Chủ đề chung ôn tập - Luật Hình Sự II | Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội
Chủ đề chung ôn tập - Luật Hình Sự II | Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
Chủ đề 1: Tội phạm 1. Khái niệm Điều 9 BLHS quy định:
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do
người có NLTNHS hoặc PNTM thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm
đến độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xâm phạm
đến chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự,
an toàn xã hội, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
đến quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm đến một
số lĩnh vực khác thuộc trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của
Bộ luật này phải xử lý hình sự.”
2. Dấu hiệu (đặc điểm) của tội phạm
Hành vi bị coi là tội phạm có các dấu hiệu: Tính nguy hiểm cho xã hội, tính có
lỗi, tính trái pháp luật hình sự, tính phải chịu hình phạt.
2.1. Tính nguy hiểm cho xã hội
Hành vi của một cá nhân hoặc pháp nhân thương mại được coi là nguy hiểm
cho xã hội nếu nó không phù hợp với chuẩn mực hoặc đạo đức xã hội, gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại cho xã hội, chính sự không phù hợp này đã gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại đến các QHXH mà LHS bảo vệ.
- Là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất, quyết định những dấu hiệu khác của tội
phạm, là cơ sở để phân biệt hành vi phạm tội với những hành vi vi phạm pháp
luật khác, là cơ sở để phân hóa TNHS.
- Gây ra thiệt hại đáng kể cho QHXH được pháp luật hình sự bảo vệ: Thể chất
(sức khỏe, tính mạng con người); vật chất (tài sản); phi vật chất (danh dự, nhân
phẩm, trật tự xã hội, …)
- Tồn tại độc lập không phụ thuộc vào sự áp đặt chủ quan của con người. Để
đánh giá tội phạm và phân hóa TNHS cần dựa trên những yếu tố:
+ Tính chất, tầm quan trọng của QHXH bị xâm phạm;
+ Tính chất, mức độ thực hiện hành vi;
+ Thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra hoặc đe dọa gây ra;
+ Phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh thực hiện hành vi,
tính chất và mức độ lỗi;
+ Động cơ, mục đích thực hiện hành vi phạm tội;
+ Nhân thân người phạm tội;
+ Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS
2.2. Tính có lỗi
- Là thái độ chủ quan của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và đối
với hậu quả của hành vi đó được thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý. (Người đó
bị coi là có lỗi khi người đó thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội và hành
vi ấy là kết quả của sự tự lựa chọn và quyết định của chủ thể trong khi đủ điều
kiện quyết định thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.)
- Là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm, hành vi nguy hiểm cho xã hội do người
không có lỗi thực hiện thì không thể bị coi là tội phạm.
2.3. Tính trái pháp luật hình sự
- Tính trái pháp luật hình sự là dấu hiệu đòi hỏi phải có ở hành vi bị coi là tội
phạm, được thể hiện tại Điều 8 và các điều luật cụ thể phần các tội phạm của BLHS.
- Tính trái PLHS và tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm có mối quan hệ biện
chứng, gắn bó với nhau (Tính nguy hiểm cho xã hội thể hiện nội dung có tính
chính trị - xã hội của tội phạm, tính trái pháp luật thể hiện mặt hình thức pháp lý
của tội phạm. Căn cứ vào tính nguy hiểm cho xã hội các nhà làm luật phản ánh
vào pháp luật hình sự.). Tuy nhiên trên thực tế, để đánh giá hành vi nào đó có
phải là tội phạm hay không, trước hết phải xem hành vi đó có được quy định
trong BLHS hay không, sao đó mới xem xét đến hành vi đó có nguy hiểm đáng kể cho xã hội hay không.
