Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội | Tiểu luận chủ nghĩa xã hội khoa học
Những lý luận chung về chính sách dân tộc. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong thời kỳ quá độ chủ nghĩa xã hội. Thực trạng việc thực hiện các chính sách dân tộc ở Việt Nam. Tình hình các dân tộc thiểu số và công tác dân tộc trong thời gian qua. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học (CN211)
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
1 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu.......................................................................2
2. Những công trình nghiên cứu liên quan.......................................................4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu...............................................................4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu...................................................5
6. Kết cấu của đề tài..........................................................................................6
Chương 1: Những lý luận chung về chính sách dân tộc........................................6
1.1 Khái niệm chính sách dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc................6
1.2 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Leenin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề dân tộc............................................................................................................7
Chương 2: Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong thời kỳ
quá độ chủ nghĩa xã hội.......................................................................................11
2.1 Nội dung chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ quá độ
chủ nghĩa xã hội................................................................................................11
2.2 Pháp luật về dân tộc – sự thể chế hóa chính sách dân tộc..........................14
Chương 3: Thực trạng việc thực hiện các chính sách dân tộc ở Việt Nam..........19
3.1 Tình hình các dân tộc thiểu số và công tác dân tộc trong thời gian qua..19 3.1.1
Những thành tựu cơ bản....................................................................19 3.1.2
Những hạn chế, yếu kém...................................................................20 2
3.2 Công tác dân tộc trong thời kỳ mới.........................................................21 3.2.1
Một số quan điểm cơ bản..................................................................21 3.2.2
Những nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách..............................................22 3.2.3
Một số giải pháp chủ yếu..................................................................24
3.3 Tổ chức thực hiện....................................................................................27
KẾT LUẬN..........................................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................30 3 MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu
Dân tộc là vấn đề mang tính chất thời sự đối với tất cả các quốc gia trên thế giới.
Vấn đề dân tộc luôn mang tính lý luận và tính thực tiễn sâu sắc. Đặc biệt trong
bối cảnh hiện nay, vấn đề dân tộc đang có những diễn biến phức tạp đối với mỗi
một quốc gia và cả toàn cầu. Dân tộc, sắc tộc, tôn giáo là vấn đề nhạy cảm mà
các thế lực thù địch luôn tìm cách lợi dụng nhằm chống phá sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta và chia rẽ khối đại đoàn kết của dân tộc ta.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Đặc trưng nổi bật trong quan hệ giữa các
dân tộc ở nước ta là sự cố kết dân tộc, hòa hợp dân tộc trong một cộng đồng
thống nhất đã trở thành truyền thống, thành sức mạnh và đã được thử thách trong
các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước qua
mấy nghìn năm lịch sử cho đến ngày nay. Các dân tộc có ngôn ngữ, đặc trưng
văn hóa và trình độ phát triển khác nhau. Tính khác biệt tạo nên sự phong phú,
đa dạng. Nhưng bản thân nó cũng sẽ tạo nên sự phân biệt nếu quan hệ dân tộc
không được giải quyết tốt. Chính vì vậy, giải quyết tốt quan hệ dân tộc là vấn đề
cấp thiết luôn được đặt ra đối với Đảng và Nhà nước. Văn kiện Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ X khẳng định: “Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình
đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa”.
Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kì đổi mới, nhiều vấn
đề phức tạp nảy sinh đòi hỏi chúng ta phát huy cao độ khối đoàn kết dân tộc để 4
có thể đứng vững và phát triển. Do vậy, nhận thức đúng đắn vấn đề dân tộc và
chính sách dân tộc thời kỳ đổi mới có tầm quan trọng rất lớn. Đảng và Nhà nước
đã có những chính sách cụ thể nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
đồng bào dân tộc thiểu số, củng cố tắng cường khối đại đoàn kết dân tộc.
Từ những nhận thức trên đây, em lựa chọn đề tài nghiên cứu của mình là:
“Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội”.
