Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa
Về mặt ngữ nghĩa, ngôn ngữ Hy lạp cổ dùng thuật ngữ “demokratia” đểdiễn đạt “dân chủ”, trong đó demos là nhân dân và kratia là quyền lực.Theo cách diễn đạt này, dân chủ trong tiếng Hy lạp cổ được hiểu làquyền lực của nhân dân hay quyền lực thuộc về nhân dân.Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem.
Môn: Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa học(KH1)
Trường: Đại Học Nội Vụ Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45476132 Bài 3
CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VÀ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA -*-
I. KHÁI NIỆM DÂN CHỦ VÀ BẢN CHẤT GIAI CẤP CỦA DÂN CHỦ 1. Khái niệm
Về mặt ngữ nghĩa, ngôn ngữ Hy lạp cổ dùng thuật ngữ “demokratia” để
diễn đạt “dân chủ”, trong đó demos là nhân dân và kratia là quyền lực.
Theo cách diễn đạt này, dân chủ trong tiếng Hy lạp cổ được hiểu là quyền
lực của nhân dân hay quyền lực thuộc về nhân dân.
V.I.Lênin quan niệm: dân chủ là sự thống trị của đa số.
Với nghĩa này có thể hiểu dân chủ được nhìn nhận như một quyền lực mát
tất cả quyền lực thuộc về đa số người dân chứ không phải của một nhóm người,
quyền lực này được nhân dân giao cho nhà nước của mình, là người đại diện cho
mình. Theo V.I.Lênin, dân chủ được nhìn nhận như là một hình thức tổ chức nhà
nước, một hình thái nhà nước, trong đó thừa nhận sự tham gia của đông đảo quần
chúng nhân dân vào công việc quản lý nhà nước để thực hiện sự thống trị đối
với thiểu số những kẻ vi phạm dân chủ của nhân dân. Mức độ, phạm vi tham gia
thật sự của quần chúng nhân dân vào công việc quản lý nhà nước phản ánh trình
độ phát triển của nền dân chủ, phản ánh những vấn đề cốt lõi nhất của dân chủ.
Với tư cách là một nhà nước, một chế độ chính trị thi trong lịch sử có ba
chế độ (nền) dân chủ. Đó là : nền dân chủ chủ nô, gắn với chế độ chiếm hữu nô
lệ; nền dân chủ tư sản, gắn với chế độ tư bản chủ nghĩa; nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, gắn với chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, muốn biết một nhà nước dân
chủ có thực sự dân chủ hay không phải xem trong nhà nước ấy dân là ai và bản
chất của chế độ xã hội ấy như thế nào.
Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, giai cấp chủ nô dùng pháp luật để lập ra
nhà nước thông qua bầu cử và họ gọi đó là nhà nước dân chủ (cuối thế kỷ VIII
đến thế kỷ VI trước công nguyên ở A ten và Hy lạp cổ). Giai cấp chủ nô quy
định trong luật : chỉ ai là dân mới được tham gia bầu ra nhà nước. “Dân” theo
quan niệm của chủ nô gồm giai cấp chủ nô, tăng lữ, thương gia, một số trí thức
và người tự do. Đa số còn lại không phải là “dân” mà là “nô lệ” nên không được
tham gia vào việc bầu ra nhà nước. lOMoAR cPSD| 45476132
Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, nhà nước dân chủ tư sản được thành lập
và đã đạt những thành tựu to lớn trong việc thực thi dân chủ. Tuy nhiên, trong
chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản vẫn duy trì chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất để bảo vệ lợi ích chủ yếu của giai cấp tư sản. Do vậy, xét về bản chất,
nhà nước tư sản vẫn không phải là nhà nước thực hiện quyền lực thực sự của nhân dân.
Cách mạng tháng Mười Nga (1917) thắng lợi bắt đầu một thời đại mới,
trong đó, nhân dân lao động trở thành người làm chủ xã hội và lập ra nhà nước
dân chủ xã hội chủ nghĩa để thực hiện quyền lực của dân – tức là xây dựng nhà
nước dân chủ thực sự.
