















Preview text:
lOMoAR cPSD| 53331727
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
KHOA ĐÀO TẠO CƠ BẢN
Bộ môn: Chính trị & Pháp luật BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
CHỦ ĐỀ: Mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng được vận dụng trong
thực tiễn như thế nào?
Sinh viên thực hiện: Phạm Văn Khang Lớp: 2310A05
Giáo viên giảng dạy: Mai Thị Thanh
Hà Nội, 14/11/2023 Mục Lục lOMoAR cPSD| 53331727
Phần mở đầu………………………………………………………………………1
Nội dung…………………………………………………………………………...1
I. Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về bản chất và hiện tượng
1. Khái niệm bản chất và hiện tượng 1.1. Bản chất là
gì?...............................................................................................1 1.2. Hiện tượng là
gì?...........................................................................................1
2. Mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng 2.1.
Bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan trong cuộc sống………………...2 2.2. Sự thống nhất giữa bản chất và hiện
tượng………………………………… 2 2.3.
Tính mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng…………… 3 3. Ý nghĩa 3.1.
Ý nghĩa phương pháp luận……………………………………………... …..4 3.2. Ý nghĩa trong cuộc sống của bản
thân……………………………………… 5
II. Vận dụng mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng vào đời sống thực tiễn
của sinh viên hiện nay.
1. Sự thống nhất và mâu thuẫn giữa học tập nghiên cứu và rèn luyện…. …….5
2. Giải pháp nâng cao hiệu quả học tập nghiên
cứu……………………………9
Kết luận……………………………………………………………. lOMoAR cPSD| 53331727 ……………..11
Tài liệu tham khảo……………………………………………………………….11 lOMoAR cPSD| 53331727 lOMoAR cPSD| 53331727 Phần mở đầu
Mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng đóng vai trò quan trọng trong việc
hiểu và ứng dụng tri thức trong thực tế. Chúng ta sẽ tìm hiểu cách bản chất của một
hiện tượng có thể được đo lường và nghiên cứu, và làm thế nào thông tin này có thể
giúp giải quyết các vấn đề thực tế trong khoa học, công nghệ và các lĩnh vực khác.
Mục tiêu của tiểu luận này là phân tích cách mối quan hệ này có thể được áp dụng
vào thực tiễn để nâng cao hiểu biết và giải quyết các thách thức phức tạp. Nội dung
I. Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về bản chất và hiện tượng :
1. Khái niệm bản chất và hiện tượng :
1.1. Bản chất là gì ?
Bản chất là phạm trù dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối
liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên trong, quy định sự tồn tại, vận động, phát
triển của đối tượng và thể hiện mình qua các hiện tượng tương ứng của đối tượng.
Ví dụ như bản chất của con người là sự tổng hòa của các mối quan hệ xã hội. Do đó,
một con người thực sự phải có các mối quan hệ xã hội. Các mối quan hệ đó rất đa
dạng và phong phú chẳng hạn như quan hệ huyết thống, quan hệ bạn bè, quan hệ đồng nghiệp.
1.2. Hiện tượng là gì ?
Hiện tượng là phạm trù chỉ những biểu hiện của các mặt, các mối liên hệ tất
nhiên tương đối ổn định ở bên ngoài; là mặt dễ biến đổi hơn và là hình thức thể hiện
của bản chất đối tượng. Ta có thể thấy, các hiện tượng xã hội, như hiện tượng kinh
tế, chính trị, tư tưởng, hoặc quan hệ và hoạt động kinh tế của con người hay xã hội,
vv... đều là sự thể hiện bên ngoài của bản chất con người hoặc xã hội.
2. Mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng : 1 lOMoAR cPSD| 53331727
2.1. Bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan trong cuộc sống :
Cả bản chất và hiện tượng đều có thực, tồn tại khách quan kể cả con người có
nhận thức được hay không, lý do là vì: -
Bất kỳ sự vật nào cũng được tạo nên từ những yếu tố nhất định.
