












Preview text:
NOTE
- kq phát triển kte xh: nông nghiệp gtvt phát triển
- cnh ở đại hội v so với iv:
iv: tư duy về cnh chưa thay đổi căn bản, đầu tư tập trung xây nhà máy quy mô lớn
v: kết hợp nn cn hàng tiêu dùng
- đánh giá mô hình ưu tiên cnn:
cnh từ nền kte lạc hậu, chiến tranh -> k đạt được mục tiêu nhưng xí nghiệp tăng
- hội nghi tu 6 1979 bị cgi kìm nén: nhà nước bao cấp -> thủ tiêu cạnh tranh vì chỉ cần làm đúng chỉ tiêu, triệt tiêu luôn
động lực kinh tế -> xoá bỏ nhưng trạm kiểm soát để tăng trao đổi hàng hoá
- lấy cớ sự Campuchia cấm vận vn, đó là cớ gì: quốc tế cho là vn xâm lược campuchia, khi vn cố gắng giúp campuchia thoát khổ pô pốt
- Đại hội nào đảng ta xác định mô hình kt thị trường định hướng xh chủ nghĩa → Đh VII
đh nào xác định mô hình kttt mô hình xhcn: ddh9 -> ddh12 kttt định hướng xhcn
- nhận xét vn 7 muốn là bạn - 9 sẵn sàng bạn - là bạn và đối tác tin cậy
muốn: thiện chí nhưng k có bạn
sẵn sàng: thế và lực phát triển hơn nên chủ động hơn
là bạn và đối tác: uy tín nâng cao, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, là bạn như thế nào
tìm hiểu mối quan hệ ngoại giao với các nước (4 nước chiến lược toàn diện)
bạn - bàn - bán -> lợi ích CẤU TRÚC ĐỀ câu 1 (5đ) chương 1,2
Đường lối đánh pháp đánh mỹ giành chính quyền, đảng ra đời, chú ý mốc thời gian, chú ý về trước đổi mới và sau đổi
mới, bối cảnh nào và thời gian nào
đường lối (nếu không hỏi bối cảnh): ghi thêm vài ba dòng bối cảnh câu 2 (5đ) chương 3
Trước đối mới và sau đổi mới MỘT SỐ CÂU HỎI
CÂU 1: cnh hdh đh8: nêu quan điểm cnh và phân tích một quan điểm bạn tâm đắc
6 quan điểm CNH tại ĐH VIII:
1. Giữ vững độc lập, tự chủ, đi đôi với mở rộng quan hệ quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại.
Dựa vào nguồn lực trong nước chính là đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài.
2. CNH-HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
3. Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
4. Khoa học và công nghệ là động lực của CNH-HĐH. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại,
tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định
5. Lấy hiệu quả kinh tế làm chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ.
6. Kết hợp kinh tế với quốc phòng và an ninh.
Phân tích một quan điểm bạn tâm đắc: "Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững". Đây là một quan điểm đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển của thế giới và thực tiễn của Việt Nam.
Trong thời đại ngày nay, nguồn nhân lực là yếu tố quyết định sự thành bại của mọi quốc gia, dân tộc vì nguồn nhân lực là
yếu tố quyết định sự phát triển của nền kinh tế. Con người là chủ thể của mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh, là nguồn
lực cơ bản cho sự phát triển của nền kinh tế. Vì vậy, một nền kinh tế muốn phát triển nhanh và bền vững thì phải có nguồn
nhân lực chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển. Bên cạnh đó, con người còn là chủ thể sáng tạo, là động
lực thúc đẩy sự phát triển. Đây là nguồn động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
Không chỉ vậy, nguồn nhân lực là yếu tố quyết định sự phát triển của khoa học, công nghệ. Trong khi đó, khoa học, công
nghệ là lực lượng sản xuất trực tiếp, là nhân tố quyết định đến sự phát triển của nền kinh tế. Một nền kinh tế muốn phát
triển thì phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, đáp ứng được yêu cầu của sự phát
triển khoa học, công nghệ.
Ngoài ra, nguồn nhân lực hay con người chính là yếu tố quyết định sự phát triển của văn hóa, xã hội. Văn hóa, xã hội là
nền tảng tinh thần của xã hội, là nhân tố quyết định đến sự phát triển của đất nước. Một nền văn hóa, xã hội phát triển thì
phải có nguồn nhân lực có trình độ văn hóa, đạo đức, lối sống lành mạnh, đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển văn hóa, xã hội.
Với những lý giải trên, có thể thấy quan điểm "Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững" là một quan điểm đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển của thế giới và thực tiễn của Việt Nam.
Hiện nay, Việt Nam là một nước đang phát triển, có nguồn nhân lực dồi dào. Tuy nhiên, nguồn nhân lực của Việt Nam còn
chưa đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam còn thấp, trình
độ chuyên môn, kỹ thuật còn hạn chế. Để thực hiện thành công quan điểm này, Việt Nam cần tập trung phát triển nguồn
nhân lực, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo môi trường thuận lợi cho người lao động phát huy năng lực, sáng tạo. Cụ thể, nước ta cần:
- Nâng cao dân trí, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp hiện đại.
- Tạo môi trường thuận lợi cho người lao động phát huy năng lực, sáng tạo.
- Xây dựng văn hóa lao động, tôn vinh lao động, lao động sáng tạo.
- Việc phát triển nguồn nhân lực sẽ tạo động lực cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
CÂU 2: k theo vết xe đổ liên xô: 5 nguyên nhân (khủng hoảng kte mà k thay đổi kte mà thay đổi ctri), hiện thực chứng minh,
5 nguyên nhân nước ta có khủng hoảng kinh tế nhưng không thay đổi kinh tế mà thay đổi chính trị
Thứ nhất, khủng hoảng kinh tế ở Liên Xô không phải là nguyên nhân chính dẫn đến sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa
ở nước này. Nguyên nhân chính là do sự suy thoái của ý thức hệ cộng sản, sự bùng nổ của các phong trào dân chủ, dân
tộc, sự chống phá của các thế lực thù địch, sự yếu kém của lãnh đạo.
Thứ hai, Việt Nam đã nhận thức được những hạn chế của mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nhưng chưa có đủ điều
kiện để thay đổi ngay sang nền kinh tế thị trường. Do đó, Việt Nam đã chọn con đường đổi mới kinh tế theo hướng
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa bảo đảm phát triển kinh tế, vừa giữ vững vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ ba, Việt Nam đã có truyền thống dân chủ lâu đời, nhân dân có ý thức tự do, dân chủ cao. Do đó, nếu chỉ thay đổi kinh
tế mà không thay đổi chính trị, thì khó có thể đáp ứng được yêu cầu của nhân dân, dẫn đến bất ổn chính trị.
Thứ tư, Việt Nam có vị trí địa chính trị quan trọng, là mục tiêu của các thế lực thù địch. Do đó, nếu chỉ thay đổi kinh tế mà
không thay đổi chính trị, thì khó có thể bảo vệ được độc lập, chủ quyền, thống nhất của Tổ quốc.
