








Preview text:
lOMoAR cPSD| 22014077
Chủ đề: Chính sách đô hô của các triều đại phong kiến Trung Hoa và những chuyểṇ
biến về kinh tế, xã hội, văn hóa Việt Nam lúc bấy giờ.
I. Chính sách đô hô c ̣ ủa các triều đại phong kiến Trung Hoa
1. Chính sách cai trị về chính trị
- Tổ chức chính quyền của người Việt dưới thời nhà Hán và nhà Đường được thể hiện:
+ Các đơn vị hành chính thuộc Hán: Tên gọi nước ta: Giao Châu
Châu (đứng đầu là viên Thứ sử người Hán), quận (Giao Chi, Cửu Chân, Nhật Nam
đứng đầu là viên Thái thú người Hán), huyện (từ sau khởi nghĩa Hai Bà Trưng, người
Hán trực tiếp nắm giữ), làng xã (do người Việt đứng đầu).
+ Các đơn hành chính thuộc Đường:
Tên gọi nước ta: An Nam đô hộ phủ.
Châu (trực thuộc An Nam đô hộ phủ), đứng đầu Phủ đô hộ là Tiết độ sứ; huyện; làng xã.
+ Đưa người Hán sang cai trị người Việt theo pháp luật hà khắc của họ. Tuy nhiên, đứng
đầu các làng xã vẫn là hào trưởng người Việt.
+ Tập trung xây đắp các thành lũy lớn như thành Luy Lâu (Bắc Ninh), thành Tống
Bình, thành Đại La (Hà Nội)...Bố trí đông đảo lực lượng quân đội đồn trú. Lực lượng
này có vai trò quan trọng trong đàn áp các cuộc đấu tranh của người Việt.
- Các triều đại phong kiến phương Bắc chủ trương đặt nước ta thành quận, huyện trực
thuộc Trung Quốc nhằm mục đích:
+ Kiểm soát nước ta ngày càng chặt chẽ.
+ Thực hiện âm mưu sáp nhập nước ta vào lãnh thổ Trung Quốc.
+ Xóa bỏ quốc gia, dân tộc Việt.
2. Chính sách bóc lột về kinh tế
- Chính quyền đô hộ đã thực hiện những chính sách bóc lột về kinh tế đối với nước ta:
+ Chiếm đoạt ruộng đất.
+ Siết chặt ách cai trị, đặt thêm thuế, bắt hàng ngàn thợ thủ công giỏi ở Giao Châu đem về nước.
+ Thời Đường, bên cạnh chính sách cống nạp, chính quyền đô hộ còn tăng cường chế
độ thuế khóa và lao dịch nặng nề. lOMoAR cPSD| 22014077
- Sắt và muối bị chính quyền đô hộ giữ độc quyền; hương liệu, vàng bạc bị đem cống nạp.
- Các triều đại phong kiến phương Bắc lại nắm độc quyền về muối và sắt vì:
+ Muối là gia vị chính không thể thiếu hằng ngày.
+ Sắt là vật liệu chính để chế tạo công cụ lao động, vũ khí.
+ Thu lợi nhuận cao và kiểm soát chặt chẽ các cuộc nổi dậy, khởi nghĩa.
3. Chính sách đồng hóa của các triều đại phong kiến phương Bắc
Trong hơn 1000 năm đô hộ nước ta, các triều đại phong kiến phương Bắc đã
tích cực thực hiện mọi biện pháp nhằm tăng cường đàn áp dân ta về quân sự, đồng hóa
về xã hội, biến đất nước ta thành quận huyện của Trung Quốc.
*Về tư tưởng, tinh thần:
- Thời Tây Hán, Nho giáo đã được chính quyền đô hộ truyền vào nước ta.
- Buổi đầu Công nguyên, các thái thú Tích Quang, Nhâm Diên càng tích cực “dựng học
hiệu để dạy lễ nghĩa” cho dân Giao Chỉ, Cửu Chân.
