Chủ đề 1: vấn đề cơ bản của triết học | Trường Đại học Kinh Tế - Luật
Vai trò của triết học Mác - Lênin trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay. Triết học đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận, nhân sinh quan. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Kinh tế vi mô (KTVM)
Trường: Trường Đại học Kinh Tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45943468 1
.Chủ đề 1: vấn đề cơ bản của triết học
Câu 1: Vai trò của triết học Mác - Lênin trong quá trình hình thành và phát triển nhân
cách sinh viên Việt Nam hiện nay:
Thứ nhất, Triết học đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành thế giới quan,
phương pháp luận, nhân sinh quan, hệ thống giá trị văn hóa nhân văn cho sinh viên,
nó như “la bàn” giúp họ định hướng tính tích cực xã hội và chính trị của mình vào
mục đích xây dựng, sáng tạo: Sinh viên ở các thời đại khác nhau và ở các nước khác
nhau đều thường đi tiên phong trong các phong trào và các tiến trình chính trị
Thứ hai, thế giới quan là nhân tố định hướng cho quá trình hoạt động sống của con
người, là thấu kính mà qua đó con người có thể xác định mục đíc, ý nghĩa cuộc sống
và ý nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách thức đạt mục đích đó: Triết học đem lại cho
sinh viên tri thức về các mối quan hệ xã hội, về bản chất, chức năng của nhà nước và
của pháp luật, về mục đích tồn tại của con người, về cái thiện và cái ác, về mối quan
hệ giữa cá nhân với nhà nước và xã hội, về tự do và trách nhiệm. => Vì vậy, triết học
có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách sinh viên.
Giáo dục triết học Mác - Lênin còn góp phần xây dựng nhân sinh quan cộng sản chủ
nghĩa cho sinh viên, xây dựng trong họ những quan niệm đúng đắn về cuộc đời, về ý
nghĩa và mục đích của cuộc sống. Cụ thể là, triết học Mác - Lênin giúp sinh viên hiểu
được mục đích cao nhất của con người là xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh; trong đó, mọi người đều có một cuộc sống đầy đủ về vật chất và tinh thần.
Đó là một xã hội mà "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển
tự do của tất cả mọi người".
Giáo dục triết học Mác - Lênin góp phần xây dựng lý tưởng cộng sản cho các thế hệ
sinh viên Việt Nam. Lý tưởng giữ vai trò quan trọng trong quá trình hình thành nhân
cách sinh viên, vì lý tưởng là mục đích cao nhất, đẹp nhất, tạo ra nghị lực giúp con
người vượt qua mọi thách thức đạt đến mục tiêu đề ra. Sinh viên khi tiếp nhận những
tri thức khoa học Mác - Lênin sẽ tìm kiếm được sức mạnh từ chính bản thân tri thức
ấy để tự mình vươn lên, bồi dưỡng lý tưởng cộng sản, tin tưởng vào con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội. Có niềm tin, có hoài bão, sinh viên tất có ý chí thực hiện lý
tưởng.Giúp sinh viên có tinh thần đấu tranh với những hành vi lệch chuẩn của một bộ
phận sinh viên sống thiếu trách nhiệm, mất phương hướng, lòng tin, lý tưởng sa đà
vào cuộc sống hưởng thụ, thực dụng chỉ nghĩ đến lợi ích riêng mình, vô cảm với lợi
ích của đồng loại, của dân tộc.
Do vậy, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta cần tránh cả hai thái cực sai lầm: lOMoAR cPSD| 45943468 2
+ Xem thường triết học sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, dễ bằng lòng với những biện
pháp cụ thể nhất thời, đi đến chỗ mất phương hướng, thiếu nhìn xa trông rộng, thiếu
chủ động và sáng tạo trong công tác;
+ Tuyệt đối hóa vai trò của triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng một cách
máy móc những nguyên lý, những quy luật vào từng trường hợp riêng mà không tính
đến tình hình cụ thể trong từng trường hợp riêng và kết quả là dễ bị vấp váp, thất bại.
Bồi dưỡng thế giới quan duy vật và rèn luyện tư duy biện chứng để phòng và chống
chủ nghĩa chủ quan, tránh phương pháp tư duy siêu hình, đó vừa là kết quả vừa là mục
đích trực tiếp của việc nghiên cứu lý luận triết học nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng.
Tham khảo: Câu 2: Vai trò của triết học Mác Lê nin đối với mỗi cá nhân ?
Học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin giúp chúng ta từng bước xây dựng và hình
thành thế giới quan khoa học, có phương pháp tiếp thu một cách hiệu quả lý luận mới,
những thành tựu khoa học - công nghệ của nhân loại, có niềm tin vào sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân, có cơ sở khoa học chống lại tư tưởng lạc hậu, phản động.
Hiểu và nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin, mỗi người có điều kiện hiểu rõ mục đích,
con đường, lực lượng, cách thức bước đi của sự nghiệp giải phóng con người, không
sa vào tình trạng mò mẫm, mất phương hướng, chủ quan, duy ý chí. Có cách nhìn xa
trông rộng, chủ động sáng tạo trong công việc, khắc phục chủ nghĩa giáo điều, máy
móc, tư tưởng nôn nóng đốt cháy giai đoạn và các sai lầm khác.
Học tập các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin giúp học sinh trung cấp chuyên
nghiệp có động cơ học tập đúng đắn, thái độ nghiêm túc trong rèn luyện đạo đức công
dân, ý thức nghề nghiệp của người lao động tương lai. Để đạt được mục đích đó người
học cần chú ý liên hệ từng nguyên lý, có ý thức trách nhiệm trong học tập, rèn luyện,
từng bước vận dụng vào đời sống, xây dựng tập thể, góp phần lớn nhất vào sự nghiệp
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Chủ đề 2: vật chất và ý thức:
· 1. Ví dụ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong thực tiễn
Ví dụ 1: Trước khi thực hiện một trận đánh chúng ta làm quyết tâm thư; thực hiện
tự phê bình và phê bình; rút ra các nhược điểm để tiến bộ, khắc phục những mặt
tiêu cực. Thực hiện giáo dục nhận thức thông qua các phong trào, thực tiễn tư
tưởng cục bộ địa phương và đạo đức giả.Hay, giữa vật chất và ý thức chỉ có những lOMoAR cPSD| 45943468 3
mặt đối lập tuyệt đối trong phạm vi nhận thức luận. Bên ngoài lĩnh vực đó, sự
phân biệt là tương đối. Vì vậy một chính sách đúng đắn là cơ sở để kết hợp hai
điều này.Ví dụ 2: Thực hiện giáo dục chính trị tư tưởng gắn với đề cao lợi ích vật
chất như: Đạt danh hiệu thi đua; khen thưởng.
