
PHẦN 1: BẢN CHẤT, ĐẶC ĐIỂM CỦA DU LỊCH VÀ
NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA PHÁT TRIỂN DU LỊCH
Phần 1 giới thiệu tổng quan về ngành du lịch. Phần này sẽ làm rõ các khái niệm chuyên
ngành, phân tích các đặc điểm của du lịch, giới thiệu quá trình ra đời, phát triển của du lịch
cũng như chỉ ra các tác động kinh tế, xã hội của phát triển du lịch đối với sự phát triển của
một địa phương, một đất nước.
CHƯƠNG 1: BẢN CHẤT, ĐẶC ĐIỂM CỦA DU LỊCH
Mục tiêu của chương là:
Cung cấp cho sinh viên những hiểu biết sâu sắc về các khái niệm cơ bản của du lịch,
bao gồm các khái niệm về khách du lịch, du lịch, sản phẩm du lịch và loại hình du
lịch;
Giới thiệu cho sinh viên những kiến thức tổng quát về quá trình phát triển du lịch,
những xu hướng tương lai của phát triển du lịch;
Giới thiệu cho sinh viên những đặc điểm của sản phẩm du lịch, rèn luyện kỹ năng
phân tích xác định những tác động đến hoạt động quản trị kinh doanh sau này của
mình do ảnh hưởng của những đặc điểm này;
Rèn luyện kỹ năng phân tích quá trình phát triển du lịch của một khu vực, một quốc
gia, một vùng;
Xây dựng thái độ năng động trong hoạt động quản trị kinh doanh với một ngành phát
triển và thay đổi nhanh chóng như du lịch.
1.1. KHÁI NIỆM VỀ DU KHÁCH VÀ DU LỊCH
Cho đến nay, các học giả cũng còn chưa có sự thống nhất trong xác định khái niệm về
du lịch. Điều này do sự phức tạp trong xác định ai là khách du lịch, ai là người lữ hành nói
chung, cũng như do sự khác nhau về góc độ tiếp cận của người nghiên cứu.
Để thuận lợi cho trình bày, chúng ta bắt đầu từ khái niệm khách du lịch.
1.1.1. KHÁCH DU LỊCH
Một người có thể rời khỏi nhà vì nhiều lý do khác nhau. Họ có thể đi đến những nơi
khác để làm việc kiếm sống, đi tham quan, thăm người thân, học tập, chữa bệnh,…Điểm họ
đến có thể là viện bảo tàng gần nhà, địa phương khác hay nước khác,… Họ có thể chỉ đi
ngang qua hay nghỉ lại nơi đó vài giờ, vài ngày,… Trong số họ, ai được coi là khách du
lịch, ai không được coi là khách du lịch? Ai là người mà các doanh nghiệp du lịch, chính
quyền và cộng đồng cư dân sở tại hướng đến để thu hút, khai thác chi tiêu của họ nhằm tìm
kiếm thu nhập và phát triển kinh tế địa phương? Việc dẫn dắt một cách khá tỉ mỉ để đưa ra
định nghĩa thống nhất, rõ ràng về khách du lịch không chỉ có ý nghĩa trong nghiên cứu mà
còn nhằm thống nhất về số liệu thống kê phục vụ việc tổng hợp và so sánh. Ngoài ra, điều
này còn có ý nghĩa trong thực thi các quy định pháp luật. Bởi chỉ khi phân định hết sức chặt
1

chẽ ai là khách du lịch, ai không phải là khách du lịch, chúng ta mới có thể thể xác định ai
được hưởng, ai không được hưởng các quyền lợi cho du khách mà Công ước quốc tế về du
lịch và Luật Du lịch các quốc gia quy định.
Việc phân biệt giữa du khách và những người lữ hành khác dựa vào 3 tiêu chí:
-Mục đích chuyến đi,
-Thời gian chuyến đi,
-Không gian của chuyến đi.
Trong 3 tiêu chí đó, tiêu chí về không gian chuyến đi là ít có sự thống nhất. Vì vậy,
chúng ta bắt đầu từ định nghĩa khách du lịch quốc tế vốn có sự rõ ràng trong tiêu chí này.
1.1.1.1. Du khách quốc tế và Khách du lịch quốc tế
Năm 1937, Ủy ban Thống kê của Hội Quốc Liên (tiền thân của Liên Hợp Quốc ngày
nay) đã đưa ra khái niệm về du khách quốc tế như sau:
“Du khách quốc tế là những người viếng thăm một quốc gia ngoài quốc gia cư trú
thường xuyên của mình trong thời gian ít nhất là 24h”
Về mục đích chuyến đi, Ủy ban cũng xác định:
"*Những người sau đây được coi là du khách quốc tế:
Những người đi vì lý do giải trí, vì lý do sức khỏe, gia đình và những lý do tương tự,
Những người đi họp với tư cách là đại biểu của các hội nghị khoa học, chính trị, ngoại
giao, kinh tế, thể thao, tôn giáo,
Những người đi vì mục đích kinh doanh, công vụ (tìm hiểu thị trường, ký kết hợp
đồng…. ),
Những người tham gia các chuyến du lịch vòng quanh biển (sea cruise) ngay cả khi họ
có thời gian thăm viếng dưới 24 giờ.
*Những người sau đây không được coi là du khách quốc tế:
Những người đi sang nước khác để hành nghề (dù có hay không có hợp đồng); hoặc
tham gia vào các hoạt động kinh doanh ở nước đến (những người hưởng lương, có
thu nhập ở nước đến),
Những người nhập cư vào nước đến,
Những sinh viên, học sinh đi học ở nước đến,
Những cư dân vùng biên giới, những người cư trú ở một quốc gia và đi làm ở quốc gia
láng giềng,
Những hành khách đi xuyên qua một quốc gia và không dừng lại cho dù cuộc hành
trình đó kéo dài trên 24 giờ".
Từ những nội dung trên, ta có thể rút ra những đặc trưng của du khách quốc tế:
Về không gian chuyến đi: Họ đến một quốc gia khác ngoài quốc gia cư trú thường
xuyên của mình,
2

Về mục đích chuyến đi: khá đa dạng, nhưng có điểm chung là không làm việc nhận thù
lao tại nơi đến (ngoại trừ việc loại trừ đối tượng học sinh, sinh viên như ở điểm 3 là
không theo điểm chung này),
Về mặt thời gian, du khách quốc tế là những người có thời gian viếng thăm (lưu lại) ở
quốc gia khác ít nhất là 24 giờ (trừ những người tham gia các Sea Cruise). Sở dĩ người
ta chọn chiều dài thời gian này làm giới hạn dưới vì khi đó họ phải nghỉ qua đêm và vì
vậy họ phải chi tiêu nhiều, ít nhất là một khoản tiền đáng kể cho ăn, nghỉ.
Đến đây chúng ta có thể xác định:
Du khách quốc tế (international tourist) là những người viếng thăm một quốc gia
ngoài quốc gia cư trú thường xuyên của mình trong thời gian ít nhất 24h với các mục đích
khác nhau ngoài mục đích làm việc nhận thù lao tại nơi đến.
Tuy nhiên, sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, số người ra nước ngoài tham quan,
giải trí trong khoảng thời gian dưới 24 giờ tăng lên mạnh mẽ, chi tiêu của họ ngày càng
nhiều, không thể không tính đến khi đánh giá quy mô phát triển du lịch địa phương. Từ đó
xuất hiện một khái niệm mới: Khách tham quan (Excursionist).
Khách tham quan quốc tế (international excursionist) là những người rời khỏi quốc
gia lưu trú của mình đến một quốc gia khác với những lý do khác nhau ngoại trừ làm việc
nhận thù lao tại nơi đến trong thời gian dưới 24 giờ hay không nghỉ lại qua đêm.
Để thống nhất hai đối tượng này, năm 1963 tại Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về du
hành và du lịch, tổ chức ở Roma, Ủy Ban Thống Kê của Liên Hiệp Quốc đưa ra khái niệm
mới là khách du lịch quốc tế.
“Khách du lịch quốc tế (international visitor) là những người thăm viếng một số
nước khác ngoài nước cư trú của mình cho bất kỳ lý do nào ngoài mục đích hành nghề để
nhận thu nhập từ trong nước được viếng thăm”.
Như vậy, tất cả những người rời quốc gia của mình đến một nước vì bất kỳ lý do gì
ngoài mục đích làm việc nhận thù lao tại nơi đến, dù nghỉ qua đêm hay không, được gọi
chung là khách du lịch quốc tế.
Những khái niệm trên khá rõ ràng và chi tiết, nhưng đứng trước hiện tượng nhiều
người lợi dụng việc đi du lịch để nhập cư trái phép, các quốc gia đã định nghĩa lại khái niệm
khách du lịch quốc tế. Năm 1989, trên tinh thần bổ sung thêm giới hạn tối đa của thời gian
lưu lại, Hội nghị liên minh Quốc hội về du lịch tổ chức ở Lahaye (Hà Lan) đã ra “Tuyên bố
Lahaye về du lịch”, trong đó đưa ra khái niệm mới về khách du lịch. Điều IV của Tuyên bố
Lahaye ghi rõ:
“Khách du lịch quốc tế là những người:
a. Trên đường đi thăm hoặc đi thăm một nước, khác với nước mà họ cư trú thường
xuyên;
b. Mục đích của chuyến đi là tham quan, thăm viếng hoặc nghỉ ngơi với thời gian
không qua 3 tháng, nếu trên 3 tháng thì phải được phép gia hạn;
3

