



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58504431
CHIẾN LƯỢC GIẢM PHÁT THẢI RÒNG VỀ “0”: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM Tóm tắt:
Bài viết tiến hành phân tích các chính sách và chiến lược đạt mục tiêu phát thải ròng
bằng không tại ba quốc gia gồm Singapore, Hàn Quốc và Đức – những nước đã đạt được
kết quả tích cực nhờ vào việc đẩy mạnh phát triển năng lượng tái tạo, ứng dụng công nghệ
thu giữ và lưu trữ các – bon (CCS), cũng như triển khai hiệu quả các cơ chế định giá các –
bon. Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm quốc tế, bài viết đánh giá thực trạng và tiềm năng
triển khai chiến lược Net Zero tại Việt Nam. Kết quả phân tích cho thấy, để hiện thực hóa
cam kết phát thải ròng bằng không vào năm 2050, Việt Nam cần tăng cường đầu tư vào
năng lượng sạch, giảm dần sự phụ thuộc vào than đá, phát triển thị trường tài chính xanh
và hoàn thiện hệ thống pháp lý nhằm hỗ trợ quá trình chuyển đổi năng lượng. Mặc dù sở
hữu tiềm năng lớn nhờ nguồn năng lượng tái tạo dồi dào và diện tích rừng đáng kể, Việt
Nam vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức lớn về tài chính, công nghệ và năng lực triển
khai, đòi hỏi cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên liên quan nhằm thúc đẩy quá trình
chuyển đổi và đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng không theo đúng lộ trình đề ra.
Từ khoá: Phát thải ròng bằng 0, chiến lược phát thải ròng, giảm các – bon Abtracts:
The article analyzes the policies and strategies aimed at achieving net-zero emissions in
three countries: Singapore, South Korea, and Germany – nations that have attained positive
outcomes through the promotion of renewable energy, the application of carbon capture
and storage (CCS) technologies, and the effective implementation of carbon pricing
mechanisms. Based on the synthesis of international experiences, the article evaluates the
current status and potential for implementing a Net Zero strategy in Vietnam. The analysis
indicates that, in order to realize its commitment to net-zero emissions by 2050, Vietnam
needs to increase investment in clean energy, gradually reduce dependence on coal, develop
the green financial market, and improve the legal framework to support the energy
transition process. Despite possessing significant potential due to abundant renewable
energy resources and substantial forest areas, lOMoAR cPSD| 58504431
Vietnam still faces major challenges in terms of finance, technology, and implementation
capacity, requiring close coordination among stakeholders to promote the transition process
and achieve the net-zero emissions as planned.
Keywords: Net Zero Emissions, Net Zero Strategy, Carbon Reduction, Decarbonization. 1. Giới thiệu
Trong những năm gần đây, mục tiêu phát thải ròng bằng không (Net Zero Emissions)
đã trở thành ưu tiên hàng đầu trong các chính sách khí hậu trên toàn thế giới. Trái với cách
tiếp cận trước đây vốn nhấn mạnh vào việc ổn định nồng độ khí nhà kính trong khí quyển
(UNFCCC, 1992) hay cam kết cắt giảm theo tỷ lệ phần trăm nhất định (UNFCCC, 1997),
các quốc gia hiện đang tập trung vào việc thiết lập mốc thời gian cụ thể để đạt mức phát
thải ròng bằng không, phù hợp với mục tiêu giới hạn mức tăng nhiệt độ toàn cầu dưới 2°C
và cố gắng không vượt quá 1,5°C theo Thỏa thuận Paris (Energy & Climate Intelligence
Unit & Oxford Net Zero, 2021).
Khái niệm “phát thải ròng bằng không” đã được nhiều tổ chức quốc tế uy tín định
nghĩa với những điểm nhấn riêng nhưng đều thống nhất về bản chất: cân bằng giữa lượng
khí nhà kính phát thải và lượng được loại bỏ khỏi khí quyển. Theo Ủy ban Liên chính phủ
về Biến đổi Khí hậu (IPCC), phát thải ròng bằng không đồng nghĩa với việc mọi khí nhà
kính do con người thải ra cần được loại bỏ tương ứng trong một khung thời gian nhất định,
nhằm duy trì cân bằng khí hậu (IPCC, 2018). Ngoài ra, báo cáo của IPCC (2018) cũng chỉ
rõ: để giữ mức tăng nhiệt độ toàn cầu dưới 1,5°C, tổng lượng phát thải CO cho₂ phép trong
tương lai chỉ nằm trong khoảng từ 400 đến 800 GtCO . Điều này đòi hỏi phát₂ thải toàn cầu
phải đạt đỉnh trước năm 2030 và tiến tới bằng 0 vào khoảng năm 2050. Bên cạnh đó, Cơ
quan Năng lượng Quốc tế nhấn mạnh rằng tiến trình đạt Net Zero không chỉ đòi hỏi cắt
giảm phát thải đến mức tối thiểu, mà còn cần các cơ chế loại bỏ các – bon tương đương để
bù đắp phần phát thải còn lại (IEA, 2021).
Tại Việt Nam, với tốc độ tăng trưởng kinh tế và công nghiệp diễn ra nhanh chóng
trong những thập kỷ gần đây, lượng phát thải khí nhà kính (GHG) được dự báo sẽ gia tăng
đáng kể nếu không có sự can thiệp mạnh mẽ về chính sách và công nghệ. Theo nghiên cứu
của Viện Nghiên cứu Môi trường Quốc gia Nhật Bản (NIES), phát thải GHG của Việt Nam
có thể đạt mức 687 triệu tấn CO tương đương (MtCO eq) vào năm 2030₂ ₂ và có thể tăng
gần gấp đôi vào năm 2050 nếu không có biện pháp chuyển đổi năng lượng và cải cách
trong sản xuất công nghiệp (Nguyen & cộng sự, 2021). Báo cáo của Ngân hàng Thế giới lOMoAR cPSD| 58504431
(2022) cũng nhận định rằng Việt Nam hiện nằm trong nhóm các quốc gia có mức phát thải
GHG tăng nhanh nhất, chủ yếu do sự phụ thuộc lớn vào than đá trong sản xuất điện và mở
rộng quy mô công nghiệp nặng.
Trước những thách thức này, Việt Nam đã nhận thức được tầm quan trọng của hành
động khí hậu và từng bước xây dựng khuôn khổ chính sách phù hợp. Từ năm 2012, Chính
phủ đã ban hành Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu, đặt nền móng cho việc tích hợp
mục tiêu khí hậu vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội. Bước ngoặt quan trọng
là vào năm 2015, Việt Nam chính thức đệ trình bản Đóng góp do quốc gia tự quyết định
(Nationally Determined Contribution – NDC) đầu tiên trong khuôn khổ Thỏa thuận Paris,
cam kết giảm 8% lượng phát thải GHG vào năm 2030 so với kịch bản phát triển thông
thường (BAU) – và có thể nâng lên đến 25% nếu nhận được hỗ trợ quốc tế (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2015).
Không dừng lại ở đó, Việt Nam đã chủ động rà soát, cập nhật NDC vào năm 2020
và lần tiếp theo vào năm 2022, nâng mức cam kết giảm phát thải lên 15,8% (đóng góp vô
điều kiện) và 43,5% (đóng góp có điều kiện) vào năm 2030 so với BAU, đồng thời tích
hợp rõ ràng mục tiêu phát thải ròng bằng không vào năm 2050 như một định hướng phát
triển quốc gia lâu dài (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2022). Các NDC mới không chỉ bao
gồm mục tiêu tổng thể mà còn phân chia cụ thể cho các lĩnh vực chính như năng lượng,
nông nghiệp, công nghiệp, chất thải và sử dụng đất, cho thấy cách tiếp cận có hệ thống và
toàn diện hơn. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã ban hành Chiến lược quốc gia về tăng trưởng
xanh giai đoạn 2021–2030, tầm nhìn đến năm 2050, với mục tiêu giảm cường độ phát thải
GHG trên GDP, thúc đẩy tiêu dùng bền vững và nâng cao năng lực ứng phó với biến đổi
khí hậu (Thủ tướng Chính phủ, 2021).