Như vậy, thuật ngữ dân chủ chỉ xuất hiện khi trước đó đã tồn tại ba yếu
tố: nhân dân, quyền lực công cộng và mối quan hệ giữa chúng. Thực ra, các yếu
tố cấu thành nội dung của khái niệm dân chủ đã tồn tại suốt chiều dài lịch sử (trừ
chế độ nguyên thủy), nhưng bản chất của dân chủ không nằm trong các yếu tố
đó mà nằm trong mối quan hệ xác định giữa chúng: quan hệ sở hữu và chi phối
quyền lực công cộng từ phía nhân dân.
Ngoàii các nghĩa trên, dân chủ còn được hiểu là một nguyên tắc tổ chức,
phương thức sinh hoạt của một tổ chức chính trị - xã hội, một cộng đồng dân cư,
theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số.
2. Bản chất của nền dân chủ
Khi xã hội phân chia thành giai cấp và có nhà nước thì có dân chủ chung
chung, dân chủ phi giai cấp, siêu giai cấp, dân chủ thuần túy. Trái lại, dân chủ
mang bản chất giai cấp thống trị xã hội. dân chủ còn là một phạm trù chính trị
vì nó thể hiện bản chất của chế độ chính trị, của giai cấp thống trị mà ở đó nó
tồn tại, phản ánh bản chất và lợi ích của giai cấp thống trị.
Bàn về bản chất giai cấp của dân chủ, V.I.Lênin đã chỉ rõ mỗi chế độ và
nhà nước dân chủ đều do một giai cấp thống trị chi phối các lĩnh vực của đời
sống xã hội, do đó, tính giai cấp thống trị cũng chi phối dân tộc, và tính chất của
chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… ở mỗi dân tộc cụ thể. Do vậy,
V.I.Lênin đã nhắc nhở những người cộng sản rằng khi xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, không được quên trả lời câu hỏi có tính chất nguyên tắc: dân chủ
cho ai và vì cái gì; tự do đối với ai, vì ai và vì cái gì. 2 lOMoAR cPSD| 45476132
Dân chủ với tư cách là một chế độ xã hội hoàn chỉnh, là một phạm trù lịch
sử vì nó ra đời, tồn tại, phát triển trong một giai đoạn nhất định và sẽ mất đi khi
trong xã hội không còn giai cấp. Tính lịch sử của dân chủ còn thể hiện qua quá
trình hình thành, phát triển, vận động từ chỗ chưa có dân chủ đến có dân chủ,
đến tồn tại, phát triển và tiêu vong. Chủ nghĩa Mác-Lênin nêu rõ quá trình phát
triển của dân chủ là từ chuyên chế đến dân chủ tư sản, từ dân chủ tư sản đến dân
chủ vô sản và từ dân chủ vô sản đến không còn dân chủ chủ nữa.
Dân chủ mang những giá trị nhân văn, nhân đạo. Thành quả của dân chủ
đạt được trong xã hội trước hết tùy thuộc vào thành quả đấu tranh của nhân dân,
do đó, những giá trị dân chủ đạt được trong các cuộc đấu tranh đều mang tính nhân dân.
II. DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA – BẢN CHẤT VÀ SỰ KHÁC BIỆT VỚI DÂN CHỦ TƯ SẢN
1. Bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dân chủ xã hội chủ nghĩa được xác lập sau khi giai cấp công nhân thông
qua đội tiền phong của mình là Đảng Cộng sản giành được chính quyền, tiến
hành cải tạo và xây dựcaircnn xã hội thông qua cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. -
Là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân thông qua đảng của
nóđối với toàn xã hội, nhưng có sự thống nhất giữa tính giai cấp công nhân với
tính dân tộc và tính nhân dân, do lợi ích của giai cấp công nhân phù hợp với lợi
ích của dân tộc và của đại đa số nhân dân lao động. -
Do Đảng Cộng sản lãnh đạo – yếu tố quan trọng dể đảm bảo quyền
lựcthực sự thuộc về nhân dân, bởi vì, Đảng Cộng sản đại biểu cho trí tuệ, lợi ích
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc. Với nghĩa này, dân
chủ xã hội chủ nghĩa mang tính nhất nguyên về chính trị. Sự lãnh đạo của giai
cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản đối với toàn xã hội về mọi mặt
V.I.Lênin gọi là sự thống trị chính trị. -
Nhân dân lao động là những người làm chủ mọi quan hệ chính trị
trongxã hội. Họ có quyền giới thiệu các đại biểu tham gia vào bộ máy chính
quyền từ Trung ương đến địa phương, tham gia đóng góp ý kiến xây dựng chính
sách, pháp luật, xây dựng bộ máy và cán bộ nhân viên nhà nước. Mục đích của
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân, tạo lOMoAR cPSD| 45476132
điều kiện cho nhân dân làm chủ xã hội. Quyền được tham gia rộng rãi vào công
việc quản lý nhà nước chính là nội dung dân chủ trên lĩnh vực chính trị. -
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế dộ công hữu về các tư
liệusản xuất là chủ yếu đáp ứng sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại
nhằm thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân. Trước
hết đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân về các tư liệu sản xuất chủ yếu; quyền
làm chủ trong quá trình sản xuất kinh doanh, quản lý và phân phối. -
Dưới góc độ kinh tế, dân chủ xã hội chủ nghĩa được biểu hiện là
sựđảm bảo về lợi ích kinh tế, phải coi trọng lợi ích kinh tế của người lao động
là động lực cơ bản nhất có sức thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Thực chất
của việc tổ chức, quản lý nèn kinh tế - xã hội chính là sắp xếp sao cho hài hòa
các quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, các tầng lớp và những người lao động. Lợi
ích kinh tế phải thực hiện bởi lao động, mọi người đều có quyền lao động và đều
có quyền được hưởng thành quả lao động của mình.
Bản chất kinh tế đó được bộc lộ đầy đủ qua một quá trình phát triển ổn
định về kinh tế và chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Mác- Lênin và sự quản
lý, hướng dẫn của nhà nước xã hội chủ nghĩa; là sự kế thừa và phát triển mọi
thành tựu mà nhân loại đã tạo ra trong lịch sử, đồng thời lọc bỏ những nhân tố
lạc hậu, tiêu cực, kìm hãm của các chế độ kinh tế trước, nhất là bản chất tư hữu,
áp bức bóc lột, bất công đối với đa số nhân dân lao động. -
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng Mác-Lênin – hệ tư
tưởngcủa giai cấp công nhân làm nền tảng; đồng thời là sự kế thừa, phát huy
những tinh hoa văn hóa truyền thống các dân tộc; tiếp thu những giá trị tiến bộ,
văn minh mà nhân loại đã đạt được. Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân
dân được làm chủ những giá trị văn hóa tinh thần; được nâng cao trình độ văn
hóa, có điều kiện để phát triển cá nhân.
Ở khía cạnh văn hóa, sự phát triển của dân chủ xã hội chủ nghĩa và những
thành quả đã đạt được trong công cuộc đấu tranh cho dân chủ được coi như một
quá trình sáng tạo văn hóa, một thành tựu văn hóa của loài người.
2. Sự khác biệt giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản
Đây là hai nền dân chủ đang tồn tại trong thực tiễn đời sống chính trị của
nhân loại hiện nay. Dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời có sự kế thừa một cách chọn 4 lOMoAR cPSD| 45476132
lọc những thành tựu của các nền dân chủ trước đó, nhất là dân chủ tư sản. Tuy
nhiên, hai nền dân chủ này có sự khác nhau về chất. -
Về mục tiêu phục vụ: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân
chủ cho đạiđa số nhân dân lao động, phục vụ lợi ích cho đại đa số; còn
dân chủ tư sản là nề dân chủ cho thiểu số, phục vụ lợi ích cho thiểu số. -
Về bản chất giai cấp, bản chất chính trị:
+ Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ do Đảng Cộng sản lãnh đạo,
nhất nguyên về chính trị; còn dân chủ tư sản do các Đảng của giai cấp tư sản
lãnh đạo, thực hiện chế độ đa đảng đối lập.
+ Dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện thông qua Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa (có sự thống nhất và sự phân công phối hợp giữa ba
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp); còn dân chủ tư sản được thực hiện thông
qua nhà nước pháp quyền tư sản (tổ chức theo hình thức tam quyền phân lập). - Về cơ sở kinh tế:
+ Dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện trên cơ sở kinh tế là công hữu
hóa các tư liệu sản xuất chủ yếu; còn dân chủ tư sản được thực hiện trên cơ sở
kinh tế tư hữu hóa các tư liếu sản xuất.