2.4. Tính phải chịu hình phạt
- Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước đối với
người, PNTM phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của
người hoặc pháp nhân phạm tội. Theo đó, tội phạm luôn chứa đựng khả năng bị
đe dọa biện pháp cưỡng chế của nhà nước là hình phạt. Do vậy, có thể nói tội
phạm mang tính phải chịu hình phạt
- Tính phải chịu hình phạt không phải là thuộc tính bên trong của tội phạm nhưng
là hệ quả của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái PLHS và
bị coi là tội phạm. Chỉ có hành vi phạm tội mới phải chịu biện pháp trách nhiệm
hình sự là hình phạt, không có tội phạm thì cũng không có hình phạt.
- Trong LHS các quy định về tội phạm cụ thể luôn đi kèm với quy định về hình
phạt cụ thể áp dụng với người phạm tội. Dựa trên tính chất, mức độ nguy hiểm
cho xã hội của tội phạm là cơ sở để phân hóa hình phạt khi áp dụng với người,
PNTM phạm tội trong từng trường hợp cụ thể.
3. Ý nghĩa của khái niệm tội phạm
- Là cơ sở để Luật hình sự xác định các khái niệm khác như cơ sở của TNHS,
tuổi chịu TNHS, hình thức lỗi, các giai đoạn thực hiện tội phạm, đồng phạm,
các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, tái phạm, tái phạm nguy hiểm…
- Phân hóa TNHS đối với các tội phạm cụ thể qua việc quy định các điều luật với khung hình phạt;
- Là cơ sở để cá thể hóa hình phạt đối với người hoặc PNTM phạm tội khi áp dụng.
4. Phân loại tội phạm
Phân loại tội phạm là phân các tội phạm ra các nhóm khác nhau dựa trên các
tiêu chí nhằm mục đích nhất định.
4.1. Tiêu chí lỗi - Cố ý - Vô ý
4.2. Tuổi của người thực hiện tội phạm
- Người từ đủ 18 tuổi trở lên
- Người chưa đủ 18 tuổi
4.3. Giai đoạn thực hiện tội phạm - Tội phạm hoàn thành
- Tội phạm chưa hoàn thành (chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt…)
4.4. Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội
- Tội phạm ít nghiêm trọng (cải tạo không giam giữ, tù dưới 03 năm)
- Tội phạm nghiêm trọng (tù từ 03-07 năm)
- Tội phạm rất nghiêm trọng (tù từ 07-15 năm)
- Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (tù từ 15-20 năm, chung thân, tử hình)
Chủ đề 2: Cấu thành tội phạm 1. Khái niệm
CTTP là tập hợp có hệ thống các dấu hiệu pháp lý đặc trưng riêng của tội
phạm được quy định trong BLHS
- Tổng hợp các dấu hiệu pháp lý đặc trưng điển hình, phản ánh bản chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi bị coi là tội phạm.
- Là khuôn mẫu pháp lý của từng tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS.
2. Đặc điểm dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm
Dấu hiệu pháp lý của CTTP là đơn vị nhỏ nhất của mỗi CTTP, có sự liên kết
chặt chẽ với nhau để tạo nên tính đặc trưng riêng của mỗi tội phạm cụ thể.
2.1. Tính luật định
Mỗi tội phạm cụ thể đều được cấu thành bởi nhiều dấu hiệu pháp lý cho tội
phạm đó. Các dấu hiệu pháp lý này được quy định trong BLHS tại cả Phần chung và Phần các tội phạm.
- Trong đó có một số dấu hiệu pháp lý mang tính chất chung như: tuổi chịu
TNHS; năng lực TNHS, lỗi cố ý, lỗi vô ý được quy định tại Phần chung thành
nguyên tắc áp dụng cho tất cả tội phạm được quy định tại Phần các tội phạm.
- Các dấu hiệu mang tính chất đặc trưng cho từng loại tội phạm như: hành vi
nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, thời gian, địa điểm, công
cụ, phương tiện, hoàn cảnh phạm tội, dấu hiệu chủ thể đặc biệt…được quy định
trong từng tội phạm cụ thể ở Phần các tội phạm của BLHS.