Thứ năm, Việt Nam là một nước đang phát triển, có nền kinh tế còn nhiều khó khăn, thách thức. Do đó, cần phải có sự ổn
định chính trị để tập trung phát triển kinh tế, xã hội.
Với những nguyên nhân trên, Việt Nam đã chọn con đường đổi mới chính trị đồng thời với đổi mới kinh tế. Sự đổi mới
chính trị đã góp phần quan trọng vào thành công của công cuộc đổi mới kinh tế, xã hội ở Việt Nam. Có thể khẳng định,
việc Việt Nam chọn con đường đổi mới chính trị đồng thời với đổi mới kinh tế là một quyết định đúng đắn, sáng suốt, đã
góp phần quan trọng vào thành công của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Điều đó được thể hiện qua các thành quả sau:
Về kinh tế: sau hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, vượt bậc. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
luôn ở mức cao, bình quân đạt hơn 7%/năm. Thu nhập bình quân đầu người tăng gấp hơn 5 lần. Cơ cấu kinh tế chuyển
dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việt Nam đã trở thành một nước có nền kinh tế phát triển, có vị thế ngày
càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới.
Về chính trị: Việt Nam đã thực hiện nhiều đổi mới quan trọng về chính trị, như:
- Đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng.
- Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa.
- Những đổi mới về chính trị đã góp phần quan trọng vào việc ổn định chính trị, xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho
phát triển kinh tế, xã hội.
Về xã hội: Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về xã hội, như:
- Giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân.
- Cải thiện chất lượng giáo dục, đào tạo, y tế.
- Phát triển văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.
- Những thành tựu về xã hội đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, dân chủ, giàu đẹp.
Như vậy, hiện thực đã chứng minh rằng, việc Việt Nam chọn con đường đổi mới chính trị đồng thời với đổi mới kinh tế là
một quyết định đúng đắn, sáng suốt, đã góp phần quan trọng vào thành công của công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
CÂU 3: Lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm
tương đồng, tìm sự đồng thuận cho toàn dân tộc - tsao phải có mục tiêu tìm sự đồng thuận cho toàn dân tộc
Tìm sự đồng thuận cho toàn dân tộc là một mục tiêu quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước của Việt Nam. Vì:
Thứ nhất, đồng thuận xã hội là cơ sở để phát huy sức mạnh của toàn dân tộc. Khi toàn dân đồng thuận, thì mọi người sẽ
chung sức, chung lòng, đoàn kết, thống nhất để thực hiện mục tiêu chung của đất nước. Điều này sẽ tạo ra sức mạnh to lớn
để vượt qua mọi khó khăn, thách thức, đưa đất nước phát triển.
Thứ hai, đồng thuận xã hội là điều kiện để thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển của đất nước. Các mục tiêu phát
triển của đất nước chỉ có thể thực hiện được khi được sự đồng thuận của toàn dân. Khi toàn dân đồng thuận, thì mọi người
sẽ ủng hộ, tạo điều kiện thuận lợi để các mục tiêu phát triển của đất nước được thực hiện.
Thứ ba, đồng thuận xã hội là nền tảng để xây dựng một xã hội ổn định, hòa bình. Khi toàn dân đồng thuận, thì sẽ không
có mâu thuẫn, xung đột, tạo ra môi trường ổn định, hòa bình để phát triển đất nước.
Việc lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm
tương đồng để tìm sự đồng thuận cho toàn dân tộc là một cách tiếp cận phù hợp. Bởi vì, đây là những mục tiêu chung của
toàn dân tộc, là mục tiêu mà tất cả mọi người đều mong muốn đạt được. Khi lấy những mục tiêu này làm điểm tương
đồng, thì sẽ tạo ra sự gắn kết, đoàn kết giữa các tầng lớp nhân dân, tạo ra cơ sở để tìm kiếm sự đồng thuận, để mọi người
dân đồng lòng đóng góp vào công cuộc phát triển Việt Nam.
CÂU 4: trong 8 đặc trưng xhcn, cnao là đặc trưng bao quát, làm được nó là làm được tất cả.
Trong 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa, đặc trưng " Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội “dân
giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh" là đặc trưng bao quát, làm được nó là làm được tất cả.
Đặc trưng này bao quát các đặc trưng khác, thể hiện sự thống nhất, hài hòa giữa các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Dân giàu là mục tiêu của phát triển kinh tế, là tiền đề để thực hiện các mục tiêu khác.
Nước mạnh là mục tiêu của phát triển quốc phòng, an ninh, là điều kiện để bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn hòa bình, ổn định cho
sự phát triển của đất nước.
Dân chủ là mục tiêu của phát triển chính trị, là cơ sở để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng một xã hội công bằng, văn minh.
Công bằng là mục tiêu của phát triển xã hội, là cơ sở để xóa bỏ bất bình đẳng xã hội, đảm bảo cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân.
Văn minh là mục tiêu của phát triển văn hóa, là cơ sở để xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ, có bản sắc dân tộc.
Nếu đạt được đặc trưng "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh", thì các đặc trưng khác cũng sẽ được thực
hiện một cách tốt đẹp. Ngược lại, nếu không thực hiện được đặc trưng này, thì các đặc trưng khác cũng khó được thực
hiện một cách đầy đủ, trọn vẹn. Vì vậy, trong quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, Đảng ta và nhân dân ta cần tập
trung thực hiện đặc trưng "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
CÂU 5: Đến năm 2020, nước ta đã đã cơ bản trở thành nước công nghiệp hiện đại hay chưa? Nếu chưa thì vì sao và dự
đoán đến khi nào thì đạt được?
Đến năm 2020, nước ta chưa cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại như mục tiêu được đề ra tại Hội nghị
lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020.
→ Có 7 nguyên nhân chủ yếu
1. Nhiều tiêu chí vẫn chưa thực hiện đc, vd GDP bình quân đầu người, tỉ trọng công nghiệp chế tạo và tỷ trọng nông nghiệp trong GDP,...
2. nội lực của nền kinh tế còn yếu, năng suất lao động thấp, năng lực tự chủ thấp, qt đổi mới và nâng cao hiệu quả
còn nhiều khó khăn. Nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực công nghiệp còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển.
3. Công nghiệp phát triển thiếu bền vững, giá trị gia tăng thấp. Cơ cấu ngành công nghiệp còn thiếu cân đối, chưa có
nhiều ngành công nghiệp chủ lực, mũi nhọn. Các ngành công nghiệp nền tảng cũng như khả năng chuyển đổi số còn nhiều hạn chế.
4. Kết quả CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn còn hạn chế; Thu hút đầu tư cho phát triển nông nghiệp, dịch vụ ở
nông thôn gặp nhiều khó khăn, cơ giới hoá nông nghiệp chưa đồng bộ, tổn thất sau thu hoạch còn cao.
5. Thứ năm, đô thị hoá chưa gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với CNH, HĐH. Tỷ lệ đô thị hoá đạt được thấp hơn mục
tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 và còn khoảng cách khá xa so với tỉ lệ bình
quân của khu vực và thế giới. Chất lượng đô thị hoá chưa cao, ô nhiễm môi trường tại các đô thị lớn có xu hướng
gia tăng và diễn biến phức tạp.