2. Những công trình nghiên cứu liên quan
Thời gian qua, vấn đề thực hiện chính sách dân tộc được quan tâm rất nhiều bởi
các học giả, các nhà khoa học, các nhà quản lý chính sách dân tộc. Đã có các
công trình nghiên cứu, các cuốn sách, bài viết, bài báo liên quan đến vấn đề dân
tộc và thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta như:
“Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta”,
Tập bài giảng chương trình cử nhân chính trị, Phân viện Hà Nội – Khoa
Dân tộc (1995), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
“Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc Việt Nam”, Ủy
ban dân tộc và miền núi – Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
(1996), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
“Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam
– Chương trình chuyên đề dùng cho cán bộ, đảng viên cơ sở”, Ban Tư
tưởng – Văn hóa Trung ương (2000), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
“Vấn đề dân tộc và công tác dân tộc ở nước ta”, Ủy ban dân tộc và
miền núi (2001), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 5
“Tập bài giảng lý luận dân tộc và các chính sách dân tộc”, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2001).
“Một số vấn đề về dân tộc và phát triển”, Ủy ban Dân tộc – Viện Dân
tộc (2005), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
“Vấn đề dân tộc và định hướng xây dựng chính sách trong thời kỳ
công nghiệp hóa – hiện đại hóa” của Viện nghiên cứu chính sách dân tộc và miền núi.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở vận dụng lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta về chính sách dân tộc, đề tài có
mục đích đánh giá những ưu điểm, phân tích những tác động của chính sách dân
tộc trên các lĩnh vực đời sống, chính trị, kinh tế và văn hóa xã hội của nhân dân
các dân tộc trên địa bàn nước Việt Nam trong thời kỳ quá độ chủ nghĩa xã hội; từ
đó đưa ra một số kiến nghị trong quá trình thực thi chính sách và đề ra các giải
pháp đảm bảo việc thực hiện chính sách dân tộc, pháp luật về dân tộc.
Với mục đích nghiên cứu như trên, em xin tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
Làm rõ cơ sở xây dựng chính sách dân tộc ở Việt Nam và các yếu
tố đảm bảo đối với chính sách dân tộc.
Làm rõ những nội dung cơ bản trong chính sách dân tộc thời kỳ
quá độ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và sự thể chế hóa chính sách đó thành pháp luật.
Phân tích thực trạng thực hiện chính sách dân tộc trong thời kỳ
quá độ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 6
Đề xuất các giải pháp để thực hiện tốt hơn chính sách dân tộc và
pháp luật về dân tộc ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước ở Việt Nam từ thời kỳ quá độ chủ nghĩa xã hội
(từ năm 1945 ở miền Bắc, từ năm 1975 sau khi đất nước đã hoàn toàn độc lập và
cả nước thống nhất) đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận dựa trên nền tảng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lenin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về
vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc.
Tiểu luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và một số
phương pháp nghiên cứu khác như: phương pháp phân tích; phương pháp tổng hợp; phương pháp so sánh
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm .. chương .. tiết
Chương 1: Những lý luận chung về chính sách dân tộc
1.1 Khái niệm chính sách dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc
Cho đến nay, thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, khái niệm "dân tộc" có hai nội hàm.
Thứ nhất nó dùng để chỉ dân tộc ở cấp độ quốc gia tức là dân tộc Việt Nam, quốc 7
gia Việt Nam, một thể chế chính trị - xã hội nhất định, một lãnh thổ, có nền kinh
tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất quốc gia của mình,
gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền
thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ
nước. Thứ hai, "dân tộc" dùng để chỉ cộng đồng tộc người cụ thể, có chung tiếng
nói, có chung các đặc điểm sinh hoạt văn hóa, các phong tục, tập quán, ví dụ khi
ta nói đến các dân tộc: Kinh, Tày, Nùng, Bana, Êđê…
Chính sách được hiểu là sự thể hiện cụ thể của đường lối chính trị chung; dựa
vào đường lối chính trị, cương lĩnh chính trị của đảng cầm quyền mà định ra
chính sách về một lĩnh vực nhất định cùng với các mục tiêu, biện pháp, kế hoạch
để thực hiện đường lối ấy. Nhà nước ban hành nhiều loại chính sách như: chính
sách kinh tế, chính sách quốc phòng, chính sách khoa học và công nghệ, chính sách dân tộc.v.v…
Chính sách dân tộc là một trong những chính sách của Đảng và Nhà nước ta, là
sự thể hiện đường lối của Đảng về vấn đề dân tộc mà cụ thể là các chính sách về
xóa đói giảm nghèo; chính sách về đầu tư phát triển kinh tế - xã hội khu vực
đồng bào dân tộc thiểu số; chính sách hỗ trợ về đất đai, nhà ở, tài nguyên, môi
trường sinh thái; chính sách y tế - văn hóa – xã hội.v.v…
Chính sách được thể hiện qua các Văn kiện Đảng Cộng sản Việt Nam; Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng;
các văn bản quy phạm pháp luật.
