










Preview text:
lOMoAR cPSD| 59994889 I.
Câu trả lời cho nhóm 4
Câu 1: Hiện nay, một bộ phận người dân có xu hướng thờ ơ với chính trị hoặc dễ bị kích động trên
mạng xã hội. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần làm gì để tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân trong
thời đại kỹ thuật số?
Trong bối cảnh thời đại kỹ thuật số, khi mạng xã hội trở thành phương tiện giao tiếp chủ yếu, tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết vẫn còn nguyên giá trị, nhưng cần được cụ thể hóa qua những việc làm phù hợp. Để tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân trong bối cảnh người dân dễ bị kích động hoặc thờ ơ với chính trị, có thể vận
dụng tư tưởng của Người theo các hướng sau:
1. Nâng cao trình độ dân trí và giáo dục chính trị :
● Theo Hồ Chí Minh, giáo dục là nền tảng của một xã hội tiến bộ. Việc nâng cao trình độ dân trí giúp người
dân có khả năng phân tích, sàng lọc thông tin trên mạng xã hội, tránh bị các thế lực xấu lôi kéo, kích động
● Bên cạnh đó cần nâng cao nhận thức của người dân, đặc biệt là giới trẻ, về vai trò của chính trị, của lòng
yêu nước, của trách nhiệm công dân. Hồ Chí Minh từng nói: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không
có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản". Do đó, cần tiếp tục truyền cảm hứng cho
mọi người về ý nghĩa của việc tham gia vào các vấn đề chung.
2. Tăng cường đối thoại và minh bạch thông tin
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh sự cần thiết của việc lắng nghe ý kiến của nhân dân. Trong thời đại số, việc
thiết lập các kênh đối thoại trực tuyến giữa chính quyền và người dân là vô cùng quan trọng. Các cơ quan
nhà nước cần công khai, minh bạch thông tin về các chính sách, dự án để tạo sự tin tưởng. Khi người dân
được tham gia vào quá trình xây dựng và giám sát chính sách, họ sẽ cảm thấy mình là một phần của hệ
thống chính trị, từ đó giảm bớt sự thờ ơ.
3. Gắn kết và tôn trọng sự đa dạng
Trong xã hội hiện đại. Hồ Chí Minh luôn đề cao tinh thần bao dung, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, giai
cấp. Trong thời đại kỹ thuật số, tinh thần ấy cần được chuyển hóa thành thái độ cởi mở, lắng nghe, tôn
trọng sự khác biệt và phản biện lành mạnh, thay vì cực đoan và chia rẽ.
4. Chuyển đổi số
Cần đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản lý nhà nước, công khai thông tin, xử lý nhanh chóng các vấn đề xã
hội quan tâm để tránh khoảng cách niềm tin giữa nhân dân và chính quyền. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
đoàn kết toàn dân là "vấn đề sống còn" của cách mạng — và trong thời đại kỹ thuật số, củng cố khối đại
đoàn kết bằng tuyên truyền chân thành, chính quyền số minh bạch, đối thoại mở và phản biện nhân văn lOMoAR cPSD| 59994889
chính là cách thức vận dụng linh hoạt để phát huy sức mạnh vô địch của dân tộc trong bảo vệ và xây dựng Tổ quốc bền vững.
Tóm lại, để củng cố khối đại đoàn kết toàn dân trong thời đại kỹ thuật số, cần kết hợp nhuần nhuyễn giá trị cốt
lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh với phương pháp truyền thông, giáo dục, tổ chức và công nghệ hiện đại, nhằm
khơi dậy tinh thần yêu nước, trách nhiệm công dân, và tạo dựng một xã hội mạng đoàn kết, lành mạnh và tiến bộ.
Câu 2. Quan sát tình hình thế giới hiện nay, với các cuộc xung đột, chiến tranh thương mại, cạnh tranh chiến
lược giữa các nước lớn, theo bạn, Việt Nam nên vận dụng tư tưởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh như thế
nào để bảo vệ lợi ích quốc gia mà vẫn giữ được vị thế trung lập, hòa bình và phát triển bền vững?
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đoàn kết quốc tế không chỉ là sự hợp tác giữa các quốc gia mà còn là một chiến lược
để bảo vệ lợi ích dân tộc. Trong bối cảnh tình hình thế giới phức tạp hiện nay, với các cuộc xung đột, chiến tranh
thương mại, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, việc vận dụng tư tưởng này càng trở nên quan trọng hơn
bao giờ hết. Việt Nam cần thực hiện các giải pháp sau để bảo vệ lợi ích quốc gia, đồng thời giữ được vị thế trung
lập, hòa bình và phát triển bền vững: 1.
Kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa
- Độc lập, tự chủ: Kiên định đường lối đối ngoại độc lập, không tham gia liên minh quân sự để giữ
vững vị thế trung lập và chủ động. Dẫn chứng: Chính sách "ba không": Việt Nam kiên định với
chính sách "không tham gia liên minh quân sự; không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước
nào; không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam". Giải quyết tranh
chấp Biển Đông: Mặc dù phải đối mặt với các căng thẳng từ các cường quốc
- Nguyên tắc "thêm bạn bớt thù": Việt Nam cần tiếp tục mở rộng quan hệ với tất cả các quốc gia
trên thế giới, không phụ thuộc vào một cường quốc nào. Đây là sự kế thừa đúng đắn tinh thần
“làm bạn với tất cả các nước dân chủ và không gây thù oán với một ai” mà Hồ Chí Minh đã đề
ra. Việc này giúp Việt Nam có nhiều đối tác, nhiều lựa chọn, từ đó nâng cao vị thế và tiếng nói trên trường quốc tế.
- Đa phương hóa, đa dạng hóa: Mở rộng quan hệ với nhiều đối tác, không chỉ giới hạn ở các cường
quốc, để có thêm lựa chọn và tăng cường vị thế. Dẫn chứng: Quan hệ Đối tác Toàn diện/Chiến
lược: Việt Nam đã thiết lập quan hệ Đối tác Chiến lược với nhiều nước lớn như Nga, Nhật Bản,
Ấn Độ, Trung Quốc, và gần đây nhất là nâng cấp quan hệ với Hoa Kỳ lên mức Đối tác Chiến lược Toàn diện.
- Tích cực tham gia và phát huy vai trò trong các tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc, ASEAN... để
bảo vệ lợi ích quốc gia và đóng góp vào việc duy trì hòa bình, ổn định khu vực và thế giới. lOMoAR cPSD| 59994889 2.
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
- Sức mạnh dân tộc: Phát triển nội lực: Tập trung phát triển kinh tế và khoa học công nghệ để tăng
cường sức mạnh nội tại, làm nền tảng cho việc bảo vệ đất nước. Dẫn chứng: Chính sách thu hút
đầu tư nước ngoài (FDI): Việt Nam tạo môi trường thuận lợi để thu hút các tập đoàn công nghệ
lớn như Samsung, Intel, LG... đầu tư, từ đó tiếp thu công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất và vị
thế trong chuỗi giá trị toàn cầu..
- Sức mạnh thời đại: Tận dụng xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển của thế giới để bảo vệ lợi ích
quốc gia. Tránh bị lôi kéo vào các cuộc xung đột, chiến tranh thương mại giữa các nước lớn. 3.
Hội nhập quốc tế đa phương – giữ vững và phát triển vai trò tại các diễn đàn quốc tế
Ngoại giao văn hóa: Sử dụng các giá trị văn hóa để xây dựng hình ảnh một Việt Nam yêu chuộng hòa
bình, tạo thiện cảm và sự ủng hộ từ bạn bè quốc tế. Dẫn chứng : Việt Nam đã tổ chức thành công nhiều
sự kiện mang tầm cỡ quốc tế như APEC 2017, Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên năm 2019, giúp
quảng bá hình ảnh một đất nước hòa bình, ổn định và có trách nhiệm
Hội nhập quốc tế: Chủ động tham gia vào các diễn đàn, tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc, ASEAN để
thể hiện vai trò và bảo vệ lợi ích quốc gia một cách hòa bình.
Dẫn chứng: Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc: Việt Nam đã hai lần đảm
nhiệm vị trí này (nhiệm kỳ 2008-2009 và 2020-2021) và đã đóng góp tích cực vào các vấn đề hòa bình, an ninh quốc tế.
Ngoại giao văn hóa: Sử dụng các giá trị văn hóa để xây dựng hình ảnh một Việt Nam yêu chuộng hòa
bình, tạo thiện cảm và sự ủng hộ từ bạn bè quốc tế. Dẫn chứng : Việt Nam đã tổ chức thành công
nhiều sự kiện mang tầm cỡ quốc tế như APEC 2017, Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên năm 2019,
giúp quảng bá hình ảnh một đất nước hòa bình, ổn định và có trách nhiệm II.