+ Đảng Cộng sản xã hội chủ nghĩa thực hiên nguyên tắc phân phối sản
phẩm của xã hội chủ yếu theo kết quả lao động và các nguồn lực đóng góp; còn
Đảng Cộng sản tư sản thực hiện nguyên tắc này chủ yếu theo tài sản, tỷ lệ đóng
góp kinh tế của mỗi cá nhân. -
Về tính pháp lý và tính thực tiễn:
Nền Đảng Cộng sản xã hội chủ nghĩa đảm bảo quyền làm chủ của nhân
dân về mặt pháp lý cũng như trên thực tế. Hạn chế tối đa sự khác biệt giữa văn
bản luật và quyền thực sự của người dân trong thực tế. Đảng Cộng sản tư sản,
về mặt pháp lý, xây dựng rất nhiều quyền của con người, nhưng nó lại đưa ra rất
nhiều quy định để hạn chế tối đa việc thực hiện những quyền đó của công dân.
Đánh giá về thành tựu của nền dân chủ tư sản, C.Mác đã nhấn mạnh Đảng
Cộng sản tư sản ra đời là một bước tiến lớn trong lịch sử, nó đã xóa bỏ chế độ
chuyên chế phong kiến, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
Tuy nhiên, tính nửa vời, cắt xén, giả hiệu của nền dân chủ tư sản ở chỗ:
xét về thực chất, quyền lực kinh tế, quyền lực chính trị (hai lĩnh vực cơ bản nhất lOMoAR cPSD| 45476132
của bất cứ chế độ xã hội nào) của Nhà nước tư sản đều nằm trong tay giai cấp tư sản.
3. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
a. Những thuận lợi, khó khăn (khách quan, chủ quan) tác động tới
việc xây dựng, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta ra đời từ khi giai cấp công nhân
và nhân dân lao động giành được chính quyền, là kết quả trực tiếp của cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và phát triển trong những điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt.
Bước vào xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa chúng ta có những thuận lợi cơ bản.
Hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nước ta từ một nước
thuộc địa nửa phong kiến tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa, điều này mang lại nhiều thuận lợi rất quan trọng khi xây dựng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa. Chúng ta bỏ qua sự thống trị của quan hệ sản xuất tư
sản chủ nghĩa, quan hệ người bóc lột người; bỏ qua sự thống trị của một nhóm
người đối với đa số nhân dân lao động.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta được xây dựng trong điều kiện
Đảng Cộng sản do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, là lực lượng
duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam, là đại biểu trung thành cho lợi ích của
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc. Kế tục tư tưởng
vì dân của Hồ chủ tịch, Đảng ta chủ trương xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ
nghĩa, mở rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân. Nhà nước ta thừa nhận nhân dân là cội nguồn của quyền lực, tất cả quyền
lực thuộc về nhân dân. Chúng ta có một hệ thống chính trị vững mạnh gồm Đảng,
Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, đây chính là cơ sở bảo đảm cho việc
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, trong quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta cũng gặp không ít những khó khăn, cản trở.
Vốn là một nước thuộc địa nửa phong kiến, những thành quả mà cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ đem lại là một bước ngặt lớn lao trong việc hình 6 lOMoAR cPSD| 45476132
thành và phát triển nền dân chủ ở nước ta. Song một đất nước vừa thoát khỏi chế
độ thuộc địa nửa phong kiến, giai cấp công nhân lãnh đạo chính quyền phần lớn
đều xuất thân từ nông dân vì thế không tránh khỏi tàn tích tư tưởng tiểu nông, sản xuất nhỏ.
Chúng ta bỏ qua chế độ tư sản chủ nghĩa cũng có nghĩa là xã hội nước ta
chưa trải qua nền dân chủ tư sản có lịch sử từ nhiều thế kỷ xây dựng và phát
triển, với Nhà nước pháp quyền tư sản và xã hội công dân. Nền dân chủ tư sản
dù mang bản chất tư sản, dù phục vụ chủ yếu cho giai cấp công nhân tư sản
thống trị, nhưng nó cũng tạo ra môi trường đào luyện con người, làm cho con
người ý thức được vai trò của cá nhân, tầm quan trọng của học vấn, học thức và
văn hóa nói chung đối với sự phát triển. Môi trường xã hội đó cũng rèn luyện
cho con người những thói quen, những năng lực cần thiết thích ứng với những
đòi hỏi pháp lý của dân chủ.