Thực hiện chính sách dân tộc được hiểu là hoạt động có mục đích của con người
biến chính sách, pháp luật chứa đựng chính sách thành hoạt động thực tế của các 8
chủ thể thực hiện chính sách. Như vậy, các chủ thể thực hiện chính sách phải
hành động phù hợp với mục tiêu, biện pháp, kế hoạch đã được đề ra trong chính
sách. Việc thực hiện chính sách có nhiều hình thức: tuân thủ chính sách, chấp
hành chính sách, sử dụng chính sách, áp dụng chính sách.
1.2 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Leenin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc, nhân dân là một trong
những bộ phận quan trọng trong hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: Dân tộc là khái niệm chỉ hầu
như tất cả các hình thức của cộng đồng người trong lịch sử; dân tộc là vấn đề
rộng lớn, bao gồm những quan hệ về chính trị, kinh tế, lãnh thổ, pháp lý, tư
tưởng và văn hóa giữa các dân tộc, các nhóm dân tộc, các bộ tộc. Chủ nghĩa Mác
– Lênin cho rằng: dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của lịch sử.
Mỗi dân tộc có con đường hình thành và phát triển riêng của mình và các dân tộc
luôn có mối quan hệ qua lại với nhau. Sự tác động qua lại đó một mặt tạo điều
kiện để các dân tộc không ngừng phát triển, nhưng ở một phương diện khác, nó
cũng tạo ra những mâu thuẫn, xung đột cần được giải quyết. Lênin đã từng chỉ
rõ: "những sai biệt về mặt dân tộc và quốc gia giữa các dân tộc và các nước,
những sai biệt này sẽ còn tồn tại lâu dài ngay cả sau khi nền chuyên chính vô sản
được thiết lập trong phạm vi toàn thế giới". Điều đó cho thấy chừng nào còn có
sự khác biệt về dân tộc thì dân tộc vẫn tồn tại và vẫn còn cơ sở xã hội, cơ sở thực
tiễn, cũng như nguy cơ tiềm ẩn mâu thuẫn dân tộc và xung đột dân tộc.
C.Mác và Ph.Ăngghen đề cập đến sự ra đời của các dân tộc khi chưa xuất hiện
chủ nghĩa tư bản. Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen thể hiện hai vấn đề cơ 9
bản: Thứ nhất, chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là cơ sở sinh ra nạn người
bóc lột người, nạn áp bức giai cấp, áp bức dân tộc. Chủ nghĩa tư bản càng phát
triển thì nạn bóc lột và áp bức giai cấp, áp bức dân tộc càng nặng nề. Vì vậy,
muốn xóa bỏ nạn áp bức giai cấp, tình trạng dân tộc này nô dịch, bóc lột dân tộc
khác thì phải xóa bỏ tận gốc rễ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, cơ sở
kinh tế - xã hội sinh ra nạn áp bức giai cấp, nạn nô dịch dân tộc. Thứ hai, cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản xét về bản chất là một
cuộc đấu tranh quốc tế - toàn bộ giai cấp vô sản chống lại toàn bộ giai cấp tư sản,
trước tiên giai cấp vô sản phải giành lấy chính quyền ở nước mình, phải tự mình
trở thành dân tộc, phải biến lợi ích của mình thành lợi ích của dân tộc, biến lợi
ích của dân tộc thành lợi ích của mình để trở thành người lãnh đạo toàn thể dân
tộc trong cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Trong "Cương lĩnh về vấn đề dân tộc", Lênin cũng từng nhấn mạnh: các dân tộc
có quyền bình đẳng, thực chất của vấn đề dân tộc là xoá bỏ nô dịch của dân tộc
này đối với dân tộc khác, trên cơ sở đó dần dần xoá bỏ sự chênh lệch về trình độ
phát triển giữa các dân tộc; không phân biệt nhỏ - lớn, phát triển - kém phát
triển, màu da, tôn giáo, chế độ chính trị. Sự bình đẳng giữa các dân tộc cần được
thực hiện trên các lĩnh vực đời sống: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội [25]. Điều
đó phải được ghi nhận và bảo đảm bởi pháp luật của Nhà nước và điều quan
trọng hơn là phải được thực hiện trong thực tế. Quyền bình đẳng được thể hiện
trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Quyền bình đẳng trên lĩnh