- Vào thời Sĩ Nhiếp làm thái thú quận Giao Chỉ có hàng trăm sĩ phu Trung Quốc sang
Việt Nam để đẩy mạnh việc truyền bá Nho giáo và Hán học ở Giao Châu, họ mở
trường dạy học ở Luy Lâu, Long Biên. *Văn hóa:
- Chính quyền đô hộ còn ráo riết đẩy mạnh việc di dân Hán đến ở lẫn với người Việt.
- Bắt dân ta phải thay đổi phong tục tập quán theo người Hán. Thái thú Tích Quang và
Nhâm Diên bắt người Việt phải theo “lễ nghĩa Trung Quốc” từ cách ăn mặc, lấy vợ,
lấy chồng, chế tạo mũ, giày,…
- Tiếng Hán và chữ Hán được chính quyền đô hộ phổ biến ở Giao Châu nhằm làm công
cụ thực hiện chính sách đồng hóa người Việt thành người Hán. Song, sau hơn nghìn
năm, nó vẫn không thể tiêu diệt được tiếng nói của dân tộc Việt bởi chỉ có một bộ
phận thuộc tầng lớp trên học nó, còn nhân dân lao động trong các làng xã Việt cổ vẫn
duy trì tiếng nói của tổ tiên.
4. Cuộc đấu tranh bảo vệ văn hóa của nhân dân ta
Trong sự nghiệp đấu tranh lâu dài chống Bắc thuộc, vấn đề đặt ra đối với dân tộc Việt
Nam không chỉ là độc lập cho đất nước mà còn là bảo vệ các di sản văn hóa cổ truyền. lOMoAR cPSD| 22014077 -
Từ thời Văn Lang – Âu Lạc, người Việt cổ đã tạo lập một nền văn hóa riêng,
nhiều phong tục tập quán tốt đẹp được định hình. Trong thời Bắc thuộc, mặc dù chính
quyền đô hộ dùng nhiều chính sách và thủ đoạn để đồng hóa dân tộc nhằm Hán hóa
Việt tộc và nền văn hóa Việt. Từ trong các xóm, làng Việt cổ, nhân dân ta vẫn bảo tồn
và không ngừng phát triển nền văn hóa bản địa, nội sinh từ ngàn năm trước. Mặc dù
chữ Hán và tiếng Hán được du nhập vào Việt Nam, nhưng không thể tiêu diệt được
tiếng nói của dân tộc, tiếng Việt ta vẫn được bảo tồn. -
Nhiều phong tục tập quán tốt đẹp thời kì Văn Lang – Âu Lạc vẫn được giữ gìn
như: tục nhuộm răng, ăn trầu, bơi chải, đấu vật, chọi trâu, ném còn, đề cao anh hùng
dân tộc,… Trong các lễ hội làng, hội mùa xuân,… mặc dù có biến đổi ít nhiều trong
nghi lễ nhưng tính chất cơ bản của nó từ thời Văn Lang, Âu Lạc vẫn được bảo tồn. -
Nho giáo và văn hóa Hán truyền bá vào Việt Nam nhưng vẫn không thể nào làm thay
đổi truyền thống văn hóa của dân tộc. Người Việt từ chối tư tưởng gia trưởng nặng nề,
xem khinh phụ nữ của người Hán. Các truyền thống văn hóa của dân tộc vẫn được lưu
truyền như thờ cúng tổ tiên, kính trọng ông bà, cha mẹ, nhường nhịn, thuận hòa,… Chữ
Hán và Nho giáo cùng với hệ tư tưởng của phong kiến Trung Hoa không xâm nhập và
không có ảnh hưởng nhiều đến làng xóm người Việt cổ. -
Trên cơ sở ý thức dân tộc và tinh thần tự cường nhưng không bảo thủ, đóng kín,
nhân dân ta đã biết kết hợp giữa truyền thống và cách tân cho phù hợp với hoàn cảnh
lịch sử. Điều này được thể hệ ở nhiều lĩnh vực như: từ tập tục ở nhà sàn, dần dần người
Việt chuyển sang ở nhà nền đất; trong trang phục, nghệ thuật cũng phong phú, đa dạng
và phát triển cao hơn trên cái căn bản của nền văn hóa cổ truyền; tiếng nói của người
Việt đã trải qua quá trình đơn âm tiết hóa và thanh điệu hóa, bên cạnh những âm tiết
thuần Việt còn có nhiều âm tiết Hán – Việt;… II. Những chuyển biến về kinh tế, văn
hóa, chính trị Việt Nam:
1. Những chuyển biến về kinh tế: Nông nghiệp:
- Công cụ bằng sắt ngày càng phổ biến thay thế công cụ sản xuất bằng đồng. Từ thời
Âu Lạc người Việt cổ đã nắm được kĩ thuật luyện sắt để chế tạo công cụ sản xuất, lOMoAR cPSD| 22014077
song đồ sắt thủa ấy còn ít, chưa được sử dụng rộng rãi trong sản xuất và đời sống xã hội.