6. Thứ sáu, phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại chưa đạt yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa; hiệu quả kết
nối và chất lượng chưa cao; còn chênh lệch khoảng cách về kết quả CNH, HĐH giữa các vùng miền. Cơ sở hạ
tầng, nhất là hạ tầng giao thông, logistics chưa phát triển đồng bộ.
7. Thứ bảy, các vấn đề về phát triển văn hoá, xã hội, con người, môi trường còn nhiều hạn chế, bất cập.
8. khủng hoảng kinh tế toàn cầu -> đổi mới phương hướng -> k kịp 2020
9. Trình độ công nghệ của Việt Nam còn thấp, chưa có nhiều ngành công nghiệp sử dụng công nghệ cao, tiên tiến.
Theo đó, tại Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã khẳng định đến năm 2030: VN sẽ cơ bản
đạt được các tiêu chí cơ bản của nước công nghiệp (7-8/10 tiêu chí), trên cơ sở đó, và tầm nhìn đến năm 2045, VN trở
thành nước phát triển, có thu nhập cao, thuộc nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu khu vực châu Á. CÂU HỎI TỰ LUẬN
1. Bối cảnh quốc tế & trong nước cuối TK XIX, đầu TK XX và vai trò của NAQ với sự ra đời của ĐCSVN (82)
2. Hội nghị thành lập Đảng & nội dung cơ bản của cương lĩnh. Ý nghĩa ĐCSVN ra đời (88)
3. Luận cương chính trị T10/1930 và chủ trương của Đảng gđ 1932 – 1935 (90)
4. Chủ trương chiến lược mới của Đảng 1939 – 1945 (93) 5. CMT8 1945 (98)
6. Thuận lợi & khó khăn CMT8 1945 (100)
7. Chống Pháp 1946 – 1950 (103) 8. Đại hội II (105)
9. Công cuộc xây dựng XHCN. Chống Mỹ 1954 – 1975. (107) 10. Đại hội III (110)
11. Quá trình lãnh đạo của Đảng 1954 – 1975 (112)
12. Ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi … chống Mỹ (118)
13. Quá trình lãnh đạo của Đảng 1975 – 1986. Bài học (119)
14. Đại hội VI (12 – 1986), 1986 – 1996 (124)
15. CNH, HĐH 1996 – 2021 (128)
16. Hội nhập quốc tế (1986 – 2021) (133) 17. Đại hội XIII (137)
18. Bài học lớn về sự lãnh đạo (138) NGOÀI
Câu 5: Trình bày hoàn cảnh lịch sử, chủ trương của Đảng và nội dung cuộc vận động dân chủ giai đoạn 1936-1939.
Ý nghĩa thực tiễn của chủ trương đó.
a) Hoàn cảnh lịch sử - Tình hình thế giới
Cuộc khủng hoảng kinh tế trong những năm 1929-1933 trong hệ thống tư bản chủ nghĩa đã làm cho mâu thuẫn nội tại của
chủ nghĩa tư bản ngày càng gay gắt; Chủ nghĩa phát xít đã xuất hiện và thắng thế ở một số nơi. Nguy cơ chủ nghĩa phát xít
và chiến tranh thế giới đe dọa nghiêm trọng nền hòa bình và an ninh quốc tế.
Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản (7-1935) chỉ rõ: kẻ thù chính lúc này của nhân dân lao động toàn thế giới là chủ
nghĩa phát xít; nhiệm vụ trước mắt là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, bảo vệ dân chủ và hòa bình;
để thực hiện nhiệm vụ trước mắt phải thành lập mặt trận nhân dân rộng rãi. Đại hội nhấn mạnh ở các nước thuộc địa và
nửa thuộc địa vấn đề mặt trận thống nhất có tầm quan trọng đặc biệt.
Tại Pháp, Mặt trận nhân dân chống phát xít được thành lập do Đảng Cộng sản Pháp giữ vai trò trụ cột. Tháng 5-1936 Mặt
trận nhân dân Pháp thắng cử và lập ra Chính phủ nhân dân Pháp. Chính phủ nhân dân Pháp thi hành một số quyết định và
cải cách xã hội có lợi ở thuộc địa. -Tình hình trong nước
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã tác động sâu sắc đến mọi tầng lớp trong xã hội thuộc địa. Trong khi đó, bọn cầm
quyền phản động ở Đông Dương vẫn ra sức vơ vét, bóc lột, bóp nghẹt mọi quyền tự do, dân chủ nên mọi tầng lớp xã hội
đều mong muốn có những cải cách dân chủ nhằm thoát khỏi tình trạng ngột ngạt do khủng hoảng kinh tế và chính sách
khủng bố trắng do thực dân Pháp gây ra.
Trong lúc này, hệ thống tổ chức của Đảng và các cơ sở cách mạng của quần chúng đã được khôi phục, Đại hội I (3-1935)
của Đảng đánh dấu cách mạng Việt Nam bước sang giai đoạn phát triển mới. Đây là những yếu tố quan trọng, quyết định
sự phát triển của phong trào cách mạng.
b) Chủ trương của Đảng
Chủ trương của Đảng được thể hiện chủ yếu trong các Hội nghị BCHTW lần thứ 2 (7- 1936); lần thứ 3 (3-1937); lần thứ 4
(9-1937) và lần thứ 5 (3-1938).
Về kẻ thù của cách mạng: Kẻ thù trước mắt nguy hại nhất của nhân dân Đông Dương là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng.
Về nhiệm vụ trước mắt của cách mạng: Chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống bọn phản động thuộc địa và tay
sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Để thực hiện nhiệm vụ, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận dân chủ Đông
Dương dưới sự lãnh đạo của Đảng, lấy liên minh công nông làm nòng cốt, tập hợp mọi lực lượng không phân biệt dân tộc, tôn giáo, đảng phái.
Về đoàn kết quốc tế: Đoàn kết chặt chẽ với giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản Pháp, “ủng hộ Mặt trận nhân dân Pháp”.
Về hình thức tổ chức và biện pháp đấu tranh: Chuyển hình thức tổ chức bí mật, không hợp pháp sang các hình thức tổ
chức và đấu tranh công khai và nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp, song tránh sa vào chủ nghĩa công khai.
Tháng 10-1936, trong văn kiện “Chung quanh vấn đề chiến sách mới”, Đảng nêu nhận thức mới về mối quan hệ giữa hai
nhiệm vụ dân tộc và dân chủ.
Tháng 3-1939, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản Đông Dương đối với thời cuộc” chỉ rõ: “toàn dân phải thống nhất hành
động chống nguy cơ chiến tranh đế quốc; đòi dân sinh, dân chủ, hòa bình”
Tháng 7-1939, trong tác phẩm “Tự chỉ trích” Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ đã tổng kết công tác xây dựng Đảng, góp phần
chỉnh đốn Đảng, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng.
c) Nội dung và ý nghĩa cuộc vận động dân chủ Đông Dương
Phong trào dân chủ 1936-1939 diễn ra sôi nổi và đa dạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương. Đầu tiên là
phong trào đấu tranh đòi triệu tập Đông Dương Đại hội và đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ. Tháng 8-1936, nhân việc
Quốc hội Pháp cử phái đoàn sang điều tra tình hình Đông Dương, Đảng chủ trương thành lập “Ủy ban trù bị Đông Dương
Đại hội” Ủy ban này bao gồm đại biểu của tất cả các tầng lớp: công nhân, nông dân, trí thức, các nhà báo, các nhà tư sản.
