lOMoARcPSD| 48541417
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
KHOA ĐÀO TẠO CƠ BẢN
Bộ môn: Chính trị & Pháp luật
BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
Chủ đề:
Vận dụng nội dung mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết
Giảng viên giảng dạy : NGUYỄN THỊ LUẬN
Sinh viên thực hiện : LÊ THỊ MAI ANH
LỚP : K30T3
MÃ SINH VIÊN : 23A7201D0016
Hà Nội, Ngày 11 Tháng 11 Năm 2023
lOMoARcPSD| 48541417
2
MC LC
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................................................3
do chọn đề tài..............................................................................................................................3
2. Mục đích của đề tài......................................................................................................................3
3. Phương pháp nghiên cứu..............................................................................................................3
CHƯƠNG 1: CẶP PHẠM TRÙ NGUYÊN NHÂN VÀ KẾT QUẢ...................................................3
Khái niệm nguyên nhân và kết quả:.................................................................................................3
Tính chất của mối liên hệ nhân - quả...............................................................................................4
CHƯƠNG 2: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA NGUYÊN NHÂN VÀ KẾT QUẢ.................6
Nguyên nhân sinh ra kết quả nên nguyên nhân luôn luôn có trước kết quả, còn kết quả bao giờ
cũng xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện............................................................................6
Nguyên nhân sinh ra kết quả, nhưng kết quả không hoàn toàn thụ động, nó vẫn có khả năng tác
động trở lại nguyên nhân..................................................................................................................7
Nguyên nhân - kết quả có thể hoán đổi vị trí cho nhau....................................................................7
Một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả, và ngược lại, một kết quả có thể được ra đời từ rất
nhiều nguyên nhân............................................................................................................................8
Kết quả không bao giờ được to hơn nguyên nhân............................................................................9
Vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả vào cuộc sống thực tiễn........................................9
KẾT LUẬN........................................................................................................................................10
LI M ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trong sự vận động của hiện thực, mối liên hệ nhân quả mối liên hệ được lặp đi lặp lại nhiều nhất,
phổ biến nhất. Do đó thể nói, mối liên hệ nhân quả một trong những mối liên hệ tự anhiên đầu tiên được
phản ánh vào trong đầu óc của con người. Chúng ta nói rằng, phạm trù là kết quả của những quá trình phản
ánh những mối liên hệ được lặp đi lặp lại của đời sống, trong trường hợp này, phạm trù nguyên nhân
kết quả những phạm trù chứng minh cho quan niệm đó. Mối liên hệ nguyên nhân kết quả, hay gọi tắt
mối liên hệ nhân - quả mối liên hệ vốn của thế giới vật chất. không phụ thuộc vào ý muốn chủ
quan của con người. Chính những tác động của các sự vật hiện tượng trong thế giới vật chất, nó được phản
ánh trong ngun về mối liên hệ phổ biến đã làm cho thế giới vận động, sự tác động đó nếu đặt trong
mối quan hệ với kết quả thì đó là nguyên nhân. Vì vậy, bất kỳ một sự vận động nào ở trong thế giới vật chất
suy cho cùng đều những mối liên hệ nhân quả, xét những phạm vi khác nhau, những thời điểm khác
nhau và những hình thức khác nhau. Nói một cách khác, nếu như vận động là thuộc tính của thế giới vật chất,
là phương thức tồn tại của vật chất thì vận động luôn luôn là sự tác động, hoặc là sự tác động giữa những bộ
phận khác nhau trong cùng một một sự vật hiện tượng, hoặc sự tác động lẫn nhau giữa các sự vật hiện
tượng. Tất cả những tác động đó chỉ cần xét theo định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của Lô - mô
- - xốp cũng thấy rằng, chúng nhất định phải sinh ra từ nguyên nhân o đó. Vấn đề chỉ chỗ ý thức
của chúng ta có phản ánh được những cấp bậc đó hay không mà thôi.
lOMoARcPSD| 48541417
3
Từ những lý do trên cùng sự kết hợp với bài giảng của cô em đã chọn đề tài “Về cặp phạm trù nguyên
nhân - kết quả trong triết học Mác - Lênin” làm tiểu luận của mình. Do thời gian có hạn và kién thức còn hạn
chế cho nên bài viết tiểu luận sẽ khoong tránh khỏi những thiếu sót. Vậy kính mong sự góp ý của cùng
toàn thể bạn đọc.