Những cam kết mạnh mẽ này cho thấy Việt Nam không chỉ hành động vì trách nhiệm
toàn cầu, mà còn vì lợi ích phát triển bền vững trong nước, với nhận thức rằng thích ứng
và giảm nhẹ biến đổi khí hậu là yếu tố then chốt để đảm bảo an ninh năng lượng, an toàn
sinh thái và chất lượng cuộc sống của người dân trong dài hạn. Để thực hiện được điều này,
Việt Nam cần học hỏi kinh nghiệm quốc tế, đặc biệt từ những quốc gia đã đạt được tiến bộ
đáng kể trong việc giảm phát thải thông qua đổi mới công nghệ, chính sách năng lượng
sạch và phát triển thị trường các – bon hiệu quả. Phần tiếp theo của bài viết sẽ tập trung
phân tích các chiến lược và bài học thực tiễn từ các quốc gia như Singapore, Hàn Quốc và
Đức – những nước đã triển khai nhiều sáng kiến đáng chú ý trong tiến trình hiện thực hóa
mục tiêu phát thải ròng bằng không. lOMoAR cPSD| 58504431
2. Kinh nghiệm quốc tế hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng không
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp so sánh chính sách để phân tích các chiến
lược nhằm đạt mục tiêu phát thải ròng bằng không của một số quốc gia phát triển, đồng
thời kết hợp đánh giá thực trạng trong nước để rút ra những bài học kinh nghiệm phù hợp
với bối cảnh Việt Nam. Thông qua việc đối chiếu các mô hình chính sách, mức độ cam kết
và các giải pháp công nghệ, nghiên cứu hướng đến việc đề xuất những khuyến nghị khả thi
nhằm hỗ trợ Việt Nam hiện thực hóa mục tiêu phát thải ròng bằng không vào năm 2050.
2.1. Kinh nghiệm của Singapore
Singapore là một trong những quốc gia tiên phong tại châu Á cam kết đạt mục tiêu
phát thải ròng bằng không vào năm 2050, thể hiện trong Chiến lược phát triển phát thải
thấp dài hạn (LEDS) và được cụ thể hóa thông qua Đóng góp do quốc gia tự quyết định
(NDC) cập nhật gửi lên UNFCCC vào năm 2022 (National Climate Change Secretariat
[NCCS], 2022). Theo lộ trình đã công bố, quốc đảo này đặt mục tiêu giảm phát thải CO₂
xuống còn khoảng 60 triệu tấn vào năm 2030, tiếp tục giảm còn 45–50 triệu tấn vào năm 2035.
Trước những hạn chế về diện tích lãnh thổ khiến việc phát triển năng lượng tái tạo
nội địa gặp khó khăn, Singapore đã xây dựng chiến lược phát thải thấp dựa trên ba trụ cột
chính: (i) nhập khẩu điện các – bon thấp, (ii) phát triển năng lượng hydro sạch và (iii) mở
rộng thị trường carbon. Một trong những bước đi đáng chú ý là kế hoạch nhập khẩu tới 4
GW điện các – bon thấp từ các quốc gia láng giềng vào năm 2035, nhằm đáp ứng khoảng
30% nhu cầu tiêu thụ điện nội địa (Energy Market Authority [EMA], 2021). Song song đó,
Singapore đã công bố Chiến lược Quốc gia về Hydro với tham vọng sử dụng hydro xanh
để đáp ứng tới 50% nhu cầu điện năng vào năm 2050 (Ministry of Trade and Industry
[MTI], 2022). Đây được xem là giải pháp then chốt trong việc thay thế nhiên liệu hóa thạch,
giảm phụ thuộc vào nguồn năng lượng nhập khẩu không bền vững.
Singapore là quốc gia đầu tiên ở Đông Nam Á áp dụng thuế các – bon, bắt đầu từ
năm 2019 với mức 5 SGD/tấn CO e. Theo lộ trình điều chỉnh, mức thuế này đã tăng lên₂
25 SGD/tấn từ năm 2024 và dự kiến sẽ tiếp tục tăng lên 45 SGD/tấn vào giai đoạn 2026–
2027, sau đó đạt mức 50–80 SGD/tấn vào năm 2030 (Ministry of Sustainability and the
Environment [MSE], 2022). Song hành với công cụ chính sách cứng là thuế các – bon,
quốc gia này cũng phát triển thị trường tín chỉ các – bon như một cơ chế linh hoạt nhằm hỗ
trợ doanh nghiệp giảm phát thải. Theo quy định, các doanh nghiệp có thể sử dụng tín chỉ
các – bon quốc tế đạt chuẩn cao để bù đắp tối đa 5% lượng phát thải chịu thuế (NCCS, lOMoAR cPSD| 58504431
2023). Nhằm thúc đẩy thị trường này, Singapore đã thành lập Liên minh Thị trường Các –
bon Singapore (Singapore Carbon Market Association – SCMA) vào năm 2023, nhằm kết
nối các bên liên quan trong chuỗi cung ứng tín chỉ các – bon. Đồng thời, thông qua quỹ
đầu tư GenZero thuộc Temasek Holdings, Singapore đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong khuôn
khổ Điều 6 của Thỏa thuận Paris với các quốc gia như Rwanda, Lào, Philippines và Việt Nam (World Bank, 2023).
Bên cạnh các giải pháp thị trường, Singapore cũng tích cực đầu tư phát triển công
nghệ thu giữ và lưu trữ các – bon (CCS), cũng như công nghệ hấp thụ CO từ đại dương₂ –
một sáng kiến hợp tác giữa Cơ quan Quản lý Nước Quốc gia Singapore (PUB), Đại học
California, Los Angeles (UCLA) và công ty công nghệ khí hậu Equatic. Dự án có tổng vốn
đầu tư khoảng 20 triệu USD, ứng dụng công nghệ điện phân để chiết xuất CO từ₂ nước
biển và chuyển hóa thành các dạng khoáng chất ổn định. Khi đi vào vận hành vào cuối năm
2025, cơ sở này dự kiến có khả năng loại bỏ khoảng 3.650 tấn CO mỗi năm,₂ trở thành dự
án loại bỏ các – bon đại dương lớn nhất thế giới (Time, 2024; Reuters, 2024). Ngoài ra, với
nền tảng Climate Impact X (CIX), Singapore đang dần định hình vị thế là trung tâm giao
dịch tín chỉ các – bon của khu vực châu Á, hướng đến minh bạch hóa định giá các – bon
và thúc đẩy đầu tư vào các dự án giảm phát thải (World Bank, 2023). Nhờ sự kết hợp hài
hòa giữa chính sách điều tiết và cơ chế thị trường, quy mô thị trường các – bon của
Singapore đã tăng trưởng mạnh mẽ – từ 14,5 triệu USD năm 2023 lên mức dự kiến 55,14
triệu USD vào năm 2030, với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) khoảng 21% (Pacific Group, 2023).
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu, Singapore vẫn đối mặt với những thách thức
lớn, đặc biệt là phải đối mặt với chi phí đầu tư cao cho công nghệ tiên tiến và sự phụ thuộc
lớn vào nguồn năng lượng nhập khẩu. Do đó, để đảm bảo hiện thực hóa cam kết vào năm
2050, Singapore cần tiếp tục đẩy mạnh đổi mới công nghệ, mở rộng hợp tác khu vực và
duy trì đầu tư bền vững vào các mô hình kinh tế các – bon thấp.
