Câu hỏi tự luận Chương 1: Triết học và vai trò của Triết học trong đời sống xã hội

Câu hỏi tự luận Chương 1: Triết học và vai trò của Triết học trong đời sống xã hội

lOMoARcPSD| 35966235
1
lOMoARcPSD| 35966235
3
lOMoARcPSD| 35966235
5
lOMoARcPSD| 35966235
7
Thứ tư, với việc sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác đã khắc
phục được sự đối lập giữa triết học với các khoa học cụ thể.
Trước khi triết học Mác ra đời, triết học hoặc là hòa tan, ẩn giấu
đằng sau các khoa học khác, hoặc đối lập
với chúng. Quan hệ giữa triết học Mác với các khoa học cụ thể là
quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn
nhau. Các khoa học cụ thể cung cấp cho triết học Mác các tư liệu,
dữ kiện, thông số khoa học để triết học
Mác khái quát. Ngay sự ra đời của triết học Mác cũng không thể
thiếu những tiền đề khoa học tự nhiên.
Chính những thành tựu của khoa học tự nhiên nửa đầu thế kỷ XIX
đã làm bộc lộ những hạn chế, sự bất lực
của phương pháp siêu hình trong nhận thức thế giới; đồng thời
cung cấp cơ sở khoa học cho sự ra đời của
phương pháp biện chứng. Trong quan hệ với các khoa học cụ thể,
triết học Mác đóng vai trò thế giới quan,
phương pháp luận chung nhất. Thực tiễn phát triển mạnh mẽ của
các khoa học cụ thể càng làm tăng vai trò
thế giới quan, phương pháp luận của triết học Mác. Như vậy, sự ra
đời của triết học Mác đã chấm dứt mâu
thuẫn giữa triết học với các khoa học cụ thể.
Cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn vô cùng to lớn đối với
thời đại. Chính cuộc cách mạng này đã làm cho chủ nghĩa xã hội
không tưởng có cơ sở để trở thành khoa
học. Cuộc cách mạng này cũng làm cho triết học thay đổi cả về
vai trò, chức năng và nhiệm vụ. Triết học
Mác đã trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của nhân
loại tiến bộ.
2. Kể từ khi triết học Mác ra đời cho đến nay, thực tiễn đã có
nhiều đổi thay, nhưng triết học Mác vẫn giữ
nguyên ý nghĩa lý luận cũng như giá trị thực tiễn trong thời đại
ngày nay. Có thể nói, cuộc cách mạng trong
triết học do C.Mác thực hiện vào những năm 40 của thế kỷ XIX
vẫn giữ nguyên ý nghĩa to lớn trong việc phát
triển triết học Mác - Lênin ở thời đại ngày nay. Điều này thể hiện
ở chỗ:
Một là, triết học Mác - Lênin là một hệ thống mở chứ không phải
là hệ thống khép kín; nó đòi hỏi luôn phải
được bổ sung, hoàn thiện, phát triển. Đối với phương pháp biện
chứng duy vật, không có gì là bất biến. Tinh
thần duy vật biện chứng đòi hỏi chúng ta phải xuất phát từ điều
kiện thực tiễn khách quan để bổ sung, hoàn
thiện, phát triển triết học Mác - Lênin, nhưng phải biết tổng kết
thực tiễn một cách khách quan, biện chứng,
có chắt lọc, có lý luận. Đồng thời, phải tránh siêu hình, rơi vào
chủ nghĩa duy vật tầm thường, thô thiển, chỉ
biết căn cứ từ thực tiễn vụn vặt, cục bộ để bổ sung, hoàn thiện,
phát triển triết học Mác - Lênin. Không chỉ
thế, còn phải luôn bảo đảm sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa
duy vật và phương pháp biện chứng, tránh
lOMoARcPSD| 35966235
9
mắc phải sai lầm của các nhà triết học trước Mác. Trên tinh thần
duy vật biện chứng, để bổ sung, hoàn thiện,
phát triển triết học Mác - Lênin có hiệu quả, cần tiếp tục tinh thần
duy vật triệt để. Nghĩa là phải giải quyết
tốt những vấn đề của xã hội, của lịch sử trên tinh thần duy vật và
biện chứng.