c. Không được làm bất cứ việc gì để được trả thù lao tại nước đến do ý muốn của
khách hay do yêu cầu của nước sở tại;
d. Sau khi kết thúc đợt tham quan (hay lưu trú) phải rời khỏi nước đến tham quan để
về nước thường trú của mình hoặc đi đến một nước khác. ”
Những người không thỏa mãn những điều kiện như trên sẽ không được coi là khách
du lịch quốc tế, đặc biệt những người “sau khi đã vào một nước nào đó với tư cách là một
khách tham quan hay lưu trú du lịch, lại tìm cách kéo dài thời gian lưu trú của mình để ở lại
hẳn nước này”. Vi phạm điều này, họ sẽ không còn hưởng những quy chế của các Công ước
quốc tế về du lịch và có thể bị trục xuất khỏi quốc gia đến viếng.
Vậy, ngày nay chúng ta hiểu:
Khách du lịch quốc tế là những người viếng thăm một quốc gia ngoài quốc gia cư
trú thường xuyên của mình trong thời gian không quá 3 tháng với các mục đích khác nhau
ngoài mục đích làm việc nhận thù lao tại nơi đến.
1.1.1.2. Khách du lịch trong nước (Khách du lịch nội địa)
Một cách tổng quát, khách du lịch trong nước được phân biệt với khách du lịch quốc
tế ở chỗ: nơi đến của họ cũng chính là nước họ cư trú thường xuyên. Họ cũng được phân
biệt với người lữ hành khác trong nước ở mục đích chuyến đi, khoảng cách chuyến đi và
thời gian lưu trú (tùy theo chuẩn mực của từng quốc gia).
Sự không thống nhất giữa các quốc gia trong xác định khách du lịch nội địa là ở chỗ
phân định khoảng cách từ nơi cư trú thường xuyên với nơi đến. Chẳng hạn:
+ Người Mỹ thì cho rằng khách du lịch là khách đi đến một nơi xa ít nhất 50 dặm
(tính trên một chiều) với những mục đích khác nhau ngoài việc đi làm hàng ngày.
+ Còn người Canada thì điều kiện chỉ là đi xa 25 dặm và có nghỉ lại đêm hoặc rời
khỏi thành phố và nghỉ lại đêm.
+ Đối với nước Pháp, được xem là du khách là tất cả những người rời khỏi nơi cư trú
thường xuyên của mình ít nhất là 24 giờ (hay qua đêm) và nhiều nhất là 04 tháng theo một
trong các lý do sau: giải trí (nghỉ hè, nghỉ phép Weed-end); sức khỏe (liệu pháp chữa bệnh
bằng nước khoáng, liệu pháp biển…); công tác và hội họp dưới mọi hình thức (hội nghị, hội
thảo, hành hương tôn giáo, các ngày hội thể thao và các cuộc hành trình công vụ khác),
không xét đến nơi đến.
+ Nước ta cũng không quy định nơi đến: Theo khoản 2, điều 4, Luật Du lịch nước
CHXHCN Việt Nam năm 2017, "khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch,
trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến".
Như vậy, theo nơi đến, chúng ta có sự phân biệt giữa khách du lịch quốc tế và khách
du lịch trong nước. Ngoài ra, theo thời gian chuyến đi, chúng ta còn có sự phân biệt giữa du
khách, khách tham quan, khách du lịch như hình 1.1.
4
K
h
ô
n
g
v
ì
m
ụ
c
đ
í
c
h
n
h
ậ
n
t
h
ù
l
a
o
K
H
Á
C
H
D
U
L
Ị
C
H
(
V
i
s
i
t
o
r
)
D
U
K
H
Á
C
H
(
T
o
u
r
i
s
t
)

Hình 1.1: Sự phân biệt giữa các loại người lữ hành
1.1.2. DU LỊCH
Cùng với thời gian, việc rời khỏi nơi cư trú thường xuyên để thăm thú, giải trí, tìm
hiểu,… ngày càng phổ biến. Du lịch từ chỗ chỉ là những hoạt động cá nhân đến chỗ trở
thành cơ hội kiếm lợi nhuận của một số người, rồi trở thành một hệ thống bao gồm nhiều cơ
quan, doanh nghiệp, sử dụng một khối lượng lớn các nguồn lực xã hội để đáp ứng những
nhu cầu hết sức đa dạng (ngoài nhu cầu kiếm sống) của bộ phận lớn các cư dân. Trong điều
kiện đó, việc phân tích hiện tượng du lịch đòi hỏi phải phân tích những mối quan hệ phức
tạp bên trong của các chủ thể tham gia hệ thống du lịch.
1.1.2.1. Khái niệm du lịch, công nghiệp du lịch
Trước thế kỷ XIX, du lịch chỉ là hiện tượng lẻ tẻ của một số ít người thuộc tầng lớp
trên. Cho đến đầu thế kỷ XX, khách du lịch vẫn tự do lấy việc đi lại và ăn ở của mình. Lúc
đó, du lịch chưa được coi là đối tượng kinh doanh, nó nằm ngoài lề của nền kinh tế.
Ở thời kỳ này, người ta coi du lịch chỉ là một hiện tượng trong hoạt động làm phong
phú thêm cuộc sống của con người. Trên quan điểm này:
“Du lịch là hiện tượng những người đi đến một nơi khác ngoài nơi cư trú thường
xuyên của mình theo nhiều nguyên nhân khác nhau ngoại trừ mục đích kiếm tiền và
ở đó họ phải tiêu tiền mà họ đã kiếm được ở nơi khác”
Đây là khái niệm nguyên thủy của du lịch và được coi là khái niệm gốc. Điều 3,
khoản 1, Luật Du lịch nước CHXHCN Việt Nam năm 2017 (gọi tắt là Luật Du lịch 2017)
định nghĩa “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư
trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham
quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích
hợp pháp khác.”
5
N
G
Ư
Ờ
I
L
Ữ
H
À
N
H
(
T
r
a
v
e
l
l
e
r
)
K
h
ô
n
g
v
ì
m
ụ
c
đ
í
c
h
n
h
ậ
n
t
h
ù
l
a
o
L
à
m
v
i
ệ
c
n
h
ậ
n
t
h
ù
l
a
o
K
H
Á
C
H
D
U
L
Ị
C
H
(
V
i
s
i
t
o
r
)
D
U
K
H
Á
C
H
(
T
o
u
r
i
s
t
)
K
H
Á
C
H
T
H
A
M
Q
U
A
N
(
E
x
c
u
r
s
i
o
n
n
i
s
t
-
D
a
y
-
v
i
s
i
t
o
r
)
K
H
Ô
N
G
P
H
Ả
I
K
H
Á
C
H
D
U
L
Ị
C
H
(
N
o
n
V
i
s
i
t
o
r
)