· 2. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong cuộc sống:
Thứ nhất, Trong chính trị: Vận dụng của ĐCS Việt Nam vào sự nghiệp đổi mới – Từ
lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, kinh nghiệm những thành công và thất bại trong
quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra bài học kinh nghiệm
quan trọng đó là “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn
trọng quy luật khách quan”. Cụ thể:
● Trước đổi mới: Kinh tế(vật chất): Cơ sở vật chất yếu kém, cơ cấu kinh tế
nhiều mặt mất cân đối, năng suất lao động thấp, sản xuất chưa đảm bảo nhu cầu
đời sống, sản xuất nông nghiệp chưa cung cấp đủ thực phẩm cho nhân dân, nguyên
liệu công nghiệp hàng hóa cho xuất khẩu. Chính trị (ý thức): Chúng ta chưa tìm
ra được đầy đủ những nguyên nhân đích thực của sự trì trệ trong nền kinh tế của
nước ta và cũng chưa đề ra các chủ trương chính sách toàn diện về đổi mới. Nhất
là về kinh tế, chúng ta chưa kiên quyết khắc phục chủ quan, trì trệ trong bố trí cơ
cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý nền kinh tế và những sai lầm trong
lĩnh vực phân phối lưu thông. ● Sau đổi mới:
Về chính trị, Đảng và nhà nước đã đi sâu nghiên cứu phân tích tình hình, lấy ý
kiến rộng rãi của cơ sở, của nhân dân và đặc biệt là đổi mới tư duy về kinh tế.
Đại hội lần thứ VI của Đảng đã rút ra bài học kinh nghiệm lớn, trong đó: phải
luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Đảng đã đề ra đường lối đổi mới, mở ra bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng
Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Và đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, ta
đã đánh giá tình hình chính trị xã hội Việt Nam sau hơn bốn năm thực hiện
đường lối đổi mới: công cuộc đổi mới bước đầu đã đạt được những thành tựu
rất quan trọng, tình hình chính trị của đất nước ổn định.
Về Kinh tế: Nền kinh tế có những chuyển biến tích cực, bước đầu hình thành
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước, nguồn lực sản xuất của xã hội được huy động tốt hơn,
đời sống vật chất tinh thần của một bộ phân nhân dân có phần được cải thiện.
Sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy.
Thứ hai, Trong việc xây dựng nền kinh tế mới lOMoAR cPSD| 45943468 4
Hiện nay, người dân hiểu và tiếp thu những nghiên cứu, đúc kết từ phân tích của
nhà khoa học, nhà triết học vào thực tiễn cuộc sống. Sau đó áp dụng mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức. Nó là cơ sở để con người phản ứng với thực tại vật chất
thông qua những nhận thức cụ thể. Có những thứ tồn tại trong thực tế cuộc sống cần
phải có sự cải tạo của con người mới có ích cho nhiều việc.Từ sự hiện diện của vật
chất trên thế giới này, con người nhận thức đúng, thậm chí thay đổi và tác động trở
lại một cách sáng tạo. Làm cho vật chất đó sinh ra các vật thể, đồ vật, sinh vật, thực
vật, …. đa dạng hơn hoặc nếu chủ thể coi đó là vật có hại thì sẽ tìm cách kìm hãm
sự phát triển của nó và loại bỏ nó khỏi thế giới loài người.Đất nước ta đang bước
vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta chủ trương: “huy động
ngày càng cao mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước, đặc biệt là nguồn lực của dân
và công cuộc phát triển đất nước”, muốn vậy phải “nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, thực hiện “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
· Liên hệ bản thân mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, ta có thể liên hệ bản thân để rút ra những
bài học kinh nghiệm quý báu đối với quá trình học tập và làm việc. Trước hết,
trong quá trình hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta cần phải coi
trọng thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm cho căn cứ cho mọi hoạt động của mình.
Bên cạnh đó, cần phải phát huy tính năng động chủ quan, tức là phát huy vai trò
tích cực của ý thức, vai trò tích cực của nhân tố con người. Như vậy, để đạt được
thành công trong mọi lĩnh vực, con người cần trang bị các tri thức cần thiết và xác
định đúng đắn mục tiêu, phương hướng hoạt động và tổ chức thực hiện. Cùng với
nỗ lực và ý chí mạnh mẽ của mình để đạt được mục tiêu đề ra. Từ mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức liên hệ bản thân, cá nhân tôi thấy được rằng bản thân phải
luôn phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy nhân tố con người để
tác động cải tạo thế giới khách quan. Đặc biệt cần tránh tình trạng bảo thủ trì trệ,
thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại.
Chủ đề 3: Hai nguyên lý cơ bản của PBCDV
· * Liên hệ thực tiễn với bản thân (mối liên hệ phổ biến)
Khi nhìn nhận một vấn đề, cần nhìn đa chiều, đặt nó trong nhiều mối liên hệ với
các sự vật, hiện tượng khác đồng thời đặt nó trong hoàn cảnh lịch sử phù hợp để cho
ra một kết quả hay quyết định khách quan nhất.
· * Liên hệ thực tiễn với bản thân (sự phát triển) lOMoAR cPSD| 45943468 5
Mỗi ngày luôn phải làm mới bản thân, học tập thêm nhiều thứ mới mẻ từ nhiều
nguồn tài liệu khác nhau để không bị tụt hậu. Và khi học tập thêm nhiều thứ mới, tư
duy mở thì mới không bị bảo thủ, cố chấp giữ nguyên ý nghĩ ban đầu về một thứ.
· 1. VẬN DỤNG NGUYÊN LÝ PHÁT TRIỂN
Quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, khó
khăn, nhiều thử thách và cũng có lúc sự lãnh đạo của Đảng mắc phải những bệnh
chung của các nước xã hội chủ nghĩa như bệnh giáo điều, bệnh bảo thủ trì trệ, chủ
quan duy ý chí,... dẫn đến sự suy thoái khủng hoảng kinh tế xã hội. Tuy nhiên, Đảng
vẫn khẳng định “chủ nghĩa xã hội trên thế giới từ những bài học thành công và thất
bại cũng như từ những khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và
khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử loài người
nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.”( văn kiện Đại hội IX). Nhận định này xuất
phát từ nguyên lý về sự phát triển và quan điểm phát triển trong triết Mác Lênin và
thực tiễn tình hình thế giới cũng như tình hình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Bệnh bảo thủ trì trệ và bệnh giáo điều cùng với những bệnh chủ quan duy ý
chí là những căn bệnh chung của các nước xã hội chủ nghĩa và nó gây ra hậu quả tất
yếu là làm cản trở, thậm chí kéo lùi sự phát triển của kinh tế xã hội, đưa chúng ta
đến những sai lầm nghiêm trọng .
Trong quá trình đổi mới và xây dựng đất nước, Đảng ta luôn đấu tranh phê phán
với những quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến .Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI
có viết : “...Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành
phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin tưởng lẫn nhau hướng tới tương lai.”
Việc Đảng ta kiên trì đổi mới xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa
là căn cứ vào quan điểm phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng trên cơ sở tin
tưởng vào sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản. Mặc dù trong bối cảnh lịch sử hiện
nay Chủ nghĩa xã hội trên thế giới đang ở giai đoạn thoái trào và công cuộc quá độ
đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước ta cũng như các nước Chủ nghĩa xã hội đứng
trước nhiều khó khăn thử thách.
· Vận dụng nguyên lý về sự phát triển trong học tập
Vận dụng nguyên lý về sự phát triển trong học tập mang ý nghĩa rất quan trọng,
đặc biệt với sinh viên để có thể phát triển và hoàn thiện bản thân.
Các cá nhân trong học tập phải biết nắm chắc cơ sở lý luận cuẩ quan điểm toàn
diện, để từ đó có thể vận dụng một cách sáng tạo, hợp lý. Trong quá trình học tập
cần phải phân biệt các mối liên hệ, phải chú ý đến các mối liên hệ bên trong, mối
liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên để hiểu rõ về bản chất lOMoAR cPSD| 45943468 6
của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất
trong sự phát triển của bản thân.