2.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Bên cạnh Singapore, Hàn Quốc cũng là một trong những quốc gia châu Á thể hiện
cam kết mạnh mẽ trong việc đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng không vào năm 2050
thông qua việc ban hành "Chiến lược Trung hòa Các – bon 2050" và "Chiến lược Phát triển
Phát thải Khí Nhà kính Thấp Dài hạn (LEDS)". Các chiến lược này đặt ra các mục tiêu
định lượng cụ thể và tích hợp với chính sách phát triển kinh tế – xã hội quốc gia (Ministry
of Environment Korea, 2021). Đặc biệt, Hàn Quốc đã luật hóa mục tiêu trung hòa các – lOMoAR cPSD| 58504431
bon thông qua "Đạo luật Khung về Trung hòa Các – bon và Tăng trưởng Xanh", có hiệu
lực từ tháng 3 năm 2022. Luật này quy định mục tiêu giảm 40% lượng phát thải khí nhà
kính vào năm 2030 so với mức năm 2018 và đạt trung hòa các – bon vào năm 2050.
Vượt xa mục tiêu toàn quốc, k hu vực công của Hàn Quốc đã cam kết đạt được trung
hòa các – bon sớm hơn, vào năm 2045, như một phần trong nỗ lực dẫn dắt chuyển đổi năng
lượng quốc gia. Để hiện thực hóa điều này, quốc gia này đã áp dụng các chính sách tiên
tiến như chứng nhận công trình “Zero-Energy Building”, tích hợp hệ thống quản lý năng
lượng thông minh (Building Energy Management System – BEMS) vào các tòa nhà công
cộng, và cập nhật năm cơ sở trong hệ thống kiểm soát phát thải quốc gia (GHG Target
Control System) từ 2007–2009 lên 2018, nhằm phản ánh chính xác hơn hiện trạng phát thải
và tiệm cận với mục tiêu trong Đóng góp quốc gia (NDC) đã cập nhật năm 2021 (Ministry of Environment Korea, 2021).
Một trong những trụ cột chiến lược của Hàn Quốc trong quá trình hướng tới trung
hòa các – bon là chuyển đổi mạnh mẽ sang các nguồn năng lượng các – bon thấp, bao gồm
điện sạch, hydrogen và năng lượng tái tạo. Chính phủ Hàn Quốc đã công bố “Chiến lược
Kinh tế Hydrogen” từ năm 2019, đặt mục tiêu phát triển 6,2 triệu xe chạy bằng pin nhiên
liệu hydrogen và xây dựng khoảng 1.200 trạm sạc hydrogen vào năm 2040. Bên cạnh đó,
đến năm 2030, nước này hướng tới mục tiêu triển khai khoảng 3 triệu xe điện và 850.000
xe hydrogen (IEA, 2022). Cùng với quá trình điện khí hóa phương tiện giao thông, Hàn
Quốc cũng thúc đẩy mạnh mẽ công nghệ thu giữ, sử dụng và lưu trữ các – bon (CCUS)
như một giải pháp thiết yếu nhằm giảm phát thải trong các ngành công nghiệp khó cắt giảm
như xi măng, hóa chất và thép. Chính phủ đã đầu tư vào các dự án thí điểm CCUS tại các
cụm công nghiệp trọng điểm, đồng thời triển khai các chương trình hỗ trợ nghiên cứu –
phát triển (R&D) và hợp tác công – tư để thương mại hóa công nghệ này (Park & cộng sự, 2022).
Ngoài ra, kể từ năm 2015, Hàn Quốc đã thực thi Tiêu chuẩn Nhiên liệu Tái tạo
(Renewable Fuel Standard – RFS), yêu cầu pha trộn một tỷ lệ tối thiểu nhiên liệu sinh học
vào xăng và diesel thương mại. Chính sách này đi đôi với các chương trình trợ cấp cho xe
điện, xe nhiên liệu sạch và phát triển hạ tầng sạc điện, sạc hydrogen trên toàn quốc, qua đó
tạo nền tảng chuyển đổi hệ thống giao thông theo hướng các – bon thấp (Climate Policy Database, 2013).
Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi năng lượng của Hàn Quốc vẫn gặp nhiều thách
thức, đặc biệt là sự phụ thuộc vào than đá – nguồn chiếm gần 30% tổng sản lượng điện của lOMoAR cPSD| 58504431
quốc gia tính đến năm 2022. Để hiện thực hóa mục tiêu phát thải ròng bằng không vào năm
2050, Hàn Quốc cần tiếp tục gia tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo trong cơ cấu năng lượng, mở
rộng hệ thống lưu trữ điện, hiện đại hóa lưới điện và cải tiến cơ chế định giá các – bon
trong khuôn khổ Hệ thống Giao dịch Phát thải Khí nhà kính (K-ETS) (IEA, 2022).
2.3. Kinh nghiệm của Đức
Đức là một trong những quốc gia đi đầu ở châu Âu trong việc thể chế hóa mục tiêu
phát thải ròng bằng không vào năm 2045. Mục tiêu này được quy định trong Luật Bảo vệ
Khí hậu (Federal Climate Change Act), với các mục tiêu trung gian bao gồm: giảm ít nhất
65% lượng phát thải khí nhà kính vào năm 2030, 88% vào năm 2040 so với mức năm 1990,
và đạt mức phát thải ròng bằng không vào năm 2045 (BMWK, 2021). Đây là một trong
những lộ trình khí hậu tham vọng nhất trong Liên minh châu Âu, thể hiện cam kết mạnh
mẽ của Đức trong việc dẫn dắt quá trình chuyển đổi năng lượng toàn cầu.
Chiến lược khí hậu của Đức tập trung vào ba trụ cột chính: loại bỏ dần điện than vào
năm 2038, tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo lên ít nhất 80% trong cơ cấu điện vào năm 2030,
và thúc đẩy thị trường xe điện với mục tiêu đạt 15 triệu xe vào cuối thập kỷ (Clean Energy
Wire, 2024). Chính phủ Đức cũng đẩy mạnh phát triển hydro xanh, đặc biệt là trong ngành
công nghiệp nặng, nhằm giảm thiểu phát thải trong các ngành sản xuất năng lượng khó cắt
giảm như thép, xi măng và hóa chất. Bên cạnh các chính sách công nghệ, Đức còn áp dụng
các biện pháp kinh tế mạnh mẽ, nổi bật là việc thiết lập cơ chế định giá các – bon quốc gia
từ năm 2021 đối với các lĩnh vực chưa được bao phủ bởi Hệ thống giao dịch phát thải của
EU (EU ETS), bao gồm giao thông và sưởi ấm (UBA, 2022). Để hỗ trợ tài chính cho quá
trình chuyển đổi xanh, chính phủ đã thành lập Quỹ Khí hậu và Chuyển đổi Năng lượng
(Klima- und Transformationsfonds – KTF), với nguồn vốn lên đến hàng trăm tỷ euro để tài
trợ cho các dự án cải tạo năng lượng trong xây dựng, phát triển hạ tầng xe điện và nghiên
cứu hydro xanh (BMWK, 2023). Theo Luderer và cộng sự (2020), các cơ chế tài chính quy
mô lớn như vậy là điều kiện thiết yếu để đảm bảo tính khả thi và công bằng trong chuyển
đổi năng lượng quốc gia.
Tuy nhiên, tiến trình thực hiện cam kết Net Zero của Đức cũng đối mặt với nhiều
thách thức. Việc đồng thời loại bỏ điện than và điện hạt nhân trong khi năng lượng tái tạo
chưa thể đáp ứng đủ nhu cầu khiến Đức đối mặt với nguy cơ thiếu hụt năng lượng trong
ngắn hạn và gia tăng sự phụ thuộc vào nhập khẩu khí đốt. Điển hình là cuộc khủng hoảng
năng lượng năm 2022 đã làm nổi bật sự thiếu hụt nguồn cung năng lượng trong ngắn hạn
(Hirth & cộng sự, 2021). Bên cạnh đó, các dự án phát triển điện gió và hạ tầng truyền tải lOMoAR cPSD| 58504431
cũng gặp phải nhiều khó khăn về thủ tục và tiến độ, làm chậm quá trình chuyển đổi năng
lượng, cho thấy rằng mặc dù Đức có tiềm lực công nghệ mạnh mẽ và cam kết chính trị rõ
ràng, nhưng nếu không có giải pháp dài hạn cho dự trữ năng lượng và tăng cường năng lực
truyền tải, quốc gia này có thể gặp khó khăn trong việc duy trì sự ổn định của hệ thống năng lượng (BMWK, 2021).
