minh khả
năng lãnh đạo quần chúng thực hiện đấu tranh chính trị rộng khắp. Sau thời kỳ bị khủng bố,
Đảng khôi phục và củng cố lại tổ chức qua Hội nghị Trung ương 1935 và tiếp tục lãnh đạo phong
trào dân chủ 1936–1939. Trong giai đoạn 1939–1945, Đảng thể hiện tư duy chiến lược linh hoạt,
chuyển hướng đấu tranh phù hợp với tình hình thế giới, đặc biệt sau khi phát xít Nhật đảo chính
Pháp (1945), Đảng đã ra lệnh Tổng khởi nghĩa. Việc thành lập Mặt trận Việt Minh (1941), xây
dựng lực lượng vũ trang, phát động chiến tranh du kích… là những bước đi chiến lược. Thắng
lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là minh chứng rõ ràng nhất cho vai trò lịch sử của
Đảng – đã quy tụ được sức mạnh toàn dân, kết hợp giữa đấu tranh chính trị, vũ trang và binh
vận, lãnh đạo một dân tộc bị áp bức vùng lên giành độc lập. Sự lãnh đạo tài tình, kiên cường và
linh hoạt của Đảng chính là yếu tố quyết định đưa cách mạng nước ta đến thành công.
Đảng là lực lượng duy nhất đủ bản lĩnh, lý luận và thực tiễn để lãnh đạo cách mạng Việt Nam
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trong thời kỳ 1930–1945.
5. Tính chất, ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 Tính chất:
o Là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, lật đổ ách thống trị của đế quốc – phong kiến.
o Tính nhân dân sâu sắc, do toàn dân đứng lên dưới sự lãnh đạo của Đảng.
o Tính bạo lực cách mạng, kết hợp khởi nghĩa chính trị và vũ trang.
Ý nghĩa lịch sử:
o Đập tan chế độ thực dân và phong kiến.
o Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có một nhà nước dân chủ nhân dân ra đời –
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
o Đưa Việt Nam trở thành quốc gia độc lập, có chủ quyền.
Kinh nghiệm quý báu:
o Nắm vững mâu thuẫn chủ yếu của dân tộc.
o Tập hợp khối đại đoàn kết dân tộc.
o Kết hợp đấu tranh chính trị, vũ trang và ngoại giao.
o Nắm thời cơ và phát động khởi nghĩa đúng lúc.
Cách mạng Tháng Tám là một trong những chiến thắng vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam
và là đóng góp lớn cho phong trào giải phóng dân tộc toàn thế giới
CÂU HỎI THẢO LUẬN CHƯƠNG 2
1. Vì sao nói sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Việt Nam rơi vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”?
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đất nước ta giành được độc lập, nhưng
chính quyền cách mạng non trẻ lại đứng trước tình thế cực kỳ hiểm nghèo, được ví như “ngàn
cân treo sợi tóc”. Trên phương diện đối ngoại, cùng lúc nước ta phải đối mặt với ba thế lực nước
ngoài: 20 vạn quân Tưởng kéo vào miền Bắc với âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng; ở miền
Nam, quân Anh tạo điều kiện cho thực dân Pháp quay lại xâm lược; trong khi đó, quân Nhật tuy
đầu hàng nhưng vẫn còn hiện diện, gây bất ổn. Trong nước, nạn đói năm 1945 làm hơn hai triệu
người chết, nạn dốt phổ biến với hơn 90% dân số mù chữ, ngân sách quốc gia trống rỗng, đời
sống nhân dân vô cùng khốn khó. Chính quyền mới chưa được quốc tế công nhận, bộ máy tổ
chức còn sơ khai, lại bị các lực lượng phản cách mạng chống phá quyết liệt. Trong hoàn cảnh
hiểm nghèo đó, Đảng và Chính phủ đã thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, linh hoạt giải quyết
từng vấn đề: diệt giặc đói bằng phong trào “hũ gạo cứu đói”, chống giặc dốt bằng phong trào
“bình dân học vụ”, và khôn khéo hòa hoãn với các thế lực để bảo vệ chính quyền. Như vậy, cách
mạng vừa thắng lợi đã phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thể hiện rõ tình thế "ngàn cân treo
sợi tóc" của đất nước lúc bấy giờ.