2. Mục đích của đề tài.
Mục đích của đề tài là làm rõ hơn về cặp phạm trù nguyên nhân - kết quả trong triết học Mác - Lênin.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong niên luận này, các phương pháp được em sử dụng khi trình bày là:
phương pháp lôgic và lịch sử.
phương pháp tổng hợp.
phương pháp phân tích.
phương pháp trừu tượng hóa…
CHƯƠNG 1: CẶP PHẠM TRÙ NGUYÊN NHÂN VÀ
KẾT QUẢ
1. Khái niệm nguyên nhân và kết quả:
Nguyên nhân là phạm trù dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong cùng một sự vật hoặc
giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó.
Kết qu một phạm trù dùng đchỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các mặt trong
một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra.
Nội hàm của khái niệm nguyên nhân vừa trình bày đưa lại cho chúng ta nhận thức đầu tiên rất quan
trọng, đó sự vật hiện tượng không bao giờ chính bản thân nguyên nhân, chỉ sự tác động của các sự
vật hiện tượng mới là ngun nhân. Cho nên, nếu ta ở gần một thằng lưu manh thì bản thân thằng lưu manh
chưa là tai họa cho ta, chỉ khi nó có những hành động lưu manh xâm hại đến chính bản thân ta, bấy giờ hành
động xâm hại đó mới là nguyên nhân gây ra tai họa cho chúng ta.
Ví dụ bản thân cái nhân chứa ở trong hạt không phải là nguyên nhân của cái mầm, mà những quá trình
sinh học và hóa học (quá trình sinh học, hóa học này mới chính nguyên nhân làm nảy sinh nên mầm chứ
không phải bản thân cái nhân). Do đó trong trường hợp này có thể liên hệ sang lĩnh vực khác, một cặp phạm
trù khác đó khả năng hiện thực. Trong trường hợp này, cái nhân trong hạt mới chỉ khả năng
thôi, chỉ bao giờ nó hóa thành hiện thực là những quá trình sinh hóa ở trong cái hạt, bấy giờ nó mới là sự tác
động và nó mới làm nảy sinh mầm.
Tóm lại, cái mầm kết quả sinh ra từ những quá trình sinh học, hóa học trong cái nhân chứ không
phải bản thân cái nhân là nguyên nhân của nó.
Vấn đề thứ hai trong thế giới luôn luôn sự tác động qua lại của các svật hiện tượng với nhau.
Suy cho cùng, mỗi một sự tác động đều đưa lại những hệ quả nào đó, một kết quả nào đó, nhưng nvậy
mọi tác động của bản thân đều chưa được xem xét như là những nguyên nhân. Nguyên nhân chỉ nguyên
nhân trong mối quan hệ với kết quả. Nếu không kết quả thì cũng không gọi sự tác động đó nguyên nhân.
Hay nói cách khác, nếu không quy kết quả như hậu quả của một quá trình tác động thì tác động đó ng
không được gọi là nguyên nhân.
Còn y giờ chúng ta nói đến vấn đề kết quả. Kết quả vốn sự xuất hiện của một sự vật hiện tượng
nào đó. Như vậy, sự xuất hiện đó chỉ được xem là kết quả nếu xem xét nó sinh ra từ những nhân tố nào.
lOMoARcPSD| 48541417
4
Các nguyên nhân là sự tác động thì kết quả có thể là sự vật hiện tượng.
Tính chất của mối liên hệ nhân - quả.