Mặc dù vậy, với nền tảng công nghệ phát triển và áp lực mạnh mẽ từ xã hội dân sự,
Đức vẫn duy trì vai trò là "đầu tàu" trong Liên minh Châu Âu về chuyển đổi năng lượng.
Quốc gia này được coi là hình mẫu trong chính sách khí hậu, khi kết hợp giữa mục tiêu
giảm phát thải và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Đức đã chứng minh rằng chiến
lược phát triển năng lượng xanh không chỉ là cơ hội để cải thiện môi trường mà còn là động
lực thúc đẩy đổi mới sáng tạo và phát triển công nghệ (Luderer & cộng sự, 2020).
Sự khác biệt trong lộ trình và cam kết của Đức, Singapore và Hàn Quốc phản ánh
rõ năng lực tài chính, cấu trúc hạ tầng năng lượng và mức độ phụ thuộc vào nhiên liệu hóa
thạch của từng quốc gia. Đức, với mục tiêu đạt Net Zero vào năm 2045, đang đối mặt với
thách thức lớn từ việc đồng thời loại bỏ điện than và điện hạt nhân. Singapore, với diện
tích hạn chế cho phát triển năng lượng tái tạo, ưu tiên nhập khẩu điện sạch và xây dựng thị
trường các – bon để trở thành trung tâm khu vực. Trong khi đó, Hàn Quốc hướng tới trung
hòa các – bon vào năm 2050, tập trung vào mở rộng xe điện, hydrogen và công nghệ CCUS,
song vẫn phải nỗ lực giảm phát thải trong lĩnh vực điện và công nghiệp nặng. Tổng thể,
quá trình chuyển đổi năng lượng là thách thức chung nhưng cũng mở ra nhiều cơ hội đổi
mới, đòi hỏi mỗi quốc gia cần thực hiện các giải pháp mạnh mẽ và đồng bộ hơn để hiện
thực hóa cam kết Net Zero.
Từ những kinh nghiệm này, Việt Nam có thể học hỏi để thiết kế và thực thi các chính
sách phù hợp với bối cảnh quốc gia, qua đó đảm bảo tiến trình giảm phát thải diễn ra bền
vững, góp phần đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
3. Thực trạng phát thải khí nhà kính và khả năng thực hiện Net Zero tại Việt Nam.
3.1. Thực trạng phát thải khí nhà kính
Trong hơn ba thập kỷ qua, lượng phát thải khí nhà kính của Việt Nam đã gia tăng
mạnh mẽ, từ mức dưới 50 triệu tấn CO e vào đầu những năm 1990 lên khoảng 450 triệu₂
tấn vào năm 2021. Đặc biệt, giai đoạn từ 2000 đến 2001 chứng kiến một sự gia tăng mạnh
mẽ, phản ánh sự bùng nổ trong công nghiệp hóa và nhu cầu năng lượng trong thời kỳ phát
triển kinh tế nhanh chóng. Giai đoạn từ 2010 đến 2012 có sự chững lại nhẹ, có thể là do lOMoAR cPSD| 58504431
các yếu tố kinh tế hoặc điều chỉnh chính sách, nhưng sau đó phát thải tiếp tục tăng mạnh
và đạt đỉnh vào năm 2019–2020, duy trì ở mức cao đến năm 2021 (World Bank, 2022).
Sự gia tăng phát thải này nhấn mạnh một thách thức lớn trong việc thực hiện cam kết
giảm phát thải của Việt Nam, đặc biệt là mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng không vào
năm 2050. Điều này cũng chỉ ra sự cần thiết phải chuyển đổi sang các mô hình phát triển
các – bon thấp và bền vững để đáp ứng các cam kết quốc gia về biến đổi khí hậu
(Vietnam Ministry of Natural Resources and Environment, 2021).
Hình 1. Tăng trưởng lượng khí thải nhà kính tại Việt Nam
Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp từ dữ liệu của www.climatewatchdata.org
Theo dữ liệu từ Climate Watch (2024), tổng lượng phát thải khí nhà kính của Việt
Nam trong năm 2022 đạt khoảng 458,14 triệu tấn CO tương đương (MtCO e), chiếm₂ ₂
0,96% tổng lượng phát thải toàn cầu và xếp thứ 19 trong số 198 quốc gia. Với dân số
khoảng 98 triệu người, lượng phát thải bình quân đầu người là 4,71 tCO e, phản ánh mức₂
đóng góp đáng kể vào phát thải toàn cầu, dù vẫn thấp hơn nhiều so với các quốc gia phát
triển. Đáng chú ý, cường độ phát thải – tức lượng khí nhà kính phát thải trên mỗi đơn vị
GDP – của Việt Nam ở mức 1.334,73 tCO e/triệu USD. Con số này cho thấy nền kinh tế₂
Việt Nam hiện vẫn dựa nhiều vào các ngành sử dụng năng lượng và phát thải cao, đặt ra
thách thức không nhỏ trong việc duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững đi đôi với mục tiêu
giảm phát thải khí nhà kính.
Mức độ dễ bị tổn thương và khả năng sẵn sàng thích ứng với biến đổi khí hậu của
Việt Nam cũng được phản ánh thông qua Chỉ số ND-GAIN. Cụ thể, Việt Nam xếp hạng 70
về mức độ dễ bị tổn thương và 89 về mức độ sẵn sàng trong tổng số 182 quốc gia, với các
điểm số lần lượt là 0,458 và 0,432 (Notre Dame Global Adaptation Initiative, 2024). Những lOMoAR cPSD| 58504431
chỉ số này cho thấy Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế về năng lực ứng phó và khả năng phục
hồi trước các tác động khí hậu ngày càng gia tăng.
Theo Kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng do Bộ Tài nguyên và Môi trường
(2020) công bố, nhiệt độ trung bình năm tại Việt Nam được dự báo sẽ tăng từ 1,0°C đến
3,4°C trong giai đoạn 2080–2099 so với giai đoạn tham chiếu 1986–2005, tùy thuộc vào
kịch bản phát thải. Trong đó, mức tăng thấp nhất (1,0°C) tương ứng với kịch bản phát thải
thấp (RCP2.6), còn mức tăng cao nhất (3,4°C) xảy ra trong kịch bản phát thải cao (RCP8.5).