Trong một thời gian ngắn để chuẩn bị tiến tới Đông 103 Dương Đại hội, khắp các vùng đô thị lẫn nông thôn, từ nhà máy
đến hầm mỏ, đồn điền, nhân dân ta đã lập ra các “Ủy ban hành động” nhằm tập họp lực lượng của quần chúng, lấy thỉnh
nguyện thư đòi cải cách của tất cả các tầng lớp nhân dân và bầu đại biểu của nhân dân để chuẩn bị đi dự Đông Dương Đại
hội. Trước áp lực của phong trào, chính phủ Pháp phải trả tự do cho hàng ngàn chính trị phạm và phải ban hành nghị định
ngày làm việc 8 giờ và hàng năm người lao động được nghỉ 10 ngày có lương. Sau đó, do lo sợ phong trào triệu tập Đông
Dương Đại hội phát triển vượt khỏi tầm kiểm soát, nhà cầm quyền Pháp đã ra lệnh cấm phong trào Đông Dương Đại hội.
Tuy phong trào đòi triệu tập Đông Dương Đại hội bị ngăn cản nhưng cuộc đấu tranh vì dân sinh, dân chủ vẫn không ngừng phát triển.
Tiếp theo phong trào vận động đòi triệu tập Đông Dương Đại hội là phong trào đón rước phái viên Godard và toàn quyền
Brévié. Tháng 1-1937, Chính phủ Pháp cử hai quan chức này sang Đông Dương, nhân cơ hội đó, Đảng phát động nhân
dân đón rước và đưa yêu sách đòi quyền dân sinh dân chủ, thực chất của cuộc đón rước này là một dịp để tập hợp và biểu
dương lực lượng hùng hậu của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Phong trào đấu tranh trên lĩnh vực báo chí cũng rất sôi nổi trong thời kỳ này. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào báo
chí phát triển khá đa dạng và phong phú. Hàng chục tờ báo của Đảng, của Mặt trận và của các đoàn thể nhân dân nối tiếp
nhau ra đời. Mặc dù có sự cấm đoán kiểm duyệt rất gắt gao của thực dân Pháp và không có tờ báo nào tồn tại được lâu,
song tờ báo này bị chính quyền thực dân ngăn cấm thì tờ báo khác lại xuất hiện. Báo chí cách mạng đã được xuất bản
bằng tiếng Pháp lẫn tiếng Việt ở khắp ba miền Trung, Nam, Bắc. Tiêu biểu như những tờ báo: Lao động, Tập hợp, Tiến
lên, Kiến văn, Hồn trẻ, Bạn dân, Dân chúng, Tân văn, Nhành lúa, Tiền phong. Những tác phẩm và tài liệu giới thiệu về
đấu tranh giai cấp, về chủ nghĩa xã hội đã được xuất bản công khai như Vấn đề dân cày, Chủ nghĩa Mác.
Cuối năm 1937, Đảng chủ trương phát động phong trào truyền bá chữ quốc ngữ. Đảng đã vận động cụ Nguyễn Văn Tố,
một trí thức có tinh thần yêu nước đứng ra xin phép lập “Hội đồng truyền bá chữ Quốc ngữ”. Phong trào này đã lôi cuốn
đông đảo người dân tham gia, đã giúp cho nhiều người dân thoát nạn mù chữ, biết đọc biết viết, giúp lực lượng cách mạng
phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
Trên cơ sở phong trào đấu tranh của quần chúng phát triển mạnh, Đảng chủ trương tham gia đấu tranh trong nghị trường,
Đảng ta không mong chờ việc có thể giành chính quyền bằng con đường nghị viện, song cũng không bỏ qua cơ hội lợi
dụng việc tham gia các cơ quan lập hiến của chính quyền thực dân để bênh vực quyền lợi của nhân dân, dùng nghị trường
để hỗ trợ và phối hợp với các cuộc đấu tranh nhân dân, đồng thời qua diễn đàn công khai của nghị trường mà tố cáo tội ác
và những sự bất công của chính quyền thực dân, tranh thủ lôi cuốn các nhân sĩ tiến bộ vào cuộc đấu tranh vì chính nghĩa
của dân tộc. Đảng Cộng sản Đông Dương và Mặt trận dân chủ đã giành được nhiều thắng lợi trong các cuộc tranh cử vào
Viện Dân biểu Bắc kỳ, Hội đồng kinh tế lý tài Đông Dương, ở Viện Dân biểu Trung kỳ, trong phiên họp tháng 9-1938 ta
đã đấu tranh bác bỏ dự án tăng thuế của thực dân Pháp.
Phong trào dân chủ 1936-1939 của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm mục tiêu trước mắt là chống phát xít,
chống chiến tranh, đòi tự do dân chủ hòa bình và đạt được những thắng lợi đáng kể. Thực hiện mục tiêu đòi dân sinh dân
chủ là một bước đi trong tiến trình thực hiện mục tiêu chiến lược của Đảng là chống đế quốc và phong kiến để giành độc
lập dân tộc. Đánh giá và phân tích đúng tình hình thực tiễn lúc bấy giờ, Đảng đã mở rộng được khả năng hoạt động hợp
pháp và nửa hợp pháp để đấu tranh với kẻ thù, đã tổ chức được lực lượng quần chúng, tạo điều kiện cho Chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như đường lối và chính sách của Đảng được phổ biến, tuyên truyền và giáo dục sâu
rộng trong quần chúng nhân dân.
Cao trào cách mạng 1936-1939 là một bước phát triển mới của Đảng và lực lượng cách mạng trên mọi mặt hoạt động.
Qua thực tế đấu tranh chính trị và đấu tranh tư tưởng, lực lượng cách mạng đã được mở rộng hơn. Lực lượng này bao gồm
hàng triệu quần chúng công nông cùng với đông đảo tầng lớp trí thức,tiểu tư sản, tư sản và những thân sĩ thuộc tầng lớp
trên. Đó chính là đội quân chính trị hùng hậu của quần chúng do Đảng lãnh đạo để chuẩn bị cho cuộc đấu tranh giành
chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm1945.
Từ giữa năm 1939, chính phủ Pháp càng ngày càng thiên về hữu và có xu hướng phát xít hóa. Ở Đông Dương những phe
nhóm phản động của Pháp quay lại đàn áp và phản công Mặt trận dân chủ Đông Dương, ngăn cấm những hoạt động của
Mặt trận dân chủ Đông Dương, tình thế đã thay đổi, Đảng chủ trương chuyển tổ chức của Đảng vào hoạt động bí mật để
tránh tổn thất, phong trào đấu tranh công khai thu hẹp dần lại. Khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, thời kỳ vận động dân chủ đã kết thúc.