Tuy nhiên, khái niệm này chỉ mới giải thích hiện tượng “đi du lịch”. Khi du lịch phát
triển, việc đi du lịch ngày càng gắn bó chặt chẽ với nhiều lực lượng khác và vì vậy nội hàm
của khái niệm có sự thay đổi.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, khi dòng khách du lịch lớn hơn, nhu cầu đi lại, lưu
trú, ăn uống, tham quan của du khách đã bắt đầu trở thành cơ hội kinh doanh. Các cơ sở
cung ứng các dịch vụ cho khách du lịch bắt đầu xuất hiện. Lúc đó, người ta không chỉ xem
du lịch là một hiện tượng nhân văn mà còn coi đó là một hoạt động kinh tế. Bên cạnh việc
coi du lịch là những hoạt động của du khách, du lịch còn được coi là:
“Toàn bộ những hoạt động và những công việc phối hợp nhau nhằm thỏa mãn các
nhu cầu của khách du lịch”
Khái niệm này gắn liền với hoạt động “làm du lịch”.
Du lịch càng phát triển, lôi cuốn hàng tỷ người vào các chuyến đi hàng năm, thu hút
sử dụng một khối lượng khổng lồ nguồn nhân lực, vốn và tài nguyên; các hoạt động kinh
doanh du lịch ngày càng gắn bó và phối hợp nhau tạo thành một hệ thống rộng lớn và chặt
chẽ. Chính quy mô và tính hệ thống của nó ngày nay làm cho du lịch được mô tả như một
trong những ngành công nghiệp lớn nhất. Với giác độ này, du lịch được coi là
“Một ngành công nghiệp, là toàn bộ các hoạt động mà có mục tiêu là chuyển các
nguồn nhân lực, vốn và nguyên vật liệu thành những dịch vụ, sản phẩm đáp ứng nhu
cầu của khách du lịch”.
Tuy nhiên, ngay cả với khái niệm này, chúng ta cũng phải chú ý một điều là du lịch
là một hệ thống có quan hệ đan xen với nhiều ngành truyền thống khác trong nền kinh tế.
Bên cạnh đó, nó đòi hỏi không chỉ các yếu tố đầu vào có bản chất kinh tế, mà cả các yếu tố
đầu vào mang bản chất xã hội, văn hóa và môi trường. Trong ý nghĩa này, nó thường được
mô tả là một ngành phức hợp.
Các khó khăn trong việc mô tả du lịch như một "ngành công nghiệp" là nó không có
chức năng sản xuất chính thức bình thường, cũng không có một sản lượng mà chúng ta có
thể đo được, không giống như nông nghiệp (tấn lúa mì) hay đồ uống (lít rượu). Nó không có
cấu trúc thông thường chung của ngành ở mọi quốc gia. Tại Pháp và Ý, ví dụ, các nhà hàng
Ñvà các cơ sở mua sắm đều hấp dẫn lớn đối với khách du lịch; ở Nga, đóng góp của chúng
là thấp hơn hẳn. Ngay cả những dịch vụ thành phần cốt lõi của công nghiệp du lịch, chẳng
hạn như lưu trú và vận chuyển khách du lịch, có thể khác nhau giữa các quốc gia. Trong khi
nhiều du khách Anh sử dụng lưu trú và ăn sáng tại nhà riêng của cư dân địa phương thì ở
Thái Lan tiện nghi như vậy là không có sẵn. Trong lĩnh vực giao thông vận tải, mức sở hữu
xe hơi và mạng lưới đường bộ phát triển cho phép nhiều du khách sử dụng xe ô tô riêng của
họ ở Tây Âu và Hoa Kỳ. Ở Ấn Độ và Indonesia, hầu hết du khách đi du lịch bằng đường
hàng không. Trên đây là những khó khăn để định nghĩa du lịch như là một ngành công
nghiệp. Do đó, nhiều tác giả đề cập đến lĩnh vực du lịch hơn là ngành công nghiệp du lịch.
6

1.1.2.2. Bản chất của du lịch - Quan hệ giữa các chủ thể trong du lịch
Các khái niệm trên chỉ mới mô tả du lịch theo hiện tượng bên ngoài của nó. Với tư
cách là đối tượng nghiên cứu của môn kinh tế du lịch, khái niệm du lịch phải phản ánh các
mối quan hệ bản chất bên trong làm cơ sở cho việc nghiên cứu các xu hướng và các quy
luật phát triển của nó. Vì vậy, với tư cách là đối tượng của môn Kinh tế Du lịch, chúng ta
hiểu :
“Du lịch là tổng thể những hiện tượng và những mối quan hệ phát sinh từ sự tác
động qua lại lẫn nhau giữa khách du lịch, những nhà khinh doanh du lịch, chính
quyền sở tại và cộng đồng cư dân địa phương trong quá trình thu hút và lưu giữ
khách du lịch”
Các chủ thể trên có các mong muốn khác nhau với du lịch
+ Đối với khách du lịch, du lịch mang lại cho họ một sự hài lòng vì được hưởng một
khoảng thời gian thú vị, đáp ứng các nhu cầu giải trí, nghỉ ngơi, thăm viếng…của họ.
Những khách du lịch khác nhau sẽ chọn những điểm đến khác nhau với những dịch vụ vận
chuyển, giải trí, lưu trú, ăn uống, mua sắm,.. của các doanh nghiệp khác nhau phù hợp với
nhu cầu và khả năng riêng của mình.
+ Đối với các đơn vị kinh doanh du lịch, họ xem du lịch như là một cơ hội kinh doanh thu
lợi nhuận thông qua việc cung ứng những hàng hóa và dịch vụ du lịch có khả năng cạnh
tranh để thu hút khách du lịch. Các doanh nghiệp du lịch khác nhau, với các điều kiện khác
nhau của mình sẽ chọn các điểm đến và đối tượng khách du lịch khác nhau.
+ Đối với chính quyền, du lịch được xem như là một nhân tố thuận lợi đối với nền kinh tế
trong lãnh thổ của mình. Chính quyền quan tâm đến số công việc mà du lịch tạo ra, thu
nhập mà cư dân của mình có thể kiếm được, khối lượng ngoại tệ mà khách du lịch quốc tế
mang vào cũng như những khoản thuế nhận được từ khách và hoạt động kinh doanh du lịch.
Để pts du lịch địa phương, chính quyền sẽ chọn các đối tượng khách khác nhau, thu hút
những nhà đầu tư khác nhau.
+ Đối với cộng đồng cư dân địa phương, du lịch được xem như là một cơ hội để tìm việc
làm, tạo thu nhập nhưng đồng thời bản than họ cũng là nhân tố hấp dẫn khách du lịch bởi
lòng hiếu khách và trình độ văn hóa của họ. Ở các điểm du lịch, giữa khách du lịch và cư
dân địa phương luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động này có thể có lợi, có thể
có hại, cũng có thể vừa có lợi vừa có hại.
Tất cả 4 chủ thể trên có những mục tiêu và mong muốn khau với du lịch nhưng vì đều
thỏa mãn được sự mong muốn của mình qua hoạt động du lịch nên họ có quan hệ qua lại
với nhau trong quá trình phát triển du lịch tại một điểm đến.
Các quan hệ này được phản ánh qua mô hình 1.2
7
DOANH NGHIỆP
DU LỊCH
S
p
h
ẩ
m
,
d
ị
c
h
v
ụ
m
a
n
g
l
ạ
i
s
ự
h
à
i
l
ò
n
g
Sự tín
nhiệm,
phiếu bầu