Xu hướng gia tăng nhiệt độ này đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với Việt Nam,
đặc biệt trong việc đảm bảo an ninh lương thực, bảo vệ hệ sinh thái, sức khỏe cộng đồng,
cũng như duy trì tăng trưởng kinh tế - xã hội bền vững trong bối cảnh quốc gia đang cam
kết đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Bảng 1. Tổng quan phát thải các Quốc gia trên thế giới STT Quốc gia 2019 2020 2021 1 Trung Quốc 11953.60 12119.66 12791.58 2 Hoa Kỳ 5798.48 5268.61 5564.83 3 Ấn Độ 3385.58 3176.03 3419.89 4 Nga 1919.68 1836.79 1975.57 5 Brazil 1467.54 1470.25 1531.51 6 Indonesia 1919.32 1481.59 1484.66 7 Nhật Bản 1126.04 1064.38 1071.59 8 Iran 898.34 908.39 952.23 9 Canada 778.44 721.31 733.27 10 Ả rập Xê út 717.30 708.47 730.64 11 Đức 740.33 684.63 713.29 12 Cộng hoà Công gô 687.62 687.81 687.22 13 Mexico 677.60 615.58 638.55 14 Hàn Quốc 654.42 614.66 632.43 15 Úc 630.85 580.76 576.40 16 Nam Phi 563.55 509.29 517.35 17 Thổ Nhĩ Kì 462.83 475.93 513.66 lOMoAR cPSD| 58504431 18 Pakistan 434.26 466.59 488.02 19 Việt Nam 451.19 464.89 457.05 20 Thái Lan 451.55 451.84 449.51
Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp từ dữ liệu của www.climatewatchdata.org
Theo Báo cáo cập nhật Đóng góp do quốc gia tự quyết định năm 2022 của Bộ Tài nguyên
và Môi trường, cơ cấu phát thải khí nhà kính của Việt Nam cho thấy sự chiếm ưu thế rõ rệt
của lĩnh vực năng lượng, chiếm tới 65,8% tổng lượng phát thải quốc gia. Đây là kết quả
trực tiếp từ sự gia tăng nhu cầu năng lượng trong quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa
nhanh chóng. Tiếp theo là các lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo (15,5%), nông nghiệp
(14,8%) và chất thải (4,5%) (MONRE, 2022). Đáng lưu ý, lĩnh vực sử dụng đất, thay đổi
sử dụng đất và lâm nghiệp (LULUCF) tiếp tục đóng vai trò là bể hấp thụ các – bon, với
mức phát thải âm 13,02 triệu tấn CO tương đương, tương đương -2,77% tổng₂ phát thải
quốc gia. Tuy nhiên, so với giai đoạn trước năm 2000, khi lĩnh vực này từng hấp thụ tới 72
triệu tấn CO mỗi năm, khả năng hấp thụ hiện tại đã suy giảm đáng kể (Nguyễn₂ & Trần,
2021). Những số liệu nêu trên phản ánh áp lực ngày càng lớn mà Việt Nam đang đối mặt
trong việc cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và mục tiêu giảm phát thải. Để đạt được cam
kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, Việt Nam cần đẩy mạnh cải cách chính sách, nâng
cao hiệu quả sử dụng năng lượng, đầu tư vào công nghệ phát thải thấp, và cải thiện hệ thống
quản lý tài nguyên đất và rừng một cách bền vững.
3.2. Cơ hội thực hiện Net Zero tại Việt Nam
Một trong những cơ hội nổi bật giúp Việt Nam đạt được mục tiêu phát thải ròng
bằng 0 vào năm 2050 là phát triển thị trường các – bon nội địa. Theo Đề án Thành lập và
Phát triển thị trường các – bon tại Việt Nam, giai đoạn thí điểm sàn giao dịch các – bon
trong nước sẽ được triển khai từ tháng 6/2025 đến hết năm 2028, trước khi chính thức hoạt
động từ năm 2029 (Bộ Tài chính, 2024). Thị trường này sẽ tạo ra một cơ chế tài chính linh
hoạt, cho phép các doanh nghiệp và tổ chức mua bán tín chỉ các – bon, đồng thời thúc đẩy
các hoạt động giảm phát thải khí nhà kính. Việc phát triển thị trường các – bon không chỉ
góp phần giảm thiểu khí thải mà còn tạo động lực thu hút đầu tư quốc tế vào các dự án
năng lượng tái tạo và công nghệ xanh, đóng vai trò quan trọng trong chuyển đổi nền kinh
tế Việt Nam sang mô hình bền vững và ít các – bon.
Bên cạnh đó, việc xây dựng và triển khai Quy hoạch không gian biển quốc gia là
một cơ hội chiến lược khác để Việt Nam đạt được mục tiêu Net Zero. Quy hoạch này sẽ
định hướng sử dụng không gian biển một cách khoa học và bền vững, mở ra cơ hội khai lOMoAR cPSD| 58504431
thác tiềm năng lớn từ điện gió ngoài khơi – nguồn năng lượng tái tạo đầy hứa hẹn nhưng
chưa được khai thác hết tiềm năng. Việt Nam sở hữu tiềm năng kỹ thuật điện gió ngoài
khơi lên đến 165.000 MW, với nhiều khu vực, như Nam Trung Bộ, có tốc độ gió lý tưởng
(7–9 m/s) cho các dự án quy mô lớn (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2020). Việc xác định
rõ các vùng biển có điều kiện thuận lợi cho phát triển điện gió trong quy hoạch giúp bảo
đảm sự kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường và an ninh quốc phòng.
Đây không chỉ là một bước đi quan trọng trong quá trình chuyển dịch năng lượng mà còn
là nền tảng thu hút đầu tư quốc tế vào kinh tế biển xanh, giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu
hóa thạch, từ đó đóng góp vào mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính.
Việt Nam cũng đã có những bước tiến đáng kể trong cam kết giảm phát thải khí nhà
kính thông qua việc hoàn thành rà soát và cập nhật Đóng góp do quốc gia tự quyết định
(NDC). Đến năm 2030, Việt Nam dự kiến giảm 9% tổng lượng phát thải khí nhà kính so
với kịch bản phát triển bình thường, tương đương 83,9 triệu tấn CO2, và có thể giảm tới
27% (250,8 triệu tấn CO2) nếu nhận được sự hỗ trợ quốc tế thông qua hợp tác và đầu tư
(Take & cộng sự, 2023). Năm 2022, Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu đến năm 2050
đã được phê duyệt, với mục tiêu giảm 43,5% phát thải vào năm 2030, cùng các mục tiêu
phát thải cụ thể theo từng ngành. Những cam kết này mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam trong
việc không chỉ ứng phó với biến đổi khí hậu mà còn thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững
trong tương lai (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2020). Bảng 2. Kế hoạch thực hiện các
mục tiêu về giảm phát thải các – bon tại Việt Nam Mục tiêu Năm 2030 Năm 2050
Tổng lượng phát thải khí Giảm 43,5%
Bằng “0”. Lượng phát thải nhà kính quốc gia
đạt đỉnh vào năm 2035, sau đó giảm nhanh Lĩnh vực năng lượng Giảm 32,6%, lượng phát Giảm 91,6%, lượng phát
thải không vượt quá 457
thải không vượt quá 101 triệu tấn CO2 triệu tấn CO2 Lĩnh vực nông nghiệp Giảm 43,0%, lượng phát Giảm 63,1%, lượng phát thải không vượt quá 64 thải không vượt quá 56 triệu tấn CO2 triệu tấn CO2
Lĩnh vực lâm nghiệp, sử
Giảm 70% lượng phát thải Giảm 90% lượng phát thải, dụng đất
và tăng 20% lượng hấp thụ
tăng 30% lượng hấp thụ lOMoAR cPSD| 58504431
các – bon, tổng lượng phát các – bon, tổng lượng phát
thải và hấp thụ đạt ít nhất
thải và hấp thụ đạt ít nhất 95 triệu tấn CO2 185 triệu tấn CO2 Lĩnh vực chất thải Giảm 60,7%, lượng phát Giảm 90,7%, lượng phát thải không vượt quá 18
thải không vượt quá 8 triệu triệu tấn CO2 tấn CO2 Lĩnh vực các quá trình Giảm 38,3%, lượng phát Giảm 84,8%, lượng phát công nghiệp thải không vượt quá 86 thải không vượt quá 20 triệu tấn CO2 triệu tấn CO2
Định lượng khối lượng
Từ 2.000 tấn CO2 trở lên Từ 200 tấn CO2 trở lên CO
phải thực hiện giảm phát
phải thực hiện giảm phát
2 tại các cơ sở dựa trên
mức phát thải khí nhà kính thải khí nhà kính thải khí nhà kính. hằng năm
Nguồn: Quyết định số 896/QĐ-TTg
Ngoài ra, Việt Nam đã cam kết tham gia vào các sáng kiến quốc tế về giảm phát thải và
chuyển đổi năng lượng, bao gồm Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, theo ước
tính của Ngân hàng Thế giới (2022), việc triển khai các giải pháp chuyển đổi năng lượng
và giảm phát thải tại Việt Nam sẽ đòi hỏi một khoản đầu tư khổng lồ, có thể lên đến 300–
400 tỷ USD trong các kịch bản phát thải ròng bằng 0. Điều này đặt ra thách thức lớn vì
nguồn lực tài chính trong nước hiện nay không đủ để đáp ứng nhu cầu này. Do đó, Việt
Nam rất cần sự hỗ trợ tài chính từ các tổ chức quốc tế, như Ngân hàng Thế giới (World
Bank), Quỹ Khí hậu Xanh (Green Climate Fund), và các nhà đầu tư quốc tế, nhằm cung
cấp vốn cho các dự án năng lượng tái tạo và các sáng kiến giảm phát thải. Hơn nữa, các tổ
chức quốc tế có thể giúp Việt Nam tiếp cận các cơ chế tài chính ưu đãi, giảm thiểu rủi ro
đầu tư, và cung cấp các khoản vay lãi suất thấp, từ đó thúc đẩy việc triển khai các dự án
năng lượng tái tạo quy mô lớn và giảm dần sự phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch (World Bank, 2022).