2. Hãy chứng minh thắng lợi của kháng chiến chống Pháp (1946–1954) là kết quả của cuộc
chiến tranh nhân dân “toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính”
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946–1954) là một điển hình tiêu biểu của
chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là một cuộc kháng
chiến toàn dân vì mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, mọi vùng miền đều tham gia dưới nhiều hình thức:
chiến đấu, vận tải, tiếp tế, tình báo, hậu cần...; là toàn diện vì không chỉ diễn ra trên mặt trận
quân sự mà còn đồng thời trên các mặt trận chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa. Chiến tranh
diễn ra trong điều kiện chênh lệch lực lượng, nên ta chủ trương đánh lâu dài, kết hợp chiến tranh
du kích với chiến tranh chính quy, từ các chiến dịch nhỏ như Việt Bắc thu – đông 1947 đến các
chiến dịch lớn như Biên giới (1950) và Điện Biên Phủ (1954). Đặc biệt, tư tưởng tự lực cánh
sinh được thực hiện triệt để: nhân dân đóng góp sức người, sức của; cán bộ, chiến sĩ ăn cơm
nắm, ngủ rừng, hành quân xa để chiến đấu; trong khi đó, hậu phương chi viện liên tục cho tiền
tuyến. Dù có sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, nhưng lực lượng chính quyết định thắng lợi vẫn là
nhân dân Việt Nam. Do đó, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp không chỉ là một chiến
thắng quân sự mà còn là thành quả của cả dân tộc, thể hiện rõ đặc điểm “toàn dân, toàn diện, lâu
dài và dựa vào sức mình là chính” của chiến tranh nhân dân Việt Nam.
3. Tại sao Đại hội III (1960) được xem là Đại hội hoàn chỉnh đường lối cách mạng hai miền Nam – Bắc?
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III năm 1960 được xem là dấu mốc hoàn chỉnh đường lối cách
mạng hai miền Nam – Bắc, trong bối cảnh đất nước tạm thời bị chia cắt theo Hiệp định Genève
1954. Trước tình hình đó, Đảng đã xác định rõ hai nhiệm vụ chiến lược gắn bó hữu cơ nhưng
phù hợp đặc điểm từng miền. Miền Bắc có vai trò là hậu phương lớn của cả nước, có nhiệm vụ
xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời làm điểm tựa vững chắc để hỗ trợ cuộc đấu tranh giải
phóng miền Nam. Trong khi đó, miền Nam phải tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, nhằm đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai, tiến tới giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước. Đại hội khẳng định đường lối cách mạng hai miền là hai nhiệm vụ
chiến lược có mối quan hệ biện chứng, trong đó thắng lợi của miền nào cũng đều góp phần vào
thắng lợi chung của cả nước. Bằng việc xác lập đường lối rõ ràng, linh hoạt và nhất quán, Đại
hội III đã cụ thể hóa tư tưởng chỉ đạo của Đảng trong điều kiện đất nước tạm thời bị chia cắt, và
tạo nền tảng lý luận – thực tiễn vững chắc cho những thắng lợi sau này.
4. Tại sao nói Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là một chủ trương táo bạo và
sáng tạo của Đảng, đánh thẳng vào ý chí xâm lược của Mỹ?
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là một bước ngoặt lớn trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, được đánh giá là một chủ trương táo bạo và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Trong bối cảnh Mỹ đẩy mạnh chiến tranh cục bộ, đưa hơn nửa triệu quân vào miền Nam,
Đảng đã quyết định mở một cuộc tổng tiến công bất ngờ vào dịp Tết cổ truyền – thời điểm mà
địch mất cảnh giác nhất. Hơn 40 đô thị và thị xã trên khắp miền Nam bị tấn công đồng loạt, trong
đó có các trung tâm đầu não như Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng… Lần đầu tiên, lực lượng vũ trang
cách mạng tiến sâu vào tận sào huyệt của địch, khiến chính quyền Mỹ và chính quyền Sài Gòn
chấn động. Tuy chưa giành thắng lợi quân sự quyết định, nhưng cuộc tổng tiến công đã giáng
một đòn mạnh vào ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ, làm rạn nứt chính trường Mỹ, đẩy
phong trào phản chiến lên cao và buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận đàm phán
với ta tại Hội nghị Paris. Với việc chọn thời điểm chính xác, hình thức tiến công đồng loạt và
mục tiêu chiến lược rõ ràng, Tổng tiến công Mậu Thân 1968 chính là minh chứng điển hình cho
bản lĩnh chỉ đạo chiến tranh của Đảng: táo bạo trong ý chí và sáng tạo trong hành động.