Trong thời kì Bắc thuộc mặc dù chính quyền đô hộ nắm quyền về sắt, kiểm soát chặt
chẽ việc khai thác, chế tạo và mua đồ sắt, nhưng nhân dân ta vẫn rèn đúc, chế tạo được
nhiều công cụ bằng sắt phục vụ cho nhu cầu sản xuất và cuộc sống.
- Đồ sắt được sử dụng ngày càng nhiều vào sản xuất, lấn dần các nông cụ bằng đồng,
mặc dù công nghệ đúc đồng vẫn tồn tại và giữ một vị thế nhất định trong việc sản
xuất đồ dùng trong sinh hoạt. Trong các mộ cổ thuộc thời kì Bắc thuộc có rất ít vũ
khí, công cụ bằng đồng. Nhiều vật dụng trong gia đình cũng được chế tạo bằng sắt
( kiềng nấu bếp, đèn, đỉnh...) Việc nhà Hán đặt chức thiết quan trông coi thu thuế
sắt đã chứng tỏ từ đầu công nguyên về sau, cư dân Việt cổ đã bước vào thời kì đồ sắt phát triển.
- Quá trình giao lưu và mở rộng kinh tế, văn hóa, xã hội ngày càng được mở rộng
trong thời kì bắc thuộc với các nước đặc biệt là Trung Quốc, Ấn Độ đã góp phần
thúc đẩy kĩ thuật luyện sắt và chế tạo đồ sắt ngày càng tiến triển.
- Cùng với việc sử dụng rộng rãi công cụ bằng sắt, kĩ thuật dùng trâu bò làm sức kéo
trong nông nghiệp cũng ngày càng phổ biến, nhờ thế mà diện tích đất trồng trọt được
mở rộng dần, các công trình thủy lợi có điều kiện phát triển. Dọc những con sông
lớn như sông Hồng, sông Mã đã có đê phòng lụt. Nhiều kênh, ngòi, mương, máng
được đào thêm hay nạo vét hằng năm. Giao Châu Kí có ghi chép lại sự kiện huyện
Phong Khê ( trung tâm Cổ Loa) có đê phòng lụt. Hậu Hán thư ghi lại việc Mã Viện
“ sửa sang kênh ngòi”. Biện pháp dùng các loại phân bón để bón ruộng cũng được
thực hiện trong nông nghiệp.
- Tất cả những biện pháp kĩ thuật nói trên được đưa vào sản xuất nông nghiệp đã góp
phần rất quan trọng vào việc tăng năng suất lúa. Theo một số tài liệu ghi thì “ lúa
mỗi năm trồng hai lần về mùa hè và mùa đông, sản xuất từ Giao Chỉ, lúa Giao Chỉ chín hai mùa”.
- Đầu thời Bắc thuộc, triều Tây Hán phải chở thóc gạo vào Giao Chỉ để cung cấp cho
bọn quan lại đô hộ và quân lính chiếm đóng, thì đến thời Đông Hán, số thóc thuế lOMoAR cPSD| 22014077
mà chính quyền đô hộ vơ vét của nhân dân Giao Chỉ lên tới 13 600 00 hộc, tương đương 272000 tấn thóc.