Bên cạnh đó, trong nhận thức và hành động, chúng ta cần lưu ý tới sự chuyển hóa
lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện xác định
Ngoài ra, cá nhân cần phải nắm rõ chương trình học và cũng phải thấy rõ khuynh
hướng phát triển của chuyên ngành theo học trong thời gian sau đó, yêu cầu của xã
hội đối với chuyên ngành đang học tập, nghiên cứu là gì? Xã hội hiện tại và tương
lai đòi hỏi những gì, qua đó hoàn thiện bản thân, nâng cao tri thức cho phù hợp với nhu cầu của xã hội.
· 2. Vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến vào công cuộc thời kỳ đổi mới
của Đảng ở Việt Nam
Đảng ta đưa ra những đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế,
chính trị, xã hội, văn hóa, tư tưởng,...) chứ không ở một lĩnh vực nào. Như đại hội
VII của Đảng nêu kinh nghiệm bước đầu đổi mới “ Một là phải giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, hai là đổi mới toàn diện, đồng
bộ và triệt để nhưng phải có bớt đi hình thức và cách làm phù hợp.” Thực tiễn
cho thấy đổi mới là cuộc cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.
Trên từng lĩnh vực nội dung đổi mới bao gồm nhiều mặt đổi mới cơ chế, chính sách
tổ chức, cán bộ, phong cách và lề lối làm việc.
Đảng Cộng sản Việt Nam không tách mình ra khỏi quỹ đạo của sự phát triển nhân
loại, đó chính là tham gia Toàn cầu hóa. Việt Nam dưới sự dẫn dắt của Đảng đã thiết
lập quan hệ ngoại giao với 170 quốc gia, tao mối quan hệ thương mại với hơn 220
vùng lãnh thổ, đấy chính là một trong những thành quả cho việc phát triển đúng hướng của Việt Nam.
Ở quy mô nhỏ hơn, chính là xây dựng đội ngũ quản lý ở các địa phương, luôn biết
đặt mình trong tổng thể liên kết để tạo ra một chính quyền đồng bộ, thống nhất. Có
như vậy mới phát triển bền vững được.
Chủ đề 4: cặp phạm trù chung riêng, nguyên nhân kết quả Đang soạn lại
Cd6: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn
Liên hệ vai trò của thực tiễn :
Trong đợt dịch Covid 19 lần thứ tư này tốc độ lây lan rất nhanh, đã lan rộng ra nhiều
địa phương với quy mô lớn nhất từ trước đến nay và tiếp tục diễn biến khó lường. lOMoAR cPSD| 45943468 7
Đặc biệt, dịch đã ngấm sâu vào cộng đồng. Trong bối cảnh đó, thực tiễn trong triết
học Mác-Lênin cũng góp một phần sức trong việc chống lại đại dịch Covid 19 .
Thực tiễn là động lực,cơ sở của nhận thức, con người tác động vào thực tiễn bó
buộc nó lộ ra những đặc điểm,thuộc tính của mình để con người nhận thức. Trong
đại dịch covid-19 , khi tình hình dịch mới bùng phát ở mọi người trên thế giới đều
sống trong lo sợ, và khi thực tiễn là dịch covid lây lan qua đường hô hấp đã cung
cấp tài liệu cho con người chúng ta giúp chúng ta có tài liệu và tìm ra cách phòng
chống dịch bệnh như đeo khẩu trang , sử dụng dung dịch sát khuẩn tay, tránh chạm
tay vào mắt ,mũi, miệng,…. Và thực tiễn về việc lây lan và phòng chống dịch covid-
19 đã đề ra những nhu cầu, nhiệm vụ,phương hướng phát triển của con người. Con
người phải tìm cách để vừa phòng chống được dịch bệnh, vừa phải tìm cách để đảm
bảo vẫn phát triển kinh tế đất nước ổn định. Và từ đó các loại vaccin phòng chống
dịch bắt đầu được sáng chế và được đưa vào sử dụng, cùng với đó là các chỉ thị được
đưa ra để chống dịch bệnh . Và thực tiễn về việc lây lan nhanh chóng dịch covid-19
đã giúp con người có nhận thức đúng đắn và hiểu được tác hại cũng như lợi ích của
phòng chống dịch bệnh. Vậy thực tiễn covid 19 chính là cơ sở cho nhận thức con
người nảy sinh ra những phương thức để chống lại dịch bệnh để tồn tại và phát triển
, cũng như covid-19 là động lực thúc đẩy con người phải sáng tạo hơn nữa .Và nhu
cầu phòng chống dịch covid-19 mà con người sáng tạo ra các loại vacxin.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức: Nghiên cứu vaccin Moderna để phòng chống
và chữa bệnh Covid-19. Suy cho cùng đây là một vaccin được sản sinh ra để phục
vụ cho thực tiễn của nhận thức và như vậy không có tri thức nào được sản sinh ra
mà không phục vụ cho thực tiễn .
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vì thực tiễn vật chất hóa tri thức, hiện thực
hóa tư thưởng để khẳng định tính đúng sai của tri thức: nghe tin mọi người nói khi
tiêm vacxin sẽ làm mình dễ bị ốm và đau chỗ tiêm thì mình muốn biết thực thế như
thế nào thì mình phải được tiêm vacxin đã rồi xem phản ứng trên người mình như
thế nào( kiểm tra chân lý bằng thực tiễn ).
● Đảng và Nhà nước ta vận dụng vai trò thực tiễn
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta cung cấp một bài học to lớn về nhận thức. Đó là bài học
về quán triệt quan điểm thực tiễn – nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, quan
điểm cơ bản và hàng đầu của triết học Mác xít. Sự nghiệp đổi mới với tính chất mới mẻ
và khó khăn của nó đòi hỏi phải có lý luận khoa học soi sáng. Sự khám phá về lý luận
phải trở thành tiền đề và điều kiện cơ bản làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động
thức tiễn. Tuy nhiên, lý luận không bỗng nhiên mà có và cũng không thể chờ chuẩn bị
xong xuôi về lý luận rồi mới tiến hành đổi mới. Hơn nữa, thực tiễn lại là cơ sở để nhận
thức, của lý luận. Phải qua thực tiễn rồi mới có kinh nghiệm, mới có cơ sở đề khái quát thành lý luận. lOMoAR cPSD| 45943468 8
Vì vậy, quá trình đổi mới ở nước ta chính là quá trình vừa học vừa làm, vừa làm vừa
tổng kết lý luận, đúc rút thành quan điểm, thành đường lối để rồi quay trở lại quá trình
đổi mới. Có những điều chúng ta phải mò mẫm trong thực tiễn, phải trải qua thể nghiệm,
phải làm rồi mới biết, thậm chí có nhiều điều phải chờ thực tiễn. Ví dụ như vấn đề chống
lạm phát, chống tham nhũng, vấn đề khoán trong nông nghiệp, vấn đề phân phối sản
phẩm… Trong quá trình đó, tất nhiên sẽ không tránh khỏi việc phải trả giá cho những
khuyết điểm, lệch lạc nhất định.
Ở đây, việc bám sát thực tiễn, phát huy óc sáng tạo của cán bộ và nhân dân là rất quan
trọng. Trên cơ sở, phương hướng chiến lược đúng, hãy làm rồi thực tiễn sẽ cho ta hiểu
rõ sự vật hơn nữa – đó là bài học không chỉ của sự nghiệp kháng chiến chống ngoại xâm
mà còn là bài học của sự nghiệp đổi mới vừa qua và hiện nay.