Hai là, sự ra đời của triết học Mác gắn bó chặt chẽ với thực tiễn
phong trào công nhân những năm 30 - 40
của thế kỷ XIX. Bản thân triết học Mác cũng gắn bó hữu cơ với
thực tiễn cách mạng của quần chúng nhân
dân. Chính C.Mác, trong quá trình sáng tạo triết học, đã khắc phục
sự đối lập giữa triết học với hoạt động
thực tiễn của con người. Bởi vậy, bổ sung, hoàn thiện, phát triển
triết học Mác - Lênin phải theo hướng gắn
bó với thực tiễn, bảo đảm sự thống nhất giữa triết học với thực
tiễn. Thực tiễn luôn vận động, biến đổi và
phát triển, do vậy, nhận thức của con người cũng luôn cần được bổ
sung, hoàn thiện và phát triển cho phù
hợp với thực tiễn đó. Triết học Mác - Lênin cũng không nằm ngoài
quy luật này. Sự thống nhất giữa triết học
Mác - Lênin với thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải tìm lời giải đáp
cho những vấn đề của ngày hôm nay từ chính
thực tiễn ngày hôm nay chứ không thể chỉ tìm trong lịch sử. Tuy
nhiên, trong quá trình bổ sung, hoàn thiện
và phát triển triết học Mác - Lênin cần tránh hai thái cực sai lầm:
hoặc là không thấy được những đổi thay
của thực tiễn, bảo thủ không muốn bổ sung, hoàn thiện và phát
triển những nguyên lý của triết học Mác -
Lênin; hoặc là quá nhấn mạnh, tuyệt đối hóa sự đổi thay của thực
tiễn dẫn đến đòi xét lại triết học Mác -
Lênin.
Ba là, ngay từ khi mới ra đời, triết học Mác đã gắn bó hữu cơ với
các khoa học cụ thể. Do vậy, ngày nay, với sự
phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, triết học Mác -
Lênin không thể không được bổ sung, hoàn
thiện, phát triển lý luận của mình. Nếu triết học Mác - Lênin
không được bổ sung, hoàn thiện và phát triển trên
sở khái quát những thành tựu mới của các khoa học cụ thể thì sẽ
trở nên lạc hậu, nghèo nàn, khô cứng, không
thể đáp ứng được vai trò thế giới quan, phương pháp luận chung
nhất cho các khoa học cụ thể, cũng như cho
quần chúng nhân dân trong hoạt động cải tạo thế giới. Đương
nhiên, nếu không đứng vững trên lập trường của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng duy vật
thì trước những phát minh mới của khoa học,
người ta dễ mất phương hướng, dễ mắc phải sai lầm trong nhận
thức và trong hoạt động thực tiễn .Tuy nhiên, điều
này không có nghĩa là chỉ cần nắm được triết học Mác - Lênin thì
con người sẽ giải quyết được mọi vấn đề cụ thể do thực
tiễn đặt ra. Triết học Mác - Lênin không phải bảo bối chứa sẵn
mọi cách giải quyết những vấn đề do cuộc sống cũng như
nhận thức đặt ra. Để tìm được lời giải đáp cho những vấn đề nảy
sinh, bên cạnh những tri thức triết học Mác - Lênin, còn
lOMoARcPSD| 35966235
11
phải cần đến những tri thức của các khoa học cụ thể, kinh nghiệm
sống và hoạt động thực tiễn của mỗi người. Thiếu những
điều đó, chúng ta không thể hiểu và vận dụng đúng những nguyên
lý của triết học Mác - Lênin. Do vậy, trong việc bổ sung,
hoàn thiện và phát triển triết học Mác - Lênin, cần phải chống cả
hai thái cực sai lầm: hoặc coi thường triết học Mác - Lênin,
tuyệt đối hóa các khoa học cụ thể; hoặc chỉ thấy có triết học Mác -
Lênin, không thấy vai trò của các khoa học cụ thể. Đồng
thời, cũng cần phải nhận thức đúng rằng, bản thân triết học Mác -
Lênin cũng cần được đổi mới, bổ sung, hoàn thiện và phát
triển.
Như vậy, có thể khẳng định lại rằng, hơn một thế kỷ rưỡi đã trôi
qua, kể từ khi cuộc cách mạng trong
triết học được C.Mác thực hiện, ý nghĩa của cuộc cách mạng này
vẫn giữ nguyên tính thời sự và tính thực
tiễn cho việc phát triển triết học Mác - Lênin trong thời đại hiện
nay.
Câu 6. Triết học – hạt nhân lí luận của thế giới quan có nghĩa là
gì?