Phép biện chứng duy vật khẳng định mối liên hệ nhân quả có tính khách quan, nh phổ biến và tính tất
yếu.
Tính khách quan của mối liên hệ nhân - quả thể hiện chỗ, mối liên hệ nhân - quả cái vốn của
bản thân sự vật, nó không phụ thuộc vào ý thức của con người. Chúng ta biết rằng, mọi sự vật trong thế giới
là luôn luôn vận động, tác động lẫn nhau, và sự tác động đó tất yếu sẽ dẫn đến một sự biến đổi nhất định. Do
đó có thể nói mối liên hệ nhân - quả luôn mang tính khách quan.
Còn tính phổ biến của mối quan hệ này thì điều đầu tiên chúng ta thể thấy mối liên hệ phổ biến
có tính phổ biến như thế nào thì mối liên hệ nhân quả cũng tính phổ biến như thế. Chúng ta thể nhận
thấy mối liên hệ nhân quả tồn tại ở khắp mọi nơi, trong cả tự nhiên, xã hội và trong cả tư duy của con người.
Không có một hiện tượng nào không có nguyên nhân, nhưng vấn đề là ở chỗ nguyên nhân đó đã được nhận
thức hay chưa mà thôi.
dụ mối liên hệ nhân - quả được thể hiện trong trường hợp khi trời mưa, độ ẩm cao, làm cho con
chuồn chuồn không bay được lên cao. Ngược lại, nếu trời nắng, độ ẩm thấp đã tạo điều kiện cho chuồn chuồn
bay cao hơn. Hay như trong hội, nếu như luật pháp càng lỏng lẻo thì an ninh trật tự của xã hội đó sẽ bất
ổn.
Tính tất yếu thể hiện một điểm cùng một nguyên nhân như nhau, trong những điều kiện giống nhau
sẽ nhất định nảy sinh những kết quả như nhau.
dụ tất cả những cuộc chiến tranh phi nghĩa m lược trong lịch sử nhân loại sớm hay dù
muộn đều có kết thúc giống nhau. Kẻ đi xâm lược nhất định sẽ bị thất bại. Nói riêng về quan hệ nhân quả
trong trường hợp này thì chúng ta sẽ thấy được sự thất bại của chiến tranh xâm lược với cách là một kết
quả bắt nguồn từ những tác động của những điều kiện kinh tế - xã hội, do tính phi nghĩa của cuộc chiến tranh
đó đem lại. Cuộc chiến tranh phi nghĩa đó và sự tác động của tính chất đó m cho nhân dân ở trong bản thân
các nước đi xâm lược đều chán ghét cuộc chiến tranh, đứng lên phản đối cuộc chiến tranh dẫn đến quân
lính ở trong một đội quân xâm lược cũng như vậy, sớm muộn họ cũng nhận ra tính chất phi nghĩa của cuộc
chiến, và tinh thần của họ sẽ bị giảm sút. Đó là một trong những lý do làm cho quân xâm lược bị thất bại.
trên chúng ta đã nói rằng, với cùng một ngun nhân với cùng những điều kiện giống nhau, những
kết quả sinh ra sẽ giống nhau. Điều y cũng là một nguyên tắc để chúng ta rút ra một kết luận khác đó là,
thực ra ở trong thế giới vật chất không bao giờ có những tác động hoàn toàn giống nhau, cũng không bao giờ
có những điều kiện hoàn toàn giống nhau. Cho nên, thực tế mỗi một sự vật hiện tượng với cách là kết
quả đều được sinh ra từ những nguyên nhân khác biệt, ngay cả khi nguyên nhân đó có thể giống nhau về mặt
chủng loại. Mặt khác, những điều kiện cũng không bao giờ có thể được lặp lại hoàn toàn, do đó kết quả bao
giờ cũng rất độc đáo. Nguyên nhân tác động trong những điều kiện, hoàn cảnh ít khác nhau bao nhiêu thì kết
quả do chúng gây ra giống nhau bấy nhiêu. Tuy nhiên, sự ít khác nhau lại cực k hiếm, do đó bao giờ cũng
như vậy, mỗi một kết quả là một thực tại độc đáo, không lặp đi lặp lại trong bất kỳ một thời gian, không gian
nào. Ví dụ, trong chiến tranh, bộ đội ta có một kết luận rất thực tế là, rất ít khi hai quả bom rơi vào cùng một
chỗ. Vì vậy, các chiến sĩ ta hay tránh bom địch ở chính những hố bom mà quả bom trước đã đào lên.
CHƯƠNG 2: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA
NGUYÊN NHÂN VÀ KẾT QUẢ
Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả có thể được khái quát thành năm vấn đề sau đây.
lOMoARcPSD| 48541417
5
1. Nguyên nhân sinh ra kết quả nên nguyên nhân luôn luôn có trước kết quả, còn kết quả bao
giờ cũng xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện.
Ở đây vấn đề là tự bản thân nó đã rõ ràng, không cần phải luận chứng gì thêm, chỉ cần phải phân biệt
không phải một sự vật nào đó trước sự vật thứ hai, thì tác động của đã được coi nguyên nhân của
hiện tượng thứ hai. Ví dụ, ngày là sự nối tiếp của đêm nhưng không phải là nguyên nhân của đêm. Ở đây sự
phân biệt không phải là thời gian mà là mối liên hệ hiện thực giữa nguyên nhân và kết quả. Hai hiện tượng,
hiện tượng trước không phải nguyên nhân của hiện tượng sau chỉ chỗ sự c động của không
liên quan đến sự xuất hiện của hiện tượng sau. Còn trong quan hệ nhân quả, thì bao giờ sự tác động của
nguyên nhân cái sinh ra kết quả. Sự kế tục giữa các mùa trong năm cũng như vậy. Đó hậu quả của
những vị trí khác nhau của trái đất so với mặt trời trong vòng quay của trái đất xung quanh mặt trời, chứ
không phải mùa xuân sinh ra mùa hè, mùa hè sinh ra mùa thu…
Vấn đề thứ hai cần chú ý sự kế tiếp nhau của nguyên nhân kết quả trong mối quan hnhân quả
không có nghĩa là nguyên nhân sinh ra xong rồi thì kết quả mới nảy sinh. Trái lại, nguyên nhân vừa tác động
thì sự hình thành của kết quả đã có thể được coi như bắt đầu, cho đến khi kết quả hình thành như một sự
vật, hiện tượng nó vẫn còn nhận tác động của nguyên nhân, và như vậy nó vẫn còn đang tiếp tục biến đổi do
tác động của nguyên nhân.
Tóm lại, người ta không thể nhìn quan hệ nhân quả như sự đứt đoạn trong sự vận động biến
đổi liên tục của thế giới vật chất, của sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng.
Việc nguyên nhân sinh ra kết quả còn một yếu tố nữa, đó là điều kiện. Không phải cứ có sự tác động
là có ngay kết quả, phải ở trong những điều kiện nhất định thì có thể mới có kết quả.
Ví dụ, trở lại các quá trình sinh - hóa ở trong hạt cây nảy mầm chúng ta thấy rằng, nếu một hạt tốt
đầy đủ khả năng để sinh ra một cái mầm tốt, nhưng nếu được độ ẩm, ánh sáng, nhiệt độ đầy đủ thì cũng
không bao giờ cái mầm xuất hiện. Điều kiện vai trò rất quan trọng, làm cho nguyên nhân nào sinh ra
kết quả nào. thể cùng một nguyên nhân, cùng một khả năng c động như nhau, nhưng trong những
điều kiện khác nhau thì nó đưa lại những hậu quả khác nhau.
Ví dụ, hai cái nhân tốt như nhau, nhưng với những điều kiện như nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng khác nhau
thì hai cái mầm mọc ra cũng có chất lượng khác nhau.
Vấn đề còn trở nên phức tạp hơn khi có nhiều nguyên nhân cùng tác động một lúc, khi đó thì kết quả
ra sao còn tùy thuộc ở việc mối quan hệ giữa các nguyên nhân với nhau là như thế nào.
Ví dụ, sự nghiệp công nghiệp a - hiện đại hóa của chúng ta sẽ hoàn thành trong tương lai, chắc chắn
phải chịu sự tác động của các nguyên nhân như quá trình phát triển kinh tế bên trong, đồng thời nguyên
nhân của thị trường thế giới nói chung, tức là nhịp độ phát triển của kinh tế thế giới, những điều kiện thuận
lợi mà kinh tế thế giới đem lại cho chúng ta, những thách thức chúng ta phải vượt qua để xây dựng nền
kinh tế tự chủ trong hòa nhập. vậy, xem xét kết quả này chúng ta vừa phải xem xét trước hết sự tác
động qua lại giữa hai ngun nhân là sự phát triển, vận động của nền kinh tế trong nước và diễn biến của
nền kinh tế toàn cầu, mỗin có những vai trò riêng biệt. Và đương nhiên chúng ta khẳng định rằng, nguyên
nhân ở bên trong, những tác động nội tại của nền kinh tế nước ta, tinh thần độc lập tự chủ và những kết quả
do bản thân nỗ lực của nền kinh tế Việt Nam đem lại mới là những ngun nhân chủ yếu, đóng góp vào sự
phát triển của đất nước, sự hoàn thành quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa của đất nước ta. Xét nền kinh
tế trong nước, chúng ta lại còn thể tiếp tục phân chia nguyên nhân đó thành những nguyên nhân như là:
sự tác động, vai trò của mỗi thành phần kinh tế trong thời kđổi mới và trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện
đại hóa. Hiện nay, năm thành phần kinh tế cơ bản của chúng ta là kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế
tư bản tư nhân, trong đó gồm cả tư bản nước ngoài, kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ và kinh tế tự cung tự cấp
ở những vùng còn chưa phát triển được kinh tế hàng hóa, tất cả những thành phần kinh tế này đều có những
vai trò nhất định trong sự phát triển của kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên chúng ta thấy rằng, nền kinh tế quốc
lOMoARcPSD| 48541417
6
doanh bao giờ cũng nắm vai trò chủ yếu do chỗ chúng ta định hướng phát triển kinh tế và định hướng xã hội
chủ nghĩa, những ngành kinh tế chủ chốt có vai trò cơ bản tác động đến nền kinh tế quốc dân đều thuộc khu
vực quốc doanh, do đó hiển nhiên thành phần kinh tế này luôn đóng vai trò chủ đạo, phát huy những tác dụng
của nó làm cho kinh tế Việt Nam ngày càng trở nên hiện đại.
2. Nguyên nhân sinh ra kết quả, nhưng kết quả không hoàn toàn thụ động, nó vẫn có khả năng
tác động trở lại nguyên nhân.
Cần chú ý là tác động này là hai nghĩa, cả tác động tích cực hoặc tác động tiêu cực.
Ví dụ, trình độ dân trí thấp là do nền kinh tế kém phát triển gây ra, nếu không đủ đầu tư cho việc nâng
cao dân trí của nhân dân, đầu giáo dục không đầy đủ. Đến lượt nh, dân trí thấp với cách kết quả
lại tác động trở lại với quá trình phát triển kinh tế và xã hội của đất nước, làm cho kinh tế kém phát triển và
dân trí sẽ lại tiếp tục thấp xuống. Ngược lại, trình độ dân trí cao vốn là kết quả của sự phát triển xã hội cả về
chính trị, kinh tế, văn hóa… làm cho nền giáo dục quốc dân cũng phát triển đầy đủ, khi đó nó sẽ đem lại một
kết quả tầng lớp trí thức một đội ngũ lao động với trình độ cao, tay nghề vững điều đó chắc chắn
làm cho kinh tế quốc dân càng phát triển tốt hơn.
Vấn đề tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân một ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng.
làm cho người ta phải dự kiến rất đầy đủ những hậu quả của một chính sách xã hội chẳng hạn, đặc biệt trong
vấn đề đầu tư, một trong những yếu tố tạo ra nguyên nhân phát triển nền kinh tế đất nước. Việc đầu tư rất có
thể mang lại những hậu quả lớn, làm cho kinh tế phát triển rất cao nếu đúng đắn.
Ví dụ, người ta đầu tư vào những ngành mũi nhọn có tác dụng làm thay đổi căn bản nền kinh tế, chỉ
một thời gian ngắn sau, nền kinh tế quốc dân đã có một động lực lớn như là công nghệ thông tin, bưu chính
viễn thông, công nghệ tin học… Những kết qudo sự đầu đúng đắn đó làm cho các ngành kinh tế như
công nghiệp, thủy sản, nông nghiệp… có những sự phát triển vượt bậc, khi đó lại tạo điều kiện cho việc
tái đầu ngày càng tốt hơn với lực lượng tài chính, lực lượng vật chất ngày càng to lớn hơn. Rồi khi đó,
trong một chu kỳ khác, sự đầu đúng đắn lại làm cho các ngành khoa học mới ra đời, cứ như thế một chu
trình đầu tư mang lại một kết quả và bản thân kết quả đó làm cho quá trình đầu tư ngày càng có ý nghĩa kinh
tế xã hội sâu sắc hơn. Trong những năm vừa qua, chúng ta đã có những hiện tượng đầu tư bất hợp lý. Sự đầu
tư bất hợp lý như vào một nhà máy mía ở vùng không có nguyên liệu, những nhà y xi măng lò đứng với
hàng chục triệu đôla đã gây ra những hậu quả tai hại. Những hậu quả này lại làm cho bản thân những ngành
đó không phát triển hoặc phát triển rất chậm, thậm chí có những bước thụt lùi. Ngày nay toàn bộ chiến lược
xi măng đang phải tính toán lại cơ cấu đầu tư. Nhà máy mía cũng phải lựa chọn những vùng có nguyên liệu
lâu bền, vừa làm thay đổi bộ mặt của một vùng nông thôn, vừa đem lại những bước tiến vững chắc cho ngành
mía đường toàn quốc.
3. Nguyên nhân - kết quả có thể hoán đổi vị trí cho nhau.
Nguyên nhân và kết quả có thể hoán đổi vị trí cho nhau theo hai ý nghĩa dưới đây:
Thứ nhất, nguyên nhân sinh ra kết quả, nhưng bản thân nguyên nhân khi sinh ra kết quả lại đã là kết
quả ở một mối quan hệ nhân - quả trước đó. Ngược lại, kết quả với tư cách là kết quả được sinh ra từ một
nguyên nhân nhưng bản thân nó không dừng lại. Nó lại tiếp tục tác động, và sự tác động của nó lại gây ra
những kết quả khác. Nói một cách khác, có thể tóm lại trong chuỗi nhân – quả: A sinh ra B, B sinh ra C, C
sinh ra D… thì mỗi cái đều là nguyên nhân ở trong một mối quan hệ này, nhưng đồng thời lại là kết quả ở
một mối quan hệ khác.
dụ, sự phân phối thu nhập không công bằng dẫn tới mâu thuẫn trong xã hội. Những mâu thuẫn
hội làm nảy sinh những tệ nạn xã hội. Những tệ nạn xã hội lại làm cho nền kinh tế xã hội phát triển chậm lại.
Thứ hai, đó chính ý nghĩa đã được xét khía cạnh trên, tức nguyên nhân sinh ra kết quả, nhưng
kết quả lại khả năng tác động trở lại đối với nguyên nhân. Trong mối quan hệ này, khi kết quả tác động
lOMoARcPSD| 48541417
7
trở lại với nguyên nhân thì kết quả lại cách nguyên nhân chứ không phải kết quả nữa. Do đó
thể nói sự hoán đổi vị trí giữa nguyên nhân và kết quả ngay trong cùng một mối quan hệ nhân quả.
Chúng ta có thể lấy lại những ví dụ về dân trí và giáo dục đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân vừa
được dẫn ra ở trên.
Vì vậy, Ph. Ăng ghen nói rằng, ngun nhân và kết quả là những khái niệm chỉ có ý nghĩa là nguyên
nhân kết quả khi được áp dụng vào một trường hợp riêng biệt nhất định. Hay nói cách khác, một hiện
tượng nào đấy được coi là nguyên nhân hay kết quả bao giờ cũng ở trong một quan hệ xác định cụ thể.
4. Một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả, và ngược lại, một kết quả có thể được ra đời
từ rất nhiều nguyên nhân.
Ví dụ trường hợp chặt phá rừng bừa bãi ở trên đầu nguồn có thể sinh ra nhiều kết quả. Sự thay đổi sinh
thái bản thân vùng đó làm cho qu gien động vật thực vật bị biến đổi, sự cân bằng sinh thái bị phá vỡ
gây ra sự thay đổi khí hậu ở chính bản thân vùng rừng đầu nguồn. Thứ hai, nó là nguyên nhân gây ra những
trận lụt, thậm chí những trận quét gây ra rất nhiều thiệt hại cho đời sống kinh tế xã hội không chỉ
vùng cao còn ở vùng đồng bằng. Thứ ba, gây ra những hậu quả làm xáo trộn đời sống hội của
dân, làm ảnh hưởng đến tình hình xã hội chung của toàn quốc. Thứ tư, nó làm cho ngân sách quốc gia bị ảnh
hưởng do phải chi trả cho những thiệt hại mà thiên nhiên và xã hội đã đưa đến. Như thế là một nguyên nhân
có thể sinh ra nhiều kết quả.
Một kết quả cũng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra.
Ví dụ, thành công của công cuộc đổi mới ở trên đất nước ta bắt nguồn từ rất nhiều nguyên nhân. Thứ
nhất sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình của Đảng. Khi thực tiễn đã nảy sinh những hiện tượng mới, khi cảm
thấy nền kinh tế quốc dân đang bị trì trệ, không còn lối thoát, chúng ta đã nghiên cứu luận, đúc kết thực
tiễn và đề ra chính sách đổi mới. Chính sách này còn được bắt nguồn từ những thúc ép của đời sống xã hội,
nền kinh tế với cơ chế hành chính quan liêu bao cấp đã làm cho sức sản xuất của xã hội Việt Nam bị cản trở
rất lớn, thậm chí có những khi đẩy đất nước đến bờ vực thẳm, như tình trạng năm 1985. Đồng thời, ngày đó
chúng ta cũng thực hiện một công việc ở tầm vĩ mô rất sai lầm, đó là liên tiếp thực hiện những cuộc đổi tiền.
Điều này đã làm cho nền tài chính quốc gia bị đảo lộn, càng ngày càng mất cân bằng thu chi, làm cho đồng
tiền Việt Nam ngày càng mất giá sức sống của toàn bộ nền kinh tế bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tất cả
những cái đó đã dồn ép chúng ta bắt buộc chúng ta phải thay đổi một cách cơ bản đường lối kinh tế của
đất nước.
Và kết quả là sự ra đời của đường lối đổi mới. Thành công của công cuộc đổi mới còn bắt nguồn trực
tiếp từ sự chỉ đạo tầm vĩ mô của Đảng và Chính phủ rất đúng đắn và kịp thời. Đặc biệt là còn bắt nguồn từ
những hoạt động kinh tế của một cộng đồng cư dân sáu, bảy chục triệu người, quyết tâm ra khỏi tình trạng
khủng hoảng, quyết tâm thoát nghèo, thoát đói, thoát nghèo nàn, lạc hậu.