Trong khi đề cao vai trò của thực tiễn, Đảng ta không hề hạ thấp, không hề coi nhẹ lý
luận. Quá trình đổi mới là quá trình Đảng ta không ngừng nâng cao trình độ lý luận của
mình, cố gắng phát triển lý luận, đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nó được thể hiện qua năm bước chuyển của
đổi mới tư duy phù hợp với sự vận động của thực tiễn cuộc sống trong những hoàn cảnh và điều kiện mới
1. Bước chuyển thứ nhất:
Từ tư duy, dựa trên mô hình kinh tế hiện vật với sự tuyệt đối hóa sở hữu xã hội (Nhà
nước và tập thể) với sự phát triển vượt trước của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển
của lực lượng sản xuất dẫn tới hậu quả kìm hãm sự phát triển sản xuất… sang tư duy
mới. Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo trong sự thống nhất biện chứng với tính đa dạng các hình thức sở hữu,
đa dạng các hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động làm đặc trưng chủ yếu
nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển.
Đây chính là bước chuyển căn bản mà có ý nghĩa sâu xa vì nó là tôn trọng quy luật
khách quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất; tuỳ thuộc vào
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà từng bước thiết lập quan hệ sản xuất cho phù hợp .
2. Bước chuyển thứ hai:
Từ tư duy quản lý dựa trên mô hình một nền kinh tế chỉ huy tập trung, kế hoạch hóa
tuyệt đối với cơ chế bao cấp và bình quân sang tư duy quản lý mới thích ứng với nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa
3. Bước chuyển thứ ba: lOMoAR cPSD| 45943468 9
Đó là tiến hành đổi mới hệ thống chính trị, từ chế độ tập trung quan liêu với phương
thức quản lý hành chính mệnh lệnh sang dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội,
thực hiện dân chủ toàn diện.
4. Bước chuyển thứ tư:
Đổi mới quan niệm về sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội ở một nước phải
xuất phát từ chủ nghĩa Mác – Lê nin trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước
đó. Và đây cũng chính là tính khách quan, là cơ sở khách quan quy định nhận thức và
những tìm tòi sáng tạo của chủ thể lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nó
cũng đồng thời một lần nữa làm sáng tỏ quan điểm thực tiễn chi phối sự hoạch định đường lối chính sách.
5. Bước chuyển thứ năm:
Đó là sự hình thành quan niệm mới của Đảng ta về Chủ nghĩa Xã hội những nhận thức
mới về nhân tố con người.
Sức mạnh của chủ nghĩa Mác – Lê nin là ở chỗ trong khi khái quát thực tiễn cách mạng,
lịch sử xã hội, nó vạch rõ quy luật khách quan của sự phát triển, dự kiến những khuynh
hướng cơ bản của sự tiến hóa xã hội. Trong giai đoạn hiện nay của sự nghiệp xây dựng
kinh tế xã hội đòi hỏi phải nắm vững và vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ
nghĩa Mác – Lênin. Để khắc phục những quan niệm lạc hậu trước đây cần chúng ta phải
đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết có hệ thống sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới. Có như vậy, lý luận mới thực hiện vai trò
tích cực của mình đối với thực tiễn.
Đổi mới nhận thức lý luận và công tác lý luận là một quá trình phức tạp, đòi hỏi phải
đấu tranh với tính bảo thủ và sức ỳ của những quan niệm lý luận cũ. đồng thời, đấu
tranh với những tư tưởng, quan niệm cực đoan từ bỏ những nguyên tắc cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin, phủ định sạch trơn mọi giá trị, mọi thành tựu của chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại: Đổi mới tư duy chỉ đạo trong sự nghiệp đổi mới nói chung là một bộ phận
không thể thiếu được của sự phát triển xã hội cũng như sự phát triển kinh tế xã hội nước
ta hiện nay. Điều đó còn cho thấy rằng chỉ có gắn lý luận với thực tiễn mới có thể hành
động đúng đắn và phù hợp với quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay. Sự khám phá về lý
luận phải trở thành tiền đề và làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động thực tiễn. Thực
tiễn chính là động lực, là cơ sở của nhận thức, lý luận. Vì vậy cần khắc phục ngay những
khiếm khuyết sai lầm song cũng phải tìm ra giải pháp khắc phục để hạn chế sự sai sót
và thiệt hại. (có thể tham khảo phần tóm gọn ở mess) lOMoAR cPSD| 45943468 10
CHỦ ĐỀ 7: SẢN XUẤT VẬT CHẤT VÀ VAI TRÒ
Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng ý nghĩa phương pháp luận về nguyên lý vai trò
sản xuất vật chất thế nào trong quá trình phát triển đất nước?
Muốn thúc đẩy xã hội phát triển, đất nước phát triển trước hết cần ưu tiên cho
sản xuất vật chất và tạo điều kiện cho sản xuất vật chất phát triển. Các hoạt động tinh
thần mặc dù đóng vai trò quan trọng nhưng chúng ta cũng cần hiểu rằng thúc đẩy sản
xuất phát triển sẽ làm cho kinh tế phát triển và từ đó có thể giải quyết vấn đề khác của
xã hội. Ở Việt Nam trong những năm vừa qua đã nhận thấy được điều này nên Đảng và
Nhà nước ta rất quan tâm đến lĩnh vực CNH, HĐH đất nước, phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần, thúc đẩy lực lượng sản xuất, đầu tư rất lớn và kêu gọi nguồn đầu tư
nước ngoài để phát triển khoa học công nghệ, đầu tư phát triển các khu công nghiệp
lớn. Để tạo ra lượng của cải lớn, đáp ứng được nhu cầu tồn tại trong nước và đáp ứng
được nhu cầu xuất khẩu.
Ví dụ: Đảng và Nhà nước luôn coi khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là
động lực phát triển kinh tế - xã hội, nền tảng và nhân tố quyết định thắng lợi của công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước. Điều này đã
được thể hiện rõ trong Nghị quyết số 20-NQ/TW Khóa XI của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Luật Khoa học và công nghệ năm 2013 và Chiến lược
Phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020. Với chủ trương đó,
đầu tư cho lĩnh vực khoa học và công nghệ luôn nhận được sự ưu tiên từ ngân sách nhà
nước. Tại Vĩnh Phúc ước tính 6 tháng đầu năm 2021 đã thu hút được 177,66 triệu USD
vốn FDI với 15 dự án đầu tư mới và 13 lượt dự án điều chỉnh tăng vốn.
Và Việt Nam muốn thực hiện thành công CNH, HĐH, muốn LLSX phát triển thì
phải thay đổi cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp-> công nghiệp-> dịch vụ thành công nghiệp
-> dịch vụ -> nông nghiệp. Thúc đẩy phát triển kinh tế nhiều thành phần có như vậy
mới phát triển được kinh tế. Đổi mới kỹ thuật, đổi mở công nghệ, muốn thúc đẩy xã hội
phát triển trước hết ở Việt Nam cần ưu tiên cho sản xuất vật chất.