· Thế giới quan là toàn bộ những quan niệm về thế giới, về vai trò
của con người trong thế giới đó, về chính
bản thân cuộc sống của con người và loài người. Nó được hình
thành ở một con người và ở một cộng đồng
người.
· Triết học là hạt nhân của thế giới quan nghĩa là triết học cung
cấp cho con người những tri thức về bản chất
chung nhất của thế giới, về vai trò của con người trong thế giới đó
nên triết học là cơ sở lí luận chung cho
thế giới quan, làm cho thế giới quan phát triển một cách tự giác
trên một lập trường triết học nhất định.
Ví dụ: trên cơ sở lập trường triết học duy tâm về bản chất con
người, những quan niệm về lẽ sống, về nghĩa
vụ, hạnh phúc cũng đối lập với quan niệm về những vấn đề này
trên lập trường của chủ nghĩa duy vật.
Câu 7. Hãy nêu đối tượng nghiên cứu của triết học qua các thời kì
trong lịch sử?
· Thời cổ đại: Với nguồn gốc nhận thức của triết học, triết học
được quan niệm là một hình thái cao nhất
của tri thức, biện luận về những vấn đề bản chất chung nhất của
vạn vật, do vậy triết học được coi là
“khoa học của mọi khoa học” bao gồm toàn bộ tri thức lí luận của
nhân loại. Nó thể hiện dưới hình thức
“nền triết học tự nhiên” thời cổ đại.
· Thời Trung cổ: Triết học chỉ được xem là một bộ phận của thần
học nhằm biện minh, lý giải cho sự tồn tại
của thần quyền và chính quyền phong kiến thế tục.
· Thời phục hưng đến nay: Nhận thức của con người ngày càng
phát triển, song song với những kiến thức
về bản chất của thế giới nói chung, con người cần đi sâu khám phá
thế giới ở các lĩnh vực khác nhau. Nhu
cầu này thúc đẩy quá trình phát triển của các khoa học chuyên
nghành, chúng dần dần tách khỏi triết học,
lOMoARcPSD| 35966235
13
trở thành các môn khoa học độc lập. Trước tình hình đó, đối tượng
của triết học cũng dần thu hẹp lại và
xác định lĩnh vực nghiên cứu của mình.
Ngày nay, triết học là một khoa học, nhưng triết học khác với các
khoa học khác ở chỗ: Triết học nghiên cứu
thế giới trong một chỉnh thể và vạch ra những quy luật chung nhất
của thế giới, còn các khoa học khác
nghiên cứu từng lĩnh vực riêng biệt của thế giới.
Câu 8. Phân tích nguồn gốc của triết học theo hai khía cạnh nguồn
gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội?
Triết học là một hình thái ý thức xã hội có nguồn gốc từ tồn tại xã
hội và sự phát triển của văn hoá, khoa
học. Có thể nói triết học có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã
hội.
· Nguồn gốc nhận thức: Nhu cầu nhận thức thế giới là một nhu
cầu khách quan của con người. Trong quá
trình sống và cải biến thế giới, từng bước con người có kinh
nghiệm và biết lý giải về tự nhiên, xã hội với
những kiến thức cụ thể,riêng lẻ về những lĩnh vực khác nhau, dần
dần những triết lý - tức là những quan
niệm chung về thế giới và nhân sinh cũng xuất hiện. Khi nhận
thức của con người phát triển đến trình độ
cao, nghĩa là khi con người có khả năng tư duy trừu tượng, khái
quát các tri thức riêng lẻ thành hệ thống
các quan điểm, quan niệm chung nhất về thế giới và về vai trò của
con người trong thế giới thì lúc đó triết
học xuất hiện với tư cách là một khoa học. Trong lịch sử, triết học
ra đời từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 6
trước công nguyên.
· Nguồn gốc xã hội: Triết học ra đời khi kinh tế - xã hội đã có sự
phân công lao động và đã xuất hiện giai
cấp. Khi con người chế tạo được công cụ bằng đồng, bằng sắt thì
nền sản xuất xã hội đạt năng suất cao
hơn. Dần dần, có sự phân công giữa lao động trí óc và lao động
chân tay. Nền kinh tế tương đối phát triển
với trình độ chuyên môn hoá trong lao động đã tạo điều kiện cho
những tiến bộ về văn hoá, khoa học.