Cùng với những hạn chế do nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, sự tác động của cơ chế thị trường, sự đan xen giữa cái mới và cái
cũ sinh ra nhiều vật cản trên con đường tiến tới nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Những vật cản trở đó là: trình độ phát triển dân chủ còn thấp và chưa đầy đủ, hệ
thống pháp luật thiếu và không đồng bộ, chưa tạo ra được khung pháp lý và cơ
chế đủ mạnh thực hiện dân chủ. Sự suy thoái, biến chất của một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên kể cả những người có chức quyền; tệ tham nhũng, buôn
lậu đã trở thành quốc nạn. Bệnh quan liêu diễn ra không ít ở các cấp, các ngành
đã gây bât bình trong các tầng lớp nhân dân. Nhiều luật được ban hành nhưng
việc chấp hành luật không nghiêm từ một bộ phận công dân, việc thi hành luật
không công minh của một bộ phận cán bộ trong các cơ quan hành pháp và tư
pháp đã làm cho hoạt động của bộ máy nhà nước kém hiệu quả. Tệ ô dù bao che
cho kẻ xấu, khiếu kiện của người dân chưa được xem xét đầy đủ và kịp thời đã
làm giảm lòng tin của nhân dân vào bộ máy nhà nước.
Để tiến tới mục tiêu xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta phải
tiến hành dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội. Dân chủ hóa là quá trình
chuyển dân chủ từ khả năng thành hiện thực trong thực tiễn cuộc sống, là cuộc
vận động xã hội rộng rãi, lôi cuốn mạnh mẽ các tầng lớp nhân dân. Việc thực
hành những chuẩn mực, quy tắc dân chủ; tập làm quen với dân chủ; xây dựng
lối sống dân chủ đưa nó vào thực tế hàng ngày; dần trở thành nền nếp, thói quen, lOMoAR cPSD| 45476132
nhu cầu của mỗi người và của cả cộng đồng. Dân chủ hóa các lĩnh vực của đời
sống xã hội là thực hiệ ội dung toàn diện của dân chủ.
b. Một số thành tựu và hạn chế của quá trình xây dựng thực hiện nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta - Những thành tựu:
Thứ nhất, sự hiểu biết về dân chủ, pháp luật, quyền lợi và nghĩa vụ công
dân của đông đảo nhân dân ta ngày càng được nâng cao. Một bộ phận khá đông
nhân dân đã quan tâm đến tình hình chính trị trong và ngoài nước. Niềm tin của
đại bộ phận nhân dân đối với Đảng Cộng sản, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa
đang có chiều hướng phục hồi và củng cố.
Thứ hai, năng lực thực hiện dân chủ của nhân dân ta có bước trưởng thành,
thể hiện ở việc nhân dân tích cực tham gia và tham gia có hiệu quả hơn vào các
hoạt động chính trị của Đảng cũng như công việc quản lý nhà nước (góp ý xây
dựng báo cáo chính trị; chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng hiến
pháp, các Bộ luật; đấu tranh chống tham nhũng…)
Thứ ba, nhu cầu dân chủ của nhân dân ngày càng cao, phong phú, đa dạng
hơn. Dân chủ ngày càng thấm sâu vào các quan hệ xã hội của nhân dân; đồng
thời bản lĩnh giữ gìn, bảo vệ các thành quả dân chủ đã giành được của nhân dân
ta được nâng cao rõ rệt. - Những hạn chế:
Một là, một số cán bộ, nhân dân hiểu biết không đầy đủ về nội dung dân
chủ tư sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa dẫn tới mơ hồ, dễ dao động, nghi ngờ bản
chất tốt đẹp của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; ca ngợi một chiều nền dân chủ tư sản.