Sản xuất vật chất đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển của đất
nước không chỉ tạo ra các sản phẩm phục vụ cho nhu cầu và tồn tại và phát triển của
con người và còn làm cho xã hội phát triển. khi sản xuất vật chất phát triển sẽ thúc đẩy
kinh tế phát triển , công nghệ phát triển, lĩnh vực nông nghiệp được giải quyết và từ đó
bài toán về lao động và giáo dục được giải quyết.
Trong 2 năm nay vấn đề COVID- 19 luôn là chủ đề vô cùng nóng hỏi, trong khoảng
thời gian đầu khi dịch bệnh bùng phát ta đã có chủ trương rằng khi dịch bệnh bùng phát
sẽ đóng cửa các doanh nghiệp, các dịch vụ buôn bán nhưng đã nhận ra được một điều lOMoAR cPSD| 45943468 11
rằng khi đóng cửa như vậy đã tạm ngưng đi sản xuất vật chất và ảnh hưởng rất lớn đến
cuộc sống con người. Thực hiện cách ly, chữa bệnh nhưng chúng ta vẫn cần ăn, vẫn cần
sử dụng các vật dụng thiết yếu, đóng cửa và tạm ngưng như vậy còn làm cho kinh tế
đình trệ không phát triển được. Nhận thấy được điều đó, hiện nay các dịch vụ mua bán
đã được thực hiện dưới hình thức mua mang về hay online, các doanh nghiệp vẫn tiếp
tục hoạt động trên cơ sở đảm bảo các quy tắc phòng dịch an toàn, hiệu quả. Như vậy
chúng ta có thể thấy rằng, đứng trước những diễn biến phức tạp của dịch COVID-19
Đảng và Nhà nước ta luôn kịp thời đưa ra những chính sách để vừa phòng chống dịch
vừa thực hiện được sản xuất vật chất.
Chủ đề 8.Quan hệ biện chứng LLSX và QHSX Đảng và nhà nước ta đã vận dụng ý nghĩa của
mối quan hệ biện chứng LLSX và QHSX trong quá trình phát triển đất nước như thế nào?
Ở nước ta trong thời kỳ từ Đại hội IV (năm 1976) đến trước Đại hội VI (năm 1986) của
Đảng, chúng ta đã mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí, nóng vội và bệnh bảo thủ trì trệ
do vi phạm các quy luật khách quan, đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chúng ta đã thoát ly khỏi điều kiện thực tiễn
của một đất nước kinh tế kém phát triển, còn nghèo nàn lạc hậu nhưng lại muốn tạo ra
một quan hệ sản xuất tiên tiến đi trước để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
Nhưng hậu quả thì ngược lại. Đúng như văn kiện Đại hội VI đã khẳng định: “Kinh
nghiệm thực tế chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan
hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu
tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Lúc đó chúng ta đã chủ
quan muốn tạo ra một quan hệ sản xuất vượt trước trình độ lực lượng sản xuất, làm cho
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trở nên gay gắt, đưa đất nước
lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội. Chúng ta đã có những biểu hiện nóng vội muốn
xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư
bản tư nhân thành quốc doanh; mặt khác, duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp, kìm hãm sự phát triển của đất nước. Chúng ta vừa chủ quan nóng vội, vừa bảo thủ
trì trệ, hai mặt đó cùng tồn tại và cản trở bước tiến của cách mạng. Sự nhận thức sai quy
luật chứng tỏ sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng quy luật đang hoạt động trong
thời kỳ quá độ; thành kiến không đúng những quy luật của sản xuất hàng hóa; coi nhẹ
việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn. Cuộc sống dạy cho chúng ta một bài học thấm thía
là không thể nóng vội làm trái quy luật.
Tại Đại hội VI - Đại hội khởi đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã phê phán bệnh chủ
quan duy ý chí do vi phạm quy luật khách quan mà trước hết và chủ yếu là quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Từ đó Đại hội
đã rút ra bài học quan trọng là “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và
hành động theo quy luật khách quan”, phải “làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất, luôn luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của
lực lượng sản xuất”. Công cuộc đổi mới xét về thực chất chính là quay trở về với quy lOMoAR cPSD| 45943468 12
luật, với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin phù hợp với thực tiễn đất
nước và thời đại. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, phù hợp hơn với quy luật
khách quan, trong gần 30 năm qua nhân dân ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có
ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó có thành tựu về
nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất ở nước ta. Chúng ta đã nhận thức rõ hơn quan hệ biện chứng giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, sự phù hợp và mâu thuẫn giữa chúng trong từng giai đoạn phát triển.
Về đặc trưng kinh tế trong xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, đã
chuyển từ công thức “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu” (Cương lĩnh năm 1991) sang công
thức “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp” (Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011). Sự “phù hợp” ở đây
trước hết là phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, phù hợp với thực tiễn
Việt Nam và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên trong nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất trong thời gian qua bên cạnh những thành tựu đạt được cũng bộc lộ nhiều
hạn chế, yếu kém, xuất hiện những mâu thuẫn mới, sự không phù mới giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất, làm cản trở sự phát triển của cả lực lượng sản xuất và cả
quan hệ sản xuất. Mặc dù đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nước
có thu nhập trung bình thấp, song thực chất vẫn là nước nghèo, kinh tế còn lạc hậu,
nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với thế giới và khu vực ngày càng lớn. Mục tiêu
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại khó
có thể đạt được. Hiện nay các ngành công nghiệp cơ khí, chế tạo, chế tác, phụ trợ... còn
kém phát triển, chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong GDP.Năng suất lao động, hiệu quả,chất lượng
sức cạnh tranh thấp, yếu tố năng suất tổng hợp ( TPF) rất thấp.
CHỦ ĐỀ 9 QUAN HỆ GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG
Phần: Liên hệ với thực tiễn quá trình phát triển quá độ ở Việt Nam hiện nay.
Thứ nhất, Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam hiện nay bao gồm các kiểu
quan hệ sản xuất gắn liền với các hình thức sở hữu khác nhau. Các hình thức sở hữu đó lOMoAR cPSD| 45943468 13
tương ứng với các thành phần kinh tế khác nhau, thậm chí đối lập nhau, nhưng cùng tồn
tại trong một cơ cấu kinh tế thống nhất theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ở Việt Nam hiện nay, các hình thức sở hữu cơ bản gồm sở hữu nhà nước (hay sở hữu
toàn dân, trong đó nhà nước là đại diện của nhân dân), sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân.
Các thành phần kinh gồm kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể, hợp tác xã; kinh tế tư nhân;
kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài.
VD: 1. Kinh tế nhà nước: Tiêu biểu là các tập đoàn Viettel, PVN, EVN, Vietnam Airline, Vinamilk…
2. Kinh tế tập thể, hợp tác xã: Tiêu biểu là các hợp tác xã nội nghiệp, côngnghiệp ở các địa phương.
3. Kinh tế tư nhân: Tiêu biểu là các tập đoàn Vingroup, FLC, Masan, Vietjet…
4. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Tiêu biểu là Toyota Vietnam, HyundaiVietnam…
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành đầy
đủ, đồng bộ theo các quy luật của nền kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng
xã hội chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư
nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế, các thành phần kinh tế khác được khuyến
khích phát triển hết mọi tiềm năng.
Thứ hai, Trong xây dựng kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã khẳng định:
● Lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng.
Xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa mang tính chất giai cấp công nhân,
do đội tiên phong của giai cấp công nhân là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo,
bảo đảm để nhân dân là người làm chủ xã hội.