Hình 1.2. Mối quan hệ giữa các chủ thể trong du lịch
Như vậy, cùng với sự phát triển ngành du lịch, khái niệm DU LỊCH cũng có sự phát
triển, đi từ hiện tượng đến bản chất. Tùy thuộc vào từng góc độ nghiên cứu mà người ta sử
dụng khái niệm du lịch với các nội dung khác nhau. Tuy nhiên, khái niệm xuất phát là khái
niệm về hiện tượng đi du lịch. Từ khái niệm này, các khái niệm về kinh doanh du lịch, công
nghiệp du lịch và bản chất, tức các mối quan hệ bên trong hoạt động du lịch, được hình
thành.
1.2. SẢN PHẨM DU LỊCH VÀ LOẠI HÌNH DU LỊCH
1.2.1. SẢN PHẨM DU LỊCH
1.2.1.1. Khái niệm sản phẩm du lịch
Cũng như các sản phẩm khác, sản phẩm du lịch là sự kết hợp của các yếu tố vật chất
và phi vật chất nhằm thỏa mãn một nhu cầu, mong muốn nào đó của con người. Vấn đề là ở
chỗ chúng ta cần xác định sản phẩm du lịch mang lại điều gì, tức giá trị sử dụng của sản
phẩm du lịch, khác biệt gì so với các sản phẩm khác.
Những du khách khác nhau có nhu cầu, mong muốn rất khác nhau đối với chuyến du
lịch. Có một số khách du lịch muốn tìm ở chuyến đi sự giải trí, số khác lại tìm ở chuyến đi
cơ hội nâng cao hiểu biết, lại có những người đi du lịch nhằm gặp lại bạn cũ hay tìm những
người bạn mới và những người khác muốn thông qua chuyến du lịch để giải tỏa những áp
lực tâm lý… Với nhiều mục đích đa dạng như vậy, đâu là lợi ích chung của một chuyến du
lịch? Khi một du khách bỏ tiền ra đi du lịch, kết thúc chuyến đi, tiến đã chi tiêu xong, họ
được cái gì? Đâu là giá trị sử dụng của sản phẩm du lịch?
Điều chung nhất mà sản phẩm du lịch mang lại cho khách là sự hài lòng về việc được
trải qua một khoản thời gian thú vị tại một nơi mình mong muốn. Kết thúc chuyến đi, tiền
8
S
p
h
ẩ
m
,
d
ị
c
h
v
ụ
m
a
n
g
l
ạ
i
s
ự
h
à
i
l
ò
n
g
Lợi nhuận
Việc làm,
các công
trình hạ tầng
Sự tín
nhiệm,
phiếu bầu
KHÁCHDU LỊCH
CHÍNH QUYỀN
CƯ DÂNĐỊA
PHƯƠNG

bạc và thời gian đã tiêu xong, họ có điều gì trong tay? Không có gì hết, cái họ hưởng là
khoản thời gian như mình muốn tại nơi mình muốn, điều trải qua chỉ tồn tại trong ký ức của
khách du lịch. Chính vì vậy, người ta thường nói bán sản phẩm du lịch là bán giấc mơ cho
du khách.
Như vậy:
“Sản phẩm du lịch là sự kết hợp những dịch vụ và phương tiện vật chất trên cơ sở
khai thác các tài nguyên du lịch nhằm cung cấp cho du khách một khoản thời gian
thú vị, một trải nghiệm du lịch trọn vẹn và sự hài lòng”
Một cách ngắn gọn hơn, khoản 10, điều 4 Luật Du lịch nước CHXHCN xác định "Sản
phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thoả mãn nhu cầu của khách du lịch trong
chuyến đi du lịch".
Sản phẩm du lịch được định nghĩa như là tập hợp các dịch vụ thỏa mãn tất cả các nhu
cầu của khách du lịch trong suốt chuyến đi gọi là sản phẩm du lịch hoàn chỉnh.
Sản phẩm du lịch hoàn chỉnh được tập hợp bởi các dịch vụ riêng lẻ bao gồm dịch vụ
tham quan giải trí, dịch vụ vận chuyển, dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống, dịch vụ mua sắm,..
Mỗi dịch vụ riêng lẻ này gọi là sản phẩm du lịch riêng lẻ, nó thỏa mãn một nhu cầu riêng lẻ
nào đó trong chuyến đi của khách du lịch.
Tuy bản thân dịch vụ cũng là một loại sản phẩm
1
, nhưng để đơn giản, chúng ta thống
nhất thuật ngữ vốn đã sử dụng phổ biến (như định nghĩa trong khoản 10 và 11 Điều 4 Luật
Du lịch nước CHXHCNVN 2005). Khi nói sản phẩm du lịch là chúng ta nói về sản phẩm du
lịch hoàn chỉnh, còn khi muốn nói về các sản phẩm du lịch riêng lẻ chúng ta sử dụng thuật
ngữ dịch vụ du lịch.
1.2.1.2. Cấu trúc của sản phẩm du lịch
Như đã trình bày, sản phẩm du lịch bao gồm những hàng hóa và dịch vụ kết hợp nhau.
Nói chung, chúng được tạo nên bởi những dịch vụ tham quan - giải trí, dịch vụ vận chuyển,
dịch vụ lưu trú - ăn uống và dịch vụ mua sắm. Các dịch vụ này được sắp xếp thành một
chương trình du lịch và thương mại hóa bởi dịch vụ lữ hành. Tất cả đều được hình thành
trên nền tảng của tài nguyên du lịch tại điểm đến.
Chúng ta có thể mô hình hóa qua hình 1.3 sau:
1
“Sản phẩm là bất kỳ thứ gì có thể đưa ra thị trường để thu hút sự chú ý, mua sắm và sử dụng nhằm thỏa
mãn một nhu cầu, mong muốn nào đó. … Sản phẩm cũng có thể bao gồm các vật thể, dịch vụ, sự kiện, con
người, tổ chức,..” Philip Kotler, 2012, p.224
9

Hình 1.3: Cấu trúc sản phẩm du lịch
Nguồn: Robert W. McIntosh, Charles R. Goeldner, Tourism – Principles,
Practices, Philosophies, Nxb John Wiley & Sons, 2001
Mô hình này giới thiệu các dịch vụ du lịch tạo nên sản phẩm du lịch. Trong đó, các
dịch vụ tham quan, giải trí tạo nên sức thu hút của địa phương nơi đến, dịch vụ vận chuyển
và lưu trú & ăn uống chủ yếu tạo điều kiện cho khách du lịch tiếp cận và lưu lại điểm đến.
Nền tảng của tất cả dịch vụ này là tài nguyên du lịch của điểm đến. Các dịch vụ trung gian
thực hiện việc đóng gói và thương mại hóa sản phẩm du lịch.
1. Dịch vụ tham quan, giải trí
Khách du lịch muốn đạt được sự thú vị cao nhất trong suốt các chuyến du lịch của
mình. Để thỏa mãn họ có thể chọn nhiều khả năng khác nhau: đi tham quan, vãn cảnh; tìm
hiểu và tham quan các di sản văn hóa, di tích lịch sử, viện bảo tàng; chơi hoặc xem thể thao;
tham dự festival; chơi cờ bạc…Hầu hết các hoạt động này được tổ chức trên cơ sở khai thác
các giá trị có sẵn của điểm du lịch như điều kiện khí hậu, địa hình, các công trình văn hóa,
… Các giá trị có sẵn này gọi là tài nguyên du lịch.
Dịch vụ tham quan, giải trí là những hoạt động được tổ chức nhằm đáp ứng nhu cầu
về tìm hiểu, thưởng thức những giá trị của tài nguyên du lịch (các điều kiện về thắng
cảnh, di sản văn hóa,…) hoặc làm cho đầu óc được thảnh thơi thông qua việc tham
gia các hoạt động vui chơi.
Với hầu hết khách du lịch, chính nhu cầu tham quan, giải trí là lý do khiến người ta ra
khỏi nhà để đi du lịch. Với những khách du lịch tham gia hội nghị, hội thảo, đi công tác, …,
tuy mục đích chuyến đi là công tác nhưng tranh thủ thực hiện cuộc tham quan, giải trí tại
điểm đến cũng là nhu cầu rất phổ biến. Vì vậy, dịch vụ tham quan, giải trí là bộ phận thỏa
10
Dịch vụ Dịch vụ
vận lưu trú &
chuyểnăn uống
Dịch vụ Dịch vụ
mua sắmtham quan,
giải trí
TÀI NGUYÊN
DU LỊCH