Các yếu tố ấy tham gia vào những mối liên hệ qua lại, đan xen với nhau, trong đó có
những mỗi liên hệ tất nhiên tương đối ổn định những mối liên hệ này tạo nên bản chất của sự vật. -
Sự vật tồn tại khách quan. Mà những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định
lại ở bên trong sự vật, do đó, đương nhiên là chúng cũng tồn tại khách quan… -
Hiện tượng chỉ là sự biểu hiện của bản chất ra bên ngoài để chúng ta nhìn
thấy, nên hiện tượng cũng tồn tại khách quan.
2.2. Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng :
Bản chất luôn luôn được bộc lộ ra qua hiện tượng, còn hiện tượng nào cũng
là sự biểu hiện của bản chất ở mức độ nhất định. Không có bản chất nào tồn tại thuần
tuý ngoài hiện tượng, đồng thời cũng không có hiện tượng nào hoàn toàn không
thểhiện bản chất. “Bản chất hiện ra. Hiện tượng là có tính bản chất.” ( V.I.Lenin,
1921, tập 29, tr.268)Ví dụ: Trong xã hội có giai cấp, bản chất của nhà nước là công
cụ thống trị giaicấp, bảo vệ lợi ích giai cấp thống trị. Trong xã hội phong kiến sự
thống trị biểu hiện: nhà nước chiếm đất, bắt nông dân đi lính.
Bản chất và hiện tượng về căn bản là phù hợp với nhau. Bản chất được bộc lộ
ra ở những hiện tượng tương ứng. Bản chất nào thì hiện tượng ấy, bản chất khác
nhau sẽ bộc lộ ở hiện tượng khác nhau. Bản chất thay đổi thì hiện tượng biểu hiện
nó cũng thay đổi theo. Khi bản chất biến mất thì hiện tượng biểu hiện nó cũng mất
theo. Ví dụ: Bản chất của gió là sự chuyển động của không khí, không khí luôn luôn
chuyển động từ nơi khí áp cao về nơi khí áp thấp, sự chuyển động của không khí
gây nên hiện tượng gió và khi không có chuyển động trên thì không có gió. 2 lOMoAR cPSD| 53331727
2.3. Tính mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là sự thống nhất biện chứng. Tức
là trong sự thống nhất này có sự khác biệt. Nói cách khác, bản chất và hiện tượng
tuy thống nhất với nhau, về bản chất tương thích với nhau, nhưng không bao giờ
hoàn toàn tương thích với nhau. Sở dĩ như vậy vì bản chất của sự vật luôn thể hiện
qua sự tương tác của sự vật đó với sự vật xung quanh. Những thứ xung quanh này
trong quá trình tương tác đã ảnh hưởng đến hiện tượng, đưa đến những thay đổi nhất
định trong nội dung của hiện tượng. Do đó, hiện tượng biểu hiện nhưng bản chất
không phải là biểu hiện. Sự vắng mặt hoàn toàn trùng hợp làm cho sự thống nhất
giữa bản chất và hiện tượng trở thành sự thống nhất mâu thuẫn. Mâu thuẫn về sự
thống nhất giữa bản chất và hiện tượng thể hiện ở: Bản chất phản ánh tính tất yếu
chung, cái chung quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật. Hiện tượng phản ánh
cái cá biệt. Như vậy, cùng một bản chất có thể biểu hiện thành vô số hiện tượng khác
nhau tùy theo sự biến thiên của điều kiện và hoàn cảnh.
Nội dung cụ thể của mỗi hiện tượng không chỉ phụ thuộc vào bản chất, mà
còn phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể mà bản chất đó biểu hiện. Vì vậy, hiện tượng
phong phú hơn bản chất. Ngược lại, bản chất sâu xa hơn hiện tượng. Bản chất là mặt
ẩn sâu bên trong của hiện thực khách quan. Hiện tượng là mặt bên ngoài của hiện
thực khách quan này. Các hiện tượng biểu hiện bản chất của chúng không phải ở
dạng nguyên dạng như bản chất vốn có của chúng mà ở dạng biến đổi, thường xuyên
làm sai lệch nội dung đích thực của bản chất. Ví dụ: Nhúng một phần của thước vào
chậu nước, ta thấy thước bị cong, trong khi thực tế thước vẫn thẳng.
Tính chất tương đối ổn định, diễn biến chậm. Còn hiện tượng bất ổn thì luôn thoáng
qua, biến đổi nhanh hơn bản chất. Sở dĩ có tình trạng đó là vì nội dung của một hiện
tượng không chỉ do bản chất của sự vật, mà còn do điều kiện tồn tại bên ngoài của
nó, do tác động qua lại của nó với sự vật xung quanh quyết định.
Những điều kiện tồn tại bên ngoài này và sự tương tác của vật này với vật khác
không ngừng thay đổi. Như vậy, hiện tượng không ngừng thay đổi, trong khi bản
chất vẫn như cũ. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là bản chất luôn giữ nguyên từ 3 lOMoAR cPSD| 53331727
khi sinh ra cho đến khi chết. Bản chất cũng thay đổi, nhưng thay đổi rất chậm so với hiện tượng. 3. Ý nghĩa:
3.1. Ý nghĩa phương pháp luận:
Nhiệm vụ của nhận thức nói chung, khoa học nhận thức nói riêng là phải vạch
ra được bản chất của sự vật.
Muốn nhận thức được đúng sự vật hiện tượng thì không được dừng lại ở hiện
tượng bên ngoài mà phải đi vào bản chất. Phải thông qua nhiều hiện tượng khác nhau
mới có nhận thức đúng đắn và đầy đủ về bản chất. Bản chất phản ánh tính tất yếu,
tính quy luật nên trong nhận thức và thực tiễn cần phải căn cứ vào bảnnchất chứ
không căn cứ vào hiện tượng thì mới có thể đánh giá chính xác về sự vật, hiện tượng
đó và cải tạo căn bản sự vật.
Chính nhờ có sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng, giữa cái quy định sự
vận động, phát triển của sự vật với những biểu hiện nghìn hình, vạn vẻ của nó mà ta
có thể tìm ra cái chung trong nhiều hiện tượng cá biệt, tìm ra quy luật phát triểncủa những hiện tượng ấy.
Con người muốn làm chủ được sự vật phải nắm được bản chất của nó nhưng
không thể nắm bản chất trực tiếp được mà phải thông qua hiện tượng. Nhưng trong
hiện tượng có những loại khác nhau, vì thế phải biết thu thập phân tích nhiều hiện
tượng để rút ra bản chất, và từ bản chất soi sáng, kiểm tra lại hiện tượng và tiếp tục nắm sâu hơn bản chất.
Hiểu về quan hệ này giúp chúng ta hiểu sâu hơn về cơ chế và nguyên tắc hoạt
động của các hiện tượng trong thế giới vật chất.
Tuy nhiên, sự xem xét đó chưa phải là cơ sở đầy đủ để đánh giá đúng bản chất
của sự vật mà chỉ phản ánh ở một mức độ nào đó vì bản chất là cái tự nhiên, cái ổn 4 lOMoAR cPSD| 53331727
định tương đối bên trong sự vật, quyết định sự vận động, phát triển của sự vật,hiện
tượng không ổn định, không quyết định sự vận động, phát triển của sự vật.
3.2. Ý nghĩa trong cuộc sống của bản thân:
Thông qua sự tìm hiểu về cặp phạm trù bản chất và hiện tượng, để đưa ra được
ý nghĩa trong cuộc sống của bản thân em nói riêng hay toàn bộ sinh viên hiện nay
nói chung: Trước hết, chúng ta có thể khẳng định một điều rằng sinh viên hiện nay
rất năng động, sáng tạo và nhạy bén với cuộc sống. Nếu như trước đây, khi cuộc
sống đang còn khó khăn, chúng ta chỉ thấy một lớp sinh viên học hành chăm chỉ cốt
sao cho sau này ra trường sẽ xin được một công việc vào biên chế trong Nhà nước,
từ đó cuộc sống cứ thế tiếp diễn. Nhưng ngày nay cơ chế thị trường mở cửa, sinh
viên đã có điều kiện để phát triển khả năng sáng tạo do có đầy đủ thông tin, một
cuộc sống chất lượng tốt hơn và chủ động hơn trong việc lựa chọn nghề nghiệp. Tất
cả những yếu tố đó làm cho sinh viên năng động hơn, ngày càng chiếm lĩnh những lĩnh vực mới lạ.
II.Vận dụng mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng vào đời sống thực tiễn
của sinh viên hiện nay
1. Sự thống nhất và mâu thuẫn giữa học tập nghiên cứu và rèn luyện
Từ việc nghiên cứu nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù
“bản chất và hiện tượng”, ta có thể rút ra một vài kết luận có ý nghĩa phương pháp
luận với việc học tập và rèn luyện của những sinh viên năm nhất còn đang gặp khó
khăn, chưa thích nghi được với môi trường mới.
So với chương trình học ở phổ thông, thời gian giảng dạy và học từng môn ở
Đại học giảm xuống một cách đáng kể. Trong mỗi một năm học, hầu hết các môn
học phổ thông sẽ kéo dài trong toàn bộ năm học đó, khoảng 35 tuần, vì thế khối
lượng kiến thức được chia dàn trải hơn khiến học sinh dễ dàng tiếp nhận hơn. Ở Đại
học một môn học chỉ kéo dài từ 5 đến 15 tuần. Khối lượng kiến thức lớn được giảng 5 lOMoAR cPSD| 53331727
dạy trong khoảng thời gian ngắn khiến sinh viên gặp không ít những khó khăn trong
năm đầu tiên, khi chưa thể thích nghi hoàn toàn với môi trường đại học, chưa thể
theo kịp bài giảng trên trường cũng như phương thức học tập vô cùng khác so với
trước đây. Bởi vậy nhiều sinh viên năm nhất dần trở nên sao nhãng trong việc học,
điểm số bị ảnh hưởng trực tiếp dẫn đến thái độ tiêu cực được thể hiện rõ ràng qua
các hiện tượng sau: Không tích cực tham gia đóng góp ý kiến trong các giờ học; ngại
hỏi, ngại trao đổi với giảng viên cũng như các sinh viên khác; không hoàn thành tốt
các bài tập được giao;… Để rồi dần dần mất đi niềm yêu thích, sự hứng thú với việc
học; băn khoăn về sự lựa chọn của bản thân khi bước vào cánh cửa đại học mới có
thể đưa ra những quyết định sai lầm như bỏ học giữa chừng,...
Sự vận động và phát triển của từng sự vật, hiện tượng được quy định bởi bản chất
của sự vật, hiện tượng đó. Bản chất của việc sinh viên năm nhất gặp phải những khó
khăn, trở ngại trong quá trình học tập và rèn luyện của mình nằm ở việc chưa tiếp
thu được kiến thức một cách đúng và đủ cũng như phương pháp học tập chưa hiệu
quả hay ý thức, thái độ học tập còn kém. Những kiến thức ấy được tiếp nhận không
chỉ qua sách vở, qua thầy cô mà còn qua những hoạt động ngoại khóa, qua việc tham
gia các câu lạc bộ trong và ngoài trường để giao lưu học hỏi; tự mình tìm hiểu, chủ
động tích luỹ những tri thức mới;... Những kiến thức và kinh nghiệm ấy được tiếp
thu ra sao, ở mức độ như thế nào sẽ được thể hiện qua kết quả học tập (hiện tượng)sau
mỗi kỳ thi, cụ thể qua điểm số, số hạng, thành tích: Kết quả tốt đồng nghĩa với việc
sinh viên tiếp thu kiến thức tốt, giao tiếp tốt, tự tin khi phát biểu ý kiến và ngược lại,
kết quả chưa tốt nghĩa là phần nhiều lượng kiến thức ấy chưa được tiếp thu và sinh
viên vẫn còn thụ động trong việc học tập của bản thân. Nếu sinh viên dành quá ít
thời gian cho việc học, kết quả sẽ bị ảnh hưởng xấu, và nếu sinh viên dành toàn bộ
thời gian của mình cho học tập (nghĩa là học tập thiếu khoa học), không những gây
tác động xấu tới sức khỏe mà còn mất đi cơ hội giao lưu, học hỏi những kiến thức
không thể tìm thấy trên sách vở, dần khép mình với môi trường bên ngoài từ đó đem
lại những kết quả không như mong muốn. Qua đây ta thấy được, bản chất bao giờ 6 lOMoAR cPSD| 53331727
cũng biểu hiện qua hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ cũng là biểu hiện của bản chất.
Giữa bản chất và hiện tượng luôn tồn tại sự thống nhất cũng như tính mâu
thuẫn của sự thống nhất. Giữa bản chất và hiện tượng của quá trình học tập và rèn
luyện của sinh viên năm nhất cũng tương tự như vậy.
Sự thống nhất trong quá trình học tập và rèn luyện được thể hiện qua việc sinh
viên phải có kiến thức đúng mới có thể đạt kết quả tốt, phải có kinh nghiệm đủ mới
có thể vận dụng hiệu quả. Không yếu tố nào có thể tồn tại một cách thuần tuý khi
thiếu bản chất, chỉ có hiện tượng và ngược lại, chỉ có bản chất mà không có hiện
tượng. Muốn đạt điểm giỏi, thứ hạng cao thì phải trang bị, tích lũy được vốn kiến
thức nhất định, dành được lượng thời gian cân đối với phương pháp học hợp lý, khoa
học chứ không thể ngẫu nhiên đạt được thành tích tốt mà không nhờ tới một quá
trình dài trau dồi, học hỏi. Qua đây,ta có thể thấy sự thống nhất giữa việc sinh viên
có kết quả không tốt với việc sinh viên chưa tiếp thu đúng, đủ kiến thức của từng
môn học trong quá trình học tập và rèn luyện của một số sinh viên năm nhất. Bởi
không hiểu hết được bản chất của kiến thức, không nắm rõ được nội dung của bài
học nên không thể theo kịp bài giảng trên trường, không thể áp dụng vào các bài tập
thực hành từ đó dẫn đến kết quả học tập kém. Không chỉ kết quả học tập ảnh hưởng
mà niềm yêu thích, hứng thú với học tập hay thái độ, ý thức học tập cũng chịu ảnh
hưởng lớn. Từ đó, ta càng có thể khẳng định bất kỳ bản chất nào cũng được bộc lộ
qua những hiện tượng tương ứng ở mức độ dù ít hay nhiều. Đã không nắm chắc nội
dung bài học lại không có phương pháp học tập phù hợp, thái độ học tập kém nên
kết quả học tập ngày một tụt dốc (hiện tượng). Hơn thế nữa, bất kỳ bản chất nào
cũng được bộc lộ qua những hiện tượng tương ứng, bất kỳ hiện tượng nào cũng là
sự bộc lộ của bản chất ở mức độ nào đó nhiều hoặc ít.
Tuy nhiên, bên cạnh sự thống nhất còn tồn tại tính mâu thuẫn của sự thống
nhất mà như Các Mác từng nói “Nếu hiện tượng và bản chất của sự vật là nhất trí
với nhau thì tất thảy khoa học sẽ trở nên thừa” bởi cùng một bản chất có thể biểu 7 lOMoAR cPSD| 53331727
hiện ra ngoài bằng vô số hiện tượng khác nhau. Sinh viên có vốn kiến thức đúng, đủ
nhưng lại có những trường hợp hi hữu không đạt được kết quả cao, thành tích tốt
như mong muốn. Ngược lại, có những sinh viên không có vốn kiến thức đúng, đủ
nhưng vẫn có khả năng, dù là rất nhỏ, đạt điểm tốt nhờ những hành vi gian lận trong
thi cử, hay là may mắn nhờ học tủ, may mắn khi “khoanh bừa” trong bài làm trắc
nghiệm. Bởi vậy cho nên không phải lúc nào hiện tượng cũng thể hiện bản chất một
cách y nguyên như bản chất vốn có. Những kiến thức, kinh nghiệm ấy như đã nói
không phải lúc nào cũng được thể hiện trọn vẹn, toàn diện bởi điểm số đôi khi chỉ
có thể phản ánh được phần nào chất lượng học tập của từng sinh viên.
Trong khi một số sinh viên năm nhất gặp trở ngại, khó khăn trong việc theo
kịp tiến độ bài giảng, tiếp thu trọn vẹn lượng kiến thức mới một cách đúng, đủ nhưng
lại có thái độ học tập vô cùng kém: không tự mình cố gắng,nỗ lực trong học tập;
không đặt ra mục tiêu, động lực để khắc phục hạn chế của bản thân; không chịu học
hỏi, thay đổi phương pháp học tập phù hợp;...Tuy nhiên, ngược lại với những bạn
sinh viên trên, có những sinh viên năm nhất dù cũng gặp trở ngại, khó khăn tương
tự nhưng luôn cố gắng, nỗ lực thay đổi: xác định những vấn đề của bản thân để tìm
cho mình cách học hiệu quả nhất, để đặt ra mục tiêu phấn đấu cũng như giải pháp
cho từng vấn đề… Dù thế nào cũng vẫn luôn nỗ lực không ngừng trong việc học tập
và rèn luyện của bản thân. Việc ngại tìm hiểu những điều mới là một sự cản trở rất
lớn đối với việc học tập. Đối với những sinh viên năm nhất, việc thay đổi môi trường
học tập là điều khó khăn nhất nên sinh viên cần phải tìm cách học mới phù hợp và
hiệu quả với bản thân thì mới có thể học tốt được.
Có những sinh viên dù chưa hiểu bài hay chỉ mới hiểu bề mặt bản chất nhưng
lại ngại hỏi thầy cô, ngại hỏi bạn bè để hiểu sâu rộng vấn đề hơn.Ngược lại, có những
sinh viên lại rất hăng hái phát biểu, hỏi bài thầy cô hoặc trao đổi với bạn bè để có
thể biết rõ hơn về kiến thức mới, về bài học chưa hiểu.
Có những sinh viên học chưa tốt nhưng lại đưa ra những lời bao biện như:nhà
có nhiều việc, bận đi làm thêm, bận những công việc ở câu lạc bộ,... mà không chịu
cố gắng cũng như cân đối giữa việc học và những vấn đề khác.Ngược lại, những 8 lOMoAR cPSD| 53331727
sinh viên học khá, giỏi lại có thể cân đối giữa việc học với những vấn đề riêng; có
thể sắp xếp thời gian hợp lý để hoàn thành mọi việc mà không hề than phiền.
Bản chất là cái bên trong còn hiện tượng là những thứ được thể hiện ra bên
ngoài. Việc sinh viên học tốt hay không tốt (bản chất) là cái ở bên trong họ, được
thể hiện thông qua kết quả học tập, quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên đó (
hiện tượng). Bản chất là cái luôn ổn định, ít biến đổi còn hiện tượng thường xuyên
biến đổi. Từ việc chưa tốt đến học tốt là cả một quá trình, có thể thấy sự biến đổi của
nó khá chậm nhưng việc sinh viên đó chăm học hay là lười, luôn tìm tòi học tập hay
chỉ ăn chơi,.. luôn biến đổi không ngừng trong quá trình học của sinh viên.
2 . Giải pháp nâng cao hiệu quả học tập nghiên cứu
Trong quá trình phát triển của một đối tượng, bản chất sẽ biến đổi tạo ra sự
chuyển hóa của đối tượng từ dạng này sang dạng khác, khiến cho các phương pháp
được áp dụng vào dạng bản chất cũ hơn cũng phải thay đổi bằng các phương pháp
mới, phù hợp với bản chất đã thay đổi. Áp dụng vào quá trình học tập và rèn luyện
của sinh viên năm nhất nói riêng và sinh viên nói chung,có thể thấy rằng:
Thứ nhất, khi chúng ta có kết quả học tập chưa tốt thì phải xem lại ngay bản
thân đang gặp những vướng mắc, hạn chế nào để có thể thay đổi phương pháp học
tập phù hợp hơn, chấn chỉnh ý thức học tập nghiêm túc hơn. Nếu trong suốt quá trình
học sinh viên ngại hỏi, ngại bày tỏ ý kiến, ngại trao đổi trực tiếp với giảng viên khiến
kết quả học tập bị ảnh hưởng thì thái độ học tập phải tích cực hơn, hăng hái hơn
trong việc hỏi và trả lời các câu hỏi. Nếu sinh viên lười học, dành quá nhiều thời
gian cho những vấn đề cá nhân thì phải căn chỉnh thời gian cho hợp lý hơn để không
ảnh hưởng tới kết quả học tập mà vẫn có thể cân đối thời gian cho các công việc
khác. Hay có những bạn sinh viên dành phần lớn thời gian để học nhưng lại áp dụng
sai phương pháp học tập, thiếu logic khiến quá trình tiếp thu bài còn chưa tới, hiểu
sai hoặc thậm chí không biết cách áp dụng kiến thức lý thuyết để thực hành thì phải
thay đổi phương pháp học sao cho phù hợp với bản thân cũng như các vấn đề bản 9 lOMoAR cPSD| 53331727
thân còn đang mắc phải để dần khắc phục, hoàn thiện hơn như: đọc hiểu giáo trình,tài
liệu trước và sau mỗi buổi học, chú ý lắng nghe bài giảng trên lớp hay tìm tới sự
giúp đỡ của giảng viên hay các sinh viên khác về những vấn đề còn chưa tường tận…
Thứ hai, một số sinh viên, đặc biệt với sinh viên năm nhất có tâm lý “nghỉ
ngơi, thư giãn” sau một quá trình dài ôn tập, chuẩn bị cho Kỳ thi Trung học phổ
thông Quốc gia để rồi trượt dài trong sự thụ động, lười biếng mà dần dần bỏ quên
chính mình với những phấn đấu, nỗ lực của trước đây. Bởi vậy cho nên phải luôn
nghiêm khắc với bản thân, đặt ra mục tiêu cũng như phương pháp học tập hiệu quả
cùng ý thức, thái độ nghiêm túc.
Thứ ba, cũng có những sinh viên sau một thời gian học tập dù đạt được kết
quả cao như mong muốn nhưng bắt đầu có biểu hiện sức khỏe kém như: sụt cân,hay
buồn ngủ, mệt mỏi, mỏi mắt, đau lưng, nhức vai,... do học quá nhiều mà không chú
ý tới việc chăm sóc sức khỏe của mình. Những sinh viên có hiện tượng như vậy thì
cần phải cân đối giữa việc học với vấn đề sức khỏe của bản thân Cuối cùng, những
sinh viên còn ngại giao lưu, làm quen với môi trường mới cũng phải có những thay
đổi trong quá trình rèn luyện bản thân: rèn sự tự tin, năng động với tâm thế sẵn sàng
học hỏi, sẵn sàng tham gia các hoạt động ngoại khóa,…
Thứ tư, sinh viên cần tránh những nhận định chủ quan, tuỳ tiện bởi quá trình
nhận thức về bản chất và hiện tượng của vấn đề là vô cùng phức tạp.Không nên chỉ
vì điểm số, kết quả thấp (một phần của hiện tượng) mà đưa ra kết luận cho rằng bản
thân không có khả năng cải thiện, không còn phù hợp với việc họp tập. Việc đưa ra
nhận định tuỳ tiện như vậy có thể khiến sinh viên dần buông bỏ, thờ ơ rồi mất niềm
tin vào chính mình, ảnh hưởng trực tiếp tới tương lai sau này. Bởi vậy, sinh viên
năm nhất dù đối mặt với khó khăn nào cũng cần phải giữ cho mình sự kiên nhẫn,
không chủ quan, nóng vội và hết sức thận trọng khi đưa ra kết luận về bản chất của
vấn đề. Luôn để bản thân có cái nhìn toàn diện ở mọi hiện tượng khách quan rằng:
không chỉ qua điểm số có thể đánh giá khả năng mà còn qua ý thức, thái độ học tập
để từ đó phát huy những điểm còn chưa tốt. 10 lOMoAR cPSD| 53331727 Kết luận
Tổng kết lại, chúng ta đã tìm hiểu về quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về
cặp phạm trù: “bản chất và hiện tượng” thông qua khái niệm, mối quan hệ biện
chứng và ý nghĩa phương pháp luận. Qua đó ứng dụng cặp phạm trù ấy để đưa ra
cách giải quyết một vấn đề của thực tiễn là việc học tập và rèn luyện của sinh viên năm nhất hiện nay.
Ta có thể thấy, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về cặp phạm trù “bản
chất và hiện tượng” được đề cập đến ở nhiều góc cạnh và mức độ khác nhau,rất thực
tế và linh hoạt. Bản chất bao giờ cũng bộc lộ qua hiện tượng, ví dụ:“Khôn ngoan
hiện ra nét mặt, què quặt hiện ra chân tay”. Nét mặt là hiện tượng biểu hiện cho bản
chất khôn ngoan. Không chỉ có vậy, bản chất và hiện tượng thường thống nhất nhau,
chẳng hạn: “Chim khôn hót tiếng rảnh rang/Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe”.
Tuy nhiên, cũng có khi hiện tượng mâu thuẫn, giả tạo với bản chất, ví như: “Miệng
nam mô, bụng bồ dao găm”. Trong nhận thức, có thể căn cứ vào hiện tượng để suy
luận về bản chất sự vật: “Đàn bà không biết nuôi heo là đàn bà nhác, đàn ông không
biết buộc lạt là đàn ông hư”. Thế nhưng, cũng đừng vội vàng trông mặt mà bắt hình
dong một cách chắc chắn, tất yếu vì nhiều khi hiện tượng phản ánh sai lệch bản
chất. Do vậy, đừng thấy đỏ đã nhanh kết luận là chín, không phải tất cả những gì
lấp lánh đều là vàng mà nên có nhiều thời gian trải nghiệm xem xét cẩn thận, phải:
“Thức lâu mới biết đêm dài, ở lâu mới biết lòng người dở hay”. Từ những kiến thức
ấy, chúng em đã vận dụng cặp phạm trù “bản chất và hiện tượng” vào việc nhận
thức và đưa ra giải pháp phù hợp để giải quyết vấn đề khó khăn trong học tập, rèn 11 lOMoAR cPSD| 53331727
luyện của sinh viên năm nhất hiện nay đồng thời rút ra những bài học quý giá cho chính mình.
Tài liệu tham khảo luatminhkhue.vn. studocu.com.
giáo trình triết học đại học Kinh tế quốc dân.
---------------------------------------The end------------------------------------------------- 12