Đồng thời trong lịch sử, nền kinh tế dựa trên công cụ lao động
bằng sắt cũng dẫn tới sự phân hoá giai cấp,
xã hội chiếm hữu nô lệ ra đời. Mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp với vai
trò và lợi ích khác nhau đã phản ánh về
bản chất thế giới và luận về vai trò của con người trong thế giới
một cách khác nhau dẫn đến sự ra đời của
nhiều trường phái triết học. Từ nguồn gốc trên cho thấy triết học
xuất hiện từ bản thân lịch sử của con
người, từ yêu cầu thực tiễn của cuộc sống. Như vậy, triết học là
một hình thái ý thức xã hội, nó phản ánh
các quan hệ kinh tế - xã hội và biến đổi cùng với sự biến đổi của
kinh tế - xã hội.
Câu 9. Tại sao triết học Mác – Lê nin là cơ sở lý luận khoa học
của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội trên thế giới và sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam?
lOMoARcPSD| 35966235
15
Sự nghiệp đổi mới toàn diện ở Việt Nam tất yếu phải dựa trên cơ
sở lý luận khoa học, trong đó hạt nhân
là phép biện chứng duy vật. Công cuộc đổi mới toàn diện xã hội
theo định hướng XHCN được mở đường
bằng đổi mới tư duy lý luận, trong đó có vai trò của triết học Mác
– Lê nin.
Vai trò thế giới quan, phương pháp luận của triết học Mác – Lê
nin thể hiện đặc biệt rõ đối với sự nghiệp
đổi mới ở Việt Nam đó là đổi mới tư duy. Một trong những điểm
nhấn của thế giới quan, phương pháp luận
triết học Mác – Lê nin chính là vấn đề thực tiễn, đó là phương
pháp biện chứng, đó là sự vận động biến đổi
không ngừng của thế giới. Đó chính là những yếu tố đã góp phần
xây dựng lý luận về đổi mới, về con đường
đi lên xã hội chủ nghĩa, về thời kì quá độ, về xây dựng kinh tế thị
trường, định hướng XHCN, về mô hình
chủ nghĩa xã hội, về các bước, cách thức đi lên CNXH,… đó
chính là thế giới quan mới của sự nghiệp đổi
mới ở Việt Nam.
Bên cạnh đó thế giới quan triết học Mác – Lê nin đã giúp chúng
ta nhìn nhận đánh giá bối cảnh mới, đánh
giá cục diện thế giới, các mối quan hệ quốc tế, xu hướng thời đại,
thực trạng tình hình đất nước và con đường
phát triển trong tương lai.
DNếu như thế giới quan triết học Mác – Lê nin giúp chúng ta xác
định con đường, bước đi thì phương pháp
luận giúp chúng ta giải quyết những vấn đề đặt ra trong thực tiễn
xây dựng CNXH, thực tiễn đổi mới hơn 30
năm qua. Dựa trên cơ sở phương pháp luận triết học Mác – Lê
Nin, chúng ta đã giải quyết tốt các mối quan
hệ cơ bản của quá trình đổi mới như mối quan hệ kinh tế thị
trường với chủ nghĩa xã hội; mối quan hệ giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, đây là mối quan hệ cốt lõi,
mang tính nền tảng cho việc giải quyết các
mối quan hệ khác.
Như vậy, bước vào thế kỉ XXI, những điều kiện lịch sử mới đã
quy định vai trò của triết học Mác –
nin ngày càng tăng. Điều đó đòi hỏi phải bảo vệ, phát triển triết
học Mác – Lê nin để phát huy tác dụng và
sức sống của nó đối với thời đại và đất nước.
Câu 10. Mục đích và yêu cầu của việc học tập, nghiên cứu môn
học Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin?
Học tập, nghiên cứu môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin cần phải theo phương
pháp gắn những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin với
thực tiễn đất nước và thời đại;
Học tập, nghiên cứu môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin cần phải hiểu đúng tinh
thần, thực chất của nó; tránh bệnh kinh viện, giáo điều trong học
tập, nghiên cứu và vận dụng các nguyên lý
đó trong thực tiễn;
lOMoARcPSD| 35966235
17
Học tập, nghiên cứu môn học mỗi nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin trong mối quan hệ với các
nguyên lý khác; mỗi bộ phận lý luận cấu thành này phải gắn kết
với các bộ phận lý luận cấu thành còn lại để
thấy sự thống nhất của các bộ phận đó trong chủ nghĩa Mác-
Lênin; đồng thời cũng nên nhận thức các nguyên
lý đó trong tiến trình phát triển của lịch sử tư tưởng nhân loại.
| 1/17

Preview text:

lOMoAR cPSD| 35966235 1 lOMoAR cPSD| 35966235 3 lOMoAR cPSD| 35966235 5 lOMoAR cPSD| 35966235
Thứ tư, với việc sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác đã khắc
phục được sự đối lập giữa triết học với các khoa học cụ thể.