mãn nhu cầu đặc trưng của khách du lịch, là một bộ phận không thể thiếu được, nó tạo nên
sức thu hút khách du lịch của điểm đến.
Sự hấp dẫn, độc đáo của tài nguyên du lịch là điều kiện đầu tiên tạo nên sự hấp dẫn,
độc đáo của dịch vụ tham quan, giải trí.
2. Dịch vụ lưu trú & ăn uống
Rời khỏi nhà để tham quan, giải trí,… nhưng cùng ra đi với khách du lịch là những
nhu cầu thiết yếu về nghỉ ngơi, ăn uống. Vì vậy, họ cần có dịch vụ đảm bảo nơi ăn chốn ở
cho mình tại nơi đến trong quá trình thực hiện chuyến đi.
Dịch vụ lưu trú & ăn uống là những hoạt động nhằm đáp ứng cho khách hàng những
nhu cầu nghỉ ngơi, ăn uống trong quá trình rời khỏi nhà đi du lịch.
Dịch vụ lưu trú, ăn uống khá đa dạng. Về lưu trú, khách du lịch có thể chọn một trong
những khả năng: khách sạn, nhà trọ, nhà nghỉ, nhà người quen, …Ngoài ra dịch vụ lưu trú
còn bao gồm cả việc cho thuê đất để cắm trại và các hình thức quan trọng khác. Để thỏa
mãn nhu cầu ăn uống, khách du lịch có thể tự mình chuẩn bị bữa ăn hay được mời hoặc đến
nhà hàng, quán cơm,.. để ăn.
Tuy sức thu hút của điểm đến chủ yếu là từ dịch vụ tham quan, giải trí nhưng thông
thường chính dịch vụ lưu trú mới mang lại phần thu nhập chủ yếu cho địa phương nơi đến.
Ngoài ra, nếu dịch vụ lưu trú của điểm đến kém phát triển, quan hệ chất lượng - giá cả
không thỏa đáng, du khách không thể lưu lại lâu và vì vậy không thể viếng được nhiều điểm
tham quan, giải trí.
Một cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú hay ăn uống sẽ có lợi thế cạnh tranh, thường là
lợi thế cạnh tranh cốt lõi, khi nó có vị trí gần với tài nguyên du lịch. Quy mô, chất lượng,
phong cách của cơ sở kinh doanh lưu trú và ăn uống gắn liền với chất lượng và sức hấp dẫn
đặc trưng của tài nguyên du lịch.
3. Dịch vụ vận chuyển
Du lịch gắn liền với sự đi lại. Dịch vụ vận chuyển nhằm tạo điều kiện cho khách tiếp
cận tài nguyên du lịch theo cách mà họ thích, nhưng nói chung yêu cầu là nhanh chóng, tiết
kiệm và tiện nghi. Nó bao gồm việc đưa du khách từ nơi cư trú đến điểm đến và đi lại trong
phạm vi điểm đến. Để thực hiện việc đi lại, khách du lịch có thể sứ dụng các loại phương
tiện vận chuyển khác nhau của đường không, đường thủy, đường sắt và đường bộ.
Nếu dịch vụ lưu trú là thu nhập chủ yếu của điểm đến thì dịch vụ vận chuyển thường
là phần chi tiêu có tỷ trọng lớn của khách du lịch, nhất là trong trường hợp khách du lịch
quốc tế.
4. Dịch vụ mua sắm
Mua sắm cũng là hình thức giải trí, đồng thời đối với nhiều khách du lịch thì việc mua
quà lưu niệm cho chuyến đi là không thể thiếu được. Dịch vụ này bao gồm các hình thức
bán lẻ hàng lưu niệm, hàng thủ công mỹ nghệ, tạp hóa, vải vóc… Những doanh nghiệp kinh
11

doanh dịch vụ này thường được bố trí ở vị trí gần tài nguyên du lịch và các cơ sở lưu trú,
kinh doanh những mặt hàng gắn liền với hình ảnh của tài nguyên và điểm đến du lịch.
5. Các dịch vụ trung gian trong du lịch
Trên đây là bốn dịch vụ du lịch cơ bản hợp thành sản phẩm du lịch. Việc sắp xếp, phối
hợp và mua các dịch vụ hợp thành để tạo một sản phẩm du lịch hoàn chỉnh là quá trình phức
tạp.
Có thể việc rập hợp và sắp xếp các dịch vụ du lịch là do bản thân khách du lịch tự lo
lấy. Với khách tự tổ chức chuyến đi, họ tự nghiên cứu nơi đến, tự đăng ký phương tiện vận
chuyển, nơi ăn, chốn ở…Sở dĩ khách muốn tự tổ chức vì họ là những người có cảm giác sâu
sắc muốn được độc lập và ghét bị lệ thuộc vào một nhóm. Khá nhiều khách du lịch cảm
thấy thú vị khi tự tìm hiểu và tự tổ chức chuyến đi. Trong trường hợp này, trước kia là các
sách hướng dẫn du lịch, ngày nay là việc tìm hiểu qua mạng internet, đặc biệt là những lời
bình luận của khách đã đến, là cơ sở tốt nhất giúp họ lựa chọn các điểm tham quan mua sắm
và các cơ sở lưu trú, ăn uống, đi lại. Một phượng diện khác, về lý do kinh tế, khách du lịch
thường nghĩ rằng chính một chuyến du lịch tự tổ chức sẽ cho phép họ khám phá nhiều điều
hơn với chi phí ít hơn.
Thực hiện theo cách này là những khách du lịch có khát khao khám phá cao, chấp
nhận rủi ro hay tự tin vào khả năng thu xếp của mình. Họ thường là khách du lịch thanh
niên, sinh viên hoặc những người có nhiều kinh nghiệm du lịch.
Tuy nhiên, đối với nhiều khách du lịch khác, việc sắp xếp và tự mua các sản phẩm du
lịch riêng lẻ sẽ chứa đựng nhiều rủi ro. Họ e ngại liệu có thể mua được vé vận chuyển đi và
về đúng thời gian? Phải chăng có thể xem đúng các điểm tham quan, giải trí cần xem, điểm
nào nên xem trước, điểm nào nên xem sau? Tại nơi đến, nên ngủ ở đâu, ăn ở đâu là hợp lý
và liệu có thể giữ được chỗ trong khách sạn hay nhà hàng?...
Phục vụ cho việc giải tỏa những e ngại là dịch vụ lữ hành. Có các doanh nghiệp tồn tại
như là những chuyên gia, thực hiện sự sắp xếp, phối hợp các dịch vụ riêng lẻ thành một
chương trình du lịch hoàn chỉnh. Hoạt động này có thể được tiến hành do công ty du lịch
thực hiện dưới hình thức bán một chương trình du lịch trọn gói (bảo đảm tất cả những dịch
vụ và hàng hóa cần thiết trong suốt thời gian của chuyến đi) hoặc các chuyến du lịch khô
(sec tour- vé khứ hồi và vài đêm ở khách sạn). Các công ty du lịch này không sản xuất các
dịch vụ du lịch mà chỉ thu gom, sắp xếp các dịch vụ thành một chương trình du lịch và
thương mại hóa chúng. Trong thực tế, khách du lịch cũng ý thức rằng chương trình du lịch
trọn gói thường rẻ hơn rất nhiều so với tự tổ chức.
Dịch vụ trung gian là dịch vụ phối hợp các bộ phận hợp thành sản phẩm du lịch để
hình thành các một phần hay toàn bộ các sản phẩm du lịch hoàn chỉnh và thương
mại hóa chúng.
Trong quá trình này có 2 hoạt động chính có thể hợp nhất trong hoạt động của một
doanh nghiệp lữ hành, hay được chuyên môn hóa hình thành hai loại doanh nghiệp:
12