- Ngoài lúa, nhân dân ta còn trồng nhiều loại hoa màu và các loại cây có củ khác như
khoai, đậu, sắn, ngô. Sử cũ có ghi lại một loại củ khoai tên là “cam chư” củ trắng
như trứng vịt, trứng gà, vỏ tía, thịt trắng thường được dùng làm quà để tiếp khách.
Người Việt gặp khách quí thì bày tiệc rượu, cà khoai để tiếp đãi. Nhiều loại rau cả,
cà cũng được trồng phổ biến trong nhân dân. Người ta còn biết trồng rau muống trên
các bè thả trên mặt ao, hồ.
- Ở mỗi vùng đất tùy theo khí hậu, thổ nhưỡng, nhân dân ta đã trồng nhiều loại cây
ăn quả như nhãn, vải, chuối, cam, quít,... Trồng trầu, cau phổ biến trong các vùng.
Nhân dân ta vẫn có tục cưới xin tiếp khách, gặp gỡ nhau thì dùng trầu cau “ miếng
trầu, miếng cau là đầu câu chuyện”.
- Cây công nghiệp chỉ có bông, mía, dâu. Việc trồng dâu nuôi tằm gắn với nghề nông
truyền thống lâu đời và nghề ươm tơ, dệt lụa. Nhân dân ta bấy giờ còn biết trồng trọt
và khai thác một số loại cây để làm thuốc ( đậu khấu, ý dĩ, quế, gừng gió), cây lấy
gỗ, làm các vật dụng trong đời sống, chăn nuôi trâu, bò, chó, lợn, gà, vịt, voi, ngựa.
Bên cạnh nghề làm ruộng là nghề làm vườn cũng khá phổ biến trong nhân dân.
- Mặc dù nền kinh tế nông nghiệp có bước chuyển biến rõ nét nhưng do chính sách
bóc lột nặng nề, phiền nhiễu, vơ vét triệt để của chính quyền đô hộ và bộ máy quan
lại ngoại tộc đông đảo đã làm cho đời sống nhân dân ta dưới thời Bắc thuộc hết sức khốn khổ. Thủ công nghiệp:
- Kĩ thuật rèn sắt phát triển hơn trước Công nguyên. Công cụ sắt có nhiều loại đa dạng
như rìu, mai, cuốc, dao, vũ khí, đèn, đinh và một số đồ dùng trong sinh hoạt gia
đình. Nghề đúc đồng vẫn được tiếp tục, nhưng chủ yếu chế tác phục cho nhu cầu
sinh hoạt hằng ngày của nhân dân như nồi, niêu, lư hương, đồ trang sức
- Nghề làm đồ gốm phát triển, nhiều loại đồ dùng trong nhà như bát, dĩa, vò, bình..
được sản xuất ngày càng nhiều. Bên cạnh gốm trơn ( thường) còn có loại gốm tráng
men. Gạch, ngói cũng có nhiều loại khác nhau ( gạch thường, gạch hình múi bưởi
để xây vòm cuốn, ngói bản, ngói ống,.... Nghề dệt vải lụa là những nghề thủ công lOMoAR cPSD| 22014077
trong gia đình phổ biến ở nhiều địa phương, các nghề mộc, đan, lát, xây dựng nhà
cửa cũng có bước phát triển đáng kể.
- Việc khai thác vàng, bạc, châu, ngọc, trong nhân dân cũng được đẩy mạnh, nhiều
kiểu loại trang sức bằng vàng, bạc, ngọc được gia công tinh tế như vòng tay, nhẫn,
trâm, lược, hoa tai,... chủ yếu phục vụ cho nhu cầu của tầng lớp thống trị và quí tộc.