3.3. Thách thức thực hiện Net Zero tại Việt Nam
Việc đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050 tại Việt Nam là
một nhiệm vụ đầy thách thức, đòi hỏi sự kết hợp đồng bộ giữa các chiến lược quốc gia,
công nghệ, chính sách, và sự hợp tác quốc tế. lOMoAR cPSD| 58504431
Một trong những thách thức lớn nhất đối với Việt Nam là việc phụ thuộc nặng nề
vào năng lượng hóa thạch, đặc biệt là than đá, để sản xuất điện. Theo báo cáo của Cơ quan
Năng lượng Quốc tế (IEA, 2021), Việt Nam hiện nay là một trong những quốc gia có tỷ lệ
sử dụng than lớn nhất trong khu vực Đông Nam Á, điều này làm cho việc giảm phát thải
khí nhà kính trở nên khó khăn. Than đá vẫn đóng góp khoảng 40% vào tổng sản lượng điện
của Việt Nam và dự báo sẽ tăng trong những năm tới (IEA, 2021). Điều này khiến việc
giảm phát thải khí nhà kính trở nên khó khăn hơn, và việc chuyển đổi từ năng lượng hóa
thạch sang năng lượng tái tạo, đặc biệt là năng lượng gió và năng lượng mặt trời, đòi hỏi
một nguồn lực tài chính lớn và các công nghệ tiên tiến, mà Việt Nam hiện còn thiếu.
Ngoài ra, quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế các – bon thấp yêu cầu khoản đầu
tư khổng lồ vào cơ sở hạ tầng năng lượng tái tạo, công nghệ mới và các giải pháp lưu trữ
các – bon. Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới (2022), Việt Nam cần khoảng 300 đến
400 tỷ USD để triển khai các giải pháp giảm phát thải khí nhà kính trong các kịch bản phát
thải ròng bằng 0. Tuy nhiên, nguồn lực tài chính trong nước không đủ để đáp ứng yêu cầu
này, khiến Việt Nam phải dựa vào các dòng vốn quốc tế. Điều này tạo ra sự phụ thuộc vào
đầu tư từ các tổ chức tài chính quốc tế, đồng thời thúc đẩy sự cạnh tranh về các nguồn tài chính này.
Một thách thức khác là sự hạn chế trong việc áp dụng các công nghệ mới như thu
hồi và lưu trữ các – bon (CCS) hoặc các công nghệ năng lượng tái tạo tiên tiến tại Việt
Nam. Mặc dù Việt Nam đã đạt được những tiến bộ trong việc phát triển năng lượng tái tạo,
như điện gió và điện mặt trời, việc triển khai các công nghệ này ở quy mô lớn và hiệu quả
vẫn gặp phải nhiều rào cản về chi phí và công nghệ (Nguyễn & cộng sự, 2023). Bên cạnh
đó, thiếu hụt nguồn nhân lực có trình độ cao trong các lĩnh vực công nghệ xanh và quản lý
năng lượng tái tạo cũng làm giảm khả năng triển khai các giải pháp bền vững và hiệu quả.
Việc thực hiện cam kết Net Zero cũng gặp phải khó khăn trong việc thay đổi nhận
thức và tư duy của các doanh nghiệp và cộng đồng về lợi ích lâu dài của việc chuyển đổi
năng lượng. Theo nghiên cứu của Take & cộng sự (2023), nhiều doanh nghiệp tại Việt Nam
vẫn chưa nhận thức đầy đủ về những lợi ích của việc giảm phát thải và chuyển sang mô
hình kinh tế xanh. Các chính sách hiện tại có thể chưa đủ mạnh để tạo ra sự thay đổi toàn
diện trong hành vi của các tác nhân kinh tế.
Cuối cùng, việc quản lý và thực thi các chính sách khí hậu và năng lượng tại Việt
Nam gặp phải nhiều thách thức. Mặc dù đã có một số chính sách quan trọng như việc cập
nhật Đóng góp quốc gia tự quyết định (NDC), nhưng việc triển khai thực tế và đảm bảo lOMoAR cPSD| 58504431
tuân thủ các chính sách này vẫn là một vấn đề lớn. Nghiên cứu của Phan (2022) cho thấy
nhiều chính sách trong lĩnh vực năng lượng tái tạo tại Việt Nam gặp phải sự chậm trễ trong
triển khai và thiếu sự phối hợp giữa các bộ, ngành, làm giảm hiệu quả của các chiến lược khí hậu.
4. Bài học kinh nghiệm chuyển đổi và hướng tới phát thải ròng bằng không ở Việt Nam
4.1. Hoàn thiện khung chính sách
Việc xây dựng một khung chính sách toàn diện, minh bạch và hiệu quả là yếu tố
thiết yếu để Việt Nam đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng không vào năm 2050. Chính
sách cần tập trung vào việc thiết lập các cơ chế ưu đãi đầu tư dài hạn, như miễn giảm thuế
cho các doanh nghiệp đầu tư vào năng lượng tái tạo, hỗ trợ tài chính qua các quỹ xanh, tạo
điều kiện thuận lợi trong thủ tục hành chính, và đảm bảo tính minh bạch, ổn định để giảm
thiểu rủi ro cho nhà đầu tư. Chính phủ cần ưu tiên phát triển các nguồn năng lượng tái tạo
như điện mặt trời, điện gió trên bờ và ngoài khơi, điện sinh khối để thay thế dần các nguồn
năng lượng truyền thống như than đá và dầu mỏ, vốn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu phát
điện nhưng lại có mức phát thải khí nhà kính rất cao. Theo Quy hoạch điện VIII, đến năm
2030, Việt Nam dự kiến nâng tỷ trọng năng lượng tái tạo trong tổng công suất phát điện
lên khoảng 47%. Để đạt được mục tiêu này, cần có các chính sách hỗ trợ kịp thời và hợp
lý, bao gồm cơ chế đấu thầu, giá mua điện (FIT), cơ chế hợp đồng mua bán điện trực tiếp
(DPPA), cũng như cải thiện cơ sở hạ tầng lưới điện để tiếp nhận và phân phối năng lượng
tái tạo. Bên cạnh đó, chính sách chuyển đổi năng lượng cần bảo đảm tính công bằng và bao
trùm, với kế hoạch hỗ trợ đào tạo lại lao động trong ngành than, giúp họ chuyển sang các
ngành nghề mới, đồng thời hỗ trợ sinh kế cho các cộng đồng bị ảnh hưởng. Đây là yếu tố
quan trọng mà nhiều quốc gia tiên tiến, như Đức, đã thực hiện trong quá trình chuyển đổi
năng lượng công bằng (Just Energy Transition).