- Tour operator (T.O.): thu gom, sắp xếp các dịch vụ riêng lẻ thành một chương trình du
lịch, quảng bá và bán sĩ chúng cho hệ thống các đại lý du lịch.
- Đại lý du lịch (Travel agency): Mua lại các chương trình du lịch của Tour operator bán
lại cho khách du lịch. Họ cũng thường đảm nhận việc cung cấp thông tin du lịch và nhận
một số việc như làm thủ tục VISA, đăng ký giữ chỗ khách sạn, bán vé máy bay,… cho
khách.
* Vai trò của tài nguyên du lịch trong sản phẩm du lịch
Robert W. McIntosh, khi mô hình hóa sản phẩm du lịch (hình 1.3), ông đã đưa tài
nguyên du lịch như là một phần của sản phẩm du lịch, thậm chí là phần nền tảng của sản
phẩm du lịch. Như đã phân tích trên, toàn bộ các dịch vụ tạo nên sản phẩm du lịch đều
dựa vào nguồn tài nguyên du lịch tại điểm đến.
Dựa vào bản chất và vị trí của tài nguyên du lịch, các dịch vụ tham quan, giải trí
được hình thành với nội dung và vị trí gắn liền với tài nguyên du lịch. Các dịch vụ này tạo
nên sức hút khách của nơi đến.
Để khai thác tài nguyên du lịch, vấn đề đầu tiên là bảo đảm sự tiếp cận của khách du
lịch. Điều này đòi hỏi phải xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng và hệ thống các phương tiện
vận chuyển phù hợp.
Hệ thống các dịch vụ tham quan, giải trí và điều kiện tiếp cận quy định quy mô và
đặc điểm nguồn khách. Đến lượt nó, quy mô và đặc điểm nguồn khách du lịch quyết định
số lượng, loại hình, phong cách, cấp hạng của hệ thống cơ sở lưu trú trong khi sự phân bố
tài nguyên quyết định vị trí của các cơ sở lưu trú tại điểm đến.
Cùng với hệ thống cơ sở tham quan, giải trí, hệ thống cơ sở lưu trú xác định sự phân
bố, quy mô và đặc điểm của hệ thống nhà hàng, cửa hàng bán hàng lưu niệm. Trong thực
tế, ta thấy thứ tự hình thành như sau: Đầu tiên từ tài nguyên du lịch hình thành nên các
dịch vụ tham quan, giải trí. Khi dịch vụ tham quan giải trí đủ hấp dẫn để lượng khách tăng
lên, dịch vụ vận chuyển phát triển đồng thời sẽ xuất hiện dịch vụ ăn uống và lưu trú gần
các nơi cung cấp dịch vụ tham quan giải trí. Cuối cùng là sự xuất hiện các dịch vụ mua
sắm.
Chẳng hạn, ở Đà Nẵng, tài nguyên biển hình thành các điểm tắm biển và giải trí biển
hấp dẫn. Lúc đầu chưa có các cơ sở lưu trú ở đây, sau đó Furama resort hình thành.
Nhưng mãi đến khi đường ven biển Hoàng Các, Trường Sa hình thành mới kéo theo việc
xuất hiện một loạt các resort và khách sạn ven biển Đà Nẵng. Điều này dẫn đến sự ra đời
các nhà hàng hải sản và các cửa hàng bán quà tặng là hải sản dọc bờ biển. Cũng tương tự
như vậy là sự ra đời của bến thuyền, các khách sạn Hương Giang, Century rồi các nhà
hàng, cửa hàng lưu niệm bên bờ sông Hương, Huế.
Chính vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng du lịch là một ngành định hướng tài
nguyên hay một cách đơn giản, chúng ta có thể nói:
Sản phẩm du lịch = Tài nguyên du lịch + Các dịch vụ, hàng hóa du lịch
13

Trực quan hơn, chúng ta có thể xem lại mô tả sản phẩm du lịch thông qua hình 1.3
(McIntosh, 1990, p. 16) ở trên.
1.2.2. LOẠI HÌNH DU LỊCH
1.2.2.1. Khái niệm về loại hình du lịch
Trong các công trình nghiên cứu về du lịch, thuật ngữ "loại hình du lịch (type of
tourism)" được sử dụng khá nhiều. Các tác giả sử dụng thuật ngữ này khi muốn chỉ ra những
đặc điểm khác nhau ở một số các dịch vụ du lịch trên các đối tượng khách khác nhau hay
trong những điều kiện mua bán khác nhau. Và lúc đó, các tác giả tiến hành phân loại, đưa ra
các loại hình du lịch.
Tiến sĩ Yves Tinard, trong tác phẩm "Le Tourisme - Economie et Management", trước
khi đi vào giới thiệu những quan hệ kinh tế - kỹ thuật trong du lịch, ngay từ chương đầu
tiên: "Giới thiệu - Các khái niệm và những vấn đề", ông yêu cầu cần phải có những phân
biệt mang tính tiên quyết (Les distinctions préalables
). Đó là sự phân biệt giữa Du lịch cổ
điển và Du lịch xã hội (du lịch xã hội là loại hình du lịch đưa ra những dịch vụ với giá rẻ
nhờ vào sự miễn thuế, không vì lợi nhuận, cho phép những người khó khăn nhất có thể
đi nghỉ hè), giữa Du lịch thương mại và Du lịch hiệp hội (do các hiệp hội tổ chức phục vụ
cho các thành viên của mình, không có khách hàng), giữa Du lịch giải trí và Du lịch công
vụ, giữa Du lịch đi lẻ và Du lịch theo đoàn. Tác giả cũng đề ra sự lưu ý về sự phân biệt
các loại hình du lịch theo điểm đến: du lịch trắng (du lịch thể thao mùa đông), du lịch
xanh (tham quan vùng quê), du lịch biển, du lịch sông nước, du lịch suối khoáng, du lịch
tham quan thành phố v.v... (Tinard, 1992, pp. 6-23)
Robert W. McIntosh và Charles R. Goeldner, với mong muốn phân loại các điểm đến, đã
khai thác ý tưởng của Valene L.Smith về xác định các loại hình du lịch. Ông phân loại các
điểm du lịch dựa vào những loại trải nghiệm du lịch mà các điểm đến khác nhau cung cấp:
du lịch dân tộc học (Ethnic tourism), du lịch văn hóa, du lịch lịch sử, du lịch sinh thái,
du lịch giải trí và du lịch công vụ. Với mỗi loại hình, ông xác định đó như là một chuyến
đi hay một kiểu thực hiện chuyến đi theo một mục đích nào đó (McIntosh, 1990, pp.
139-142).
Robert Lanquar, trong "L'Économie de Tourisme", trên một phương diện khác, khi xem
xét sự ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế, nhân khẩu, xã hội, thời gian rãnh đến nhu cầu
du lịch đã phân biệt nhu cầu du lịch thành các loại: nhu cầu du lịch văn hóa, nhu cầu du
lịch thể thao, nhu cầu du lịch nghỉ ngơi... nhu cầu du lịch bằng đường hàng không, nhu
cầu du lịch bằng đường thủy... nhu cầu du lịch theo đoàn (ở đây lại chia ra loại hình du
lịch với hình thức lưu trú ở làng du lịch, tàu biển,..), nhu cầu du lịch đi lẻ ( với loại hình
lưu trú ở khách sạn, camping, caravan,...) (Lanquar, 1983, pp. 28,29)
14

Jhon Swarbrooke và Susan Horner trong phần phân tích nhu cầu của khách du lịch trong
tác phẩm "Consumer behaviour in Tourism", dựa vào những động cơ du lịch khác nhau
đã cho rằng:
Việc phân chia du lịch thành những loại hình và các tiểu loại hình luôn mang tính
chủ quan. Nhưng các tác giả tin rằng cách họ (các tác giả - Trương Sỹ Quý) chọn
cho phép tạo ra nhiều điều thú vị về sự tăng trưởng của du lịch và sự phát triển hành
vi tiêu dùng của du khách.
Do vậy, ở phần này, các loại hình du lịch được trình bày là: Thăm bạn bè và người thân,
du lịch công vụ, du lịch tôn giáo, du lịch chữa bệnh, du lịch xã hội, du lịch giáo dục, du
lịch văn hóa, du lịch tham quan thắng cảnh thiên nhiên, du lịch khoái lạc, du lịch hoạt
động, du lịch theo các mối quan tâm đặc biệt. (Swarbrooke J., 1999, p. 29)
Dù vậy, trong các tác phẩm nói trên, cả trong tự điển "Dictionary of Travel, Tourism
and Hospitality" của S. Medlik, chúng ta cũng không thấy bất kỳ tác giả nào đưa ra một định
nghĩa về loại hình du lịch. Tuy nhiên, từ các nghiên cứu trên, ta thấy, khi nói đến loại hình du
lịch, các tác giả muốn nói đến các chuyến đi được phân theo sự khác nhau về động cơ du lịch,
về loại điểm đến hay theo cách thức tổ chức chuyến đi,… hoặc muốn nói đến khả năng đáp ứng
của một doanh nghiệp, một vùng, một quốc gia trong việc cung ứng một hoặc một số loại sản
phẩm đáp ứng một loại nhu cầu, mong muốn hoặc khả năng thanh toán nào đó của du khách.
Như vậy, chúng ta có thể thấy một sự tương hợp giữa "loại hình du lịch" (type of tourism)
trong phát triển du lịch của một doanh nghiệp, một điểm đến và "dòng sản phẩm" (product
line) trong chính sách chủng loại sản phẩm của doanh nghiệp trong marketing. Dựa vào
khái niệm này, chúng ta sẽ xây dựng khái niệm kia:
"Dòng sản phẩm là một nhóm những sản phẩm có liên hệ chặt chẽ nhau do chúng có
cùng chức năng, được bán cho cùng nhóm khách hàng, và tiếp thị qua cùng dạng cửa hiệu,
hoặc ở vào cùng một khoảng giá" (Philip Kotler, 2012, p. 234).
Và chúng ta định nghĩa:
Loại hình du lịch được hiểu là một tập hợp các sản phẩm du lịch có những đặc điểm
giống nhau, hoặc vì chúng thỏa mãn những nhu cầu, động cơ du lịch tương tự, hoặc được
bán cho cùng một giới khách hàng, hoặc vì chúng có cùng một cách phân phối, một cách tổ
chức như nhau hoặc xếp chung một mức giá bán nào đó.
Khái niệm này không mâu thuẫn với các cách phân loại loại hình du lịch đã có của các
nhà nghiên cứu lý thuyết hay chỉ đạo thực tiễn đã nêu ở trên.
Đồng thời, chúng ta cũng thấy rằng, với khái niệm này, chúng ta có thể vận dụng các kết
quả nghiên cứu đã có về tổ chức và quản lý các dòng sản phẩm cho một doanh nghiệp trong
15