Các cơ quan áp dụng pháp luật, người áp dụng pháp luật phải tuân thủ quy định
của BLHS về CTTP, không được sử dụng các dấu hiệu chưa được quy định trong
BLHS để xác định tội danh, TNHS đối với người phạm tội.
2.2. Tính đặc trưng đặt trong mối quan hệ liên kết tổng hợp
CTTP là sự tổng hợp, liên kết chặt chẽ của các dấu hiệu pháp lý trong đó có
những dấu hiệu pháp lý tồn tại trong các tội phạm khác nhau mà khi tách riêng các
dấu hiệu pháp lý đó thì không thể hiện được tính đặc trưng của CTTP cụ thể nhưng
khi các dấu hiệu pháp lú được đặt trong sự liên kết với các dấu hiệu pháp lý khác
thì lại tạo nên tính đặc trưng riêng. Tổng hợp các dấu hiệu pháp lý của từng CTTP
đề có tính đặc trưng riêng của CTTP đó, giúp phân biệt với các CTTP khác.
Có ý nghĩa quan trọng để xác định tội phạm trong từng trường hợp cụ thể, phân
biệt hành vi phạm tội với hành vi vi phạm pháp luật khác, phân biệt các tội phạm
có dấu hiệu pháp lý được phản ánh giống nhau. Đòi hỏi người áp dụng pháp luật
phải xem xét các dấu hiệu pháp lý của CTTP dưới góc nhìn tổng hợp, liên kết để
xác định đúng tính đặc trưng của CTTP.
2.3. Tính bắt buộc
Xuất phát từ 02 đặc điểm trên, CTTP của mỗi tội phạm phải chứa những dấu
hiệu đặc trưng quy định trong BLHS nên các dấu hiệu pháp lý này có tính bắt buộc với CTTP đó.
Tính bắt buộc thể hiện ở chỗ việc quyết định và áp dụng thiếu đi một hoặc một
số dấu hiệu pháp lý của đặc trưng của CTTP nào đó thì sẽ dẫn tới việc không bảo
đảm được cấu trúc của CTTP đó trong BLHS cũng như không bảo đảm được việc
áp dụng chính xác CTTP đó trên thực tế.
Đặc điểm này buộc người áp dụng pháp luật phải xem xét tất cả các dấu hiệu
được quy định trong CTTP để xác định đúng đắn tội phạm cụ thể.
Người áp dụng pháp luật phải trên cơ sở hành vi đã thực hiện, đối chiếu hành
vi đó với các dấu hiệu pháp lý trong CTTP để xác định hành vi đó có phải là tội
phạm hay không? Nếu là tội phạm thì là tội phạm gì? Nếu hành vi đó thỏa mãn các
dấu hiệu pháp lý của một CTTP cụ thể được BLHS quy định thì mới có thể xác
định hành vi đó là hành vi phạm tội.
3. Phân loại cấu thành tội phạm
3.1. Tính chất, mức độ nguy hiểm - CTTP cơ bản - CTTP tăng nặng - CTTP giảm nhẹ
3.2. Đặc điểm, cấu trúc của mặt khách quan của tội phạm - CTTP vật chất - CTTP hình thức
3.3. Các giai đoạn thực hiện tội phạm
- CTTP của tội phạm trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội
- CTTP của tội phạm trong giai đoạn phạm tội chưa đạt
- CTTP của tội phạm trong giai đoạn phạm tội đã hoàn thành
3.4. Hình thức của hành vi trong mặt khách quan của tội phạm
- CTTP chứa đựng hành vi thực hành
- CTTP chứa đựng hành vi tổ chức
- CTTP chứa đựng hành vi xúi giục, giúp sức (trong đồng phạm) 4. Ý nghĩa
4.1. Là cơ sở pháp lý của TNHS
TNHS là hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm tội phải gánh chịu trước NN
do việc người đó thực hiện hành vi phạm tội và là kết quả của việc áp dụng các quy
phạm pháp luật hình sự được thể hiện ở bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp
luật và một số biện pháp cưỡng chế hình sự khác do luật định.