5. Chứng minh Hiệp định Paris năm 1973 là kết quả của quá trình “vừa đánh vừa đàm” và
là cơ hội lớn để cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn
Hiệp định Paris năm 1973 là thành quả nổi bật của chính sách "vừa đánh vừa đàm" mà Đảng ta
kiên trì thực hiện trong suốt giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Từ năm 1968, khi Mỹ
buộc phải ngồi vào bàn đàm phán, ta vừa tổ chức đàm phán tại Paris, vừa tiếp tục đẩy mạnh các
chiến dịch quân sự nhằm tạo ưu thế trên chiến trường để giành ưu thế trên bàn đàm phán. Đặc
biệt, cuộc tiến công chiến lược năm 1972, đỉnh cao là chiến thắng "Hà Nội – Điện Biên Phủ trên
không", đã buộc Mỹ phải chấp nhận ký Hiệp định Paris. Nội dung của Hiệp định phản ánh thắng
lợi về cả chính trị lẫn quân sự: Mỹ cam kết rút toàn bộ quân viễn chinh và quân đồng minh,
chấm dứt chiến tranh xâm lược; công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt
Nam. Hiệp định Paris đã mở ra cơ hội lớn để cách mạng miền Nam tiến tới tổng công kích giải
phóng hoàn toàn, tạo điều kiện cho chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử kết thúc thắng lợi vào năm
1975. Do đó, Hiệp định Paris là một thắng lợi lớn về ngoại giao, đồng thời là kết tinh của sự kết
hợp nhuần nhuyễn giữa chiến lược quân sự và chính trị dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng.
CÂU HỎI THẢO LUẬN CHƯƠNG 3
1. Quá trình tìm tòi, khảo nghiệm đường lối đổi mới kinh tế của Đảng thời kỳ 1975–1986
Sau ngày thống nhất đất nước (1975), Việt Nam đứng trước yêu cầu to lớn là khôi phục và phát
triển kinh tế – xã hội, từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên, do
sai lầm trong nhận thức và vận dụng mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp
một cách cứng nhắc, đất nước lâm vào khủng hoảng trầm trọng: sản xuất đình đốn, đời sống
nhân dân khó khăn, lạm phát phi mã và năng suất thấp.
Trong hoàn cảnh đó, Đảng đã từng bước khảo nghiệm, tìm tòi hướng đi mới. Từ cuối những năm
70, nhất là từ Hội nghị Trung ương 6 (1979), Đảng bước đầu điều chỉnh chính sách: cho phép
sản xuất "bung ra", công nhận sản xuất nhỏ tư nhân và thị trường tự do có vai trò nhất định. Đặc
biệt, Hội nghị Trung ương 6 khóa V (1984) đề cập khái niệm "hạch toán kinh doanh XHCN",
đánh dấu bước thay đổi nhận thức quan trọng.
Tháng 8/1986, Bộ Chính trị khóa V ra Kết luận về tình hình kinh tế - xã hội, thừa nhận những
yếu kém, bế tắc, từ đó chuẩn bị cơ sở lý luận – thực tiễn để Đại hội VI (12/1986) khởi xướng
công cuộc đổi mới toàn diện, mở ra thời kỳ phát triển mới của đất nước.
2. Vì sao phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là bước tiến mới về tư duy lý luận của Đảng?
Kinh tế thị trường từng bị xem là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản, đối lập với chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, từ thực tiễn Việt Nam, Đảng đã từng bước vượt qua rào cản tư duy cũ, xác lập nhận
thức mới: kinh tế thị trường không đối lập với CNXH, nếu có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và
quản lý hiệu quả của Nhà nước.
Việc lựa chọn mô hình "kinh tế thị trường định hướng XHCN" là một bước đột phá lý luận, phản
ánh tư duy độc lập, sáng tạo và phù hợp thực tiễn. Đảng xác định đây là nền kinh tế có nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết của Nhà nước nhằm đảm bảo mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tư duy mới này không chỉ tạo hành lang pháp lý cho phát triển kinh tế, mà còn giúp Việt Nam
hội nhập sâu rộng với thế giới mà vẫn giữ được bản sắc và định hướng XHCN.