vực chính trị tức là quyền được lựa chọn chế độ chính trị của dân tộc mình,
chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Quyền bình đẳng trên lĩnh vực kinh tế được
hiểu: khi liên kết hợp tác giữa các dân tộc thì mỗi dân tộc có quyền thực hiện lợi
ích kinh tế của mình, gắn liền với việc chống đặc lợi đặc quyền về kinh tế và 10
phải tạo điều kiện cơ hội ngang bằng nhau để các dân tộc có điều kiện thực hiện
lợi ích kinh tế của mình. Quyền bình đẳng trên lĩnh vực văn hóa được hiểu: mỗi
dân tộc có quyền giữ gìn, phát triển bản sắc văn hóa của dân tộc của mình, chống
lại sự đồng hoá văn hóa. Ở những quốc gia đa dân tộc, phải phát huy bản sắc của
từng dân tộc để tạo ra sự đa dạng trong sự thống nhất của nền văn hóa. Quyền
bình đẳng về xã hội đưa ra đòi hỏi giải quyết một cách công bằng các vấn đề nảy
sinh trong đời sống giữa các dân tộc trong xã hội. Những nội dung đó đều quan
trọng và có ý nghĩa rất lớn trong việc thể hiện lập trường khoa học và cách mạng
của Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc.
Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin phù hợp với tình hình và
điều kiện cụ thể của Việt Nam trong từng giai đoạn Cách mạng, đồng thời kế
thừa, phát triển chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết của dân tộc, tinh hoa
văn hóa nhân loại, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc đã trở thành hệ
thống tư tưởng mang tính khoa học và cách mạng sâu sắc. Hồ Chí Minh đã khái
quát nên chân lý bất di bất dịch về quyền cơ bản của dân tộc: "Tất cả các dân tộc
đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do". Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về đại đoàn kết là
tư tưởng nổi bật, có giá trị trường tồn đối với quá trình phát triển của dân tộc ta
và của toàn nhân loại. Theo đó, "dân" chỉ mọi con dân đất Việt, không phân biệt
dân tộc đa số - dân tộc thiểu số, người tín ngưỡng - người không tín ngưỡng,
không phân biệt già - trẻ, gái - trai, giàu - nghèo.
Nói đến đại đoàn kết dân tộc, tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên – Việt toàn
quốc (10/01/1955), Người cho rằng: Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết
đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng 11
lớp lao động khác... Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ
đoạn chính trị. Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của tổ quốc, ta
còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà.
Chương 2: Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong thời
kỳ quá độ chủ nghĩa xã hội
2.1 Nội dung chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ quá độ chủ nghĩa xã hội
Từ khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đến nay, Đảng ta luôn luôn đánh giá đúng
đắn vị trí chiến lược của vấn đề dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống sức
mạnh khối đại đoàn kết dân tộc.Vì vậy, Đảng đã có những chính sách dân tộc
phù hợp cho từng thời kì cách mạng ở Việt Nam. Trong các kì Đại hội, Đảng
cộng sản Việt Nam luôn đề cao, coi trọng vị trí chiến lược của vấn đề dân tộc.
Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng Sản Việt Nam (tháng 3/1935) đã thông qua
"Nghị quyết về công tác trong các dân tộc thiểu số", khẳng định rõ: "Đảng cộng
sản thừa nhận các dân tộc được quyền tự do hoàn toàn. Đảng chống chế độ
thuộc địa, chống hết các hình thức trực tiếp và gián tiếp đem dân tộc này áp bức
và bóc lột dân tộc khác".
Đại hội Đảng lần thứ II, tháng 2 năm 1951, đã quyết nghị: "Các dân tộc sống
trên đất Việt Nam đều được bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, phải đoàn kết
giúp đỡ nhau để kháng chiến và kiến quốc".