Căn cứ theo Điều 2 BLHS năm 2015, TNHS chỉ áp dụng đối với người, PNTM
phạm tội khi BLHS có quy định về TP mà họ thực hiện. BLHS mà trong đó chứa
đựng các CTTP chính là cơ sở pháp lý duy nhất để có thể xác định TNHS áp dụng
đối với hành vi phạm tội thực hiện bởi người phạm tội và PNTM phạm tội.
Để xác định hành vi của một người có được BLHS quy định là tội phạm hay
không để có thể truy cứu, áp dụng TNHS đối với người thực hiện hành vi phải dựa
trên cơ sở đối chiếu hành vi người đó đã thực hiện với các CTTP được quy định
trong BLHS. Nếu hành vi đó thỏa mãn các dấu hiệu của một CTTP được quy định
trong BLHS thì mới có thể kết luận người thực hiện hành vi phạm một tội được
quy định trong BLHS và mới có thể áp dụng TNHS đối với người đó.
4.2. Là căn cứ pháp lý để định tội
Định tội là một trong những giai đoạn của việc áp dụng pháp luật hình sự. Định tội
là quá trình nhận thức, áp dụng pháp luật hình sự được tiến hành dựa trên cơ sở thu
thập, đánh giá các tình tiết khách quan liên quan đến hành vi nguy hiểm cho xã hội
của mộ người, tiến hành xem xét, đánh giá, tìm ra sự phù hợp giữa chúng với các
dấu hiệu khác của CTTP được quy định trong BLHS để quy kết hành vi đã thực
hiện của một người phạm tội gì? Điều, khoản nào của BLHS? Có căn cứ miễn
TNHS hay hình phạt hay không? Nếu không thì phải chịu hình phạt như thế nào?
Như vật CTTP chính là căn cứ pháp lý của việc định tội.
Chủ đề 3: Khách thể của tội phạm 1. Khái niệm
- Khách thể của tội phạm là QHXH được luật hình sự bảo vệ khỏi sự xâm hại của
tội phạm và bị tội phạm xâm hại đến.
- Theo quy định tại Điều 8 BLHS thì khách thể được luật hình sự bảo vệ bao
gồm: Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chế độ
chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, quyền con người, quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân và một số lĩnh vực khác thuộc hệ trật tự luật xã hội chủ nghĩa.
2. Ý nghĩa khách thể của tội phạm
- Việc làm rõ mặt lý luận khách thể của tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng. Xác
định giới hạn, phạm vi các QHXH được luật hình sự bảo vệ là cơ sở cho việc
xây dựng hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự.
- Tính chất của các quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại là cơ sở cho việc hệ thống
hóa các quy phạm pháp luật trong phần các tội phạm của BLHS.
- Dựa vào tính giống nhau hoặc gần giống nhau của các QHXH bị xâm phạm gây
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại, nhà làm luật đã phân chia ra các tội phạm và
nhóm chúng thành 14 chương trong BLHS năm 2015.
- Xác định khách thể của tội phạm có ý nghĩa trong việc đánh giá tính chất, mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi nguy hiểm đáng kể hay không đáng kể khi
xác định hành vi thực tế đã thực hiện có phải tội phạm hay không.
- Xác định đúng khách thể của tội phạm còn có ý nghĩa trong việc phân biệt tội
phạm này với tội phạm khác để định danh tội phạm
- Xác định tính chất, tầm quan trọng của khách thể của tội phạm có ý nghĩa khi
quyết định hình phạt đối với người phạm tội.
3. Phân loại khách thể của tội phạm
Căn cứ vào cách thức quy định của luật hình sự về khả năng của tội phạm,
khoa học hình sự phân loại khách thể của tội phạm thành 03 loại là: Khách thể
chung, khách thể loại và khách thể trực tiếp.