● Các tổ chức, bộ máy thuộc hệ thống chính trị như Đảng Cộng sản, Quốc hội,
Chính phủ, quân đội, công an, tòa án, ngân hàng… không tồn tại vì lợi ích của
riêng nó mà là để phục vụ nhân dân, thực hiện cho được phương châm mọi lợi
ích, quyền lực đều thuộc về nhân dân.
● Mỗi bước phát triển của cơ sở hạ tầng hoặc kiến trúc thượng tầng là một bước
giải quyết mâu thuẫn giữa chúng.
Nói tóm lại, việc phát triển và củng cố cơ sở hạ tầng, điều chỉnh và củng cố các bộ
phận của kiến trúc thượng tầng là một quá trình lâu dài, gian khổ, diễn ra trong suốt thời kỳ quá độ. lOMoAR cPSD| 45943468 14
Chủ đề 11: tồn tại xh và ý thức xh
Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
trong việc xây dựng đời sống tinh thần ở Việt Nam hiện nay.
Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội đã được khẳng định rất rõ ràng:
tồn tại xã hội quyết đinh ý thức xã hội và ý thức xã hội có tính độc lập tương đối
đối với tồn tại xã hội.
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng của đời
sống xã hội. Vì vậy, công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải được
tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Cần quán triệt rằng, thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất đẻ thay đổi ý
thức xã hội. Mặt khác, cũng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại
xa hội mới tất yếu dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần của xã
hội mà ngược lại, những tác động của đời sống tinh thần xã hội, với những điều
kiện xác định cũng có thể tạo ra nhữn gbiến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội.
Quán triệt nguyên tắc phương pháp luận đó trong sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta, một mặt phải coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa,
phát huy vai trò tác động tích cực của đời sống tinh thần xã hội đối vói quá trình
phát triển kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ý thức xã hội mới ở Việt Nam hay nói cách khác là các điểm mới của đời sống
tinh thần ở Việt Nam hiện nay, được biết rằng ý thức xã hội mới là toàn bộ những
cái tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống của cộng đồng
dân tộc Việt Nam. Mà hạt nhân là tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước
phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ xã hội mới ý thức xã hội mới ở Việt Nam. Bắt nguồn từ ý tưởng cách mạng
của giai cấp công nhân là sự kế tục tư tưởng xã hội đề cao về bình đẳng xã hội.
Trong lịch sử tư tưởng của nhân loại là sự vận dụng kế thừa phát triển chủ nghĩa
mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện thực tiễn Việt Nam xã hội mới
bắt nguồn từ ý thức cách mạng của giai cấp vô sản hình thành và phát triển trong
cuộc đấu tranh chống lại chế độ cũ xây dựng xã hội mới, đồng thời ý thức xã hội
mới ở Việt Nam hiện nay chính là sự kế tục tư tưởng xã hội cao đẹp về bình đẳng
xã hội trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Vì vậy ý thức xã hội mới ở Việt Nam
hiện nay vừa mang tính khoa học tiên tiến cách mạng và việc xây dựng ý thức xã lOMoAR cPSD| 45943468 15
hội mới ở nước ta, có tầm quan trọng nhưng là nhiệm vụ khó khăn và thực tại.
Đó không phải là sản phẩm hình thành một cách tự phát mà chủ yếu là kết quả
của hoạt động tự giác đòi hỏi sự chủ động tham gia của đông đảo nhân dân dưới
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đội tiên phong cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam.
Mặt khác phải tránh tái phạm sai làm chủ quan duy ý chí trong việc xây dựng văn
hóa, xây dựng con người mới. Cần thấy rằng chỉ có thể thực sự tạo dựng được
đời sống tinh thần của xã hội – xã hội chủ nghĩa trên cơ sở cải tạo triệt để phương
thức sinh hoạt vật chất tiểu nông truyền thống và xác lập, phát triển được một
phương thức sản xuất mới trên cơ sở thực hiện thành công công nghiệp hóa hiện đại hóa.
II. Liên hệ cuộc chiến chống ại dịch Covid-19 ở nước ta hiện nay.
- Trước tình hình dịch bệnh Covid 19 diễn biến phức tạp, ể dịch bệnh sớm ẩy lùi và
cuộc sống của người dân bình thường trở lại thì ý thức của người dân đóng vai trò quan
trọng hay còn gọi là vũ khí phòng, chống dịch tốt nhất. Nhìn chung, ý thức của người
dân rất tốt khi đưa ra những chỉ thị 15 và 16 hiện nay. Hầu hết mọi người đều chung tay
phòng chống dịch như thực hiện tốt thông điệp 5K ( khẩu trang, khử khuẩn, khoảng
cách, không tập trung, khai báo y tế), tuân theo chỉ thị của chính phủ. Như những ợt
dịch Covid nhẹ trước ây thì vì ý thức tốt của người dân nên ta đã một phần nào đẩy lùi
dịch, cuộc sống của người dân i vào hoạt động trở lại. - Bên cạnh đó, vẫn còn một số
người ý thức kém về việc chung tay chống dịch. Mặc dù chính phủ đã đưa ra các chỉ thị
hay biện pháp phòng, chống nhưng họ vẫn nhất quyết không thủ. Ví dụ như vẫn còn
những nhóm người tập trung trong thời gian giãn cách, một số người nhất quyết không
eo khẩu trang đi ra đường, đặc biệt phải kể đến những người đi từ vùng dịch về không
khai báo làm cho dịch bệnh lan bùng phát mạnh hơn. Vì những ý thức xấu này tác động
đến dịch bệnh khó kiểm soát hơn hay khiến cho kinh tế, cuộc sống của người dân cũng
như nhà nước đi xuống một cách đáng kể
Chủ đề: Bản chất con người theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin- cô gửi
a. Con người là thực thể sinh học và xã hội:
* Mặt sinh học:
+ Để nói về con người với tư cách là một thực thể sinh học, Mác - Lênin khẳng
định: “Điều cụ thể đầu tiên cần phải xác định là tổ chức cơ thể của những cá nhân ấy
và mối quan hệ mà tổ chức cơ thể ấy tạo ra giữa họ và phần còn lại của giới tự nhiên”
[C. Mác và Ph. Ăng ghen toàn tập, sdd, tập 3, tr. 11]. lOMoAR cPSD| 45943468 16
+ Con người là một thực thể sinh học, là sản phẩm của quá trình phát triển, tiến
hóa lâu dài của giới tự nhiên. Với tư cách là một thực thể sinh học, con người cũng như
các động vật khác có nhu cầu tự nhiên: ăn, uống, hít thở, tính dục, sinh con đẻ cái,…
Những nhu cầu này đích thực là nhu cầu của sinh vật mà tất cả những loài động vật
khác đều có. + Với tư cách là một thực thể sinh học, con người phải phục tùng những
quy luật của giới tự nhiên như: sinh - lão - bệnh - tử, di truyền và biến dị, trao đổi qua
lại giữa cơ thể với môi trường, đồng hóa và dị hóa,…
+ Giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người: Để tồn tại và phát triển, con người
không thể tách mình ra khỏi tự nhiên được mà phải dựa vào tự nhiên để sinh tồn (tự
nhiên là môi trường sinh tồn của con người). Con người cần ánh sáng mặt trời, cần
không khí để thở, cần tìm kiếm thức ăn, cải tạo tự nhiên để tạo ra sản phẩm phục vụ
nhu cầu đa dạng của nó: thực phẩm, quần áo, nhà ở,... Nói cách khác giới tự nhiên chính
là thân thể vô cơ của con người.