Câu 19: Trình bày những thành tựu đạt được và những kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo của Đảng qua 30 năm đổi mới.
a) Những thành tựu đạt được
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, qua hơn 30 năm đổi mới Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử
trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa:
Đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu
nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh
được tăng cường; văn hóa - xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ
xã hội chủ nghĩa được phát huy và mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng
Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh mọi mặt của đất nước được
nâng lên; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ
nghĩa. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quôc tế được nâng cao. b) Bài học kinh nghiệm
Một là, Trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân
tộc, tiếp thu tinh hoa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam.
Hai là, đổi mới phải luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm
chủ, tinh thần, trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc.
Ba là, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát
thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Bốn là, phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Năm là, phải thường xuyên tự đổi mới mình, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây
dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm với nhiệm vụ; nâng cao
hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và cả hệ thống chính trị; tăng
cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân.
Câu 1: Sự thất bại của những phong trào yêu nước chống Pháp ở Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã
đặt ra nhiệm vụ gì cho cách mạng Việt Nam? Nhiệm vụ đó đã được Nguyễn Ái Quốc giải quyết như thế nào? Việc
lựa chọn con đường cách mạng vô sản có ý nghĩa như thế nào đối với cách mạng Việt Nam?
hi thực dân Pháp xâm chiếm và bắt đầu khai thác thuộc địa cho đến năm 1945, tính chất xã hội Việt Nam đã có
nhiều biến đổi, nó không đơn thuần là một xã hội phong kiến mà còn thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến.
Trong xã hội đó tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản, đó là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc xâm lược và
mâu thuẫn giữa người nông dân với địa chủ phong kiến, trong đó mâu thuẫn lớn nhất là mâu thuẫn dân tộc. Do
vậy, yêu cầu đặt ra là cần hoá giải mâu thuẫn bằng việc lật đổ chế độ cai trị thực dân và tay sai để giành lại độc
lập tự do. Theo đó tự do ở một nước thuộc địa như Việt Nam trước hết là đất đai và mục tiêu cao nhất là dân
chủ. Để đạt được điều này thì vấn đề đặt ra là phải chọn con đường cứu nước giải phóng dân tộc và phát triển xã
hội sao cho đúng và phù hợp với hoàn cảnh của xã hội Việt Nam trong từng thời kỳ lịch sử.
Lịch sử dân tộc việt nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX đã liên tục có nhiều đánh giá trái ngược
nhau trên con đường giữ nước giữa quân chủ, tư sản và vô sản. Mỗi một con đường gồm hai bước kế tiếp nhau
đi từ giữ nước (độc lập dân tộc) và xây dựng chủ nghĩa xã hội (đó là hướng tiến tới của dân tộc sau ngày thống
nhất). Mỗi một con đường lại có ý nghĩa và các đặc trưng riêng biệt nhưng đều cùng một nguyên tắc cơ bản, cụ
thể là phải biết địch là ai; yêu cầu, mục đích, định hướng cách mạng là như thế nào? Lãnh đạo cách mạng có thể
là giai cấp nông dân, tư sản, địa chủ hoặc là một phần thấp giữa ba giai cấp ấy còn lãnh đạo cách mạng thì cũng
chỉ ở trên quan điểm của một giai cấp nào đấy nhưng lại là giai cấp tiến bộ tiêu biểu cho phương thức sản xuất mới.
Sau khi các thử nghiệm trên con đường cứu nước theo ý thức hệ phong kiến và tư bản tại Việt Nam thất bại thì
lịch sử Việt Nam đã hướng tới một con đường cứu nước mới – con đường cách mạng vô sản được gắn chặt với
tên tuổi của nhà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Vậy, lịch sử chọn con đường cứu nước và xây dựng
dân tộc theo hướng xã hội chủ nghĩa phải căn cứ trên các cơ sở thế nào? Cuộc đại chiến lần thứ nhất thể hiện
mâu thuẫn giữa dân tộc với đế quốc Mỹ đã kéo theo sự sụp đổ của xã hội tư sản. Đã thành công - một chính phủ
công nông xuất hiện cũng là chiến thắng của giai cấp vô sản và khởi đầu kỷ nguyên mới - thời kỳ cách mạng vô
sản. Sự kiện ấy đã tạo nên một con đường mới cho những người chủ đất thực hiện cuộc cách mạng để giải thoát
gọi là con đường vô sản.
Năm 1919, Lênin thành lập Quốc tế 3 – tổ chức có nhiệm vụ thúc đẩy cách mạng thuộc địa, gắn kết cách mạng
thuộc địa với cách mạng vô sản toàn cầu và tiếp tục lãnh đạo cuộc cách mạng thế giới. Năm 1920, Lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác – Lênin và tiếp nhận ánh sáng của Cách mạng tháng Mười, tham gia
Quốc tế cộng sản. Lần đầu Người nghiên cứu Chủ nghĩa Lênin đã nhận ra được thực tế con đường cách mạng
đúng là con đường cách mạng vô sản. Trung Quốc đó, tia sáng của Cách mạng tháng Mười và Chủ nghĩa Mác –
Lênin đã rọi vào Việt Nam. Trong vài năm sau ngày Quốc tế dân chủ thành lập, các chính đảng mới của thế giới
xuất hiện ở những nước tư bản phía Tây cũng như thuộc địa tại phương Đông, trong số có hai Đảng tác động
vào Việt Nam đầu tiên là Đảng cộng sản Pháp và Đảng cộng sản Trung Quốc.
Sự lựa chọn con đường cứu nước theo khuynh hướng vô sản của lịch sử dân tộc là đúng đắn, sáng tạo, thể hiện
tính “ưu việt” so với con đường cứu nước theo khuynh hướng tư sản. Tư tưởng vô sản vào nước ta sau cách
mạng tháng Mười là một tư tưởng mới đối với Việt Nam và thời đại, nó chưa bộc lộ những hạn chế, những
người tiếp thu tư tưởng vô sản là tiểu tư sản trí thức, họ xuất thân từ tầng lớp tư sản và địa chủ có những hạn
chế về giai cấp và thời đại nhưng họ được vô sản hóa. Cơ sở xã hội của luồng tư tưởng vô sản là giai cấp vô sản
– là giai cấp lao động ra đời trong công cuộc khai thác thuộc địa của Pháp bị áp bức nặng nề, đại diện cho lực
lượng sản xuất tiến bộ, đó là giai cấp cách mạng và có sức mạnh to lớn, liên minh chặt chẽ với giai cấp nông
dân tạo ra khối liên minh công nông vững chắc - một yếu tố quan trọng cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Câu 2: Quá trình thực hiện đường lối đổi mới giai đoạn 1986-1996 đã để lại những bài học kinh nghiệm
gì? Trình bày những quan điểm của Đảng nhằm đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa giai
đoạn 1996-2001. Theo Anh/Chị quan điểm nào là quan trọng nhất? Vì sao? Hãy phân tích quan điểm đó.
Đường lối đổi mới giai đoạn 1986-1996 đã để lại những bài học kinh nghiệm:
Một là, trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa
và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp
với Việt Nam. Đây là bài học về “chủ động” và “sáng tạo”.
Hai là, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm "dân là gốc", vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân,
phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức
mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Đây là bài học về “nhân dân” và “phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc”.
Ba là, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; phải tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ
thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu
quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Đây là bài học về đổi mới toàn diện, đồng bộ, tôn trọng quy luật khách quan và thực tiễn.