Câu trả lời cho nhóm 6
Câu 1: Nếu đại đoàn kết dân tộc là nền tảng bền vững cho một quốc gia, tại sao trong suốt
nhiều năm, cộng đồng LGBTQ+ và người khuyết tật vẫn bị “bỏ lại phía sau” trong chính
sách phát triển, ở nước ta vẫn chưa thật sự có một luật nào cụ thể để bảo vệ nhóm người
trên chỉ dừng lại ở những nghị định, thông tư? Phải chăng vấn đề này nằm ở nhận thức,
định kiến của mỗi cá nhân hay chúng ta đang mặc định đoàn kết là sự đồng thuận theo
một chuẩn mực đa số, thay vì xây dựng khối đoàn kết dựa trên công bằng cho sự khác
biệt? Và nếu đoàn kết chỉ vận hành theo chiều dọc – từ nhà nước xuống – mà thiếu sự vận
động theo chiều ngang giữa các tầng lớp xã hội, thì liệu tinh thần Hồ Chí Minh có bị bóp
méo thành một công cụ hành chính thay vì giá trị sống? lOMoAR cPSD| 59994889
I. CẦN HIỂU RÕ: ĐẠI ĐOÀN KẾT KHÔNG PHẢI SỰ "ĐỒNG NHẤT CƯỠNG ÉP"-- Lý giải cho sự
tại sao cộng đồng LGBTQIA+ và cộng đồng nhóm người khuyết tật lại bị “bỏ rơi lại phía sau”
Hồ Chí Minh khẳng định: “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công.” Người nhấn
mạnh đoàn kết phải dựa trên nguyên tắc vì lợi ích chung của dân tộc, không phân biệt tôn
giáo, giai cấp, đảng phái, tầng lớp xã hội. Như vậy nền tảng của đại đoàn kết dân tộc “ tôn
trọng khác biệt để tạo nên thống nhất”. Như vậy sự khác biệt về đặc điểm yếu tố cá nhân
không làm nên sự phân biệt trong các giai cấp khối đại đoàn kết
Hiến pháp 2013 (Điều 16) đã bác bỏ hoàn toàn: "Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không
ai bị phân biệt đối xử...". Đây là văn bản pháp lý cao nhất, không thể bị xem nhẹ.
Để hiểu rõ cụm từ "thiếu luật đồng nghĩa với bỏ rơi" ta có những ví dụ trực quan thực tế
1. Với người khuyết tật:
- Luật Người khuyết tật (2010) và hàng chục văn bản hướng dẫn (Nghị định 28/2012, Thông
tư 01/2014) đã tạo khung pháp lý toàn diện từ giáo dục, y tế đến việc làm.
- Hệ thống trung tâm hỗ trợ trên toàn quốc cùng chính sách ưu đãi doanh nghiệp tuyển dụng
NKT chứng minh sự quan tâm chủ động của Nhà nước.
2. Với cộng đồng LGBTQIA+:
- Việc bỏ quy định "cấm kết hôn đồng giới" (Luật Hôn nhân & Gia đình 2014) là bước tiến lịch
sử, dỡ bỏ rào cản hình sự.
- Luật Chuyển đổi giới tính (2015) công nhận quyền thay đổi giới tính – một đột phá ở quốc gia Á Đông.
- Dù hôn nhân đồng giới chưa được công nhận, Bộ luật Dân sự 2015 vẫn bảo vệ quyền nhân
thân, tài sản của các cặp đồng giới.
→ Việc chưa có luật toàn diện cho LGBTQIA+ không đồng nghĩa với vô hiệu hóa quyền hiện
có, mà là đặc thù của quá trình lập pháp cần sự đồng thuận xã hội.
Tuy nhiên, nếu nhìn vào thực tiễn hiện nay, có thể thấy vẫn còn những nhóm yếu thế – như
cộng đồng LGBTQ+ hay người khuyết tật – chưa được bảo vệ đầy đủ trong chính sách phát
triển, khi pháp luật dành riêng cho họ còn rất hạn chế.
• Trong quá trình phát triển, nhà nước thường tập trung trước vào các nhóm dân số đông,
lĩnh vực kinh tế hoặc vấn đề xã hội có sức ép mạnh.