- Trong quá trình giao lưu văn hóa, kinh tế với nước ngoài, nhân dân ta cũng đã tiếp
thu một số kĩ thuật công nghệ của các nước, đã làm nảy sinh thêm một số nghề thủ
công mới như nghề làm giấy từ các nguyên liệu như rêu biển, vỏ cây, lá cây, nhất là
sản xuất được giấy trầm hương có vân rất đẹp và có giá trị. Lái buôn Trung Quốc đã
đến nước ta mua giấy trầm hương đem về Trung Quốc. Từ thế kỉ IV trên cơ sở tiếp
thu kĩ thuật chế tạo thủy tinh của Ấn Độ và một số nước, người Việt đã thổi được
những bình, bát bằng thủy tinh nhiều màu sắc xanh, tía. Các nghề thủ công khác như
mộc, sơn the, thuộc da, nấu rượu, làm cối, khánh đá cũng khá phát triển trong nhân dân.
- Nghề mộc, đóng thuyền, nghề xây dựng chùa chiền, đền đài, lăng mộ cũng khá phát
triển. Người thợ thủ công nước ta bấy giờ đã thể hiện là những người có trình độ mĩ
thuật cao và rất khéo tay. Dưới thời nhà Ngô đô hộ nước ta, hàng nghìn thợ thủ công
đã bị bắt đưa sang Trung Quốc để xây dựng kinh đô Kiến Nghiệp, nhiều thợ thủ
công bị trưng tập và lao động trong các xưởng thủ công của chính quyền đô hộ. Đây
là nguyên nhân làm chậm bước chuyên môn hóa để hình thành các làng và phường
thủ công chuyên nghiệp, mặc dù đã có sự tách rời ít nhiều của một số bộ phân lao
động thủ công khỏi công nghiệp.
Về thương nghiệp:
- Sự chuyển biến trong nền kinh tế ( nông nghiệp và thủ công nghiệp) đã góp phần
quan trọng thúc đẩy thương nghiệp phát triển hơn trước. Mặt khác, sự phong phú về
tài nguyên và nhiều đặc sản của vùng nhiệt đới đã thu hút nhiều lái buôn nước ngoài
đến nước ta làm cho việc buôn bán ở Việt Nam thời Bắc thuộc thêm phần phát triển.
Nhu cầu của việc vận chuyển vật cống, thuế khóa thu được ở nước ta về Trung Quốc
cũng thúc đẩy chính quyền đô hộ chăm lo đến việc sửa chữa, xây đắp đường sá, dẫn
đến sự thông thương giữa các quận trong nước và giữa nước ta với Trung Quốc. lOMoAR cPSD| 22014077
Cuối thế kỉ I, còn đường dọc sông Thương sang Trung Quốc được xây đắp. Từ trung
tâm Luy Lâu, Long Biên đã có đường thủy ngược xuôi các ngả nối liền các vùng núi
Tây Bắc, Đông Bắc với đồng bằng châu thổ sông Hồng. Nhiều con đường bộ liên
vùng theo các hướng tây- tây nam- đông bắc và nam-tây nam- bắc – đông bắc gặp
nhau ở trung tâm. Hàng hóa bán ra nước ngoài chủ yếu là hương liệu, lâm sản quí,
vải, gấm, giấy bản, đường. Hàng hóa nhập vào gồm nhiều chủng loại nhưng đại bộ
phận là hàng xa xỉ phẩm, phục vụ cho bọn quan lại đô hộ và quí tộc giàu có.
- Tuy nhiên chính quyền đô hộ và bọn lái buôn người nước ngoài đã lũng đoạn nền
thương mại ở nước ta thời bấy giờ. Sự phát triển ngoại thương càng làm giàu thêm
cho bọn đô hộ, nhân dân bản địa phải chịu thêm ách lao dịch, bóc lột nặng nề.
- Dù là vậy, việc đẩy mạnh giao lưu kinh tế giữa các khu vực ở trong nước ( ở Châu
Giao) và giữa Châu Giao với các nước quanh vùng cũng đã có tác dụng nhất định
trong việc kích thích nền kinh tế ở châu Giao phát triển.
2. Những chuyển biến về văn hóa xã hội Việt Nam: -
Hán hóa giáo dục:
+Việc áp đặt hệ thống giáo dục Hán học không chỉ nhằm đào tạo quan lại mà còn
là một công cụ để truyền bá tư tưởng Nho giáo, một hệ tư tưởng đề cao sự phục
tùng và trật tự xã hội.