3.1. Khách thể chung
- Khách thể chung của tội phạm là tổng thể các QHXH được luật hình sự bảo vệ
khỏi sự xâm hại của tội phạm.
- Điều 8 BLHS quy định khách quát khách thể chung của tội phạm. Các điều luật
về các tội phạm trong BLHS là sự cụ thể hóa khách thể chung của tội phạm.
Các điều luật về các tội phạm trong BLHS là sự cụ thể hóa khách thể của tội
phạm được xác định trong Điều 8 BLHS. Mỗi một tội phạm cụ thể khi xâm hại
đến khách thể riêng cũng đều xâm phạm đến khách thể chung.
3.2. Khách thể loại
- Khách thể loại của tội phạm là nhóm QHXH có cùng tính chất được nhóm các
quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ khỏi sự xâm hại của nhóm tội phạm nhất định.
- Xác định khách thể loại của tội phạm là cơ sở để nhà làm luật phân các tội
phạm thành các chương tương ứng trong Phần các tội phạm của BLHS.
3.3. Khách thể trực tiếp
- Khách thể trực tiếp của tội phạm là QHXH cụ thể, thể hiện đầy đủ bản chất
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm cụ
thể trực tiếp xâm hại đến.
- Khách thể trực tiếp của tội phạm chỉ có thể là QHXH thể hiện đầy đủ bản chất
nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó và bị tội phạm đó trực tiếp xâm hại.
Chủ đề 4: Chủ thể của tội phạm 1. Khái niệm
Chủ thể của tội phạm là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội khi
đã đạt đến độ tuổi chịu TNHS và có năng lực TNHS. Ngoài ra tại một số điều
luật còn quy định thêm các dấu hiệu khác trong yếu tố chủ thể của tội phạm. 2. Tuổi chịu TNHS
- Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm, trừ những tội mà BLHS có quy định khác.
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm
trọng, đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong 28 tội của BLHS.
Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm về mọi tội phạm, nghĩa là về
nguyên tắc họ phải chịu TNHS về tất cả các tội phạm được quy định trong BLHS,
trừ những tội phạm mà BLHS có quy định khác. Bởi ở một số CTTP, đã quy định
độ tuổi phải chịu TNHS là từ 18 tuổi trở lên. 3. Năng lực TNHS
3.1. Người có năng lực TNHS
Là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội khi đã đạt độ tuổi chịu TNHS
(theo Điều 21 BLHS), có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội
về hành vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi ấy.
3.2. Tình trạng không có năng lực TNHS
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm
thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển
hành vi của mình, thì không phải chịu TNHS (Điều 21 BLHS)
- Để xác định một người ở trong tình trạng không có năng lực TNHS phải xác
định được hai dấu hiệu là: dấu hiệu y học và dấu hiệu tâm lý
- Dấu hiệu y học: Người trong tình trạng không có năng lực TNHS là người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh
khác làm rỗi loạn hoạt động tâm thần.
- Dấu hiệu tâm lý: Người ở trong tình trạng không có năng lực TNHS là người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội khi ở một trong hai trạng thái tâm lý sau:
o Người thực hiện hành vi mất hết khả năng nhận thức tính nguy hiểm cho xã
hội của hành vi của mình và mất luôn khả năng điều khiển được hành vi ấy.
o Người thực hiện hành vi còn có khả năng nhận thức được tính nguy hiểm
cho xã hội của hành vi của mình nhưng đã mất đi năng lực điều khiển hành vi ấy.
- Hai dấu hiệu về y học và tâm lý là hai dấu hiệu cần và đủ để xác định một
người có thể là người ở trong tình trạng không có năng lực TNHS hay không.
Một người được coi là ở trong tình trạng không có năng lực TNHS khi đồng
thời thỏa mãn cả dấu hiệu về y học lẫn tâm lý.