- Các nhóm yếu thế, dù cần bảo vệ, lại chiếm tỷ lệ nhỏ và tiếng nói chưa đủ mạnh, nên
thường chỉ được đề cập
trong nghị định, thông tư hoặc kế hoạch, chứ chưa có khung luật riêng
• Khoảng cách giữa các nguyên tắc và thực thi
- Tư tưởng “ đại đoàn kết” bao hàm cả sự bao trùm mọi xã hội, nhưng khi đưa vào chính
sách cụ thể, việc chuyển hóa thành hành động pháp lý, nguồn lực và giám sát thực thi còn chậm
- Đối với người khuyết tật, dù đã có Luật cho người khuyết tật, nhưng thực hiện chưa
được đồng bộ, nên vẫn tồn tại tình trang: có luật nhưng chưa được bảo vệ đủ
Những lí do làm cho hình thành nên tư tưởng các cộng đồng yếu thế bị “bỏ lại” lOMoAR cPSD| 59994889
Vấn đề này nằm ở nhận thức, định kiến của mỗi cá nhân hay chúng ta đang mặc định đoàn
kết là sự đồng thuận theo một chuẩn mực đa số? Vấn đề Nhận thức chưa đầy đủ về đại
đoàn kết, không chỉ là câu chuyện về chính sách chậm ban hành, mà còn phản ánh một vấn
đề nhận thức: chúng ta có đang hiểu “đại đoàn kết” đúng theo tinh thần Hồ Chí Minh hay
đang đơn giản hóa nó thành sự đồng thuận theo một chuẩn mực đa số? Khi đoàn kết bị
đồng nhất với “đồng thuận”, thì những khác biệt – về giới, cơ thể, xu hướng tính dục – dễ bị
xem là ngoại lệ, và do đó bị đứng ngoài tiến trình phát triển.
- Đồng nhất "đoàn kết" với "đồng thuận": Chúng ta đang có xu hướng mặc định rằng
"đoàn kết" là sự đồng nhất về tư tưởng, hành động theo một chuẩn mực đa số. Tuy
nhiên, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Đoàn kết không phải là sự gò bó, ép buộc, mà là sự
thống nhất trên một mục tiêu chung." Người kêu gọi "cần phải đoàn kết rộng rãi tất cả
những người thật sự yêu Tổ quốc," bất kể họ thuộc tầng lớp, dân tộc, tôn giáo nào. Sự
khác biệt về xu hướng tính dục hay thể chất không nên là rào cản.
- Định kiến xã hội: Những định kiến lạc hậu như: cộng đồng trên không đủ năng lực,
những nhóm người yếu thế, những định kiến này đã ăn sâu vào trong tâm trí chúng ta
sau những năm kháng chiến chống Pháp và trong khoảng thời gian phục hồi kinh tế,
nên đã khiến cho những công đồng đó được xem như là một sự cản trở từ trong tâm
thức -> làm cho trái lại với nguyên tắc bao dung của Hồ Chí Minh
-Người khuyết tật bị hạn chế cơ hội việc làm không phải vì luật thiếu, mà do tư duy "không
đủ năng lực" từ nhà tuyển dụng -> Làm cho dễ hình thành chính sách về trợ cập cho cộng đồn
-LGBTQIA+ bị kỳ thị không phải do tự bộ máy hiến pháp, mà do nhận thức lạc hậu về giới
tính trong một bộ phận dân cư -> Nhận xét như một vấn đề nhạy cảm – không đủ để hình
thành lên một bộ luật để bảo vệ. → Đổ lỗi cho "khối đại đoàn kết" là ngụy biện. Giải pháp
đích thực nằm ở thay đổi tư duy xã hội thông qua giáo dục và truyền thông, chứ không
phải phủ định sự tiến bộ của thể chế
II. SỰ THẬT VỀ "VẬN HÀNH ĐA CHIỀU" CỦA ĐẠI ĐOÀN KẾT
- Theo Hồ Chí Minh, để thực hiện tốt đại đoàn kết, phải thực hành dân chủ rộng rãi, xây
dựng niềm tin và tạo cơ hội bình đẳng cho mọi người dân tham gia vào đời sống chính trị –
xã hội. Nếu đoàn kết chỉ được vận hành theo chiều dọc (được coi là một công cụ hành
chính, một mệnh lệnh từ trên xuống) – từ Nhà nước đến nhân dân – mà thiếu sự vận động
theo chiều ngang giữa các cộng đồng xã hội, thì tinh thần ấy dễ bị biến thành khẩu hiệu
hành chính, thay vì là một giá trị sống thực chất, sẽ biến thành một khẩu hiệu sáo rỗng,
không thể phát huy được sức mạnh thực sự của nhân dân
Nhưng khi nhìn sự việc theo hướng tích cực thì ta cũng có thể thấy được đại đoàn kết k chỉ
vận hành theo chiều dọc mà thực tế ta dễ thấy nó còn vận hành theo chiều ngang như :
• Các phong trào ủng hộ quyền LGBTQIA+ (diễu hành Pride), dự án dạy nghề cho người khuyết
tật, trung tâm tư vấn tâm lý... chứng tỏ sự đoàn kết tự thân của cộng đồng.