Bốn là, phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để
xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là bài học về “lợi ích dân tộc” và “phát
huy sức mạnh tổng hợp”.
Năm là, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng;
xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm
vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của
cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân. Đây là bài học về “xây dựng Đảng và hệ thống chính trị”.
Trên con đường thực hiện mục tiêu nêu trên, Đại hội xác định: “Giai đoạn từ nay đến năm 2000 là bước rất
quan trọng của thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhiệm vụ của nhân
dân ta là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách
toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu đạt và vượt mục tiêu được đề ra trong Chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000: tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững
đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống của nhân
dân, nâng cao tích lũy từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau”.
Đại hội cũng đã nêu lên các định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Về phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đại hội nêu các quan
điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa như sau:
- Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại.
Dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng một nền kinh
tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những
sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo.
- Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động viên
toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước, không ngừng tăng tích lũy cho đầu tư phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn
với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
- Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kết hợp công nghệ truyền thống với
công nghệ hiện đại; tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định.
- Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và
công nghệ. Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có. Trong phát triển mới, ưu tiên quy mô
vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh; đồng thời xây dựng một số công trình
quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả. Tạo ra những mũi nhọn trong từng bước phát triển. Tập trung thích
đáng nguồn lực cho các lĩnh vực, các địa bàn trọng điểm; đồng thời quan tâm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của mọi
vùng trong nước; có chính sách hỗ trợ những vùng khó khăn, tạo điều kiện cho các vùng đều phát triển.
- Kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh.
“Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động viên
toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước, không ngừng tăng tích lũy cho đầu tư phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn
với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi
trường.” là quan điểm quan trọng nhất. Vì con người quyết định toàn bộ bộ mặt của nền kinh tế xã hội và có tác
động trực tiếp đến các khía cạnh trong mọi lĩnh vực.
Nguồn nhân lực quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia, trong đó giáo dục và đào tạo là phương tiện chủ yếu
quyết định chất lượng con người. Giáo dục và đào tạo chuẩn bị con người cho sự phát triển bền vững, vì lợi ích
hiện tại và vì tương lai của đất nước, của dân tộc. Ở nước ta, truyền thống hiếu học, trọng hiền tài, coi “hiền tài
là nguyên khí quốc gia” đã được hình thành và phát triển từ hàng ngàn năm trước. Đến Hồ Chí Minh, tư tưởng
của Người về “trồng người” vì “lợi ích trăm năm” của dân tộc đã được Đảng ta nhận thức, quán triệt sâu sắc.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, đặc biệt, văn kiện Đại hội lần thứ
XIII của Đảng đã xác đinh giáo dục và đào tạo là “quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài”. Giáo dục và đào tạo được coi là con đường cơ bản để phát triển nguồn lực con người, tăng
cường năng lực nội sinh để công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công.
Mặt khác, để phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cùng với
việc phát triển giáo dục và đào tạo, Nhà nước ta rất quan tâm đến các vấn đề y tế, chăm sóc sức khỏe, vấn đề
dân số và nâng cao chất lượng dân số. những năm qua đã đem lại những kết quả thiết thực, nâng cao một bước
chất lượng dân số nước ta.
Trong điều kiện ngày nay, nguồn lực con người là yếu tố nội sinh quan trọng nhất quyết định sự phát triển của
một đất nước. Hơn lúc nào hết, Đảng và Nhà nước ta cần quan tâm chăm lo hơn nữa vấn đề phát triển toàn diện
con người, đồng thời phải có những chính sách thể hiện sự quan tâm đặc biệt và khai thác tốt nhất tiềm năng trí
tuệ của đội ngũ lao động chất xám để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
câu 68: sáng tạo của cương lĩnh chính trị đầu tiên và ý nghĩa lý luận và thực tiễn của cương lĩnh (sáng tạo là mục c trang 12 sgk)
điểm thứ nhất thì chúng ta thấy là chánh cương vắn tắt của đảng cộng sản khi đã xác định một cách rõ ràng
phương hướng chiến lược sgk
về chính trị là phải đánh đổ sgk. đây chính là điểm sáng tạo trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng bởi vì
các nghiệm vụ trên đây chị đã phản ánh đúng cái mâu thuẫn cơ bản của xã hội việt nam và đáp ứng được yêu
cầu của lịch sử việt nam lúc này là giành độc lập cho dân tộc mang lại dân chủ thực sự cho nhân dân. vì chúng
ta biết rằng mẫu thuẫn cơ bản và chủ yếu trong lòng xã hội nửa thuộc địa nửa phong kiến là mâu thuẫn giữa
toàn thể dân tộc việt nam với đế quốc xâm lược và phong kiến tay sai. một bên là toàn thể dân tộc việt nam với
bên kia là đế quốc xâm lược và phong kiến nhưng là phong kiến tay sai. (thêm ctri, xh, kte sgk)
điểm sáng tiếp theo trong cương lĩnh chính trị đầu tiên do nguyễn ái quốc soạn thảo đó là xác định lực lượng
cách mạng. đảng cộng sản việt nam xác định đảng phải thu phục sgk. bộ phận nào đã xa mặt phải cách mạng
chẳng hạn như là đảng lập hiến thì phải đánh đổ.
Phương pháp, lãnh đạo cm sgk. cương lĩnh cũng xác định giai cấp lãnh đạo trong cuộc cách mạng là giai cấp vô sản sgk.
cương lĩnh đã giải quyết tốt các mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống phong kiến đây
là một vấn đề phức tạp trong hai nhiệm vụ chiến lược đó là phản đế phản phong. cương lĩnh chính trị cũng đã
nêu rõ mặc dù cả hai nhiệm vụ phải được tiến hành đồng thời và khăng khít với nhau. song về chỉ đạo chiến
lược đảng xác định phải đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu với khẩu hiệu tổ quốc trên hết. điều này
xuất phát từ hoàn cảnh xã hội nước ta là xã hội thuộc địa mâu thuẫn giai cấp tuy có sâu sắc nhưng mâu thuẫn
chủ yếu nhất bức xúc nhất vẫn là mâu thuẫn giữa dân tộc việt nam với bọn thực dân pháp xâm lược cùng tay sai
của chúng. việc xác định kẻ thù chủ yếu và nhiệm vụ chủ yếu để nắm vững ngọn cờ dân tộc để tập hợp lực
lượng phát huy cao độ sức mạnh dân tộc nhưng không coi nhẹ những nhiệm vụ giải phóng giai cấp là một trong
những tư tưởng đúng đắn sáng tạo của nguyễn ái quốc.
điểm sáng tạo thứ tư đó là cương lĩnh đã xác định rõ cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải dựa trên
lực lượng cách mạng là liên minh công nông và liên minh công nông phải là nòng cốt của cách mạng trong đó
giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo nhưng đồng thời phải lôi kéo tập hợp cả những người yêu nước ở các
các tầng lớp khác và của toàn thể dân tộc.