+Việc xây dựng các trường học dạy chữ Hán, kinh điển Nho giáo tại các trung tâm
hành chính như Luy Lâu (Bắc Ninh) là một ví dụ điển hình.
+ Tuyển chọn quan lại dựa trên trình độ Hán học, khuyến khích người Việt học tập
theo hệ thống giáo dục của Trung Hoa.
+Tuy nhiên, ảnh hưởng của Nho giáo trong thời kỳ này còn hạn chế, chủ yếu tập
trung ở tầng lớp quan lại và trí thức, chưa ăn sâu vào đời sống văn hóa của người dân. -
Áp đặt phong tục, tập quán:
+Việc áp đặt phong tục, tập quán của người Hán đã gây ra sự xung đột văn hóa,
nhưng cũng tạo ra sự giao thoa văn hóa giữa hai dân tộc.
+Người Việt đã tiếp thu có chọn lọc những yếu tố văn hóa Hán phù hợp với bản
sắc dân tộc, đồng thời vẫn giữ gìn những phong tục, tập quán truyền thống. lOMoAR cPSD| 22014077
+Khuyến khích người Hán di cư sang Việt Nam, sống lẫn với người Việt, nhằm
thay đổi phong tục, tập quán của người Việt.
+Áp đặt các nghi lễ, phong tục của người Hán trong các dịp lễ tết, cưới hỏi, ma chay. -
Sử dụng chữ Hán:
+Việc sử dụng chữ Hán đã tạo ra một tầng lớp trí thức người Việt thông thạo chữ
Hán, nhưng cũng gây ra sự phân hóa văn hóa trong xã hội.
+Tuy nhiên, tiếng Việt vẫn được duy trì trong giao tiếp hàng ngày của người dân,
cho thấy sức sống mãnh liệt của ngôn ngữ bản địa.
+Việc sử dụng chữ Hán trong các văn bản hành chính, luật lệ, sách vở. +Sự
hình thành một tầng lớp trí thức người Việt sử dụng thành thạo chữ Hán,
nhưng vẫn giữ gìn tiếng nói của dân tộc mình. -
Sự bảo tồn và phát triển văn hóa bản địa:
+Tinh thần đấu tranh kiên cường của người Việt chống lại ách đô hộ của phong
kiến Trung Hoa là minh chứng cho ý thức bảo tồn bản sắc dân tộc.
+Những cuộc khởi nghĩa liên tục nổ ra không chỉ thể hiện tinh thần yêu nước mà
còn là sự khẳng định sức sống mãnh liệt của văn hóa Việt Nam.
vd: Người dân vẫn giữ gìn những phong tục, tập quán truyền thống như thờ cúng
tổ tiên, lễ hội dân gian (lễ hội Gióng, lễ hội Đền Hùng...).
+Truyền miệng những câu chuyện cổ tích, những làn điệu dân ca, những bài ca dao tục ngữ.
+Các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta chống lại ách đô hộ của phong kiến phương
bắc. Điển hình như cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng. -
Sự giao thoa văn hóa:
+Sự giao thoa văn hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc đã tạo ra những biến đổi
trong văn hóa Việt Nam, nhưng không làm mất đi bản sắc riêng của dân tộc.
+Người Việt đã tiếp thu có chọn lọc những yếu tố văn hóa Hán, đồng thời sáng
tạo ra những giá trị văn hóa mới mang đậm bản sắc Việt Nam.
VD : Sự ảnh hưởng của kiến trúc Hán trong một số công trình kiến trúc Việt Nam,
như các đình chùa, miếu mạo. lOMoAR cPSD| 22014077
+Sự du nhập của một số loại hình nghệ thuật như múa rối nước, nhưng vẫn mang
đậm bản sắc văn hóa Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Hậu Mãn.(2008). Tình hình chính trị và
những chuyển biến về kinh tế, văn hóa. Đại cương lịch sử Việt Nam toàn tập (tr.
69-76) NXB Giáo dục.