3. So sánh đường lối công nghiệp hóa trước và sau đổi mới
Trước đổi mới (1976–1986)
, công nghiệp hóa được tiến hành theo mô hình kế hoạch hóa tập
trung, thiên về phát triển công nghiệp nặng và chủ yếu dựa vào viện trợ từ Liên Xô và các nước
XHCN. Tuy nhiên, do duy ý chí, xa rời thực tiễn và thiếu nguồn lực, kết quả thấp, kinh tế trì trệ.
Từ sau đổi mới, Đảng xác định công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế. Nội dung công nghiệp hóa trở nên toàn diện hơn: phát triển cả công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ; áp dụng khoa học công nghệ; huy động tối đa nội lực và ngoại lực.
Sự khác biệt rõ rệt là:
• Trước đổi mới: mang tính bao cấp, tập trung, chỉ đạo từ trên xuống.
• Sau đổi mới: lấy hiệu quả, chất lượng và hội nhập làm trọng tâm, phát huy mọi thành phần kinh tế.
4. Quan điểm của Đảng về vai trò của văn hóa trong phát triển bền vững đất nước
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển bền vững đất nước”. Quan điểm này thể hiện sự nhận
thức đầy đủ, sâu sắc về vai trò trung tâm của văn hóa.
Trong quá trình phát triển kinh tế, Đảng luôn nhấn mạnh không được chạy theo tăng trưởng
thuần túy mà coi nhẹ đạo đức, lối sống, truyền thống dân tộc. Văn hóa là "hồn cốt", là sức mạnh
mềm góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, gìn giữ bản sắc trong thời kỳ hội nhập.
Chính vì vậy, Đảng chủ trương xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc; phát triển con người toàn diện; gắn văn hóa với chính trị, kinh tế và bảo vệ môi trường để
tạo thành trụ cột vững chắc của phát triển bền vững.
5. Bài học lớn: “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH” qua lịch sử Đảng
Từ khi ra đời (1930), Đảng Cộng sản Việt Nam luôn trung thành và kiên định với mục tiêu chiến
lược: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử cách mạng.
1930–1945: Đảng lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền, lập ra Nhà nước dân
chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
1946–1975: Kiên cường chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ để bảo vệ độc lập dân tộc,
thống nhất đất nước.
1976–1986: Nỗ lực xây dựng CNXH trong điều kiện khắc nghiệt.
Từ 1986 đến nay: Đảng khởi xướng công cuộc đổi mới, xác định con đường phát triển
kinh tế thị trường định hướng XHCN, vừa phát triển kinh tế, vừa giữ vững chủ quyền quốc gia.
Bài học rút ra là: Chỉ khi kết hợp chặt chẽ hai mục tiêu này, cách mạng Việt Nam mới thành
công, nhân dân mới có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
6. Thực hiện bài học “kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại” trong thời kỳ đổi mới
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, Đảng đã vận dụng linh hoạt bài học: "Kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại", coi đó là nguyên tắc then chốt để phát triển đất nước.
Về chính trị – đối ngoại: Đảng chủ trương “đa phương hóa, đa dạng hóa” quan hệ quốc
tế, giữ vững độc lập – tự chủ nhưng mở rộng hội nhập, tham gia sâu vào các tổ chức như ASEAN, APEC, WTO, CPTPP...
Về kinh tế: Phát huy nội lực (truyền thống, con người, tài nguyên) đồng thời tiếp thu tinh
hoa nhân loại: khoa học công nghệ, đầu tư nước ngoài, mô hình quản trị tiên tiến…
Về văn hóa – xã hội: Vừa giữ gìn bản sắc dân tộc, vừa tiếp thu văn minh thế giới; vừa
phát triển kinh tế số, vừa chú trọng an sinh xã hội, giáo dục, y tế.
Nhờ kết hợp hai nguồn lực này, Việt Nam từng bước vượt qua khủng hoảng, nâng cao vị thế trên
trường quốc tế, vươn mình hội nhập thành công trong thế kỷ XXI.