Trước khi triết học Mác ra đời, triết học hoặc là hòa tan, ẩn giấu
đằng sau các khoa học khác, hoặc đối lập
với chúng. Quan hệ giữa triết học Mác với các khoa học cụ thể là
quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn
nhau. Các khoa học cụ thể cung cấp cho triết học Mác các tư liệu,
dữ kiện, thông số khoa học để triết học
Mác khái quát. Ngay sự ra đời của triết học Mác cũng không thể
thiếu những tiền đề khoa học tự nhiên.
Chính những thành tựu của khoa học tự nhiên nửa đầu thế kỷ XIX
đã làm bộc lộ những hạn chế, sự bất lực
của phương pháp siêu hình trong nhận thức thế giới; đồng thời
cung cấp cơ sở khoa học cho sự ra đời của
phương pháp biện chứng. Trong quan hệ với các khoa học cụ thể,
triết học Mác đóng vai trò thế giới quan,
phương pháp luận chung nhất. Thực tiễn phát triển mạnh mẽ của
các khoa học cụ thể càng làm tăng vai trò
thế giới quan, phương pháp luận của triết học Mác. Như vậy, sự ra
đời của triết học Mác đã chấm dứt mâu
thuẫn giữa triết học với các khoa học cụ thể.
Cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn vô cùng to lớn đối với
thời đại. Chính cuộc cách mạng này đã làm cho chủ nghĩa xã hội
không tưởng có cơ sở để trở thành khoa 7
học. Cuộc cách mạng này cũng làm cho triết học thay đổi cả về
vai trò, chức năng và nhiệm vụ. Triết học
Mác đã trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của nhân loại tiến bộ.
2. Kể từ khi triết học Mác ra đời cho đến nay, thực tiễn đã có
nhiều đổi thay, nhưng triết học Mác vẫn giữ
nguyên ý nghĩa lý luận cũng như giá trị thực tiễn trong thời đại
ngày nay. Có thể nói, cuộc cách mạng trong
triết học do C.Mác thực hiện vào những năm 40 của thế kỷ XIX
vẫn giữ nguyên ý nghĩa to lớn trong việc phát
triển triết học Mác - Lênin ở thời đại ngày nay. Điều này thể hiện ở chỗ:
Một là, triết học Mác - Lênin là một hệ thống mở chứ không phải
là hệ thống khép kín; nó đòi hỏi luôn phải
được bổ sung, hoàn thiện, phát triển. Đối với phương pháp biện
chứng duy vật, không có gì là bất biến. Tinh
thần duy vật biện chứng đòi hỏi chúng ta phải xuất phát từ điều
kiện thực tiễn khách quan để bổ sung, hoàn
thiện, phát triển triết học Mác - Lênin, nhưng phải biết tổng kết
thực tiễn một cách khách quan, biện chứng,
có chắt lọc, có lý luận. Đồng thời, phải tránh siêu hình, rơi vào
chủ nghĩa duy vật tầm thường, thô thiển, chỉ
biết căn cứ từ thực tiễn vụn vặt, cục bộ để bổ sung, hoàn thiện,
phát triển triết học Mác - Lênin. Không chỉ
thế, còn phải luôn bảo đảm sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa
duy vật và phương pháp biện chứng, tránh lOMoAR cPSD| 35966235
mắc phải sai lầm của các nhà triết học trước Mác. Trên tinh thần
duy vật biện chứng, để bổ sung, hoàn thiện,
phát triển triết học Mác - Lênin có hiệu quả, cần tiếp tục tinh thần
duy vật triệt để. Nghĩa là phải giải quyết
tốt những vấn đề của xã hội, của lịch sử trên tinh thần duy vật và biện chứng.