4.2. Thiết lập thị trường các – bon hiệu quả
Thiết lập một thị trường các – bon hiệu quả là yếu tố then chốt trong chiến lược
giảm phát thải và chuyển đổi xanh của Việt Nam. Thị trường này không chỉ là công cụ kinh
tế mạnh mẽ mà còn điều chỉnh hành vi của doanh nghiệp và các ngành nhằm đạt mục tiêu
phát thải ròng bằng không. Việt Nam hiện đang xây dựng hệ thống định giá các – bon, bao
gồm quy trình phân bổ và giao dịch tín chỉ các – bon, cùng hệ thống giám sát và báo cáo
phát thải (MRV). Tuy nhiên, để thị trường hoạt động hiệu quả, cần có một khuôn khổ pháp
lý rõ ràng và nghiêm túc. lOMoAR cPSD| 58504431
Bài học từ Mỹ và EU có thể giúp Việt Nam xây dựng hệ thống thị trường các – bon.
Mỹ đã áp dụng cơ chế Social Cost of Carbon (SCC) để định lượng chi phí xã hội từ phát
thải CO , bao gồm thiệt hại về y tế, nông nghiệp và các tác động từ thời tiết cực₂ đoan,
nhằm điều chỉnh hành vi thị trường và hỗ trợ các quyết định chính sách khoa học. Cùng
với đó, cơ chế Carbon Border Adjustment Mechanism (CBAM) của EU, yêu cầu thuế các
– bon đối với sản phẩm nhập khẩu để tránh "rò rỉ các – bon". Điều này đặc biệt quan trọng
đối với Việt Nam, vì nếu không xây dựng cơ chế tương thích, các sản phẩm xuất khẩu của
Việt Nam có thể gặp rào cản thương mại tại các thị trường như EU.
Do đó, Việt Nam cần chủ động thiết kế hệ thống thị trường các – bon phù hợp với
các hệ thống quốc tế. Cần phát triển một khung pháp lý chặt chẽ và nâng cao năng lực cho
các cơ quan quản lý, doanh nghiệp và các bên liên quan. Việc ứng dụng công nghệ số trong
giám sát và quản lý phát thải sẽ đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả của thị trường. Khi
thị trường hoạt động hiệu quả, Việt Nam sẽ tiến gần hơn đến mục tiêu phát thải ròng bằng không vào năm 2050.
4.3. Minh bạch thông tin khí hậu trong khối doanh nghiệp
Trong bối cảnh các ràng buộc môi trường ngày càng siết chặt, đặc biệt từ các thị
trường xuất khẩu lớn như EU và Mỹ, việc nâng cao tính minh bạch trong công bố thông
tin phát thải khí nhà kính là rất quan trọng đối với Việt Nam. Chính phủ cần ban hành quy
định bắt buộc công bố thông tin khí hậu đối với các doanh nghiệp niêm yết, đặc biệt trong
các ngành có mức phát thải cao như năng lượng, công nghiệp nặng, vận tải và xây dựng.
Kinh nghiệm từ Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch Mỹ (SEC) cho thấy, việc yêu
cầu công bố các chỉ số môi trường – xã hội – quản trị (ESG), bao gồm khí thải các – bon,
không chỉ giúp cơ quan quản lý giám sát tốt hơn mà còn giúp nhà đầu tư đánh giá rủi ro
phi tài chính, từ đó đưa ra quyết định đầu tư chính xác. Công khai thông tin về lượng khí
thải theo phạm vi (Scope 1, 2, 3), cơ sở vật chất gây ô nhiễm và các nhà cung cấp có mức
phát thải cao sẽ giúp minh bạch chuỗi giá trị và thúc đẩy doanh nghiệp cải thiện hiệu suất môi trường.
Ngoài ra, việc minh bạch hóa thông tin khí hậu còn giúp doanh nghiệp tiếp cận
nguồn vốn xanh quốc tế, thúc đẩy các quỹ đầu tư ưu tiên các doanh nghiệp có chiến lược
giảm phát thải rõ ràng. Đồng thời, đây là động lực giúp doanh nghiệp cải tiến công nghệ,
tối ưu hóa sử dụng năng lượng và áp dụng mô hình kinh doanh tuần hoàn, góp phần vào
quá trình chuyển đổi xanh của nền kinh tế. lOMoAR cPSD| 58504431
4.4. Khuyến khích đầu tư công nghệ xanh
Một trong những thách thức lớn trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế không
phát thải là phát triển và ứng dụng công nghệ xanh. Để đối mặt với thách thức này, Chính
phủ cần triển khai các chính sách hỗ trợ đổi mới sáng tạo, khuyến khích doanh nghiệp áp
dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất, tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải khí nhà
kính. Quỹ Đổi mới quốc gia là một công cụ quan trọng có thể cung cấp tài chính cho các
sáng kiến tiềm năng nhưng cần sự hỗ trợ ban đầu.
Việc áp dụng công nghệ xanh sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí năng lượng,
tối ưu hóa quy trình sản xuất và giảm thiểu tác động môi trường. Các công nghệ này không
chỉ trong năng lượng tái tạo mà còn mở rộng ra các lĩnh vực như quản lý chất thải, nông
nghiệp bền vững và xây dựng xanh. Các giải pháp tiết kiệm năng lượng, tái chế và nông
nghiệp thông minh góp phần quan trọng vào việc giảm phát thải. Ngoài việc hỗ trợ tài chính
trực tiếp, Chính phủ cần ban hành chính sách ưu đãi thuế, tạo điều kiện tiếp cận thị trường
và cung cấp cơ chế hỗ trợ pháp lý để tạo môi trường thuận lợi cho các ý tưởng công nghệ
xanh và sáng tạo được triển khai. Các doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ xanh nên được
hưởng ưu đãi thuế, giảm chi phí đầu tư và tiếp cận nguồn tài chính dễ dàng để triển khai
các sáng kiến đổi mới sáng tạo.
Chính sách đổi mới sáng tạo và công nghệ xanh đã thành công tại nhiều quốc gia
phát triển. Đức, với các quỹ hỗ trợ nghiên cứu và phát triển năng lượng tái tạo, đã xây dựng
được một ngành công nghiệp năng lượng sạch lớn mạnh. Tương tự, Hàn Quốc cũng đầu tư
mạnh mẽ vào các sáng kiến công nghệ xanh và năng lượng tái tạo qua các chính sách hỗ
trợ doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ môi trường. Việt Nam có thể học
hỏi từ các quốc gia này để áp dụng các mô hình tài chính và cơ chế hỗ trợ phù hợp, thúc
đẩy sự phát triển ngành công nghiệp xanh trong nước.
4.5. Bảo vệ tài nguyên rừng
Việt Nam có nhiều tài nguyên, trong đó rừng là một trong những tài nguyên quan
trọng tạo sinh kế cho người dân (Luong, 2014). Bên cạnh đó, tài nguyên rừng phong phú
sẽ tạo ra các bể chứa các – bon tự nhiên. Theo ước tính của Tổ chức Giám sát Rừng Toàn
cầu (GFW), việc mất 120 nghìn ha rừng tự nhiên đã dẫn đến phát thải 66,6 triệu tấn CO ,₂
tương đương với khả năng thu được khoảng 5,5 tỷ EURO từ tín chỉ các – bon nếu Việt
Nam thực hiện chính sách bảo vệ rừng và tham gia vào thị trường các – bon quốc tế. Con
số này có giá trị tương đương gần 12% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU lOMoAR cPSD| 58504431
vào năm 2022, cho thấy tiềm năng kinh tế mà Việt Nam có thể thu được từ việc duy trì và
phát triển tài nguyên rừng (Hoàng Vương Quân & cộng sự, 2023).
Do đó, Việt Nam cần xây dựng một khung pháp lý mạnh mẽ và cơ chế giám sát hiệu
quả để thực thi các quy định truy xuất nguồn gốc, đồng thời hợp tác với các tổ chức quốc
tế để thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp xanh trong tương lai. Ngoài ra, Việt Nam có
thể học hỏi kinh nghiệm từ Liên minh Châu Âu (EU), nơi áp dụng quy định truy xuất nguồn
gốc cho sản phẩm gỗ, yêu cầu sản phẩm phải chứng minh không đến từ rừng bị phá hoại
hoặc khai thác trái phép. Áp dụng quy định này tại Việt Nam sẽ bảo vệ hệ sinh thái rừng
và nâng cao tính minh bạch trong chuỗi cung ứng, giúp các sản phẩm gỗ và nông sản Việt
Nam đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, đặc biệt tại các thị trường lớn như EU, Mỹ và Nhật Bản.