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Đảng ta đề ra những chính sách cụ thể
giải quyết vấn đề dân tộc. Tháng 8/1952, Bộ Chính trị đã có Nghị quyết "Chính 12
sách dân tộc thiểu số của Đảng hiện nay". Sau đó, ngày 22 tháng 6 năm 1953,
Chính phủ đã ban hành chính sách dân tộc của Nhà nước Việt Nam quy định các
mặt công tác chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội của vùng đồng bào dân
tộc thiểu số. Tinh thần cơ bản của chính sách đó là: đoàn kết các dân tộc trên
nguyên tắc bình đẳng, tương trợ để kháng chiến, kiến quốc, giúp nhau tiến bộ về
mọi mặt. Nhờ có chính sách dân tộc đúng đắn mà các dân tộc đoàn kết, tích cực
tham gia kháng chiến chống Pháp, rồi chống Mỹ thắng lợi.
Báo cáo chinh trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (tháng 9/1960) cũng nêu rõ:
Vấn đề xây dựng kinh tế miền núi là một bộ phận khăng khít của chính sách dân
tộc của Đảng ta trong giai đoạn mới của Cách mạng. Nó đảm bảo cho miền núi
dần dần tiến kịp miền xuôi, cho các dân tộc thiểu số tiến kịp dân tộc Kinh, thực
hiện đầy đủ sự bình đẳng và tăng cường đoàn kết giữa các dân tộc.
Từ ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, chính sách dân
tộc của Đảng và Nhà nước thực hiện thống nhất trên phạm vi cả nước. Các văn
kiện Đảng thời kỳ đổi mới luôn nhìn nhận công tác dân tộc là vấn đề chiến lược
của Đảng và Nhà nước ta.
Nếu như trong các văn kiện Đại hội Đảng từ lần thứ II đến lần thứ V đều nhấn
mạnh: "đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc" thì từ Đại hội VI trở đi nguyên tắc
này đã được xác định là: "Đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau" (Đại hội VI),
"Đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau" (Đại hội VII), "Bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ’" (Đại hội VIII), "Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát
triển" (Đại hội IX), "Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến
bộ" (Đại hội X) và "Cộng đồng các dân tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng giúp nhau cùng phát triển" (Đại hội XI). 13
Nguyên tắc cơ bản của chính sách dân tộc: đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa
các dân tộc đã được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định
Bình đẳng giữa các dân tộc: là một nguyên tắc cơ bản về chính sách
dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nguyên tắc này được thể hiện rõ trong
tư tưởng Hồ Chí Minh và các bản Hiến pháp ở nước ta. Bình đẳng giữa
các dân tộc là bình đẳng trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, bình
đẳng trong quyền phát triển, được đảm bảo và tạo mọi điều kiện để các
dân tộc thực hiện và có cơ hội phát triển bình đẳng với các dân tộc khác.
Để thực hiện bình đẳng dân tộc thì phải làm giảm sự chênh lệch, từng
bước tiến tới xóa bỏ khoảng cách giữa các dân tộc, mang lại ấm no hạnh phúc cho nhân dân.
Đoàn kết dân tộc: là một nguyên tắc cơ bản của chính sách dân tộc
mà Đảng ta xác định. Phát triển nguyên tắc đoàn kết giai cấp công nhân tất
cả các dân tộc của Lênin, trên nền tảng truyền thống Việt Nam, Đảng ta
coi đoàn kết dân tộc có ý nghĩa then chốt đối với sự phát triển đất nước.