lý thuyết marketing để xây dựng nội dung chính sách sản phẩm cũng như hoạch định tiến
trình hình thành các loại hình du lịch cho một doanh nghiệp, một địa phương.
1.2.2.2. Phân loại các loại hình du lịch
Với cách hiểu về loại hình du lịch như trên, tập hợp các cách phân loại đã có, lưu ý
đến các loại hình du lịch mà Việt Nam có điều kiện phát triển, chúng ta có thể sử dụng 8
tiêu thức phân loại để đưa ra các loại hình du lịch sau:
1. Phân theo động cơ chuyến đi,
Ta có các loại hình:
+ Du lịch văn hóa: là tập các sản phẩm du lịch tạo nên các chuyến đi nhằm mục
đích tham quan, nghiên cứu... để thỏa mãn nhu cầu của du khách trong nâng cao hiểu biết
về văn hóa của các cộng đồng nơi đến.
+ Du lịch sinh thái: là tập các sản phẩm du lịch tạo nên các chuyến đi tìm hiểu
môi trường thiên nhiên hay văn hóa bản địa trên tinh thần bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và
bản sắc văn hóa, trong khuôn khổ ít tác động đến mức chịu đựng của hệ sinh thái.
+ Du lịch thể thao: là tập các sản phẩm tạo nên các chuyến đi thỏa mãn sở thích
của khách về một hoặc một số môn thể thao nào đó với tư cách tham gia hay dự khán.
+ Du lịch giải trí: là tập các sản phẩm tạo nên các chuyến đi chủ yếu chỉ nhằm
thỏa mãn nhu cầu thư giãn, nghỉ ngơi của du khách.
+ Du lịch hoài niệm: là tập các dịch vụ tạo nên chuyến đi tìm lại nơi đã từng ghi
dấu những kỷ niệm của bản thân du khách hay người thân của họ.
+ Du lịch tôn giáo: là tập các dịch vụ tạo nên các chuyến đi thỏa mãn nhu cầu tâm
linh thông qua việc tham quan, hành lễ tại nơi có thánh tích, các sự kiện tôn giáo đặc biệt.
+ Du lịch công vụ: là tập các dịch vụ tạo nên các chuyến đi tham gia hội nghị,
hội thảo, hội chợ hay thực hiện nhiệm vụ nghề nghiệp nào đó.
+ Du lịch thăm thân: những tập các dịch vụ tạo nên các chuyến đi thăm người
thân, bạn bè.
Cũng như các sự phân loại khác, sự phân loại này cũng chỉ có tính tương đối, đồng thời
một du khách có thể thực hiện một chuyến đi với nhiều mục đích khác nhau.
2. Phân theo phạm vi lãnh thổ của chuyến đi,
Ta có:
+ Du lịch quốc tế: là những chuyến du lịch mà điểm đi và điểm đến thuộc hai
quốc gia khác nhau.
+ Du lịch nội địa: là những chuyến du lịch mà điểm đi và điểm đến trong cùng
một quốc gia.
16

3. Phân theo nơi tham quan du lịch,
+ Du lịch nghỉ biển: là tập hợp các sản phẩm du lịch hình thành trên cơ sở khai thác
tài nguyên biển
+ Du lịch nghỉ núi: là tập hợp các sản phẩm du lịch hình thành trên cơ sở khai
thác tài nguyên núi, rừng
+ Du lịch nông thôn: là những chuyến đi tìm hiểu cuộc sống nông thôn và
hưởng không khí trong lành ở đó.
+ Du lịch tham quan thành phố: là những chuyến đi tìm hiểu cuộc sống thành
thị cùng những thành quả phát triển kinh tế, kỹ thuật ở đó.
4. Phân theo thời gian của chuyến đi,
+ Du lịch dài ngày: là những chuyến du lịch kéo dài trên hai, ba ngày.
+ Du lịch cuối tuần: là những chuyến đi diễn ra vào những ngày nghỉ cuối tuần.
+ Tham quan du lịch trong ngày: là những chuyến tham quan trong ngày.
5. Phân theo loại hình lưu trú sử dụng,
+ Du lịch camping: là những chuyến du lịch mà loại hình lưu trú chính là
camping.
+ Du lịch nghỉ ở làng du lịch: là những chuyến du lịch mà loại hình lưu trú
chính là các làng du lịch.
+ du lịch nghỉ ở khách sạn: là những chuyến du lịch mà loại hình lưu trú chính
là khách sạn
6. Phân theo loại hình vận chuyển sử dụng,
+ Du lịch bằng đường hàng không
+ Du lịch đường biển
+ Du lịch đường bộ
7. Phân theo khả năng chi trả của khách,
Tùy theo mức độ tiện nghi của các sản phẩm du lịch sử dụng và theo đó là giá cả của
chúng, ta có:
+ Du lịch hạng sang
+ Du lịch quần chúng
8. Phân theo hình thức tổ chức chuyến đi,
+ Du lịch theo chương trình trọn gói
+ Du lịch tự tổ chức
Như đã trình bày, việc lựa chọn tiêu thức phân loại các loại hình du lịch có tính chủ
quan. Hơn nữa, ranh giới giữa các loại hình du lịch cũng có tính tương đối. Cách phân loại
17

như trên chỉ xét đến những loại hình du lịch hay được bàn đến và là những loại hình có khả
năng phát triển ở nước ta.
1.3. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA SẢN PHẨM DU LỊCH VÀ CÔNG NGHIỆP DU
LỊCH
Mặc dù sản phẩm du lịch là tổng thể những hàng hóa và dịch vụ được hình thành từ tài
nguyên du lịch, cơ sở hạ tầng cũng như các nguồn lực vật chất khác, nhưng “cái mà khách
du lịch mua là những trải nghiệm được tạo ra từ cơ sở hạ tầng và các yếu tố nguồn lực chứ
không phải bản thân chúng" (Chris Cooper, 2008, p. 5). Với tính chất phi vật thể là chủ yếu,
sản phẩm du lịch có đầy đủ các đặc điểm của dịch vụ. Ngoài ra, sản phẩm du lịch có những
đặc điểm riêng xuất phát từ đặc thù của tiêu dùng và cung ứng du lịch.
1.3.1. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM TỪ TÍNH CHẤT DỊCH VỤ CỦA SẢN PHẨM DU LỊCH
Là một dịch vụ, sản phẩm du lịch trước hết là phi vật thể. Chính đặc điểm bao quát
này tạo ra những đặc điểm còn lại. Trong những đặc điểm còn lại, đặc điểm dịch vụ của sản
phẩm du lịch thể hiện rõ nhất ở chỗ sản phẩm du lịch, cũng như dịch vụ nói chung, không
thể được sản xuất mà không có sự thỏa thuận và hợp tác của người tiêu dùng. Chúng là
những sản phẩm dựa trên sự trải nghiệm (an experience-based product) và chúng ta phải
xem xét nó trong sự không thể tách rời giữa quá trình sản xuất và quá trình tiêu dùng.
Cụ thể, là một loại dịch vụ, sản phẩm du lịch có những đặc điểm sau:
1. Sản phẩm du lịch có tính phi vật thể
Trải nghiệm du lịch mà khách du lịch nhận được là phi vật thể. Trong cấu trúc sản
phẩm du lịch, các dịch vụ tham quan, giải trí, vận chuyển cho đến lưu trú, ăn uống về cơ
bản là chuỗi các hành động, chúng có tính không thể sờ mó được (intagible).
Tính phi vật thể khiến cho việc cung ứng và tiêu dùng dịch vụ có những đặc điểm:
Chất lượng dịch vụ khó đồng nhất
Máy móc vận hành trên những nguyên liệu là vật thể chết thường rất ổn định về tốc độ
và chất lượng sản phẩm dẫn đến chất lượng sản phẩm vật chất khá đồng nhất. Nhưng
trong dịch vụ được tạo ra chủ yếu qua sự tương tác trực tiếp giữa hai con người là nhân
viên và khách hàng, do đó chất lượng dịch vụ phụ thuộc nhiều vào yếu tố con người,
bao gồm cả kỹ năng và thái độ phục vụ của nhân viên lẫn kinh nghiệm sử dụng dịch vụ
và sự hợp tác của khách hàng. Khó có thể đòi hỏi thao tác của nhân viên luôn luôn có
độ chuẩn mực chính xác. Đã vậy, thái độ phục vụ của nhân viên bị chi phối bởi các yếu
tố bất định như tình trạng tâm lý, tình cảm, sức khỏe,… của họ và thái độ của khách
hàng. Đặc điểm này dẫn đến những khó khăn trong quản lý chất lượng dịch vụ. Để quản
lý chất lượng tốt, giải pháp thường được sử dụng là xây dựng các chuẩn mực chất lượng
cụ thể cho từng hoạt động phục vụ trên cơ sở xây dựng quy trình phục vụ hết sức chi
tiết.
18