• Hợp tác công-tư: Dự án hỗ trợ người khuyết tật tại Đà Nẵng, chương trình tư vấn sức khỏe
LGBT+ ở TP.HCM minh chứng cho mô hình đoàn kết linh hoạt. → Đại đoàn kết dân tộc không lOMoAR cPSD| 59994889
phải khẩu hiệu rỗng, mà vận hành như một cơ thể sống – nơi Nhà nước và nhân dân cùng giải quyết vấn đề.
Quan điểm "cộng đồng LGBTQIA+ và người khuyết tật bị bỏ lại" là thiển cận vì:
• Về pháp lý: Nhóm yếu thế vẫn được bảo vệ bởi Hiến pháp và luật chuyên ngành (dù chưa hoàn hảo).
• Về thực tiễn: Hàng nghìn tổ chức xã hội, cá nhân đang hàng ngày góp sức hỗ trợ họ. Tư tưởng
Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh đoàn kết phải xuất phát từ tình thương yêu con người và công
bằng. Không phải từ sự áp đặt hành chính mang tính pháp lý. Đó là bản chất của đoàn kết dân tộc
Vậy để Tư tưởng Hồ Chí Minh không bị bóp méo,ta cần phát triển một khối đại đoàn kết
thực sự bao trùm, trong đó sự khác biệt được nhìn nhận như một phần tự nhiên của cộng
đồng. Đoàn kết không phải là loại bỏ sự khác biệt, mà là tạo điều kiện để những khác biệt ấy
được sống, được tôn trọng và được bảo vệ công bằng trong khuôn khổ của pháp luật và đạo lý dân tộc.
Câu 2: Nếu tinh thần đại đoàn kết muốn lan tỏa đến thế hệ trẻ – những người đang chịu ảnh hưởng mạnh mẽ
từ toàn cầu hóa, tư duy phản biện và cá nhân hóa – thì liệu có phải chúng ta đang truyền đạt một tư tưởng lớn
bằng ngôn ngữ cũ kỹ và mô hình vận động hành chính hóa? Tại sao nhiều bạn trẻ không phủ nhận giá trị của
Hồ Chí Minh, nhưng lại không cảm thấy “liên hệ” với tư tưởng ấy trong đời sống thường nhật và một bộ phận
giới trẻ đang đề cao chủ nghĩa cá nhân? Phải chăng vấn đề không nằm ở việc “người trẻ thờ ơ”, mà ở cách mà
chúng ta đang áp dụng một tư tưởng sống động theo lối mòn, một chiều? Và nếu mỗi người trẻ hiểu khác nhau,
cảm khác nhau, thì liệu tư tưởng đại đoàn kết có thể được tái định nghĩa theo hướng mở và đa chiều để thực
sự sống trong lòng dân tộc?
Theo Bác, phải lấy lợi ích tối cao của dân tộc, của nhân dân làm điểm thống nhất, đồng thời tôn trọng sự khác biệt
về giai cấp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái. Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh: “Muốn đoàn kết phải có lòng khoan dung,
phải dân chủ thực sự, phải vì lợi ích chung của dân tộc.”
Tuy nhiên, trong bối cảnh thế giới hiện nay – khi giới trẻ đang sống trong môi trường toàn cầu hóa, cá nhân hóa
và tư duy phản biện mạnh mẽ – tinh thần đoàn kết nếu được truyền đạt bằng ngôn ngữ cũ kỹ, hình thức hành
chính, rất dễ trở thành một khái niệm xa lạ, thậm chí phản cảm. Không phải giới trẻ thờ ơ với tư tưởng Hồ Chí
Minh, mà có thể do cách thức tiếp cận tư tưởng ấy chưa bắt kịp với cách nghĩ, cách cảm và nhịp sống của họ.
Thay vì sử dụng những câu khẩu hiệu cũ kỹ, cứng nhắc, chúng ta cần tìm cách diễn đạt tư tưởng này bằng ngôn
ngữ gần gũi, dễ hiểu và "chất" hơn với giới trẻ. Đó có thể là những câu chuyện thực tế, những hình ảnh, video
sống động, hoặc thậm chí là những meme, podcast, video ngắn trên mạng xã hội. Điều quan trọng là phải cho họ lOMoAR cPSD| 59994889
thấy được giá trị của tư tưởng đại đoàn kết thông qua những ví dụ cụ thể, mang lại lợi ích trực tiếp cho cuộc sống của họ
Thực tế cho thấy, giới trẻ không phủ nhận giá trị của Hồ Chí Minh, nhưng không cảm thấy "liên hệ" với tư tưởng
ấy trong đời sống thường nhật. Hiện nay trong thời đại toàn cầu hóa, một bộ phận đang đề cao chủ nghĩa cá nhân
– điều không có nghĩa là họ chống lại cộng đồng, mà là họ cần được công nhận như một cá thể riêng biệt, chứ
không chỉ như “một phần trong cái chung”.