Cũng như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn
kết; Thành công, thành công, đại thành công"
Tương trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ giữa các dân tộc: Nguyên
tắc này xuất phát từ một thực tế lịch sử là sự phát triển không đều giữa các
dân tộc khi chúng ta bắt tay vào xây dựng đất nước trong cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội ở nước
ta cho thấy, sự chênh lệch về phát triển kinh tế - xã hội là một đặc điểm
lớn. Tương trợ giúp đỡ lẫn nhau là sự giúp đỡ của dân tộc này với dân tộc
khác. Trong các văn kiện của Đảng, nguyên tắc tương trợ được bổ sung
các thành tố tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển, cùng tiến bộ. Có thể 14
coi đây là một nguyên tắc đối với vấn đề dân tộc trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
Trong thời kỳ đổi mới, các nguyên tắc cơ bản này tiếp tục được khẳng định và bổ
sung thêm. Trên cơ sở những nguyên tắc trên, Đảng ta đã đề ra nội dung của
chính sách dân tộc trong thời kỳ đổi mới với những vấn đề cơ bản sau:
Chính sách về bình đẳng dân tộc với mục tiêu các dân tộc bình đẳng,
đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển
Chính sách về phát triển kinh tế vùng các dân tộc thiểu số phù hợp
với điều kiện và đặc điểm từng vùng, từng dân tộc; tập trung phát triển
giao thông, kết cấu hạ tầng, xóa đói, giảm nghèo
Chính sách xã hội tập trung vào các vấn đề giáo dục đào tạo, văn hóa,
y tế, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh thần cho đồng bào dân tội
Chính sách liên quan đến quốc phòng – an ninh nhằm củng cố các địa
bàn chiến lược, giải quyết tốt vấn đề đoàn kết dân tộc và quan hệ dân tộc
Như vậy, chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước mang tính toàn diện, tổng
hợp, quán xuyến tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan đến mỗi dân tộc
và quan hệ giữa các dân tộc trong cộng đồng quốc gia.
2.2 Pháp luật về dân tộc – sự thể chế hóa chính sách dân tộc
Pháp luật về dân tộc là sự thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng về vấn đề
dân tộc để nó thực sự đi vào cuộc sống. Pháp luật về dân tộc có vai trò quan
trọng, là công cụ để quản lý nhà nước trong lĩnh vực dân tộc. Công tác dân tộc là
nhiệm vụ chung của toàn bộ hệ thống chính trị, bao gồm: Đảng, Nhà nước, Mặt 15
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên. Mỗi tổ chức trong hệ thống
chính trị, tùy theo địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà
có phương thức khác nhau để thực hiện công tác dân tộc. Bộ máy nhà nước từ
trung ương đến địa phương, quản lý nhà nước về dân tộc bằng những biện pháp,
công cụ khác nhau, trong đó pháp luật là công cụ quan trọng nhất.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định về việc thực hiện chính sách dân
tộc hiện hành bao gồm: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2013, các đạo luật và các văn bản quy phạm pháp luật trực tiếp quy định việc
thực hiện chính sách dân tộc.
Thứ nhất, Hiến pháp: Hiến pháp 1946 đã khẳng định quyền bình đẳng giữa các
dân tộc: "Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính
trị, kinh tế, văn hóa; ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số
được giúp đỡ về mọi phương diện để chóng tiến kịp trình độ chung” hay tại Hiến
pháp 2013: Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất
của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị,
chia rẽ dân tộc. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng
tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền
thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển
toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước.
Thứ hai, các văn bản quy phạm pháp luật nằm trong các đạo luật như: Bộ Luật
Dân sự, Bộ Luật Hình sự, Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự, Luật Quốc tịch Việt Nam,
Luật Bầu cử Đại biểu Hội Đồng Nhân Dân…; các Nghị định; Nghị quyết của 16
Chính phủ; văn bản quy phạm pháp luật của các Bộ, Ngành, Trung ương và
chính quyền địa phương có các điều, khoản, mục, quy định cụ thể trên mọi lĩnh
vực các quyền, nghĩa vụ của công dân (không phân biệt dân tộc) và trách nhiệm
của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội có quan hệ trực tiếp hoặc liên quan
tới việc thực hiện chính sách dân tộc.
Có thể phân chia các quy phạm đó vào các nhóm quy định lớn sau:
Nhóm quy định về quyền bình đẳng chính trị của dân tộc thiểu số.
Nội dung của nhóm quy định này là: Đồng bào các dân tộc được quyền
tham chính, thông qua, thực thi dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.
Công dân Việt Nam thuộc các dân tộc ít người có quyền tham gia quản lý
Nhà nước và xã hội, ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân như mọi công dân khác.