đó là những cái điểm sáng tạo cơ bản trong cương lĩnh chính trị đầu tiên ơi của đảng do nguyễn ái quốc soạn
thảo. cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng do nguyễn ái quốc soạn thảo và được thông qua tại hội nghị thành
lập đảng ngày mùng 3 tháng 2 năm 1930 có giá trị lý luận và giá trị thực tiễn to lớn.
thứ nhất là về giá trị lý luận của cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng đã
phản ánh sgk. những nội dung cơ bản của cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng là sự vận dụng đúng đắn sáng
tạo chủ nghĩa mác-lênin vào điều kiện hoàn cảnh của việt nam một xã hội thuộc địa nửa phong kiến. đó chính là
giải quyết đúng đắn các mối quan hệ cốt lõi trong cách mạng việt nam, đó là kết hợp đúng đắn vấn đề giai cấp
và vấn đề dân tộc kết hợp truyền thống yêu nước và tinh thần cách mạng của nhân dân ta với những kinh
nghiệm của cách mạng thế giới kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. đặc biệt là sự kết
hợp nhuần nhuyễn và đầy sáng tạo đặc điểm thực tiễn yêu cầu của cách mạng việt nam với tư tưởng tiên tiến
cách mạng của thời đại, vận dụng chủ nghĩa mác lênin vào thực tiễn cách mạng việt nam một cách đúng đắn
sáng tạo có phát triển trong điều kiện lịch sử mới. những nội dung cơ bản ấy đã khẳng định lần đầu tiên cách
mạng việt nam có một bản cương lĩnh chính trị phản ánh được quy luật khách quan của xã hội việt nam, đáp
ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội việt nam, phù hợp với xu thế của thời đại định hướng chiến
lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của cách mạng việt nam. đây là những giá trị về mặt lý luận của cương
lĩnh chính trị đầu tiên của đảng
điểm thứ hai là về giá trị và ý nghĩa thực tiễn của cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng. thực tiễn cách mạng
việt nam từ khi đảng ra đời đến nay đã khẳng định sự đúng đắn của cương lĩnh chính trị đầu tiên. đi theo cương
lĩnh đó, cách mạng việt nam từ khi đảng ra đời, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản việt nam đã làm thay đổi cả
vận mệnh của dân tộc thay đổi cả thân phận của người dân và từng bước khẳng định vị thế của việt nam trên
trường quốc tế. chúng ta có thể khẳng định rằng mọi thắng lợi của cách mạng việt nam trong xã hội hiện đại này
đều gắn liền với vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản việt nam. và cương lĩnh chính trị đầu tiên chính là mở đầu
cho những thắng lợi đó. từ khi đảng ra đời năm 1930 và dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản việt nam dưới sự
chỉ đường soi đường của cương lĩnh chính trị đầu tiên cách mạng việt nam đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác. đó là 1945 từ cách mạng tháng tám thành công, 1954 đó là chiến thắng điện biên phủ miền bắc hoàn toàn
giải phóng, 1975 chiến dịch hồ chí minh lịch sử giải phóng miền nam thống nhất đất nước, 1986 thực hiện công
cuộc đổi mới đất nước với những cách thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử như hiện nay. Thêm ý cuối sgk
câu 69: ý nghĩa của sự ra đời đảng cộng sản việt nam ngày 3/2/1930 (trang 14 sgk)
hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở việt nam đã quy tụ ba tổ chức cộng sản thành lập một đảng cộng sản
duy nhất đó là đảng cộng sản việt nam theo một đường lối chính trị đúng đắn từ đó tạo nên sự thống nhất về tư
tưởng chính trị và hành động của phong trào cách mạng cả nước hướng đến mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. đảng cộng sản việt nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp
là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân việt nam và hệ tư tưởng mác-lênin đối với cách mạng
việt nam. thực tế cho thấy đảng cộng sản việt nam ra đời là sự lựa chọn của chính lịch sử. đầu thế kỷ 20 trước
nhiệm vụ giải phóng dân tộc các phong trào và các tổ chức chính trị trên lập trường phong kiến và tư sản đều đã
thể hiện vai trò của mình trên chiến trường việt nam nhưng họ đã bị thất bại bị mất vai trò lãnh đạo vì những
hạn chế yếu kém của các giai cấp đó và sự đàn áp khốc liệt của thực dân pháp. không phải ngẫu nhiên vào tháng
2 năm 1930, cùng có hai sự kiện diễn ra: thứ nhất việt nam quốc dân đảng phát động khởi nghĩa yên bái ngày
mùng 9 tháng 2 năm 1930 và vai trò của việt nam quốc dân đảng trong phong trào dân tộc kết thúc cùng với sự
thất bại của cuộc khởi nghĩa yên bái; thứ hai đảng cộng sản việt nam được thành lập ngày mùng 3 tháng 2 năm
1930 và ngay sau ra đời đảng đã phát động và lãnh đạo phong trào cách mạng 1930-1931 đồng thời nắm trọn
quyền lãnh đạo cách mạng việt nam.
chủ tịch hồ chí minh đánh giá về sự kiện đảng cộng sản việt nam ra đời là một bước ngoặt vô cùng quan trọng
trong lịch sử cách mạng việt nam ta. nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản nước ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh
đạo cách mạng. thực tế cho thấy sau khi đảng cộng sản việt nam ra đời đảng đã phát động một phong trào cách
mạng rộng lớn trong đó có việc lật đổ chính quyền của pháp ở hai tỉnh nghệ an hà tĩnh, lập chính quyền xô viết
tuyên bố độc lập và thi hành tự do dân chủ. tác giả trần dân tiên viết về phong trào cách mạng do đảng cộng sản
việt nam khi mới ra đời lãnh đạo như sau: “Thực dân Pháp tiếp tục chính sách khủng bố nhưng nhờ có cương
lĩnh mới dìu dắt cho nên những người cách mạng làm việc rất hăng hái.” Người cách mạng việt nam đã tìm thấy
phương pháp đấu tranh mới họ đã biết phối hợp tuyên truyền bãi công và tuần hành thị uy trong nhiều vùng. tất
cả nhân dân tham gia đấu tranh. trong những tỉnh nghệ an và hà tĩnh nhân dân việt nam đã lật đổ chế độ cai trị
của pháp và phong kiến và lập chính quyền xô viết. họ tuyên bố độc lập và thi hành tự do dân chủ. Những ủy
ban xã ủy ban huyện được dựng lên bãi bỏ thuế thân và thuế chợ, cấm thuốc phiện và rượu, thực hiện cưỡng
bách giáo dục. nói tóm lại nhân dân ta xây dựng một chế độ mới, dân chủ và thủ tiêu chế độ thực dân phong kiến.