Hai là, một số người còn non yếu về chính trị và ý thức công dân; khi bị
kẻ địch lợi dụng, kích động đã có nhiều hành vi vi phạm pháp luật gây rối trật
tự xã hội, hoặc tỏ ra hoài nghi, giao động, mất phương hướng chính trị đúng đắn.
Ba là, tình trạng quan liêu, mất dân chủ, vi phạm dân chủ ở một số cán bộ
của một số địa phương cùng với tình trạng dân chủ quá trớn, cực đoan vô chính
phủ, tùy tiện, coi thường kỷ cương, pháp luật, vi phạm các theer chế, quy định
dân chủ… Một bộ phận nhân dân thờ ơ với chính trị, an phận, né tránh… 8 lOMoAR cPSD| 45476132
Bốn là, văn hóa pháp luật của đa số nhân dân thấp do xuất phát điểm của
Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là chủ yếu, thói quen
“phép vua thua lệ làng”, hoặc tồn tại song song “lệ làng, phép nước”… cộng với
việc giáo dục pháp luật cho người dân còn kém hiệu quả.
Năm là, việc thực hiện chế độ dân chủ đại diện chưa có hiệu quả do sự
yếu kém của cơ quan quyền lực ở một số địa phương (hội đồng nhân dân, ủy ban
nhân dân). Chế độ dân chủ trực tiếp ở một số nơi bị vi phạm. Không ít vấn đề
liên quan đến lợi ích chính đáng của dân nhưng dân chưa, hoặc không được tham
gia bàn bạc mà chủ yếu chỉ biết làm. Nguyên tắc tập trung dân chủ nhiều lúc bị
buông lỏng, kỷ cương không nghiêm, thực hiện thiếu đồng bộ.
III. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Khái niệm và chức năng, vai trò của các bộ phận
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là cơ quan thể hiện và thực hiện quyền lực của
nhân dân lao động, thay mặt nhân dân, được nhân dân ủy quyền, chịu trách
nhiệm trước nhân dân quản lý mọi mặt hoạt động xã hội bằng hệ thống pháp luật
và những thiết chế dưới luật, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, sự giám
sát, bảo vệ của nhân dân.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa thực hiện hai chức năng: đối nội và đối ngoại,
tổ chức xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ những thành quả mà nhân
dân đã giành được. Nhà nước được cấu tạo thành từ ba bộ phận: lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Ba bộ phận này có sự phân công trách nhiệm và phối hợp hành
động, nhưng thống nhất ở cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và cơ quan
quyền lực cao nhất của Nhà nước là Quốc hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ chủ yếu để thể chế hóa đường lối
của Đảng Cộng sản bằng pháp luật, quản lý xã hội trên cơ sở pháp luật và phát
huy quyền dân chủ của nhân dân theo chức năng và nhiệm vụ của mình. Trong
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa thực hiện chức
năng trấn áp sự phản kháng của các giai cấp bóc lột, những âm mưu phản cách
mạng, lôi kéo quần chúng nhân dân về phía cách mạng bằng việc tuyên truyền,
vận động, thuyết phục, mở rộng và tổ chức xây dựng xã hội mới.
Để thực hiện được nhiệm vụ trên, nhà nước xã hội chủ nghĩa phải xây
dựng được một hệ thống pháp luật và cơ chế có hiệu quả, đảm bảo nhà nước lOMoAR cPSD| 45476132
thực sự của dân, do dân, vì dân. Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải được tổ chức
theo nguyên tắc Nhà nước pháp quyền với những đặc trưng cơ bản sau đây: -
Quyền lực của Nhà nước là sự thống nhất nhưng có sự phân công
phốihợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp. -
Nhà nước tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ
đảmbảo sự thống nhất hoạt động và phát huy sức mạnh của cả hệ thống và từng
bộ phận, từng công dân. -
Nhà nước quản lý mọi mặt xã hội bằng hệ thống pháp luật ,đồng
thờicoi trọng giáo dục nâng cao đạo đức xã hội chủ nghĩa cho nhân dân ,coi nhân
dân là chủ thể chủ quyền lực. Do đó, bên cạnh việc cưỡng chế của pháp luật thì
việc tuyên truyền, giáo dục nhằm phát huy khả năng sáng tạo, tinh thần làm chủ
của người dân được nâng cao. -
Nhà nước dựa trên nền tảng liên minh giữa giai cấp nông dân và
tầnglớp trí thức đặt dưới sự lãng đạo của Đảng Cộng sản. Mọi công việc của
Nhà nước đều do dân ủy quyền. Mọi chính sách, pháp luật của Nhà nước đều
được nhân dân và các cơ quan dân cử thẩm định, được thực thi vì lợi ích của
nhân dân. Nhân dân có quyền giám sát mọi hoạt động của Nhà nước.