Hai là, sự ra đời của triết học Mác gắn bó chặt chẽ với thực tiễn
phong trào công nhân những năm 30 - 40
của thế kỷ XIX. Bản thân triết học Mác cũng gắn bó hữu cơ với
thực tiễn cách mạng của quần chúng nhân
dân. Chính C.Mác, trong quá trình sáng tạo triết học, đã khắc phục
sự đối lập giữa triết học với hoạt động
thực tiễn của con người. Bởi vậy, bổ sung, hoàn thiện, phát triển
triết học Mác - Lênin phải theo hướng gắn
bó với thực tiễn, bảo đảm sự thống nhất giữa triết học với thực
tiễn. Thực tiễn luôn vận động, biến đổi và
phát triển, do vậy, nhận thức của con người cũng luôn cần được bổ
sung, hoàn thiện và phát triển cho phù
hợp với thực tiễn đó. Triết học Mác - Lênin cũng không nằm ngoài
quy luật này. Sự thống nhất giữa triết học
Mác - Lênin với thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải tìm lời giải đáp
cho những vấn đề của ngày hôm nay từ chính
thực tiễn ngày hôm nay chứ không thể chỉ tìm trong lịch sử. Tuy
nhiên, trong quá trình bổ sung, hoàn thiện
và phát triển triết học Mác - Lênin cần tránh hai thái cực sai lầm:
hoặc là không thấy được những đổi thay 9
của thực tiễn, bảo thủ không muốn bổ sung, hoàn thiện và phát
triển những nguyên lý của triết học Mác -
Lênin; hoặc là quá nhấn mạnh, tuyệt đối hóa sự đổi thay của thực
tiễn dẫn đến đòi xét lại triết học Mác - Lênin.
Ba là, ngay từ khi mới ra đời, triết học Mác đã gắn bó hữu cơ với
các khoa học cụ thể. Do vậy, ngày nay, với sự
phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, triết học Mác -
Lênin không thể không được bổ sung, hoàn
thiện, phát triển lý luận của mình. Nếu triết học Mác - Lênin
không được bổ sung, hoàn thiện và phát triển trên cơ
sở khái quát những thành tựu mới của các khoa học cụ thể thì sẽ
trở nên lạc hậu, nghèo nàn, khô cứng, không
thể đáp ứng được vai trò thế giới quan, phương pháp luận chung
nhất cho các khoa học cụ thể, cũng như cho
quần chúng nhân dân trong hoạt động cải tạo thế giới. Đương
nhiên, nếu không đứng vững trên lập trường của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng duy vật
thì trước những phát minh mới của khoa học,
người ta dễ mất phương hướng, dễ mắc phải sai lầm trong nhận
thức và trong hoạt động thực tiễn .Tuy nhiên, điều
này không có nghĩa là chỉ cần nắm được triết học Mác - Lênin thì
con người sẽ giải quyết được mọi vấn đề cụ thể do thực
tiễn đặt ra. Triết học Mác - Lênin không phải bảo bối chứa sẵn
mọi cách giải quyết những vấn đề do cuộc sống cũng như
nhận thức đặt ra. Để tìm được lời giải đáp cho những vấn đề nảy
sinh, bên cạnh những tri thức triết học Mác - Lênin, còn lOMoAR cPSD| 35966235
phải cần đến những tri thức của các khoa học cụ thể, kinh nghiệm
sống và hoạt động thực tiễn của mỗi người. Thiếu những
điều đó, chúng ta không thể hiểu và vận dụng đúng những nguyên
lý của triết học Mác - Lênin. Do vậy, trong việc bổ sung,
hoàn thiện và phát triển triết học Mác - Lênin, cần phải chống cả
hai thái cực sai lầm: hoặc coi thường triết học Mác - Lênin,
tuyệt đối hóa các khoa học cụ thể; hoặc chỉ thấy có triết học Mác -
Lênin, không thấy vai trò của các khoa học cụ thể. Đồng
thời, cũng cần phải nhận thức đúng rằng, bản thân triết học Mác -
Lênin cũng cần được đổi mới, bổ sung, hoàn thiện và phát triển.
Như vậy, có thể khẳng định lại rằng, hơn một thế kỷ rưỡi đã trôi
qua, kể từ khi cuộc cách mạng trong
triết học được C.Mác thực hiện, ý nghĩa của cuộc cách mạng này
vẫn giữ nguyên tính thời sự và tính thực
tiễn cho việc phát triển triết học Mác - Lênin trong thời đại hiện nay.
Câu 6. Triết học – hạt nhân lí luận của thế giới quan có nghĩa là gì?