- Vấn đề năng lực TNHS trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích mạnh khác:
o Người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi của mình do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác,
thì vẫn phải chịu TNHS (Điều 13 BLHS)
o Trường hợp một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội ở trong tình
trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích mạnh khác đến mức mất hết khả
năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, nhưng tình trạng
say đó không phải là kết quả của sự tự lựa chọn, quyết định của người đó thì
họ không phải chịu TNHS.
Chủ đề 5: Mặt chủ quan của tội phạm 1. Khái niệm
Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của một tội phạm, là trạng thái tâm
lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do người đó thực hiện
và đối với hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi ấy, thể hiện ở dấu hiệu lỗi,
động cơ phạm tội và mục đích phạm tội. 2. Đặc điểm
- Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do
người đó thực hiện và đối với hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó
được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý.
- Dấu hiệu lỗi của tội phạm được thể hiện trên các mặt là lý trí và ý chí.
o Lý trí thể hiện khả năng nhận thức của một người đối với những yêu cầu,
đòi hỏi của xã hội khi thực hiện hành vi nhất định.
o Ý chí thể hiện khả năng lựa chọn, điều khiển hành vi của một người khi
thực hiện hành vi nào đó trên cơ sở khả năng nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi của mình.
- Bộ luật hình sự đã quy định cụ thể các trường hợp cố ý phạm tội (Điều 10) và
vô ý phạm tội (Điều 11). Dựa trên sự biểu hiện khác nhau về lý trí và ý chí của
từng loại lỗi, khoa học hình sự chia lỗi cố ý ra thành cố ý trực tiếp và cố ý gián
tiếp; chia lỗi vô ý ra thành lỗi vô ý vì quá tự tin và vô ý do cẩu thả.
2.1. Lỗi cố ý - Lỗi cố ý trực tiếp:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 10 BLHS, thì cố ý trực tiếp là lỗi người phạm
tội trong trường hợp “người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm
cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả đó xảy ra”
o Về lý trí: người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi của mình và thấy tước hậu quả của hành vi đó.
o Về ý chí: người phạm tội mong muốn hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình xảy ra. - Lỗi cố ý gián tiếp
Theo quy định tại khoản 2 Điều 10 BLHS, thì lỗi cố ý gián tiếp là lỗi của người
phạm tội trong trường hợp “người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy
hiểm cho xã hội, thấy được hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong
muốn nhưng có ý thức để mặc kệ hậu quả xảy ra.
o Về lý trí: người phạm tội nhận thức rõ tính nguy hiểm cho xã hội của hành
vi của mình, thấy trước được hành vi đó có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
o Về ý chí: người phạm tội không mong muốn hậu quả nguy hiểm cho xã hội
xảy ra mà có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Người phạm tội không quan
tâm đến việc hậu quả nguy hiểm cho xã hội có xảy hay không, đó là thái độ
thờ ơ, bàng quan chấp nhận đối với việc hậu quả xảy xa.
2.2. Lỗi vô ý
- Lỗi vô ý vì quá tự tin
Theo quy định tại khoản 1 Điều 11 BLHS, lỗi vô ý vì quá tự tin là lỗi trong
trường hợp “người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả
nguy hiểm cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn
ngừa được” nên vẫn thực hiện và gây ra hậu quả nguy hại đó.
o Về lý trí: người phạm tội nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi của mình và thấy trước hậu quả nguy hại cho xã hội mà hành vi của mình có thể xảy ra.
o Về ý chí: người phạm tội không mong muốn cho hậu quả nguy hiểm cho xã
hội của hành vi xảy ra, cũng không có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra
mà cho rằng hậu quả nguy hiểm cho xã hội sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. - Lỗi vô ý do cẩu thả:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 11 BLHS, thì lỗi vô ý do cẩu thả là lỗi trong
trường hợp “người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu
quả mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó”
2.3. Động cơ phạm tội
- Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện tội phạm.