2. Đổi mới hoạt động của nhà nước ta, đảm bảo quyền dân chủ cho nhân dân
a. Yêu cầu khách quan và thành tựu đổi mới nhà nước
Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dân, chúng ta đã đạt được một số thành tựu là: -
Quốc hội đã hoạt động có hiệu quả rõ rệt, tăng tính dân chủ
(tranhluận, thảo luận…). Tăng tính pháp quyền (hệ thống pháp luật đã được chú
ý sửa đổi, bổ sung, xây dựng thêm nhiều văn bản mới đáp ứng đòi hỏi của thực
tiễn). Chế độ bầu cử đại diện đại biểu Quốc hội đổi mới theo yêu cầu dân chủ
và pháp quyền. Theo đó, có thêm nhiều chế định mới, cách làm mới (ứng cử
viên tự do); tăng thêm đại biểu chuyên trách; chú ý tiêu chuẩn đại biểu để nhằm
nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội. -
Chính phủ đã có nhữn đổi mới rõ rệt từ cơ cấu tổ chức đến
phươngthức hoạt động. thu gọn bộ máy, thực hiện phân biệt chức năng quản lý 10 lOMoAR cPSD| 45476132
nhà nước với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh (sáp nhập Bộ, đưa xí nghiệp
ra khỏi “Bộ chủ quản”). Đội ngũ cán bộ công chức có sự phát triển, thích nghi
dần với yêu cầu quản lý trong điều kiện hơn. -
Hệ thống các cơ quan tư pháp đã có một bước tiến cải tiến theo
yêucầu dân chủ và pháp quyền. Tòa án nhân dân thực hiện đúng nguyên tắc “độc
lập xét xử, chỉ tuân thủ pháp luật”. Chất lượng hoạt dộng của Viện kiểm sát nhân
dân được nâng cao, hướng vào làm tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp… -
Sự phân công, phối hợp giữa ba bộ phận trong bộ máy nhà nước
ngàycàng được nâng cao và có hiệu quả trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống
nhất, thuộc về nhân dân.
Nhìn chung, tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước đã được đổi mới
một bước và có tiến bộ rõ rệt.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, quá trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, vẫn còn những
tồn tại, hạn chế cần khắc phục, đó là:
+ Hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ, chất lượng chưa cao;
+ Phát huy dân chủ vẫn còn nhiều hạn chế nhất là trong tổ chức thực hiện,
iểm tra, giám sát, xử lý vi phạm;
+ Tổ chức bộ máy nhà nước hoạt động còn chưa thực sự hiệu quả do việc
phân định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn còn chưa rõ ràng. Tổ chức bộ máy còn nhiều bất cập;
+ Hiệu lực quản lý điều hành của nhà nước chưa cao; +
Chậm đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Tất cả những hạn chế trên cho ta thấy, nguyên nhân bắt nguồn do quá trình
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân trong
điều kiện kinh tế xã hội còn thấp, lý luận về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam chưa được nghiên cứu cơ bản và có hệ thống, bên cạnh
đó do sự hạn chế về ý thức pháp luật, lối sống và làm việc theo pháp luật của
nhân dân, đực biệt là ý thức pháp luật của cán bộ công chức thi hành pháp luật,
ngoài ra còn thiếu những giải pháp mang tính đồng bộ nhằm cải tổ và xây dựng lOMoAR cPSD| 45476132
bộ máy cán bộ, công chức nhà nước đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi mà thực tiễn đặt ra.
Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, một vấn
đề mang tính nguyên tắc đó là: Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
nhà nước. Bởi vì, đây là yếu tố đảm bảo sự thống nhất giữa tính giai cấp, tính
nhân dân, tính dân tộc của nhà nước. Muốn vậy cần phải thực hiện việc đổi mới,
chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, thực sự trong sạch, vững mạnh, đủ năng lực trí tuệ và uy tín là lực lượng
lãnh đạo xã hội. Ngoài ra, cần đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
nhà nước, Đảng không can thiệp sâu, làm thay, bao biện cho nhà nước.
b. Các nguyên tắc của đổi mới tổ chức, hoạt động của Nhà nước -
Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các bôn phận; đồng thời xây
dựngmối quan hệ đoàn kết, phối hợp giữa các tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng. -
Thực hành dân chủ thực sự trong nội bộ các bộ phận trong nhà
nướctheo nguyên tắc tập dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên
cơ sở thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, phát huy quyền làm chủ đại diện, quy
định cụ thể trong việc thực hiện quền của dân giam sát tổ chức và cán bộ, kịp
thời thay thế người không đủ tín niệm. Phát huy dân chủ phải đi liền với việc
củng cố và nâng cao kỷ luật, kỷ cương theo pháp luật. -
Xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ cơ sở nói riêng có năng
lựctổ chức và vận động quần chúng thực hiện đường lối của Đảng pháp luật của
Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tụy với dân, biết phải phát huy sức dân,
không tham nhũng, không ức hiếp dân.
c. Phương hướng và giải pháp đổi mới -
Phương hướng: Để đảm bảo Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩaViệt Nam giữ vững bản chất giai cấp công nhân, chúng ta cần thực hiện
phương hướng chung là: Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân
dân; quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ
quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. 12 lOMoAR cPSD| 45476132 -
Một số nhóm giải pháp nhằm đổi mới tổ chức, hoạt động của Nhà nướcViệt Nam hiện nay:
Thứ nhất, xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, đảm bảo nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong
văn bản pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến,
hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện
cơ chế bầu cử nhằm nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội; tăng hợp lý số đại
biểu chuyên trách, phát huy tốt hơn vai trò của đại biểu và đoàn đại biểu Quốc
hội. Tổ chức lại một số Ủy ban của Quốc hội; nâng cao chất lượng hoạt dộng
của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội. Đổi mới hơn nữa quy trình
xây dựng luật, giảm mạnh việc ban hành pháp lệnh. Thực hiện tốt hơn nhiệm vụ
quyết định của các vấn đề quan trọng của đất nước và chức năng giám sát tối cao.
Thứ ba, đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của
Chính phủ theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất, thông
suốt, hiện đại. Luật hóa cơ cấu, tổ chức của Chính phủ; tổ chức bộ máy quản lý
đa ngành, đa lĩnh vực, đảm bảo tinh gọn và hợp lý. Phân cấp mạnh, giao quyền
chủ động hơn nữa cho chính quyền địa phương, nhất là trong việc quyết định về
ngân sách, tài chính, đầu tư, nguồn nhân lực, thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với trung ương.
Thứ tư, xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân
chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người. Đẩy mạnh việc thực hiện
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Cải cách tư pháp khẩn trương đồng bộ, toàn diện.
Thứ năm, nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân, đảm bảo quyền tự chủ và chịu trách nhiệm trước chính quyền địa
phương. Phát huy vai trò chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương. Phát
huy vai trò giám sát của hội đồng nhân dân. Tổ chức hợp lý chính quyền địa
phương. Phát huy vai trò giám sát của hội đồng nhân dân. Tổ chức hợp lý chính
quyền địa phương, phân định lại thẩm quyền đối với chính quyền ở nông thôn, đô thị, hải đảo. lOMoAR cPSD| 45476132
Thứ sáu, đổi mới công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức đáp
ứng được đòi hỏi của thực tiễn. Cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức và đào tạo,
bồi dưỡng theo yêu cầu nâng cao chất lượng cả về năng lực, phẩm chất đạo đức.
Có cơ chế kịp thời đưa ra khỏi bộ máy Nhà nước những công chức không xứng
đáng, kém phẩm chất và năng lực. Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ, công chức.
Thứ bảy, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, Đảng lãnh đạo nhà
nước bằng đường lối, quan điểm, các nghị quyết. Đảm bảo giữ vững vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước. 14