Điều này không chỉ giúp nâng cao uy tín sản phẩm mà còn gia tăng khả năng xuất khẩu,
đồng thời tạo động lực cho các doanh nghiệp áp dụng quy trình sản xuất bền vững hơn. 5. Kết luận
Mặc dù đã ghi nhận một số tiến bộ trong quá trình chuyển đổi năng lượng và kiểm
soát phát thải khí nhà kính, Việt Nam vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức lớn trong việc
hiện thực hóa cam kết đạt mức phát thải ròng bằng không vào năm 2050. Cơ cấu năng
lượng hiện nay vẫn phụ thuộc đáng kể vào nhiên liệu hóa thạch, trong khi các chính sách
hỗ trợ phát triển năng lượng sạch còn thiếu tính đồng bộ và chưa đủ hấp dẫn để thu hút các
nguồn vốn đầu tư bền vững.
Kinh nghiệm quốc tế, điển hình từ Singapore, Hàn Quốc và Đức, cho thấy quá trình
hướng tới trung hòa các – bon đòi hỏi một chiến lược chuyển đổi toàn diện, bao gồm sự
tích hợp công nghệ xanh, triển khai hiệu quả các công cụ định giá các – bon và thiết kế
chính sách bảo đảm công bằng xã hội trong quá trình chuyển đổi. Trong bối cảnh đó, việc
sớm hoàn thiện thị trường các – bon, tăng cường khả năng tiếp cận tài chính xanh và ban
hành các cơ chế khuyến khích đầu tư dài hạn đóng vai trò nền tảng để thúc đẩy phát triển
năng lượng tái tạo và giảm dần sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch.
Bên cạnh yêu cầu về chính sách nội tại, Việt Nam cần chủ động mở rộng hợp tác
với các quốc gia và tổ chức quốc tế nhằm tranh thủ cơ hội tiếp cận công nghệ tiên tiến, tăng
cường nguồn lực tài chính phục vụ cho chuyển đổi xanh và nâng cao năng lực thực thi các
cam kết khí hậu. Chỉ với một lộ trình chuyển đổi được hoạch định rõ ràng, đồng bộ và có
sự đồng thuận từ nhiều cấp độ, Việt Nam mới có thể tiến gần hơn tới mục tiêu phát triển
bền vững và trung hòa khí thải vào giữa thế kỷ XXI. lOMoAR cPSD| 58504431 Tài liệu tham khảo
Bộ Tài chính. (2024). Đề án thành lập và phát triển thị trường carbon tại Việt Nam. Bộ Tài chính.
Bộ Tài nguyên và Môi trường. (2015). Báo cáo Đóng góp do quốc gia tự quyết định
(NDC) của Việt Nam gửi UNFCCC năm 2015. Hà Nội: Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Bộ Tài nguyên và Môi trường. (2020). Kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng tại
Việt Nam. Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Bộ Tài nguyên và Môi trường. (2022). Báo cáo cập nhật Đóng góp do quốc gia tự quyết
định (NDC) của Việt Nam năm 2022. Bộ Tài nguyên và Môi trường.
BMWK. (2021). Federal Climate Change Act. Federal Ministry for Economic Affairs and
Climate Action. Retrieved from https://www.bmwk.de/
BMWK. (2023). Climate and Transformation Fund (KTF). Federal Ministry for Economic
Affairs and Climate Action. Retrieved from https://www.bmwk.de/ Clean Energy Wire.
(2024). Germany’s climate targets and energy transition goals. Retrieved from
https://www.cleanenergywire.org/
Climate Policy Database. (2013). Renewable Fuel Standard – South Korea. Retrieved from
https://climatepolicydatabase.org/
Energy & Climate Intelligence Unit & Oxford Net Zero. (2021). Taking stock: A global
assessment of net zero targets. Retrieved from
https://eciu.net/analysis/reports/2021/taking-stock-assessment-net-zero-targets
Energy Market Authority (EMA). (2021). EMA to import up to 4 GW of low-carbon
electricity by 2035. Retrieved from https://www.ema.gov.sg/
Hirth, L., Steckel, J. C., & Ueckerdt, F. (2021). The German energy transition after the
2022 crisis: Between ambition and realism. Energy Policy, 158, 112564.
https://doi.org/10.1016/j.enpol.2021.112564
Hoàng Vương Quân, & cộng sự. (2023). Tác động của việc bảo vệ rừng đối với phát thải
khí nhà kính và thị trường các – bon tại Việt Nam. Tạp chí Môi trường và Phát triển, 12(3), 45-59.
IEA. (2021). Net Zero by 2050: A roadmap for the global energy sector. Retrieved from
https://www.iea.org/reports/net-zero-by-2050
IEA. (2022). Korea 2022: Energy Policy Review. International Energy Agency. Retrieved from https://www.iea.org/ lOMoAR cPSD| 58504431
Intergovernmental Panel on Climate Change (IPCC). (2018). Global warming of 1.5°C: An
IPCC special report. Retrieved from https://www.ipcc.ch/sr15/
Luderer, G., Pehl, M., & Bauer, N. (2020). The role of technological change in climate
mitigation and policy. Environmental Research Letters, 15(3), 034003.
https://doi.org/10.1088/1748-9326/ab6398
Luong, T. (2014). Tài nguyên rừng Việt Nam và vai trò của chúng trong bảo vệ môi trường
và phát triển kinh tế. Tạp chí Nghiên cứu Tài nguyên, 8(2), 100-115.
Ministry of Environment Korea. (2021). 2050 Carbon Neutral Strategy of the Republic of
Korea. Retrieved from https://eng.me.go.kr/
Ministry of Sustainability and the Environment (MSE). (2022). Singapore’s Carbon Tax
Framework. Retrieved from https://www.mse.gov.sg/
Ministry of Trade and Industry (MTI). (2022). Singapore National Hydrogen Strategy.
Retrieved from https://www.mti.gov.sg/
National Climate Change Secretariat (NCCS). (2022). Singapore’s Updated Nationally
Determined Contribution (NDC). Retrieved from https://www.nccs.gov.sg/
National Climate Change Secretariat (NCCS). (2023). Carbon Credits and International
Carbon Markets. Retrieved from https://www.nccs.gov.sg/
Nguyen, T. T., Kainuma, M., Hayashi, A., & Matsumoto, K. (2021). Vietnam’s emission
pathways toward net-zero greenhouse gas emissions by 2050: A scenario analysis. Journal of Cleaner Production, 313,
127813. https://doi.org/10.1016/j.jclepro.2021.127813
Ngân hàng Thế giới. (2022). Chuyển đổi năng lượng và giảm phát thải khí nhà kính tại
Việt Nam: Báo cáo và dự báo đầu tư. Ngân hàng Thế giới.
Park, S., Kim, H., & Lee, J. (2022). Current status and future prospects of carbon capture,
utilization, and storage (CCUS) in Korea. Journal of Industrial and Engineering
Chemistry, 111, 1–12. https://doi.org/10.1016/j.jiec.2022.04.005
Reuters. (2024). Singapore launches world’s largest ocean-based carbon removal project.
Retrieved from https://www.reuters.com/
Take, T., & cộng sự. (2023). Chiến lược và thách thức trong việc giảm phát thải khí nhà
kính tại Việt Nam. Tạp chí Quản lý và Chính sách, 18(2), 15-30.
Thủ tướng Chính phủ. (2021). Quyết định số 1658/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược
quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021–2030, tầm nhìn đến năm 2050. Hà
Nội: Văn phòng Chính phủ.