- Động cơ phạm tội chỉ có thể có trong các cấu thành tội phạm của tội thực hiện
do lỗi cố ý trực tiếp.
2.4. Mục đích phạm tội
- Mục đích phạm tội là kết quả cuối cùng mà người phạm tội mong muốn đạt
được khi thực hiện tội phạm.
- Trong một số trường hợp, mục đích phạm tội được quy định là dấu hiệu của CTTP cơ bản.
Chủ đề 6: Mặt khách quan của tội 1. Khái niệm
- Là những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan.
- Việc xác định những tình tiết thuộc mặt khách quan của tội phạm là có ý nghĩa
trong việc định tội (xác định hành vi có phải hành vi phạm tội hay không, nếu
có thì phạm tội gì); có ý nghĩa trong việc xác định khung hình phạt; có ý nghĩa
trong việc đánh giá mức độ giảm nhẹ, tặng nặng TNHS, làm căn cứ để quyết định hình phạt.
2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm
2.1. Hành vi khách quan của tội phạm
- Hành vi khách quan của tội phạm là xử sự của người hoặc pháp nhân thương
mại phạm tội thể hiện ra bên ngoài thế giới khách quan dưới những hình thức
nhất định, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ.
- Hành vi khách quan của tội phạm có những đặc điểm sau:
o Có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội
o Trái pháp luật hình sự
o Do người có khả năng nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của
mình và có khả năng điều khiển được hành vi ấy.
- Các hình thức biểu hiện của hành vi khách quan: dạng hành động hoặc không hành động phạm tội.
- Các dạng cấu trúc đặc biệt của hành vi khách quan: tội ghép, tội kéo dài, tội liên tục
2.2. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội
- Là thiệt hại do tội phạm gây ra cho QHXH là khách thể được luật hình sự bảo vệ.
Dựa vào đặc điểm của đối tượng tác động và tính chất của sự biến đổi của đối
tượng tác động tội phạm có thể được phân thành loại hậu quả về thể chất, hậu quả
về vật chất và hậu quả khác
- Hâu quả về thể chất là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho con người
- Hậu quả về vật chất là thiệt hại do tội phạm gây ra cho đối tượng tác động của
tội phạm dưới các dạng vật chất
- Hậu quả khách bao gồm những thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, tự do của con
người, sự mất ổn định về an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, sự biến dạng
xử sự của con người…
Việc xác định hậu quả của tội phạm có những ý nghĩa thực tiễn sau:
- Trong việc xác định tội cố ý trong các trường hợp hành vi nguy hiểm cho xã hội
có lỗi vô ý hoặc cố ý gián tiếp
- Trong việc xác định khung hình phạt tăng nặng
- Xác định thời điểm hoàn thành tội phạm
- Đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, làm căn cứ để quyết định hình phạt
2.3. Quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả
- Hành vi nguy hiểm cho xã hội được coi là nguyên nhân phải xảy ra trước hậu
quả nguy hiểm cho xã hội về mặt thời gian
- Hành vi nguy hiểm cho xã hội phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh
hậu quả nguy hiểm cho xã hội
- Cần lưu ý là trong trường hợp hành vi nguy hiểm cho xã hội chứa đựng khả
năng thực tế làm phát sinh hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng khả năng thực
tế đố chưa biến thành hiện thực thì lại có yếu tố khác xem vào gây nên hậu quả
nguy hiểm cho xã hội, thì không tồn tại quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy
hiểm cho xã hội đó với hậu quả nguy hiểm cho xã hội
- Việc xác định mối quan hệ nhân quả trong luật hình sự có ý nghĩa trong việc
định tội và quyết định hình phạt
2.4. Những nội dung biểu hiện khách của mặt khách quan của tội phạm
- Công cụ, phương tiện phạm tội
- Phương pháp, thủ đoạn phạm tội
- Thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội