



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 32573545
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT
HỌC MÁC-LÊNIN
Chủ đề: Vận dụng nguyên lý về sự phát triển trong quá trình phát
triển nền văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.
Giảng viên hướng dẫẫn : Cô Đào Thu Hương
Nhóm thực hiện : Nhóm 03 Lớp học phẫần : PLT07A01-BS 09 lOMoAR cPSD| 32573545
Hà Nội, ngày 11 tháng 9 năm 2022
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM VÀ PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC lOMoAR cPSD| 32573545 MỤC LỤC
1. Khái quát nguyên lý về sự phát triển........................................................................................1
1.1. Khái niệm......................................................................................................................1
1.2. Tính chất........................................................................................................................1
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận...............................................................................................3
2. Sự phát triển trong quá trình phát triển nền văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện
nay..........................................................................................................................................4
2.1. Khái niệm......................................................................................................................4
2.2. Sơ lược quá trình phát triển văn hóa của Việt Nam qua từng thời kỳ......................................5
2.3.Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế..............................................................7
3. Cơ hội và thách thức trong quá trình phát triển nền văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc
tế hiện nay.Tính chất của mối liên hệ phổ
biến...........................................................................10
3.1Cơ hội:..........................................................................................................................10
3.2. Thách thức....................................................................................................................11
4. Giải pháp và liên hệ bản thân về việc phát triển văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế
.............................................................................................................................................13
4.1.Giải pháp......................................................................................................................13
4.2.Liên hệ bản thân............................................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................................19 lOMoAR cPSD| 32573545
1. Khái quát nguyên lý về sự phát triển
1.1. Nguyên lý về sự phát triển
Trong chủ nghĩa duy vật biện chứng, phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái
quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn.
– Ta cần phân biệt khái niệm “vận động” và khái niệm “phát triển“:
+ Vận động là mọi biến đổi nói chung. Khái niệm này có ngoại diên lớn hơn khái niệm phát triển.
+ Phát triển là sự vận động có khuynh hướng tạo ra cái mới hợp quy luật. Phát triển gắn
liền với sự ra đời của cái mới này.
Nhờ có sự phát triển, cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại và vận động của sự vật cũng
như chức năng vốn có của nó ngày càng hoàn thiện hơn. Như thế, phát triển là một
trường hợp đặc biệt của sự vận động.
Nguyên lý về sự phát triển là nguyên tắc lý luận mà trong đó khi xem xét sự vật,
hiện tượng khách quan phải luôn đặt chúng vào quá trình luôn luôn vận động và phát
triển (vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện
đến hoàn thiện hơn của sự vật).
1.2 . Tính chất a, Tính khách quan
của sự phát triển –
Tất cả các sự vật, hiện tượng trong hiện thực luôn vận động, phát triển một cách
khách quan, độc lập với ý thức của con người. Đây là sự thật hiển nhiên, dù ý thức của
con người có nhận thức được hay không, có mong muốn hay không.
Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngày trong chính bản thân của sự vật, hiện tượng.
Đó là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập thuộc mỗi sự vật, hiện tượng.
Phát triển là quá trình tự thân (tự nó, tự mình) của mọi sự vật, hiện tượng. –
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về tính khách quan của sự phát
triển đã phủ nhận quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và quan điểm siêu hình về sự phát triển. 1 lOMoAR cPSD| 32573545
Quan điểm duy tâm cho rằng nguồn gốc của sự phát triển ở các lực lượng siêu nhiên,
phi vật chất (thần linh, thượng đế), hay ở ý thức con người. Tức là đều nằm ở bên ngoài sự vật, hiện tượng.
Quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng về cơ bản là “đứng im”, không
phát triển. Hoặc phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về mặt lượng (số lượng, kích
thước…) mà không có sự biến đổi về chất.
b, Tính phổ biến của sự phát triển
Sự phát triển diễn ra ở tất cả mọi lĩnh vực, từ tự nhiên, xã hội và tư duy. Từ hiện
thực khách quan đến những khái niệm, những phạm trù phản ánh hiện thực ấy. Trong
hiện thực, không có sự vật, hiện tượng nào là đứng im, luôn luôn duy trì một trạng thái
cố định trong suốt quãng đời tồn tại của nó.
c, Tính kế thừa của sự phát triển
Sự phát triển tạo ra cái mới phải trên cơ sở chọn lọc, kế thừa, giữ lại, cải tạo ít
nhiều những bộ phận, đặc điểm, thuộc tính… còn hợp lý của cái cũ; đồng thời cũng đào
thải, loại bỏ những gì tiêu cực, lạc hậu, không tích hợp của cái cũ. Đến lượt nó, cái mới
này lại phát triển thành cái mới khác trên cơ sở kế thừa như vậy.
Đó là quá trình phủ định biện chứng. Là sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về
chất. Quá trình này diễn ra vô cùng, vô tận theo hình xoáy trôn ốc.
d, Tính phong phú, đa dạng của sự phát triển
Sự phát triển có muôn hình, muôn vẻ, biểu hiện ra bên ngoài theo vô vàn loại
hình khác nhau.Sự phong phú của các dạng vật chất và phương thức tồn tại của chúng
quy định sự phong phú của phát triển. Môi trường, không gian, thời gian và những điều
kiện, hoàn cảnh khác nhau tác động vào các sự vật, hiện tượng cũng làm cho sự phát
triển của chúng khác nhau.
Trong giới hữu cơ, sự phát triển biểu hiện ở khả năng thích nghi của cơ thể trước sự
biến đổi của môi trường, ở khả năng tự sản sinh ra chính mình với trình độ ngày càng cao hơn…
Sự phát triển trong xã hội biểu hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội ngày
càng lớn của con người. 2 lOMoAR cPSD| 32573545
Đối với tư duy, sự phát triển là năng lực nhận thức ngày càng sâu sắc, toàn diện, đúng đắn hơn.
1.3 . Ý nghĩa phương pháp luận
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển của các sự vật, hiện tượng, chúng
ta rút ra quan điểm phát triển trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm này đòi hỏi:
Thứ nhất: Khi xem xét các sự vật, hiện tượng, ta phải đặt nó trong sự vận động và phát triển. –
Ta cần phải nắm được sự vật không chỉ như là cái nó đang có, đang hiện hữu
trước mắt, mà còn phải nắm được khuynh hướng phát triển tương lai, khả năng chuyển
hóa của nó. Bằng tư duy khoa học, ta phải làm sáng tỏ được xu hướng chủ đạo của tất
cả những biến đổi khác nhau đó. –
Quan điểm phát triển hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến.
Tuyệt đối hóa một nhận thức nào đó về sự vật có được trong một hoàn cảnh lịch sử nhất
định, xem đó là nhận thức duy nhất đúng về toàn bộ sự vật trong quá trình phát triển
tiếp theo của nó sẽ đưa chúng ta đến sai lầm nghiêm trọng.
Thứ hai: Không dao động trước những quanh co, phức tạp của sự phát triển trong thực tiễn.
Ta cần phải xác quyết rằng các sự vật, hiện tượng phát triển theo một quá trình biện
chứng đầy mâu thuẫn. Do đó ta phải công nhận tính quanh co, phức tạp của quá trình
phát triển như một hiện tượng phổ biến, đương nhiên.
Quan điểm phát triển đòi hỏi phải có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan đối với mỗi
bước thụt lùi tương đối của sự vật, hiện tượng. Bi quan về sự thụt lùi tương đối sẽ khiến
chúng ta gặp phải những sai lầm tai hại.
Thứ ba: Phải chủ động tìm ra phương pháp thúc đẩy sự phát triển của sự vật, hiện tượng. –
Ta phải tích cực, chủ động nghiên cứu, tìm ra những mâu thuẫn trong mỗi sự
vật, hiện tượng. Từ đó, xác định biện pháp phù hợp giải quyết mâu thuẫn để thúc đẩy
sự vật, hiện tượng phát triển. 3 lOMoAR cPSD| 32573545
Việc xác định những biện pháp cũng cần căn cứ vào từng giai đoạn, hoàn cảnh cụ thể
của sự vật, hiện tượng. Vì sự phát triển diễn ra theo nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ
kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. –
Vì trong sự phát triển có sự kế thừa, ta phải chủ động phát hiện, cổ vũ cái mới
phù hợp, tìm cách thúc đẩy để cái mới đó chiếm vai trò chủ đạo.
Ta cũng phải tìm cách kế thừa những bộ phận, thuộc tính… còn hợp lý của cái cũ, đồng
thời kiên quyết loại bỏ những gì thuộc cái cũ mà lạc hậu, cản trở sự phát triển.
Thứ tư: Phải tích cực học hỏi, tích lũy kiến thức khoa học và kiến thức thực tiễn.
Tuyệt đối tránh bảo thủ, trì trệ trong tư duy và hành động. –
Sự phát triển được thực hiện bằng con đường tích lũy về lượng để tạo ra sự thay
đổi về chất. Do đó, chúng ta phải luôn nỗ lực, chăm chỉ lao động để làm cho sự vật,
hiện tượng tích lũy đủ về lượng rồi dẫn đến sự thay đổi về chất.
2. Sự phát triển nền văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.
2.1. Khái niệm a, Văn hóa
Hiện nay có nhiều ý kiến giải thích văn hóa như sau: - Theo UNESCO
Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động và sáng tạo trong quá khứ và trong hiện
tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị,
các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc.
- Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh
ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa.
Như vậy, có thể thấy, văn hoá được coi là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh
thần được con người tạo dựng cùng với bề dài lịch sử dân tộc, văn hóa là một khái niệm
rộng, liên quan đến mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội của mỗi con người. 4 lOMoAR cPSD| 32573545
b, Hội nhập quốc tế
Hội nhập là quá trình tham gia vào một cộng đồng để cùng nhau hoạt động và
phát triển với cộng đồng ấy trong những lĩnh vực nhất định.
Hội nhập quốc tế được hiểu là quá trình liên kết, hợp tác giữa các chủ thể quốc tế ( quốc
gia hoặc vùng lãnh thổ) với nhau trong một cộng đồng nhất định.Thông qua việc tham
gia các tổ chức, thiết chế, cơ chế, hoạt động hợp tác quốc tế vì mục tiêu phát triển của
bản thân mỗi chủ thể đó, đồng thời nhằm tạo thành sức mạnh tập thể giải quyết những
vấn đề chung mà các bên cùng quan tâm, bao gồm các lĩnh vực khác nhau như kinh tế, chính trị, xã hội…
Hội nhập quốc tế là một quá trình tất yếu, có lịch sử phát triển lâu dài và có nguồn gốc,
bản chất xã hội của lao động và sự phát triển văn minh của quan hệ giữa con người với
con người. Trong xã hội, con người muốn tồn tại và phát triển phải có mối liên kết chặt chẽ với nhau.
2.2. Sơ lược quá trình phát triển văn hóa của Việt Nam qua từng thời kỳ
Nền văn hóa truyền thống Việt Nam được hiểu cơ bản chính là sản phẩm của
một quá trình lịch sử lâu dài, nền văn hóa truyền thống Việt Nam có từ buổi đầu dựng
nước cho đến nay, đó là quá trình tương tác giữa tự nhiên và xã hội.
Văn hóa truyền thống Việt Nam đã được hình thành từ những nền tảng văn hóa bản địa
và nó tiếp thu với những nền văn hóa bên ngoài để nhằm mục đích có thể thông qua đó
tạo nên 1 bản sắc văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc.
Quá trình phát triển văn hóa Việt Nam có thể chia thành 6 giai đoạn: văn hóa tiền sử,
văn hóa Văn Lang – Âu Lạc, văn hóa thời chống Bắc thuộc, văn hóa Đại Việt, văn hóa
Đại Nam và văn hóa hiện đại.
-Văn hóa tiền sử: Thành tựu lớn nhất ở giai đoạn văn hóa tiền sử của cư dân Nam-Á là
sự hình thành nghề nông nghiệp lúa nước.Trong năm trung tâm xuất hiện cây trồng,
Đông Nam Á chính là trung tâm nông nghiệp cổ xưa nhất.Tổ tiên người Hán khi định
cư ở lưu vực sông Hoàng Hà mới chỉ trồng kê, mạch, đậu. Nghề trồng lúa là học từ các
dân tộc phương Nam.Từ Đông Nam Á cổ đại, lúa và kĩ thuật trồng lúa đã lan tới bờ Địa
Trung Hải vào nửa đầu của thiên niên kỷ I trước Công nguyên. Còn ở các hòn đảo Nhật
Bản, nó mới chỉ được đưa tới qua con đường Hoa Bắc từ trước Công nguyên không lâu. 5 lOMoAR cPSD| 32573545
-Văn hóa Văn Lang – Âu Lạc: thiên niên kỉ thứ III trước Công nguyên ứng với giai
đoạn đầu thời đại đồ đồng, cũng chính là thời điểm hình thành chủng Nam-Á (Bách
Việt). Thành tựu văn hóa chủ yếu của giai đoạn Văn Lang – u Lạc, sau nghề nông
nghiệp lúa nước, chính là nghề luyện kim đồng. Cả trên phương diện này, vai trò của
vùng văn hóa Nam-Á đối với khu vực cũng hết sức to lớn; đồ đồng Đông Sơn và ảnh
hưởng của nó đã tìm thấy khắp nơi – từ nam Trung Hoa, Thái Lan đến toàn bộ vùng
Đông Nam Á hải đảo. Việc tạo nên những thứ như cây lúa trồng, nghề luyện kim đồng,
hoặc những thành tựu văn hóa khác… là kết quả sáng tạo của rất nhiều dân tộc lớn nhỏ
đã tạo nên trong suốt chiều dài lịch sử nhiều nghìn năm của mình cái thế giới độc đáo
được gọi là Đông Nam Á”. Chính những thành tựu của thế giới Đông Nam Á cổ đại mà
trong đó có phần đóng góp của tổ tiên các dân tộc Việt Nam ấy đã làm nên cái nền vững
chắc cho sự phát triển của văn hóa Việt Nam sau này.
-Văn hóa thời chống Bắc thuộc: giai đoạn văn hóa chống Bắc thuộc đã mở đầu cho quá
trình giao lưu – tiếp nhận văn hóa Trung Hoa và khu vực, cũng tức là mở đầu cho quá
trình văn hóa Việt Nam hội nhập vào văn hóa khu vực. Điều thú vị ở đây là, tuy tiếp
xúc trực tiếp và thường xuyên với Trung Hoa, nhưng trong giai đoạn này, Việt Nam
tiếp nhận văn hóa Trung Hoa chưa nhiều, Nho giáo hầu như chưa có chỗ đứng trong xã
hội Việt Nam.Trong khi đó thì Phật giáo đến Việt Nam (ban đầu trực tiếp từ Ấn Độ, sau
đó qua ngả đường Trung Hoa) một cách hòa bình, nên được người Việt Nam tự giác
tiếp nhận. Cho nên, cùng với sự chống Bắc thuộc quyết liệt về mặt chính trị, nét chủ
đạo của giai đoạn này là xu hướng chống Hán hóa về mặt văn hóa và Việt Nam hóa các ảnh hưởng Trung Hoa.
-Văn hóa Đại Việt: Giai đoạn Đại Việt trở thành đỉnh cao thứ hai trong lịch sử văn hóa
Việt Nam với hai cột mốc: Lí-Trần và Lê (Đại Việt là quốc hiệu chủ yếu của nước ta
trong thời kì này).Truyền thống tổng hợp bao dung của văn hóa dân tộc (lớp văn hóa
bản địa), được tiếp sức bởi văn hóa Phật giáo giàu lòng bác ái (giai đoạn chống Bắc
thuộc), đã làm nên linh hồn của thời đại Lí-Trần. Văn hóa Lí-Trần chứng kiến thời kì
hưng thịnh nhất của Phật giáo và, cùng với nhu cầu xây dựng và củng cố nhà nước trung
ương tập quyền, đánh dấu thời điểm Việt Nam chính thức tiếp nhận Nho giáo. Đồng
thời, với tinh thần tổng hợp bao dung, nó cũng mở rộng cửa cho việc tiếp thu cả Đạo 6 lOMoAR cPSD| 32573545
giáo. “Tam giáo đồng quy ” trên cơ sở truyền thống dân tộc đã khiến cho văn hóa Việt
Nam thời Lí-Trần phát triển mạnh mẽ về mọi phương diện.
-Văn hóa Đại Nam: Khởi đầu quá trình thâm nhập của văn hoá phương Tây, cũng là
khởi đầu thời kì văn hóa Việt Nam hội nhập vào nền văn hoá nhân loại. Sự giao lưu đó
đã làm văn hóa Việt Nam biến đổi về mọi phương diện: Lối tư duy phân tích phương
Tây đã bổ sung khá nhuần nhuyễn cho lối tư duy tổng hợp truyền thống; ý thức về vai
trò cá nhân được nâng cao dần bổ sung cho ý thức cộng đồng truyền thống; đô thị ngày
càng có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, quá trình đô thị hóa diễn ra ngày một
nhanh hơn. Tất cả đã khiến cho lịch sử văn hoá Việt Nam lật sang trang mới. -Văn hóa
hiện đại:Sự giao lưu với phương Tây mở đầu bằng giai đoạn Đại Nam đã thổi vào Việt
Nam luồng gió mới với những tư tưởng của K. Marx, V.I. Lênin. Từ những năm 30-40
trở lại đây, rõ ràng là văn hóa Việt Nam đã bước sang một giai đoạn mới. Tuy nhiên, vì
văn hóa là tiếp nối, thời gian văn hóa là khái niệm mờ, một giai đoạn văn hóa ngắn nhất
(như Đại Nam) cũng phải tính bằng vài thế kỉ cho nên may chục năm tồn tại của giai
đoạn văn hóa hiện đại chưa cho phép tổng kết đầy đủ những đặc điểm của nó: Đây là
giai đoạn văn hóa đang định hình. Tuy nhiên, có thể dự đoán một cách chắc chắn rằng
đây là giai đoạn mà, sau một thời kì suy thoái kéo dài, không những văn hóa Việt Nam
sẽ phục hưng mà còn phát triển mạnh mẽ về mọi phương diện, đạt tới một đỉnh cao mới.
2.3 .Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế đã mang lại cho Việt Nam những kết quả quan trọng. Hiện nay,
nước ta có quan hệ hợp tác kinh tế, văn hóa, xã hội với nhiều quốc gia trên thế giới.
Văn hóa Việt Nam đã được lan tỏa đến nhiều quốc gia trên thế giới. Nhiều lễ hội văn
hóa, tuần văn hóa Việt Nam ở nước ngoài được tổ chức… Trong quá trình hội nhập,
chúng ta tham dự, chia sẻ các giá trị văn hóa chung; tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau
giữa các dân tộc; quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam đến bạn bè quốc tế;
góp phần đấu tranh cho hòa bình, phát triển.
Cũng nhờ tích cực và chủ động hội nhập quốc tế, văn hóa và con người Việt Nam đã
tiếp thu, bổ sung được những giá trị, tinh hoa văn hóa của nhân loại; xuất hiện các loại
hình văn hóa mới làm phong phú đời sống văn hóa, tinh thần của con người Việt Nam;
hình thành những con người hiện đại với những phẩm chất mới, phù hợp với thời đại. 7 lOMoAR cPSD| 32573545
Quá trình hội nhập quốc tế cho thấy được sức hấp dẫn, vai trò của văn hóa và
chính những giá trị văn hóa là một cầu nối quan trọng để Việt Nam hội nhập quốc tế
thành công, làm cho Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn, thu hút đối với bạn bè quốc tế.
Văn hóa Việt Nam có bề dày truyền thống mấy nghìn năm lịch sử, trải qua nhiều qua
nhiều cuộc chiến tranh khốc liệt, nhiều biến cố thăng trầm nên đã kết tinh và lắng đọng
được nhiều giá trị tích cực như: truyền thống yêu nước và dũng cảm, khả năng thích
ứng cao với sự thay đổi của hoàn cảnh, sự khoan dung, tinh thần cộng đồng, sự lạc quan
và hồn hậu, trọng nghĩa tình, sự cần cù, khiêm cung, tình cảm. Hiện nay, Việt Nam
được bạn bè quốc tế biết đến như một đất nước thanh bình, hiện đại, trẻ trung và năng
động, một thành viên tích cực trong các hoạt động hợp tác quốc tế cho hoà bình và phồn
vinh chung trên toàn cầu. Hơn nữa, bối cảnh chuyển đổi mang tính bước ngoặt của Việt
Nam, sự “va đập” giữa cái mới và cái cũ tạo nên một hấp lực đặc biệt, khác với các xã
hội đã phát triển ổn định. Nói cách khác sự tương tác, tương phản mạnh mẽ cũng như
sự kết hợp, dung hòa giữa các giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại trong bối cảnh
của một xã hội đang chuyển đổi tiếp tục (từ một xã hội nông nghiệp sang xã hội công
nghiệp và đô thị hóa, từ nền kinh tế bao cấp, đơn thành phần sang kinh tế thị trường, đa
thành phần và hội nhập quốc tế ngày càng nhanh mạnh…) đang tạo nên một động năng
cuốn hút và sức hấp dẫn riêng của văn hóa Việt Nam. Nền văn hóa hiện tại đang hướng
đến việc kế thừa các giá trị văn hóa được phát triển qua nhiều nghìn năm lịch sử, đồng
thời tiếp thu những giá trị mới, hướng tới tương lai như: dân chủ, hiện đại, nhân văn,
khai phóng, khoan dung, rộng mở…Nhận diện được đặc tính, phẩm chất cơ bản này
của văn hóa Việt Nam trong truyền thống và hiện đại này sẽ có ý nghĩa tích cực, để
chuyển hóa thành “sức mạnh mềm” của đất nước, tạo sức thu phục và lôi kéo đối với bạn bè quốc tế.
Việt Nam có nền văn hóa phong phú, giàu bản sắc, được hình qua hàng ngàn năm lịch
sử. Nguồn tài nguyên văn hóa dồi dào, đa dạng về loại hình và có giá trị cao trên nhiều
phương diện, được công nhận cả ở tầm quốc tế và trong nước là điều kiện thuận lợi cho
sự phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội. Việt Nam có gần 4 vạn di tích lịch sử văn hóa,
danh lam thắng cảnh phân bố khắp trên cả nước, cùng với đó là hơn 61 nghìn di sản văn 8 lOMoAR cPSD| 32573545
hóa phi vật thể, 26 di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được UNESCO ghi danh, 54
tộc người với nhiều sắc thái văn hóa đa dạng. Hệ thống di sản văn hóa phong phú, cảnh
quan kỳ vĩ và thơ mộng cùng các di sản được UNESCO công nhận là tài sản vô giá, có
tiềm năng chuyển hóa thành những sản phẩm, dịch vụ độc đáo, đóng góp cho sự tăng
trưởng kinh tế, thương mại cũng như tạo dựng thương hiệu, vị thế của văn hóa Việt Nam.
• Các văn bản pháp lý về quản lý văn hóa từng bước được hoàn thiện
• Chủ trương “xã hội hóa” hoạt động văn hóa đã thu được những kết quả thiết
thực, bước đầu huy động được nhiều tiềm năng, nguồn lực trong xã hội Sản
phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng.
• Thị trường văn hoá của Việt Nam đã được đẩy mạnh từ khi đất nước tiến hành đổi mới.
• Hợp tác quốc tế về văn hóa được đẩy mạnh, giúp quảng bá hình ảnh đất nước,
văn hóa và con người Việt Nam ra thế giới, hình thành nên sức mạnh mềm cho đất nước.
• Nhiều phong trào, cuộc vận động văn hóa được thực hiện và có những thành tựu nhất định
• Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế giúp văn hóa Việt Nam có được cơ
hội quảng bá rộng rãi trên thế giới.
• Thị trường văn hóa trong nước đang tăng trưởng mạnh mẽ tạo điều kiện cho các
tổ chức, cá nhân quan tâm đến đầu tư cho văn hóa.
Cột mốc đánh dấu sự thay đổi để văn hóa Việt Nam có những bước phát triển đạt
tới chất lượng mới và diện mạo mới so với trước kia, là từ khi Việt Nam tham gia Thập
kỷ quốc tế về phát triển văn hóa (1987-1996) do UNESCO đề xướng.
• Vượt ra khỏi khuôn khổ phương pháp luận có phần cứng nhắc về văn hóa giai
đoạn trước “Đổi mới”, ngày nay, văn hóa không còn bị xem là sản phẩm thụ
động của đời sống kinh tế, của cơ sở hạ tầng, mà đã thực sự trở thành nhân tố
bên trong, quy định hành vi của con người, thậm chí quy định cả diện mạo sự 9 lOMoAR cPSD| 32573545
phát triển, cả ở hoạt động quản lý, điều hành chính sách vĩ mô và cả ở phạm vi
hoạt động thường ngày của mỗi con người.
• Các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể được xác định và đánh giá theo chuẩn
quốc tế, nhiều di sản văn hóa vật thể, phi vật thể, di sản thiên nhiên và di sản ký
ức thế giới được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Đời sống văn hóa, hàng ngày hàng
giờ đang xác lập các khuôn mẫu văn hóa mới.
• Về văn hóa chính trường, văn hóa công quyền, văn hóa đối ngoại (ngoại giao),
văn hóa công an, văn hóa quân sự, văn hóa học đường… hệ giá trị văn hóa Việt
Nam cũng đã có không ít điểm sáng, với những chuẩn mực gần với thế giới, dù
những lĩnh vực này hiện vẫn bị chê trách nhiều cả từ phía bên trong và bên ngoài.
• Nhiều giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể Việt Nam đã được công nhận là di
sản thế giới, di sản ký ức thế giới. Người Việt đã có tên trong Danh nhân văn
hóa thế giới. Các tiêu chuẩn của hoạt động văn hóa thế giới đã được áp dụng phổ
biến tại Việt Nam. Tình trạng “không giống ai” bớt dần. Các loại hình của văn
hóa Việt Nam ngày càng được cộng đồng thế giới biết đến và đánh giá tích cực.
3. Cơ hội và thách thức trong quá trình phát triển nền văn hóa Việt Nam trong
bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. 3. 1 .Cơ hội :
Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế giúp văn hóa Việt Nam có được cơ hội
quảng bá rộng rãi trên thế giới. Văn hóa Việt Nam phát triển trong bối cảnh công nghệ
thông tin có những bước phát triển như vũ bão, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cũng
mở ra khả năng giao lưu, hợp tác và phát triển toàn diện về văn hóa, nâng cao cơ hội
quảng bá văn hóa Việt Nam ra toàn thế giới. Khoa học - công nghệ, truyền thông đại
chúng phát triển mang đến cho người dân khả năng sáng tạo và thụ hưởng các sản phẩm
văn hóa mới nhanh chóng, hiệu quả và có tính tương tác cao.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và nền kinh tế số tạo ra những thuận lợi cho
sự phát triển văn hóa Việt Nam, giúp chúng ta khai thác tiềm năng kinh tế của văn hóa
trên môi trường số. Công nghệ số, internet phát triển kéo theo khả năng tiếp cận các nội
dung văn hóa trở nên dễ dàng và không bị giới hạn bởi các đường biên giới quốc gia, 10 lOMoAR cPSD| 32573545
điều này cũng đòi hỏi sự khác biệt, độc đáo trong nội dung, ý tưởng của các sản phẩm
văn hóa như là một ưu thế cạnh tranh quan trọng. Các nước phát triển trên thế giới đang
chuyển nhanh sang nền kinh tế tri thức, kinh tế sáng tạo, công nghệ số hóa và sự số hóa
các nội dung văn hóa. Những thay đổi này đã đem lại những cơ hội lớn về khả năng
giảm thiểu chi phí sản xuất, góp phần tạo ra các kênh phân phối, quảng bá sản phẩm
mới, đòi hỏi những hành động nhạy bén và sự thích ứng liên tục với sự thay đổi của
môi trường. Sự chuyển đổi kỹ thuật số và tinh thần kinh doanh đưa ra những cơ hội,
khả năng và thách thức mới cho ngành văn hóa về phương thức hoạt động. Nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã và đang tạo ra sự tích cực xã hội
và tích cực văn hóa cho người dân, là cơ hội thúc đẩy tinh thần tự quản, năng lực làm
chủ của nhân dân trong việc tổ chức các hoạt động và sáng tạo văn hóa. Người dân ngày
càng được khuyến khích tham gia vào các hoạt động xã hội và hoạt động văn hóa với
tư cách như những nhân tố chủ động, từ hoạch định đến đánh giá các vấn đề xã hội và
văn hóa, thậm chí là người đồng kiến tạo xã hội và văn hóa cùng với bộ máy nhà nước.
Yếu tố nội sinh của sự phát triển xã hội và văn hóa được tăng lên cao, phần nào đó thể
hiện vai trò tăng lên của người dân so với Nhà nước trong nhiều vấn đề xã hội và văn hóa.
Chủ trương hội nhập quốc tế chủ động, tích cực, toàn diện của Đảng và Nhà nước tạo
điều kiện cho văn hóa Việt Nam hội nhập và phát triển. Trong bối cảnh toàn cầu hóa,
với đường lối đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, văn hóa Việt Nam có cơ
hội thuận lợi để tiếp thu tri thức, các nguồn lực và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại và sáng tạo những giá trị văn hóa mới. Đặc biệt, công
nghiệp văn hóa đang được định hướng là một trong những ngành trụ cột của kinh tế.
Kinh tế đang trên đà phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện đã hình thành nên một
thị trường tiêu dùng/hưởng thụ văn hóa với nhu cầu ngày càng lớn, là cơ sở quan trọng
thúc đẩy văn hóa phát triển. 3.2 . Thách thức
Bên cạnh những cơ hội, văn hóa Việt Nam phải đối mặt với không ít thách thức, đó là:
- Thách thức trong việc hoàn thiện thể chế văn hóa. Để có thể hỗ trợ sự đa dạng và năng
động của văn hóa (mà không can thiệp quá đà và giới hạn sức sáng tạo), chúng ta cần
hoàn thiện các chính sách thuế và quy định pháp luật về kinh doanh nghệ thuật và thị 11 lOMoAR cPSD| 32573545
trường, như quyền sở hữu trí tuệ, hoàn thiện hành lang pháp lý thúc đẩy sự tham gia
vào phát triển văn hóa của các đối tác và nguồn lực khác nhau. Thúc đẩy sự phát triển
của công nghiệp văn hóa hay công nghiệp sáng tạo như một giải pháp để phát triển văn
hóa. Xây dựng các cơ chế thúc đẩy phát huy nguồn lực, nhằm tạo nên sự hiệp lực, hợp
tác chặt chẽ trong văn hóa, thúc đẩy sự điều phối, kết hợp giữa Nhà nước, các nhà tài
trợ, thành phần tư nhân để hỗ trợ cho sự phát triển bền vững, tăng trưởng, cạnh tranh và
cải tổ trong lĩnh vực văn hóa. -
Thách thức trong việc chuyển đổi mô hình từ quản lý tập trung sang mô hình
phân cấp quản lý văn hóa phù hợp với bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa; trong đó, chức năng của Chính phủ đã chuyển theo hướng làm văn hóa sang
quản lý văn hóa, từ quản lý vi mô sang quản lý vĩ mô, từ quản lý trực tiếp sang quản lý
gián tiếp... Thách thức trong việc tiếp tục đổi mới tư duy lãnh đạo văn hóa của Đảng
theo hướng cởi mở, phát huy tính sáng tạo, chủ động của các chủ thể văn hóa. Xây dựng
các chủ trương, đường lối, nghị quyết bám sát thực tiễn nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và yêu cầu phát triển bền vững; có sự phân quyền rõ ràng giữa
Đảng và chính quyền trong triển khai thực hiện. Gia tăng việc kiểm tra, giám sát, tổng
kết, đánh giá trong quá trình thực hiện. Đổi mới tư duy quản lý văn hóa dựa trên tư
tưởng về quyền văn hóa và tinh thần xây dựng hệ thống hành chính công hiện đại; từng
bước xây dựng cơ chế phân cấp, phân quyền mới theo nguyên tắc các cơ quan nhà nước
tập trung vào phát triển hệ thống thể chế, đầu tư vào phát triển kết cấu hạ tầng chủ chốt,
phát triển nguồn nhân lực trình độ cao, tổ chức một số hoạt động và sự kiện văn hóa -
nghệ thuật quốc gia, các việc còn lại giao cho cộng đồng, các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân thực hiện. -
Thách thức về việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các lĩnh vực
văn hóa trong bối cảnh nguồn lực dành cho văn hóa, cơ chế chính sách khuyến khích
đầu tư cho văn hóa chưa đáp ứng được nhu cầu, chưa tương xứng với vai trò và vị thế
của văn hóa khi đặt trong quan điểm phát triển bền vững đất nước. Thách thức về năng
lực đổi mới sáng tạo, trong việc cải cách lĩnh vực văn hóa để làm cho văn hóa trở nên
phát triển bền vững hơn; trong đó có những thách thức mới về việc nâng cao năng lực
quản lý văn hóa trong cơ chế thị trường, về kỹ năng kinh doanh. Một trong những yêu
cầu mới của lĩnh vực văn hóa là cần thiết lập mối quan hệ mạnh mẽ hơn với công 12 lOMoAR cPSD| 32573545
chúng/người tiêu dùng, doanh nghiệp và cộng đồng, từ đó nâng cao nhận thức về những
các giá trị khác nhau của văn hóa. -
Thách thức của bối cảnh nền kinh tế số, của cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư. Trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của công nghệ truyền thông đa phương tiện
và kỹ thuật số, thị trường tự do, lĩnh vực văn hóa cần tạo ra sự khác biệt và ứng dụng
các tiến bộ khoa học - công nghệ trong việc tạo ra những sản phẩm, dịch vụ độc đáo,
đa dạng, đáp ứng nhu cầu của công chúng. Sự bùng nổ về thông tin, truyền thông đi
kèm với làn sóng giao thoa, du nhập văn hóa với nhiều yếu tố văn hóa mới, có mặt tích
cực nhưng cũng có không ít tiêu cực, trong khi trình độ cán bộ và phương tiện kỹ thuật
để quản lý những vấn đề mới mẻ này còn hạn chế, dẫn đến sự lúng túng, bị động trong tổ chức thực hiện.
-Thách thức từ toàn cầu hóa văn hóa như là một quá trình lưu thông mà thông qua đó,
các nền văn hóa dân tộc đang ngày càng hội nhập và phụ thuộc lẫn nhau. Toàn cầu hóa
văn hóa có nguy cơ làm mất bản sắc văn hóa dân tộc nếu chúng ta không nâng cao sức
mạnh nội sinh trong văn hóa, tiến hành hiện đại văn hóa nhưng không xa rời các giá trị
văn hóa đặc sắc của dân tộc. Bối cảnh toàn cầu hóa đặt ra thách thức cần xử lý đúng
đắn mối quan hệ giữa bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc với tiếp thu có chọn lọc tinh hoa
văn hóa nhân loại để làm phong phú cho văn hóa Việt Nam, củng cố nội lực, tạo sức đề
kháng trước những cuộc “xâm lăng văn hóa” từ bên ngoài, xử lý tốt các mối quan hệ
giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế; xử lý tốt các xung đột văn hóa nảy
sinh trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, toàn cầu hóa. -
Thách thức trong việc xử lý hài hòa nhiều mối quan hệ khác nhau của văn hóa,
như mối quan hệ giữa văn hóa và chính trị, văn hóa và kinh tế, giữa truyền thống và hiện đại...
4. Giải pháp và liên hệ bản thân về việc phát triển văn hóa Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập quốc tế 4.1.Giải pháp
Việt Nam mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế thế giới đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều
nền văn hóa du nhập vào nước ta qua những con đường khác nhau. Bên cạnh dòng chảy
của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa (XHCN) thấm đẫm các giá trị nhân văn, nhân đạo sâu 13 lOMoAR cPSD| 32573545
sắc làm chủ đạo để xây dựng nền văn hóa XHCN phục vụ cho sự nghiệp đổi mới đất
nước, thì vẫn còn những sản phẩm độc hại đang gặm nhấm tâm hồn con người, ảnh
hưởng đến thuần phong mỹ tục của dân tộc, cản trở việc xây dựng nền văn hóa ở nước
ta. Vì vậy, việc xây dựng nền văn hóa XHCN ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc
tế hiện nay cần có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, đưa ra những giải pháp hữu
hiệu nhất nhằm bảo tồn nền văn hóa bản địa của dân tộc, đồng thời phát huy nó lên tầm cao mới.
Xây dựng và phát triển nền văn hóa XHCN ở Việt Nam là những hoạt động mang
tính tích cực, chủ động của các tổ chức, lực lượng, ban, ngành khác nhau, cùng với nhân
dân - chủ thể sáng tạo của nền văn hóa tham gia vào việc hoạch định đường lối, chủ
trương, chính sách xây dựng nền văn hóa Việt Nam XHCN. Theo đó, những nội dung
xây dựng nền văn hóa Việt Nam thiết thực, cụ thể gắn liền với thực tiễn của đất nước,
với cuộc sống của nhân dân ở những vùng, miền khác nhau phản ảnh được diện mạo,
sắc thái của những phong tục, tập quán, lối sống của con người Việt Nam cần cù, chịu
khó, thông minh, giản dị, thủy chung, giàu lòng yêu nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nhấn mạnh: “Phải đặt rõ là văn hóa phục vụ ai? Cố nhiên chúng ta phải nói là phục vụ
công nông binh, tức là phục vụ đại đa số nhân dân… Quần chúng là những người sáng
tạo, công nông là những người sáng tạo”.Nền văn hóa Việt Nam XHCN đã góp phần
quan trọng vào việc làm bừng sáng tinh thần đấu tranh, yêu nước thương nòi của con
người Việt Nam, khẳng định những giá trị cốt lõi của nền văn hóa Việt Nam sẽ không
bao giờ bị phai mờ, lãng quên, đánh mất hồn cốt của mình trong việc giữ gìn những
phẩm giá, đức tính tốt đẹp của dân tộc đã trường tồn qua mấy nghìn năm lịch sử dựng
nước và giữ nước. Đặc biệt, trong thời kỳ cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, dưới
sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nền văn hóa Việt Nam XHCN đã có
sự phát triển về chất, trở thành động lực mạnh mẽ, làm nên chiến công vĩ đại của dân
tộc ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, thu giang sơn
về một mối, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong xu thế toàn cầu hóa thế giới hiện nay, nền văn hóa của mà chúng ta đang đứng
trước nhiều thách thức mới, Đại hội lần thứ XII của Đảng đã chỉ rõ: “Tình trạng nhập
khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động
tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân nhất là lớp trẻ” (3). Đặc biệt, 14 lOMoAR cPSD| 32573545
các thế lực thù địch đã sử dụng văn hóa như công cụ hữu hiệu nhất để thực hiện chiến
lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam trên lĩnh vực tư tưởng, văn
hóa. Tình hình đó đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ rất cấp bách cho việc xây dựng nền
văn hóa Việt Nam XHCN trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Vì thế, để phát
triển nền văn hóa Việt Nam XHCN trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay cần tiến
hành có hiệu quả một số nội dung, giải pháp cơ bản sau:
Quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước về xây dựng nền văn hóa Việt
Nam XHCN trong thời kỳ mới
Đây là giải pháp quan trọng mang tính định hướng, chi phối đến việc xây dựng nền
văn hóa Việt Nam XHCN. Những quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước về xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc như: Nghị quyết T.Ư 5
khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; Nghị quyết T.Ư 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt
Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước… đã vạch ra những vấn đề cơ bản
về mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ, giải pháp để phát triển nền văn hóa Việt Nam XHCN
trong giai đoạn hiện nay. Đội ngũ cán bộ chuyên trách về văn hóa thường xuyên làm
tốt công tác tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức cho các tầng lớp nhân dân
trong xã hội về những nghị quyết đó để họ được biết và nghiêm túc thực hiện. Thông
qua những hoạt động giữ gìn các phong tục truyền thống địa phương, tham gia bồi
dưỡng, giáo dục các thế hệ con cháu trong gia đình mà từng bước chuyển hóa đưa nghị
quyết của Đảng về văn hóa đi vào thực tiễn cuộc sống. Những quan điểm, đường lối đó
đã được cụ thể hóa, thể chế hóa thành những văn bản, chỉ thị, hướng dẫn cụ thể, thiết
thực cho từng vùng, miền khác nhau để đánh thức, khơi dậy những tiềm năng, thế mạnh
của nhân dân trong tham gia xây dựng nền văn hóa Việt Nam XHCN phục vụ cho chính
nhu cầu đời sống của họ như: tổ chức những lễ hội truyền thống mỗi dịp Tết đến xuân
về, tu bổ đền, chùa, miếu mạo, quan tâm đến gia đình chính sách, khó khăn, đầu tư xây
dựng trường học, hệ thống y tế ở các cơ sở, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân trong tham gia đóng góp ý kiến về xây dựng các di tích lịch sử
văn hóa, các công trình phục vụ nhu cầu dân sinh.
Nâng cao trình độ dân trí cho các tầng lớp nhân dân trong xã hội 15 lOMoAR cPSD| 32573545
Hiệu quả của hoạt động xây dựng nền văn hóa Việt Nam XHCN phụ thuộc rất lớn
vào trình độ dân trí của các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Khi trình độ dân trí của mọi
người được nâng cao thì cũng đồng nghĩa với việc nhận thức về những nội dung sự phát
triển nền văn hóa Việt Nam sẽ được nâng lên tầm cao mới, thể hiện rõ thông qua những
suy nghĩ, hành động thiết thực được chứng minh qua thực tiễn hoạt động của mỗi người.
Ngược lại, nếu trình độ dân trí còn thấp, không ngang bằng nhau, nhận thức về nội dung
xây dựng nền văn hóa Việt Nam XHCN còn hạn chế sẽ dẫn tới có những suy nghĩ, hành
động giản đơn, máy móc, thụ động trong tiếp nhận và chuyển hóa thành hoạt động thực
tiễn của mỗi người. Vấn đề đặt ra nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng
những kiến thức về khoa học xã hội, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa có
năng lực, phẩm chất, uy tín, am hiểu truyền thống địa phương, có khả năng tập hợp,
đoàn kết, quy tụ được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia; mở rộng giao lưu, đoàn
kết giữa các nền văn hóa với nhau để không ngừng bổ sung, hoàn thiện nền văn hóa bản
địa và cũng để tăng thêm sự giao lưu, hiểu biết giữa các tầng lớp nhân dân trong giữ
gìn, xây dựng nền văn hóa Việt Nam XHCN. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Một dân
tộc dốt là một dân tộc yếu, vì vậy, đẩy mạnh giáo dục quốc dân làm cho đồng bào ai
cũng biết đọc, ai cũng biết viết là tư tưởng nhất quán của Người, có nâng cao trình độ
dân trí mới động viên, khuyến khích được nhân dân hăng hái tham gia sự nghiệp kháng
chiến, kiến quốc. Đảng ta đã khẳng định: Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân
trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất
nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản, quy định của Đảng, Nhà nước, địa phương về
xây dựng nền văn hóa Việt Nam XHCN
Hệ thống văn bản, quy định của Đảng, Nhà nước, địa phương về xây dựng nền văn
hóa Việt Nam XHCN là sự thể chế hóa, cụ thể hóa thành những điều cụ thể, quy định
một cách rõ ràng, thống nhất cho các lực lượng, chức năng có liên quan trong việc xây
dựng nền văn hóa Việt Nam XHCN. Đó là những căn cứ để cho các chủ thể hoạt động,
đóng góp xây dựng những thiết chế văn hóa ở địa phương, ở mỗi vùng miền khác nhau.
Hệ thống những văn bản, quy định càng phong phú, đa dạng bao nhiêu thì tính hiệu quả
của việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam XHCN càng cao bấy nhiêu, phát huy được
tính chủ động, sáng tạo của các tầng lớp nhân dân trong tham gia xây dựng nền văn hóa 16