Vì vậy, vấn đề không nằm ở việc “người trẻ thờ ơ”, mà ở cách chúng ta đang áp dụng một tư tưởng sống động
theo cách một chiều, khô cứng. Chúng ta cần cho giới trẻ thấy được rằng, việc cống hiến cho cộng đồng không
hề mâu thuẫn với việc phát triển bản thân. Ngược lại, một cộng đồng vững mạnh, đoàn kết sẽ tạo điều kiện cho
mỗi cá nhân phát triển tốt hơn. Đoàn kết không thể chỉ là khẩu hiệu từ trên xuống, mà phải được xây dựng như
một giá trị sống tương tác giữa các cá nhân – nơi mỗi người có thể khác biệt, nhưng vẫn tìm thấy điểm chung
để cùng chia sẻ, đóng góp, và đồng hành.
"Tái định nghĩa" ở đây không có nghĩa là thay đổi bản chất của tư tưởng Hồ Chí Minh, mà là tìm cách diễn giải nó
một cách linh hoạt, đa chiều để phù hợp với bối cảnh hiện tại. Đại đoàn kết có thể được hiểu theo nhiều cách
khác nhau, tùy thuộc vào bối cảnh và đối tượng. Với một sinh viên, đại đoàn kết có thể là tinh thần làm việc nhóm
hiệu quả, cùng nhau hoàn thành một dự án. Với một doanh nhân, đó là sự hợp tác, liên kết để cùng nhau phát
triển kinh tế. Với một nghệ sĩ, đó là việc cùng nhau sáng tạo ra những tác phẩm truyền cảm hứng cho cộng đồng.
Nếu Hồ Chí Minh từng mở rộng khái niệm “dân tộc” theo hướng bao quát, linh hoạt – từ đồng bào trong nước,
Việt kiều, đến bạn bè quốc tế – thì hôm nay, tư tưởng đại đoàn kết cũng cần được tái định nghĩa theo hướng
đa chiều, bao gồm cả yếu tố thế hệ, văn hóa, giới tính, khuynh hướng sống. Đó là con đường để tư tưởng ấy thực
sự “sống” trong lòng dân tộc, chứ không chỉ “tồn tại” trong tài liệu giảng dạy.
Khi tư tưởng Hồ Chí Minh không còn là một bài học trên sách vở, mà trở thành một cảm hứng, một động lực để
mỗi người trẻ sống có ích, có trách nhiệm và biết yêu thương, khi đó, tinh thần đại đoàn kết sẽ tự nhiên lan tỏa
và trở thành sức mạnh nội tại của dân tộc
III. Câu trả lời cho nhóm 8
Câu 1: Hiện nay có một số quan điểm cho rằng: “Hội nhập quốc tế làm mất bản sắc dân tộc”. Vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, bạn hãy bình luận và đưa ra quan điểm của bạn. lOMoAR cPSD| 59994889
Hội nhập quốc tế không đồng nghĩa với đánh mất bản sắc: Hội nhập quốc tế là quá trình các quốc gia,
dân tộc tăng cường giao lưu, hợp tác trên nhiều lĩnh vực, trong đó có văn hóa. Tuy nhiên, quá trình
này không nhất thiết phải dẫn đến sự đồng nhất văn hóa hay làm mất đi bản sắc riêng của mỗi dân
tộc. Các nước có thể học hỏi, tiếp thu những giá trị văn hóa tiến bộ, phù hợp với mình, đồng thời vẫn
giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp.
-Bản sắc dân tộc là nền tảng để hội nhập thành công: Một dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, có lòng
tự hào dân tộc, có ý thức về nguồn cội sẽ có khả năng hội nhập quốc tế một cách chủ động, tự tin và
hiệu quả hơn. Bản sắc dân tộc giúp mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng có điểm tựa tinh thần, có những giá
trị cốt lõi để định hướng, lựa chọn và tiếp thu có chọn lọc những yếu tố văn hóa mới.
-Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế: Hồ Chí Minh luôn đề cao tinh thần đoàn kết, hợp tác
quốc tế trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, cùng có lợi. Người khẳng định: "Đoàn kết, đoàn kết,
đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công". Tư tưởng này không chỉ đúng trong phạm vi
dân tộc mà còn đúng trong quan hệ quốc tế. Hội nhập quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh là quá
trình hợp tác, cùng nhau phát triển, không phải là sự áp đặt, đồng hóa. Bác cũng đã từng nói là dân
tộc chúng ta” Hoà nhập nhưng không hoà tan”. Bán chất của hội nhập là không làm mất bản sắc mà
vấn đề là cách chúng ta hội nhập như thế nào, chúng ta phải có bản lĩnh, ý thức, giữ gìn và phát huy
giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc ta, phải biết chọn lọc tinh hoa văn hoá của thế giới cho phù
hợp với bản sắc dân tộc, tự hào và hiểu biết sâu sắc về tinh hoa văn hoá của dân tộc ta. Trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, hội nhập – hay chính xác hơn là quan hệ đoàn kết quốc tế – là một nhu cầu tất
yếu để phát triển đất nước, nhưng phải dựa trên nền tảng tự chủ và giữ vững bản sắc dân tộc. Người
từng nhấn mạnh: “Chúng ta phải học cái hay của người, nhưng không được quên mình là người Việt
Nam” Theo Bác, việc mở rộng quan hệ quốc tế không phải là sự hòa tan, mà là sự giao lưu, tiếp biến
có chọn lọc, trong đó bản sắc văn hóa dân tộc phải luôn là “gốc rễ”
Trong thời đại toàn cầu hóa, việc giao lưu văn hóa, công nghệ, giáo dục... là điều tất yếu. Tuy nhiên,
hội nhập không có nghĩa là hòa tan, mà là “hòa nhập nhưng không hòa tan” tức là vừa tiếp thu tinh
hoa nhân loại, vừa biết chọn lọc để giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống. Hồ Chí Minh là
minh chứng sống động cho tinh thần này: Người từng tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin từ phương Tây
nhưng luôn gắn nó với thực tiễn Việt Nam và tinh thần yêu nước dân tộc. Thực tế cho thấy, nhờ hội
nhập, nhiều giá trị văn hóa của Việt Nam như áo dài, ẩm thực, nhạc dân gian… đã được bạn bè quốc
tế biết đến và trân trọng. Vấn đề không nằm ở việc hội nhập có làm mất bản sắc hay không, mà là
chúng ta có chủ động gìn giữ và phát huy bản sắc ấy hay không. Cũng như cố Tổng Bí Thư Nguyễn Phú
Trọng đã nói về ngoại giao của Việt Nam. Cố Tổng Bí Thư đã đúc kết:” Chúng ta đã xác định trên một
trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại HCM, mang đậm bản sắc cây
tre VN” Vững chắc ở gốc, dẻo dai ở thân và linh hoạt ở cành. Từ đó thể hiện sự kết hợp giữa kiên định
mục tiêu và khả năng thích ứng linh hoạt trong các tình huống khác nhau.
Hội nhập quốc tế là xu thế tất yếu để phát triển đất nước. Thay vì lo sợ mất bản sắc, chúng ta cần
trang bị cho mình tri thức, bản lĩnh và lòng tự hào dân tộc, để vừa vững vàng trong bản sắc,vừa cởi
mở tiếp thu cái mới. Đó cũng là cách thể hiện tinh thần Hồ Chí Minh trong thời đại toàn cầu hóa. Vì vậy lOMoAR cPSD| 59994889
Hội nhập quốc tế không phải làm mất bản sắc dân tộc mà chủ yếu do chính cách chúng ta nhận thức và
tiếp cận chúng như thế nào phù hợp với thời đại.