Về quá trình ra đời của đảng cộng sản việt nam chủ tịch hồ chí minh trong bài 30 năm hoạt động của đảng đã
khái quát. chủ nghĩa mác-lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành
lập đảng cộng sản đông dương vào đầu năm 1930. như vậy tính đặc thù của việc hình thành đảng cộng sản việt
nam thể hiện ở việc đảng ta ra đời không chỉ là sản phẩm của sự kết hợp hai yếu tố đó là chủ nghĩa mác với
phong trào công nhân như luận điểm của đảng cộng sản luận điểm đảng cộng sản của lênin mà ngoài hai yếu tố
trên còn có sự kết hợp của yếu tố thứ ba đó chính là phong trào yêu nước việt nam. thực tiễn xây dựng đảng việt
cộng sản việt nam đã thể hiện hồ chí minh đã vận dụng sáng tạo học thuyết mác-lênin về xây dựng đảng trong
điều kiện một nước phương đông thuộc địa nửa phong kiến tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ theo định
hướng cách mạng vô sản. sự hình thành đảng cộng sản việt nam một mặt khẳng định giá trị phổ biến của chủ
nghĩa mác lênin về đảng cộng sản mà hồ chí minh đã nêu ra trong tác phẩm đường kách mệnh: Đảng muốn
vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy.”, “chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin”. Và chủ nghĩa mác-lênin theo hồ chí
minh có vai trò là lực lượng tư tưởng hùng mạnh chỉ đạo chúng tôi, làm cho đảng chúng tôi có thể trở thành
hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động hiện thân của trí tuệ danh dự và lương tâm của dân tộc
chúng tôi. mặt khác quá trình hình thành đảng cộng sản việt nam phản ánh bản chất giai cấp công nhân của
đảng khẳng định vai trò to lớn của giai cấp công nhân việt nam. hồ chí minh đã biết chỉ có giai cấp công nhân là
dũng cảm nhất cách mạng nhất luôn luôn khắp lưng đầu với bọn đế quốc thực dân. với lý luận cách mạng tiên
phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế giai cấp công nhân đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng
nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân việt nam.
nguyễn ái quốc xuất phát từ nhận thức sâu sắc truyền thống lịch sử văn hóa dân tộc và đặc điểm của xã hội giai
cấp ở việt nam đầu thế kỷ 20 trong đó đặc biệt là chủ nghĩa yêu nước. nhân tố trường tồn trong tiến trình lịch sử
dựng nước và giữ nước. ngay từ năm 1924 nguyễn ái quốc đã nhận định chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của
đất nước phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh quốc tế cộng sản nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến
thành chủ nghĩa quốc tế thực tế cho thấy kể từ khi thực dân pháp nổ súng xâm lược việt nam phong trào yêu
nước chống pháp đã bùng lên ngày càng mạnh mẽ là nền tảng để từ đó phát triển các phong trào theo nhiều
khuynh hướng chính trị khác nhau. khi giai cấp công nhân việt nam ra đời phong trào công nhân xuất hiện thì
phong trào yêu nước và phong trào công nhân đã từng bước phối hợp được với nhau và dần dần phong trào yêu
nước chịu ảnh hưởng lập trường phong trào công nhân vì cùng chung mục tiêu là đánh đuổi ngoại xâm giành
độc lập cho dân tộc mở đường cho quốc gia phát triển.
con đường nguyễn ái quốc đến với chủ nghĩa mác-lênin trở thành người cộng sản cũng đã chứng minh nhận
định trên của người lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải là chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo
lênin tin theo quốc tế thứ ba. từng bước 1 trong cuộc đấu tranh vừa nghiên cứu lý luận mác-lênin vừa làm công
tác thực tế dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân
tộc bị áp bức và những người lao động bị áp bức trên thế giới khỏi ách nô lệ. vào thời điểm nguyễn ái quốc xúc
tiến chuẩn bị các điều kiện để xây dựng đảng cộng sản thì ở việt nam chế độ phong kiến không còn đại diện cho
lợi ích của dân tộc. giai cấp tư sản việt nam địa vị kinh tế chính trị đều yếu ớt giai cấp công nhân việt nam đã
hình thành nhưng chưa đủ thực lực để lãnh đạo cách mạng đi đến thắng lợi. đây chính là lý do trực tiếp đòi hỏi
nguyễn ái quốc phải sáng tạo trong xây dựng đảng cộng sản việt nam những vấn đề nêu trên đã đặt ra yêu cầu
việc xây dựng đảng cộng sản việt nam vừa phải quán triệt đầy đủ những nguyên lý cơ bản phổ biến của chủ
nghĩa mác lênin về đảng cộng sản vừa phải sáng tạo để phù hợp với truyền thống lịch sử với thực tiễn vận động
của xã hội và giai cấp ở việt nam đầu thế kỷ 20. thực tế lịch sử cho thấy trong quá trình chuẩn bị về chính trị tư
tưởng và tổ chức cho việc thành lập đảng cộng sản việt nam nguyễn ái quốc không chỉ vận dụng sáng tạo mà
còn bổ sung phát triển học thuyết mác lênin về đảng cộng sản về vai trò to lớn của hồ chí minh không chỉ thể
hiện trong việc chuẩn bị về chính trị tư tưởng tổ chức và trực tiếp sáng lập ra đảng mà những quan điểm tư
tưởng của người về cách mạng việt nam về đảng cộng sản đã trực tiếp cấu thành đảng cộng sản việt nam. chính
vì vậy đại hội toàn quốc lần thứ 7 của đảng cộng sản việt nam năm 1991 đã chỉ rõ đảng cộng sản việt nam là sản
phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa mác lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân việt
nam. chủ tịch hồ chí minh là hiện thân trọn vẹn nhất cho sự kết hợp đó là tiêu biểu sản xuất sự kết hợp giai cấp
và dân tộc dân tộc và quốc tế độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. đồng thời đại hội 7 khẳng định đảng lấy chủ
nghĩa mác-lênin tư tưởng hồ chí minh làm nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho hành động.
sự kiện thành lập đảng cộng sản việt nam và việc ngay từ khi ra đời đảng đã có cương lĩnh chính trị xác định
đúng nắng con đường cách mạng đó là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản. đây chính là
cơ sở để đảng cộng sản việt nam sớm nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng việt nam giải quyết
được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ 20 đã
mở đường và phương hướng phát triển đúng đắn cho đất nước việt nam. sở dĩ có được những thuận lợi trên đây
trước hết do cách mạng việt nam có được lãnh tụ nguyễn ái quốc. tiếp đến là cách mạng việt nam có đường cách
mệnh trước khi thành lập đảng. và đây là những vấn đề khác nhau căn bản so với nhiều đảng cộng sản khác.
đảng cộng sản việt nam ra đời và việc đảng chủ trương cách mạng việt nam là một bộ phận của phong trào cách
mạng thế giới đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của quốc tế kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại làm nên những thắng lợi vẻ vang đồng thời cách mạng việt nam cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu
tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
như vậy ở bên trên đã khái quát một cách cơ bản và ý nghĩa của việc đảng cộng sản việt nam ra đời chúng ta
biết rằng đảng cộng sản việt nam ra đời ngày mùng 3 tháng 2 năm 1930 nhờ những đường lối đúng đắn do đảng
vạch ra đã đưa cách mạng việt nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. có thể khẳng định rằng mọi thắng lợi
của cách mạng việt nam trong xã hội hiện đại trong xã hội hiện đại đều gắn liền với vai trò lãnh đạo của đảng
cộng sản việt nam dân tộc chúng ta đã từng giao phó sứ mạng của mình cho các cái giai cấp tầng lớp đảng phái
chính trị khác cả các cái lực lượng các chuyên gia cấp các kịch bản phái chính trị đó đã không thể hoàn thành
được sứ mệnh lịch sử của mình