· Thế giới quan là toàn bộ những quan niệm về thế giới, về vai trò
của con người trong thế giới đó, về chính
bản thân cuộc sống của con người và loài người. Nó được hình
thành ở một con người và ở một cộng đồng người.
· Triết học là hạt nhân của thế giới quan nghĩa là triết học cung
cấp cho con người những tri thức về bản chất 11
chung nhất của thế giới, về vai trò của con người trong thế giới đó
nên triết học là cơ sở lí luận chung cho
thế giới quan, làm cho thế giới quan phát triển một cách tự giác
trên một lập trường triết học nhất định.
Ví dụ: trên cơ sở lập trường triết học duy tâm về bản chất con
người, những quan niệm về lẽ sống, về nghĩa
vụ, hạnh phúc cũng đối lập với quan niệm về những vấn đề này
trên lập trường của chủ nghĩa duy vật.
Câu 7. Hãy nêu đối tượng nghiên cứu của triết học qua các thời kì trong lịch sử?
· Thời cổ đại: Với nguồn gốc nhận thức của triết học, triết học
được quan niệm là một hình thái cao nhất
của tri thức, biện luận về những vấn đề bản chất chung nhất của
vạn vật, do vậy triết học được coi là
“khoa học của mọi khoa học” bao gồm toàn bộ tri thức lí luận của
nhân loại. Nó thể hiện dưới hình thức
“nền triết học tự nhiên” thời cổ đại.
· Thời Trung cổ: Triết học chỉ được xem là một bộ phận của thần
học nhằm biện minh, lý giải cho sự tồn tại
của thần quyền và chính quyền phong kiến thế tục.
· Thời phục hưng đến nay: Nhận thức của con người ngày càng
phát triển, song song với những kiến thức
về bản chất của thế giới nói chung, con người cần đi sâu khám phá
thế giới ở các lĩnh vực khác nhau. Nhu
cầu này thúc đẩy quá trình phát triển của các khoa học chuyên
nghành, chúng dần dần tách khỏi triết học, lOMoAR cPSD| 35966235
trở thành các môn khoa học độc lập. Trước tình hình đó, đối tượng
của triết học cũng dần thu hẹp lại và
xác định lĩnh vực nghiên cứu của mình.
Ngày nay, triết học là một khoa học, nhưng triết học khác với các
khoa học khác ở chỗ: Triết học nghiên cứu
thế giới trong một chỉnh thể và vạch ra những quy luật chung nhất
của thế giới, còn các khoa học khác
nghiên cứu từng lĩnh vực riêng biệt của thế giới.
Câu 8. Phân tích nguồn gốc của triết học theo hai khía cạnh nguồn
gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội?
Triết học là một hình thái ý thức xã hội có nguồn gốc từ tồn tại xã
hội và sự phát triển của văn hoá, khoa
học. Có thể nói triết học có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
· Nguồn gốc nhận thức: Nhu cầu nhận thức thế giới là một nhu
cầu khách quan của con người. Trong quá
trình sống và cải biến thế giới, từng bước con người có kinh
nghiệm và biết lý giải về tự nhiên, xã hội với
những kiến thức cụ thể,riêng lẻ về những lĩnh vực khác nhau, dần
dần những triết lý - tức là những quan
niệm chung về thế giới và nhân sinh cũng xuất hiện. Khi nhận
thức của con người phát triển đến trình độ
cao, nghĩa là khi con người có khả năng tư duy trừu tượng, khái
quát các tri thức riêng lẻ thành hệ thống
các quan điểm, quan niệm chung nhất về thế giới và về vai trò của
con người trong thế giới thì lúc đó triết 13
học xuất hiện với tư cách là một khoa học. Trong lịch sử, triết học
ra đời từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
· Nguồn gốc xã hội: Triết học ra đời khi kinh tế - xã hội đã có sự
phân công lao động và đã xuất hiện giai
cấp. Khi con người chế tạo được công cụ bằng đồng, bằng sắt thì
nền sản xuất xã hội đạt năng suất cao
hơn. Dần dần, có sự phân công giữa lao động trí óc và lao động
chân tay. Nền kinh tế tương đối phát triển
với trình độ chuyên môn hoá trong lao động đã tạo điều kiện cho
những tiến bộ về văn hoá, khoa học.