Câu 2:Trong thời đại mạng xã hội, một bộ phận giới trẻ có xu hướng cực đoan, công kích, gây chia rẽ
nội bộ. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết, bạn hãy đề xuất các biện pháp truyền thông phù hợp
- Hiện trạng: Ngày nay, khối đại đoàn kết dân tộc, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân đang
đối mặt nhiều thách thức. Nguyên nhân là do 1 bộ phận giới trẻ lòng tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ
vẫn chưa đủ vững chắc, tâm trạng vẫn còn lo lắng về phân hoá giàu nghèo, việc làm và đời sống; bất
bình trước bất công xã hội, tham nhũng, quan liêu. Sở dĩ có các yếu điểm trên là do Đảng chưa kịp
phân tích và dự báo, nắm bắt biến đổi xã hội trong giới trẻ để có chủ trương, chính sách phù hợp; công
tác dân vận ở một số nơi còn yếu, vẫn tồn tại định kiến, hẹp hòi. Một số cán bộ, đảng viên thoái hóa,
biến chất, chưa làm gương. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch ra sức lợi dụng các vấn đề “dân chủ, nhân
quyền”, tôn giáo, dân tộc để chia rẽ nội bộ, tác động tiêu cực đến tư tưởng giới trẻ. - Vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh, để xây dựng khối đại đoàn kết trong giới trẻ , cần triển khai hai nhóm giải pháp chính:
+ Thứ nhất, cần phải quán triệt về tư tưởng Hồ Chí Minh bằng các phương pháp tuyên truyền – giáo
dục – vận động, phải thật sự khoa học, phù hợp với tâm lý, nhu cầu và nguyện vọng của giới trẻ. Nội
dung tuyên truyền cần gần gũi, dễ tiếp cận, sử dụng ngôn ngữ và hình thức sinh động trên các nền
tảng số. Quan trọng hơn, người thực hiện công tác tuyên truyền phải là tấm gương mẫu mực, có lời
nói đi đôi với việc làm, có sức thu hút và thuyết phục. Ví dụ điển hình về việc tuyên truyền đó là Bác
Hồ, Người luôn biết kết hợp nhiều hình thức tuyên truyền sáng tạo, hiệu quả và giàu cảm hứng, chúng
ta có thể vận dụng để giúp giới trẻ tự giác nhận thức được tầm quan trọng của đoàn kết và chủ động
tham gia vào các hoạt động cách mạng, cộng đồng. Đồng thời, cần khuyến khích giới trẻ tham gia hoạt
động thực tiễn, phản biện tích cực và lan tỏa thông tin tích cực để chống lại các biểu hiện cực đoan,
chia rẽ trên mạng xã hội. Một số biện pháp truyền thông như: 1.
Lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực – đúng với nguyên tắc truyền thông Hồ Chí Minh. Không nên tập
trung công kích cá nhân hay đối đầu trực diện trên mạng, mà cần lan tỏa những nội dung tích cực, mẫu
hình hành vi văn minh, cách tranh luận có lý – có tình để làm gương. 2.
Tăng cường giáo dục truyền thông số cho giới trẻ: Không chỉ dạy kỹ năng sử dụng mạng xã hội,
mà còn cần dạy đạo đức và văn hóa mạng, giúp họ hiểu rằng tự do ngôn luận không đồng nghĩa với tự
do xúc phạm, và mỗi lời nói đều có trách nhiệm xã hội đi kèm. 3.
Xây dựng các chiến dịch truyền thông có chiều sâu, có ngôn ngữ gần gũi với người trẻ: Dùng
TikTok, YouTube, Instagram... để chia sẻ thông điệp đoàn kết, tôn trọng sự khác biệt, phản biện lành
mạnh. Truyền thông phải đi vào nền tảng mà giới trẻ đang ở, thay vì chỉ truyền tải bằng báo chí truyền thống. lOMoAR cPSD| 59994889 4.
Tạo các không gian trao đổi mở, đa chiều: Cần phát triển những diễn đàn, nhóm thảo luận nơi
người trẻ có thể chia sẻ ý kiến một cách xây dựng, được lắng nghe và phản hồi hợp lý, thay vì bị phán xét hay chụp mũ. 5.
Tôn vinh những tấm gương ứng xử văn minh trong tranh luận xã hội, đồng thời lên án nhẹ
nhàng, có văn hóa đối với các hành vi công kích, chia rẽ – như Hồ Chí Minh từng dùng sự kiên nhẫn,
mẫu mực trong đối thoại để thuyết phục thay vì áp đặt.
+ Thứ hai, về trách nhiệm của Đảng và Nhà nước, cần hoàn thiện hệ thống chính trị, đổi mới phương
thức lãnh đạo, tăng cường công tác dân vận, đặc biệt trong thanh niên. Các chủ trương, chính sách
phải sát thực tiễn, bắt kịp xu thế thời đại, giải quyết tốt mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích
chung. Đồng thời, cần chủ động nắm bắt tâm tư giới trẻ, tạo môi trường dân chủ, cởi mở để họ phát
huy vai trò và trách nhiệm công dân. Bên cạnh đó, Nhà nước cần xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng
dân chủ để chia rẽ, kích động trên mạng xã hội, bảo vệ một môi trường thông tin trong sạch và đoàn kết.
=> Cuộc chiến chống COVID-19 đã là minh chứng sống động cho giá trị bền vững của tư tưởng Hồ Chí Minh về
đại đoàn kết dân tộc. Sức mạnh ấy không chỉ giúp Việt Nam vượt qua đại dịch mà còn củng cố niềm tin của nhân
dân vào Đảng, Nhà nước và tương lai dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa và nhiều biến động. lOMoAR cPSD| 59994889