* Mặt xã hội:
+ Con người chỉ có thể tồn tại và phát triển trong xã hội loài người: nghĩa là con
người chỉ có thể tồn tại và phát triển trong tương quan giữa người với người, trong các
cộng đồng xã hội, như: gia đình, làng xóm, quốc gia dân tộc,… Nó không thể tồn tại và
phát triển nếu tách ra khỏi xã hội loài người. Trong khi con vật có thể tồn tại mà không
cần đến cộng đồng xã hội, có thể tồn tại một cách đơn độc.
+ Con người có các hoạt động xã hội mà hoạt động quan trọng nhất là lao động
sản xuất. Từ lao động sản xuất mà ngôn ngữ và tư duy, ý thức được hình thành: Ngôn
ngữ và tư duy, ý thức là sự thể hiện tập trung và nổi trội tính xã hội của con người. Con
vật không có tư duy nhưng con người thì có tư duy, ngôn ngữ. Ngôn ngữ và tư duy là
sự thể hiện tập trung cho tính xã hội của con người bởi vì ngôn ngữ và tư duy chỉ được
hình thành và phát triển trong xã hội, thông qua lao động và giao tiếp hay là tương quan
giữa người với người. Chính vì thế, ngôn ngữ, tư duy chính là minh chứng sâu sắc cho
tính xã hội của con người.
b. Con người khác biệt với con vật ngay từ khi con người bắt đầu sản xuất ra
những tư liệu sinh hoạt của mình
+ Để phân biệt giữa con người và con vật có thể bằng nhiều hoạt động khác nhau:
tôn giáo, ý thức, nghệ thuật,… Nhưng hoạt động đầu tiên làm cho con người tách ra
khỏi đời sống động vật chính là hoạt động lao động sản xuất hay là hoạt động sản xuất
ra những tư liệu sinh hoạt của mình. Nếu con vật chỉ sử dụng những thứ có sẵn trong tự
nhiên thì con người không chỉ biết khai thác những thứ có sẵn trong tự nhiên mà còn
biết lao động sản xuất tạo ra của cái vật chất phục vụ đời sống của mình. à Đây chính
là hoạt động mang tính bản chất, đặc trưng của con người của con người, làm cho con
người khác biệt rất xa với con vật. Mác viết: “con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, lOMoAR cPSD| 45943468 17
còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên” [C. Mác và Ăngghen toàn tập, tập 3, tr. 10].
+ Chính lao động sản xuất đã cải tạo bản năng sinh học của con người làm cho con
người trở thành người theo đúng nghĩa. Lao động đã làm hoàn thiện thân xác của con
người, khiến cho nó có dáng đi thẳng, hoàn thiện các giác quan và phát triển não bộ.
Chính lao động đã phát triển tư duy, ý thức, ngôn ngữ, chữ viết; chính lao động giúp
con người xây dựng nền văn minh vật chất và tinh thần à giới tự nhiên thứ hai, phần
không có sẵn. Điều này Ăngghen đã làm rõ điều này trong tác phẩm Tác dụng của lao
động trong quá trình chuyển biến từ vượn thành người.
c. Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân mình
+ Triết học Mác khẳng định, con người vừa là sản phẩm của sự phát triển lâu dài
của giới tự nhiên, vừa là sản phẩm của lịch sử xã hội và vừa là sản phẩm của chính bản thân mình.
+ Một mặt, sự hình thành nhân cách con người vừa bị quy định bởi điều kiện tự
nhiên, hoàn cảnh lịch sử - xã hội; mặt khác bản chất, nhân cách của con người còn là
sản phẩm do chính nó tạo ra. Con người không thụ động để hoàn cảnh nhào nặn mình
mà nó còn chủ động để sáng tạo ra chính nó. Một phần là hoàn cảnh nhào nặn nên chúng
ta và phần còn lại là chính chúng ta nhào nặn nên chính mình.
d/ Con người vừa là chủ thể của lịch sử, cũng là sản phẩm của lịch sử
+ Con vật không sáng tạo ra lịch sử: Con người và con vật đều có lịch sử của mình,
nhưng lịch sử của động vật là quá trình phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái
hiện nay. Lịch sử ấy không phải do chúng làm ra mà chúng tham dự vào, nhưng ngay
cả khi chúng tham dự vào thì chúng cũng không ý thức được điều ấy. Và như vậy, con
vật không phải là chủ thể của quá trình lịch sử của chúng.
+ Con người sáng tạo ra lịch sử: Con người có lịch sử của mình và con người
chính là chủ thể của quá trình lịch sử đó. Vậy con người đã sáng tạo ra lịch sử như thế nào?
Hoạt động lịch sử đầu tiên khiến con người tách ra khỏi đời sống con vật chính là
hoạt động chế tạo ra công cụ sản xuất. Chính thời điểm đó con người bắt đầu sáng tạo ra lịch sử của mình.
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã tạo ra toàn bộ nền văn minh
vật chất để phục vụ nhu cầu của mình. Từ trên cơ sở hoạt động sản xuất vật chất, con
người đã sáng tạo ra toàn bộ đời sống tinh thần: chính trị, pháp luật, đạo đức, tôn giáo,
nghệ thuật, khoa học, triết học,... Cũng thông qua hoạt động sản xuất, con người đã làm
cho lịch sử vận động và phát triển từ trình độ này sang trình độ khác, từ thấp lên cao. lOMoAR cPSD| 45943468 18
* con người là sản phẩm của lịch sử
+ Không thể có con người trừu tượng, thoát ly khỏi mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch
sử mà sự hình thành và phát triển con người luôn chịu sự quy định của điều kiện tự
nhiên, hoàn cảnh xã hội và thời đại mà nó đang sống.
+ Sự hình thành và phát triển con người bị quy định bởi giới tự nhiên: con người
là một thực thể sinh học, là một bộ phận của giới tự nhiên. Để tồn tại và phát triển, con
người để tồn tại phải tuân theo các quy luật của giới tự nhiên, phải biến đổi mình để
thích nghi, thích ứng, hòa nhịp với giới tự nhiên.
+ Sự hình thành và phát triển con người còn bị quy định bởi môi trường xã hội:
Con người không chỉ bị quy định bởi môi trường tự nhiên mà còn bị quy định bởi môi
trường xã hội. So với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội có ảnh hưởng trực tiếp và
quyết định đến con người hơn. Chính môi trường xã hội ấy đã nhào nặn nên con người,
ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đến sự hình thành và phát triển bản chất con người.
Sự hình thành bản chất con người chịu sự quy định bởi điều kiện, hoàn cảnh lịch
sử xã hội như: gia đình, nhà trường, giai cấp, dân tộc, thời đại, truyền thống đạo đức,
văn hóa,… mà nó đang sống. Bởi vậy, con người trong xã hội chiếm hữu nô lệ khác với
con người trong, con người trong xã hội phong kiến khác với con người trong xã hội tư
bản, khác với con người hiện nay. Con người sống ở thành thị khác với nông thôn. Ở
phương Đông khác với phương Tây là vậy.
đ/ Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội:
Trong luận cương về Phoiơbắc, Mác viết: Bản chất con người không phải là cái
gì trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội” [M-A, tập, tr. 11].