Khách hàng khó có thể đánh giá chất lượng dịch vụ một cách có tính phân tích
Thường khách hàng chỉ có một cảm nhận chung về chất lượng mà ít có tính phân tích.
Khi được hỏi về chất lượng của một sản phẩm vật chất, một chiếc xe gắn máy chẳng
hạn, khách hàng dễ dàng chỉ ra những mặt được và chưa được của sản phẩm. Tuy
nhiên, khi đánh giá chất lượng dịch vụ, chẳng hạn đánh giá chất lượng dịch vụ của nhà
hàng, khách hàng chỉ có thể đánh giá rằng nhà hàng A là sang, nhà hàng B không sang
bằng nhưng họ thường sẽ lúng túng khi được hỏi nhà hàng A sang ở những chỗ nào. Vì
cảm nhận chất lượng dịch vụ là cảm giác chung nên trong chuỗi hành động tạo nên dịch
vụ, chỉ cần một vài hành động không đạt yêu cầu, khách hàng sẽ đánh giá kém về chất
lượng của toàn bộ dịch vụ. Xác định các điểm nhạy cảm, quản lý chặt chất lượng ở
những điểm này là cần thiết.
Do tính phi vật thể, chúng ta khó bảo vệ bản quyền.
Một chương trình du lịch mới, hay quy trình phục vụ độc đáo dễ bị sao chép vì chúng ta
không thể gắn thương hiệu lên những sản phẩm này. Từ đó, người tiêu dùng tin tưởng
vào thương hiệu của Công ty hơn là thương hiệu của sản phẩm. Tên của một chương
trình du lịch cụ thể ít ý nghĩa hơn tên công ty cung cấp chương trình đó. Xây dựng
thương hiệu chung của Công ty, thường xuyên đổi mới sản phẩm là yêu cầu của kinh
doanh du lịch. Ngoài ra, vì đặc điểm này, chúng ta cần chú trọng các bằng chứng vật
chất và vật thể hóa các thông tin quảng bá;…
2. Quá trình sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra cùng lúc, cùng
nơi
Do tính phi vật thể, dịch vụ khó có thể thể vận chuyển, đặc biệt là sản phẩm du lịch,
các sản phẩm du lịch gắn liền với tài nguyên du lịch, khách du lịch phải đến nơi cung ứng
để thụ hưởng. Mặt khác, chỉ với sự có mặt và có yêu cầu tiêu dùng dịch vụ của khách thì
quá trình cung ứng dịch vụ mới được khởi động. Điều này làm cho việc sản xuất và tiêu
dùng dịch vụ diễn ra cùng lúc, cùng nơi và dẫn đến:
Sản phẩm dịch vụ không thể lưu kho được
Dịch vụ không thể lưu kho, một dịch vụ không được tiêu thụ là sản phẩm bị mất hoàn
toàn. Điều này đặc biệt quan trọng đối với những ngành mà tỷ trọng chi phí cố định lớn
như ngành vận chuyển hàng không, khách sạn, nhà hàng, giải trí, …Từ đó, khai thác tối
đa công suất thiết kế là yêu cầu sống còn của các doanh nghiệp du lịch này;
Đăng ký giữ chỗ là hoạt động dặc thù, hết sức có ý nghĩa trong kinh doanh dịch vụ
Trong sản xuất vật chất, lưu kho là hoạt động nhằm bảo đảm cân đối giữa cung và cầu
ngắn hạn. Trong kinh doanh dịch vụ, do không thể lưu kho sản phẩm, doanh nghiệp
buộc phải tổ chức hoạt động đăng ký giữ chỗ để điều phối lượng cầu trong ngắn hạn.
Đăng ký giữ chỗ là cực kỳ quan trọng. Nó được coi là sự dự trữ lượng cầu, bảo đảm sự
điều chuyển cầu tương thích với lượng cung cố định, cho phép các doanh nghiệp cung
19

ứng dịch vụ nói chung, doanh nghiệp du lịch nói riêng lên kế hoạch sản xuất dịch vụ và
linh hoạt giá một cách chủ động;
Sản phẩm dịch vụ không thể chỉ kiểm tra chất lượng sau khi sản xuất
Đối với sản phẩm vật chất, chúng ta có thể kiểm tra chất lượng sản phẩm sau khi sản
xuất, trước khi bán cho khách hàng tiêu dùng. Trong dịch vụ, quá trình sản xuất và tiêu
dùng diễn ra đồng thời. Một hoạt động dịch vụ kém chất lượng là nó diễn ra với khách
hàng và trước mắt khách hàng, không thể đưa lại vào dây chuyền để sửa chữa. Mặt khác,
chúng ta không thể đánh giá chất lượng sản phẩm trước khi nó được tiêu dùng. Quản lý
chất lượng toàn bộ quá trình là cần thiết trong kinh doanh du lịch.
3. Sự tham gia của khách hàng trong quá trình tạo ra và đánh
giá chất lượng dịch vụ
Do không vận chuyển được, khách hàng phải có mặt trong nơi sản xuất dịch vụ, không
những thế, họ còn tham gia vào quá trình tạo ra dịch vụ. Vì vậy, chất lượng dịch vụ còn phụ
thuộc vào kinh nghiệm, trình độ và sự hợp tác của khách hàng. Nhưng rủi thay, kinh
nghiệm, trình độ và sự hợp tác của khách hàng là những biến số mà doanh nghiệp không thể
kiểm soát được.
Sự tham gia của khách hàng khiến:
Việc quản lý sự tham gia của khách hàng và tổ chức luồng khách hàng là một nội dung
quan trọng trong quản trị cung ứng dịch vụ;
Nhân viên tiếp xúc trực tiếp với khách hàng có vai trò to lớn trong cảm nhận của khách
hàng về chất lượng dịch vụ;
1.2.2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM RIÊNG CÓ CỦA SẢN PHẨM DU LỊCH
Bên cạnh những đặc điểm xuất phát từ bản chất dịch vụ, sản phẩm du lịch có những
đặc điểm riêng có của nó: Sản phẩm du lịch thỏa mãn những nhu cầu cấp cao của con
người; Việc tiêu thụ sản phẩm du lịch xảy ra ở bên ngoài của môi trường quen thuộc của
người mua; Mặc dù du lịch là một ngành công nghiệp dịch vụ nhưng nó không hoàn toàn vô
hình, du lịch dựa trên một tập hợp các cơ sở hạ tầng vật chất và nguồn lực vật chất.
1. Sản phẩm du lịch thỏa mản những nhu cầu đặc biệt và thứ yếu
của con người
Sản phẩm du lịch thỏa mãn những nhu cầu đặc biệt như nhu cầu hiểu biết kho tàng văn
hóa lịch sử, nhu cầu thưởng thức cảnh đẹp thiên nhiên, nhu cầu phát triển bản thân,… Đó là
những nhu cầu riêng có của con người. Ngoài ra, sản phẩm du lịch là những trải nghiệm và
việc tiêu dùng nó đòi hỏi chi phí thời gian.
20
Bấm Tải xuống để xem toàn bộ.