Đồng thời trong lịch sử, nền kinh tế dựa trên công cụ lao động
bằng sắt cũng dẫn tới sự phân hoá giai cấp,
xã hội chiếm hữu nô lệ ra đời. Mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp với vai
trò và lợi ích khác nhau đã phản ánh về
bản chất thế giới và luận về vai trò của con người trong thế giới
một cách khác nhau dẫn đến sự ra đời của
nhiều trường phái triết học. Từ nguồn gốc trên cho thấy triết học
xuất hiện từ bản thân lịch sử của con
người, từ yêu cầu thực tiễn của cuộc sống. Như vậy, triết học là
một hình thái ý thức xã hội, nó phản ánh
các quan hệ kinh tế - xã hội và biến đổi cùng với sự biến đổi của kinh tế - xã hội.
Câu 9. Tại sao triết học Mác – Lê nin là cơ sở lý luận khoa học
của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội trên thế giới và sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam? lOMoAR cPSD| 35966235
Sự nghiệp đổi mới toàn diện ở Việt Nam tất yếu phải dựa trên cơ
sở lý luận khoa học, trong đó hạt nhân
là phép biện chứng duy vật. Công cuộc đổi mới toàn diện xã hội
theo định hướng XHCN được mở đường
bằng đổi mới tư duy lý luận, trong đó có vai trò của triết học Mác – Lê nin.
Vai trò thế giới quan, phương pháp luận của triết học Mác – Lê
nin thể hiện đặc biệt rõ đối với sự nghiệp
đổi mới ở Việt Nam đó là đổi mới tư duy. Một trong những điểm
nhấn của thế giới quan, phương pháp luận
triết học Mác – Lê nin chính là vấn đề thực tiễn, đó là phương
pháp biện chứng, đó là sự vận động biến đổi
không ngừng của thế giới. Đó chính là những yếu tố đã góp phần
xây dựng lý luận về đổi mới, về con đường
đi lên xã hội chủ nghĩa, về thời kì quá độ, về xây dựng kinh tế thị
trường, định hướng XHCN, về mô hình
chủ nghĩa xã hội, về các bước, cách thức đi lên CNXH,… đó
chính là thế giới quan mới của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.
Bên cạnh đó thế giới quan triết học Mác – Lê nin đã giúp chúng
ta nhìn nhận đánh giá bối cảnh mới, đánh
giá cục diện thế giới, các mối quan hệ quốc tế, xu hướng thời đại,
thực trạng tình hình đất nước và con đường
phát triển trong tương lai.
DNếu như thế giới quan triết học Mác – Lê nin giúp chúng ta xác
định con đường, bước đi thì phương pháp 15
luận giúp chúng ta giải quyết những vấn đề đặt ra trong thực tiễn
xây dựng CNXH, thực tiễn đổi mới hơn 30
năm qua. Dựa trên cơ sở phương pháp luận triết học Mác – Lê
Nin, chúng ta đã giải quyết tốt các mối quan
hệ cơ bản của quá trình đổi mới như mối quan hệ kinh tế thị
trường với chủ nghĩa xã hội; mối quan hệ giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, đây là mối quan hệ cốt lõi,
mang tính nền tảng cho việc giải quyết các mối quan hệ khác.
Như vậy, bước vào thế kỉ XXI, những điều kiện lịch sử mới đã
quy định vai trò của triết học Mác – Lê
nin ngày càng tăng. Điều đó đòi hỏi phải bảo vệ, phát triển triết
học Mác – Lê nin để phát huy tác dụng và
sức sống của nó đối với thời đại và đất nước.
Câu 10. Mục đích và yêu cầu của việc học tập, nghiên cứu môn
học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin?
Học tập, nghiên cứu môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin cần phải theo phương
pháp gắn những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin với
thực tiễn đất nước và thời đại;
Học tập, nghiên cứu môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin cần phải hiểu đúng tinh
thần, thực chất của nó; tránh bệnh kinh viện, giáo điều trong học
tập, nghiên cứu và vận dụng các nguyên lý đó trong thực tiễn; lOMoAR cPSD| 35966235
Học tập, nghiên cứu môn học mỗi nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin trong mối quan hệ với các
nguyên lý khác; mỗi bộ phận lý luận cấu thành này phải gắn kết
với các bộ phận lý luận cấu thành còn lại để
thấy sự thống nhất của các bộ phận đó trong chủ nghĩa Mác-
Lênin; đồng thời cũng nên nhận thức các nguyên
lý đó trong tiến trình phát triển của lịch sử tư tưởng nhân loại. 17