+ Con người hiện thực: Trước Mác, người ta cũng nhận thức về con người nhưng
là con người cá nhân, trừu tượng: con người thoát ra khỏi mọi điều kiện tự nhiên, điều
kiện xã hội. Trong khi đó, triết học Mác - Lênin, không xem xét con người với tư cách
những cá nhân trừu tượng mà xem xét con người với tư cách là con người cụ thể, đang
sống trong một thời đại nhất định, trong điều kiện lịch sử nhất định.
+ Con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội: Khi con người tồn tại, nó tham
gia vào rất nhiều những mối quan hệ xã hội: vật chất, tinh thần, gia đình, giai cấp, dân
tộc, chính trị, pháp luật, tôn giáo, khoa học,… Thông qua những mối quan hệ ấy, bản
chất con người được hình thành và phát triển; cũng thông qua những mối quan hệ ấy
mà bản chất con người sẽ được bộc lộ ra. lOMoAR cPSD| 45943468 19
Liên hệ với việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa?
+ Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vì thế vấn đề xây dựng
và phát huy nhân tố con là một trong những nhiệm vụ trọng tâm đối với sự nghiệp cách
mạng của nước ta. Trong Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam (1991) khẳng định:
con người giữ vị trí trung tâm trong sự nghiệp cách mạng. “Nguồn lực lớn nhất, quý
báu nhất của chúng ta là tiềm lực con người Việt Nam”. Vấn đề này vẫn tiếp tục được
khẳng định thông qua các kỳ Đại hội gần đây.
+ Để phát huy nhân tố con người trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam cần phải thực hiện đồng bộ các vấn đề sau:
1/ Trên lĩnh vực kinh tế: Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân
loại, không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà tồn tại khách quan trong quá trình xây dựng
xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế này phải đảm bảo được sự tăng trưởng kinh tế với sự tăng
lên của GDP bình quân đầu người hàng năm, từ đó nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho con người.
2/ Trên lĩnh vực giáo dục: Nâng cao hiệu quả giáo dục, phát triển nguồn nhân lực.
Nhiệm vụ của giáo dục là “giáo dục cái mà đất nước cần chứ không giáo dục cái mà ta
có”. Mục tiêu của giáo dục phải hướng tới phát triển con người toàn diện: đức trí - thể
- mỹ. Cần tăng cường giáo dục đạo đức, giáo dục pháp luật, lý tưởng sống trong nhân
dân, đặc biệt là tầng lớp thanh niên. [tri thức khoa học].
3/ Trên lĩnh vực văn hóa nghệ thuật: Văn hóa nghệ thuật là sự sáng tạo theo yêu
cầu của cái đẹp, là động lực thúc đẩy con người vươn tới sự hoàn thiện toàn mĩ. Văn
hóa nghệ thuật góp phần xây dựng tình cảm tốt đẹp, tác động tới nếp nghĩ, lối sống,
phong cách làm việc của con người. Việc xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc sẽ có tác dụng tích cực góp phần xây dựng con người Việt Nam phát
triển toàn diện trong thời đại toàn cầu hóa.
Chủ đề : Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành
những sự thay đổi về chất và ngược lại
Vận dụng quy luật chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về
chất và ngược lại vào hoạt động tích lũy kiến thức của học sinh, sinh viên
Đôi nét về hoạt động tích lũy kiến thức của học sinh
Tri thức là hành trang không thể thiếu của mỗi người. Từ khi sinh ra, chúng ta đã
tích lũy tri thức theo từng giai đoạn phát triển: từ những điều cơ bản nhất như ngôn ngữ,
đồ vật, màu sắc,… đến những kiến thức về các lĩnh vực trong cuộc sống như văn học, lOMoAR cPSD| 45943468 20
toán học, lịch sử. Đặc biệt là những năm tháng ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta được
tiếp thu những tri thức cơ bản về cuộc sống trong lĩnh vực tự nhiên và xã hội. Bên cạnh
đó, mỗi học sinh cũng trang bị thêm cho mình những kiến thức thực tiễn, những kĩ năng
mềm cần thiết cho cuộc sống sau này. Tuy nhiên, 12 năm học trung học và phổ thông
và những năm trên giảng đường đại học vẫn là thời gian quan trọng nhất bởi đó là thời
điểm chúng ta trang bị cho mình những kiến thức cơ bản nhất mà mỗi người đều phải
biết trong xã hội ngày nay.
Vì vậy, việc nghiên cứu quá trình này là một vấn đề vô cùng quan trọng và cần thiết
để từ đó có thể hiểu rõ hơn hoạt động và giúp hoạt động này đạt được hiệu quả cao nhất.
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và
ngược lại và vận dụng quy luật này trong hoạt động thực tiễn
Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng trong quá trình tích lũy kiến thức của học sinh, sinh viên
Quá trình học tập của mỗi học sinh là một quá trình dài, khó khăn và cần sự cố gắng
không biết mệt mỏi, không ngừng nghỉ của bản thân mỗi học sinh. Quy luật chuyển hóa
từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất thể hiện ở chỗ: mỗi học sinh tích
lũy lượng (kiến thức) cho mình bằng việc nghe các thầy cô giảng trên lớp, làm bài tập
ở nhà, đọc thêm sách tham khảo,… thành quả của quá trình tích lũy đó được đánh giá
qua những bài kiểm tra, những bài thi học kỳ và kỳ thi tốt nghiệp. Khi đã tích lũy đủ
lượng tri thức cần thiết, học sinh sẽ được chuyển sang một cấp học mới cao hơn. Như
vậy, quá trình học tập, tích lũy kiến thức là độ, các bài kiểm tra, các kì thi là điểm nút
và việc học sinh được sang một cấp học cao hơn là bước nhảy. Trong suốt 12 năm học,
học sinh phải thực hiện nhiều bước nhảy khác nhau. Trước hết là bước nhảy để chuyển
từ một học sinh trung học lên học sinh phổ thông và kỳ thi lên cấp 3 là điểm nút, đồng
thời nó cũng là điểm khởi đầu mới trong việc tích lũy lượng mới (tri thức mới) để thực
hiện một bước nhảy vô cùng quan trọng trong cuộc đời: vượt qua kì thi đại học để trở
thành một sinh viên. Sau khi thực hiện dược bước nhảy trên, chất mới trong mỗi người
được hình thành và tác động trở lại lượng. Sự tác động đó thể hiện trong lối suy nghĩ
cũng như cách hành động của mỗi sinh viên, đó là sự chín chắn, trưởng thành hơn so
với một học sinh trung học hay một học sinh phổ thông. Và tại đây, một quá trình tích
lũy về lượng (tích lũy kiến thức) mới lại bắt đầu, quá trình này khác hẳn so với quá trình
tích lũy lượng ở bậc trung học hay phổ thông. Bởi đó không đơn thuần là việc lên giảng
đường để tiếp thu bài giảng của thầy cô mả phần lớn là sự tự nghiên cứu, tìm tòi, tích
lũy kiến thức, bên cạnh những kiến thức trong sách vở là những kiến thức xã hội từ các
công việc làm thêm hoặc từ các hoạt động trong những câu lạc bộ. Sau khi đã tích lũy
được một lượng đầy đủ, các sinh viên sẽ thực hiện một bước nhảy mới, bước nhảy quan
trọng nhất trong cuộc đời, đó là vượt qua kì thi tốt nghiệp để nhận được tấm bằng cử
nhân và tìm được một công việc. Cứ như vậy, quá trình nhận thức (tích lũy về lượng)