Nhóm quy định về đầu tư phát triển kinh tế - xã hội đối với đồng bào
dân tộc thiểu số. Nội dung của nhóm quy định này là: Nâng cao nhanh đời
sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc ở các xã vùng đặc biệt
khó khăn miền núi và vùng sâu vùng xa, tạo điều kiện để đưa nông thôn
các vùng này thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển,
hoà nhập vào sự phát triển chung của cả nước, góp phần bảo đảm trật tự
an toàn xã hội, an ninh quốc phòng.
Nhóm quy định về đất đai, nhà ở, tài nguyên, môi trường sinh thái
đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Nội dung của nhóm quy định này là:
Thực hiện các giải pháp đối với hộ dân tộc thiểu số không có đất hoặc
thiếu đất sản xuất theo hướng: khai hoang mở rộng diện tích ở những vùng
có điều kiện, thu hồi, điều chỉnh lại đất đai của các nông, lâm trường để 17
giao cho hộ dân tộc thiểu số nghèo không có đất sản xuất; giao khoán đất
sản xuất của các nông, lâm trường cho hộ dân tộc thiểu số; hỗ trợ thích
hợp cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo có khó khăn về nhà ở; hướng
dẫn sản xuất, cho vay vốn, tiêu thụ nông sản nhằm giúp đồng bảo ổn định
cuộc sống, không du canh, du cư, phá rừng làm nương rẫy, bảo đảm cho
đồng bào có cuộc sống ổn định và từng bước nâng cao đời sống, tăng
cường khối đại đoàn kết dân tộc.
Nhóm quy định về giáo dục đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Nội
dung của nhóm quy định này là: Cụ thể hóa chính sách phát triển giáo dục,
nâng cao dân trí đối với đồng bào dân tộc thiểu số với những nội dung chủ
yếu: miễn đóng góp xây dựng trường, học phí, hỗ trợ sách giáo khoa và
giấy vở học tập đối với học sinh dân tộc thiểu số; đầu tư cho học sinh dân
tộc thiểu số tại trường dân tộc nội trú, cải thiện mức học bổng cấp cho học
sinh là người dân tộc thiểu số; thực hiện việc dạy, học tiếng dân tộc thiểu
số ở các cấp học phù hợp với đặc thù của vùng; tiến hành dạy chữ, tiếng
dân tộc thiểu số cho giáo viên; thực hiện chính sách cử tuyển con em đồng
bào dân tộc thiểu số đi đào tạo nghề, học trung học chuyên nghiệp, cao
đẳng và đại học, ưu tiên các đối tượng tự nguyện đi học để trở về quê hương công tác.
Nhóm quy định về y tế đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Nội dung
của nhóm quy định này là: Cụ thể hóa chính sách ưu đãi trong việc khám,
chữa bệnh tại các trạm y tế, trung tâm y tế, bệnh viện đối với đồng bào dân
tộc thiểu số; thực hiện khám chữa bệnh miễn phí đối với các hộ nghèo và
nhân dân ở các xã khu vực III. 18
Nhóm quy định về văn hóa – xã hội đối với đồng bào dân tộc thiểu
số. Nội dung của nhóm quy định này là: Nâng cao mức hưởng thụ văn hóa
đối với đồng bào dân tộc thiểu số, cấp miễn phí một số loại báo, tạp chí
cho khu vực xã dân tộc thiểu số; bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc, xây dựng chương trình và tăng thời lượng phát sóng truyền thanh,
truyền hình bằng tiếng các dân tộc thiểu số; tăng cường hỗ trợ các đoàn
nghệ thuật, các đội thông tin lưu động, chiếu bóng lưu động đến phục vụ
đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới.
Nhóm quy định về quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội. Nội
dung của nhóm quy định này là: đảm bảo chất lượng chính trị, khả năng
tác chiến của các lực lượng vũ trang, lực lượng quân sự, lực lượng dân
quân tự vệ trong việc cùng đồng bào các dân tộc thiểu số nêu cao tinh thần
cảnh giác, đoàn kết dân tộc, quyết tâm bảo vệ thành quả cách mạng, giữ
vững chủ quyền biên giới quốc gia, xây dựng tuyến phòng thủ vững chắc,
kiên quyết chống mọi âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Tóm lại: chính sách dân tộc là sự thể hiện cụ thể đường lối chính trị của Đảng và
Nhà nước ta về các vấn đề dân tộc. Chính sách dân tộc rất đa dạng, phong phú,
được thể hiện trong các văn kiện của Đảng, Hiến pháp và các văn bản quy phạm
pháp luật của Nhà nước.
Chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước ta mang tính toàn diện, tổng hợp, quán
xuyến tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan đến mỗi dân tộc và quan hệ
giữa các dân tộc trong cộng đồng quốc gia. 19
Việc thực hiện chính sách dân tộc tạo ra sự bình đẳng, đặt nền móng cho đại
đoàn kết toàn dân, tạo nên sức mạnh của cả dân tộc Việt Nam, góp phần xây
dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền, bảo đảm quyền con người, tiến tới xóa
bỏ sự chênh lệch về kinh tế văn hóa xã hội giữa các dân tộc, vùng miền.
Chương 3: Thực trạng việc thực hiện các chính sách dân tộc ở Việt Nam
3.1 Tình hình các dân tộc thiểu số và công tác dân tộc trong thời gian qua
3.1.1 Những thành tựu cơ bản
Sau hơn 15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nhất là từ khi có Nghị
quyết 22-NQ/TW, ngày 27-11-1989 của Bộ Chính trị về một số chủ trương,
chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi, tình hình miền núi và các
vùng đồng bào dân tộc thiểu số có bước chuyển biến quan trọng.
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc cơ bản đã được Hiến pháp xác định và
được thể hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đoàn kết giữa các dân
tộc tiếp tục được củng cố. Nền kinh tế nhiều thành phần ở miền núi và các
vùng dân tộc từng bước hình thành và phát triển, cơ cấu kinh tế đang chuyển
dịch theo hướng sản xuất hàng hóa. Việc triển khai thực hiện nhiều chính
sách, chương trình, dự án đầu tư đã làm cho kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
và đời sống nhân dân ở nhiều vùng đồng bào dân tộc được cải thiện rõ rệt.
Công tác xóa đói, giảm nghèo đạt được những kết quả to lớn. Mặt bằng dân
trí được nâng lên. Mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ đã được
thực hiện; hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú được hình thành từ
Trung ương đến tỉnh, huyện, cụm xã. Văn hóa phát triển phong phú hơn; đời
sống văn hóa của đồng bào được nâng cao một bước; văn hóa truyền thống 20
của các dân tộc được tôn trọng, giữ gìn và phát huy. Các loại bệnh dịch cơ
bản được ngăn chặn và từng bước đẩy lùi; việc khám, chữa bệnh cho người
nghèo vùng sâu, vùng xa được quan tâm hơn.
Hệ thống chính trị ở các vùng dân tộc và miền núi bước đầu được tăng cường
và củng cố. Tình hình chính trị, trật tự xã hội cơ bản ổn định; an ninh, quốc phòng được giữ vững.
3.1.2 Những hạn chế, yếu kém
Nhìn chung, kinh tế ở miền núi và các vùng dân tộc còn chậm phát triển,
nhiều nơi còn lúng túng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tập quán canh tác
còn lạc hậu. Chất lượng sản phẩm thấp, tiêu thụ rất khó khăn. Tình trạng du
canh, du cư, di cư tự do còn diễn biến phức tạp. Một số hộ còn thiếu đất sản
xuất. Kết cấu hạ tầng ở một số vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ
cách mạng còn rất thấp kém. Kinh tế lâm nghiệp chuyển biến chậm, chính
sách đối với lâm nghiệp chưa thật sự bảo đảm cho đồng bào sống và gắn bó
với nghề rừng. Nhiều nơi môi trường sinh thái đang tiếp tục bị suy thoái.
Ở nhiều vùng dân tộc và miền núi tỷ lệ đói nghèo hiện còn cao so với bình
quân chung của cả nước; khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa các vùng,
giữa các dân tộc ngày càng tăng; chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn
thấp, việc đào tạo nghề chưa được quan tâm, công tác chăm sóc sức khỏe cho
đồng bào ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Một số tập quán lạc hậu,
mê tín dị đoan có xu hướng phát triển. Một số bản sắc tốt đẹp trong văn hóa
của các dân tộc thiểu số đang bị mai một. Mức hưởng thụ văn hóa của đồng bào còn thấp.