5. Kết quả không bao giờ được to hơn nguyên nhân.
Đây là một vấn đề rất quan trọng. Vấn đề này đã được He ghen đề cập đến trong cuốn lôgic của ông,
đó là một phát hiẹn rất tài tình. Kết quả không bao giờ to hơn nguyên nhân, chỉ cần dựa và định luật bảo toàn
chuyển hoá năng lượng vủa xốp cũng thể đi đến kết luận này. Một kết quả được xem xét
như là cái được sinh ra từ sự tác động của bản thân nó không thể nào lại lớn hơn tác động được. Do đó, nếu
chúng ta đun nước ngoài trời nắng thì nước sẽ sôi nhanh hơn, nhanh nóng hơn bởi được tiếp thu từ
ánh sáng mặt trời
Ví dụ, cùn một đooj củi khoảng 3000 calo là đã có thể nâng được nhiệt độ nhiệt độ nước: 3kg nước n
một độ. Nhưng nếu để ở ngoài trời nắng thì người ta thấy rằng chỉ cần 2800 calo chẳng hạn. vậy, khi
thấy kết quả to hợn nguyên nhân thì lập tức chúng ta phải đi tìm những nguyên nhân khác bổ sung để làm
nên kết quả mà chúng có được.
lOMoARcPSD| 48541417
8
Điều này ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng. Bời trong thực tế, khi chũng ta nhìn thấy về mặt hình
thức, nhận được kết quả to hơn sự tác động, thì chúng tabiết rằng phải đi tìm những nguyên nhân khác để bổ
sung cho kết quả đó, qua quá trình đó chúng ta phát hiện thêm được những mối liên hệ mới. Và nhưngc lần
hoạt động tiếp theo, chúng ta có thể sử dụng những nguyên nhân mới mà chúng ta phát hiện được trong quá
trình hoạt động của chúng ta.
6. Vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả vào cuộc sống thực tiễn.
Đối với những mối liên hệ nhân – quả ở trong tự nhiên, con người càng nghiên cứu được càng nhiều
càng tốt. Nhờ biết được những hậu quả do các tác động lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng trong tự nhiên,
con người ta có thể lợi dụng được những nguồn năng lượng lớn để phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu của
con người.
Ví dụ biết được về hiện tượng của thủy triều là do sức hút của mặt trăng tạo nên làm cho nước biển bị
cuốn theo gây nên những đợtt thủy triều tràn vào đất liền, người ta có thể lợi dụng nó để tạo ra nguồn điện.
Đồng thời người ta sử dụng mối quan hệ nhân quả của các hiện tượng tự nhiên để thấy được những
tác hại mà các hiện tượng đó y ra. Mối liên hệ nhân quả trong lĩnh vực xã hội, tức lĩnh vực hoạt động
của con người phức tạp hơn rất nhiều.
Mối quan hệ nhân – quả này có đặc điểm trước hết là nó chỉ xuất hiện khi có hoạt động của con người.
Đặc điểm này có thể đúng, không đúng ở trong những lĩnh vực khác nhau. Có những hoạt động được coi là
hoạt động có ý thức của cá nhân, nhưng lại là hoạt động vô ý thức đối với cộng đồng. Chủ thể hoạt động bao
giờ cũng xuất phát từ lợi ích của chính bản thân mình, nhưng tác động của tới đời sống hội còn y
thuộc vào những mối liên hệ và những hậu quả xã hội mà nó gây ra.
dụ, lợi nhuận buôn ma y rất cao, cho nên bọn buôn bán ma y không từ bỏ một hành vi nào
thúc giục việc buôn bán ma túy để kiếm lợi. Xét từ phía cộng đồng, đó hành động rất có hại, hành động có
thể nói một hành động tự sát. Tuy nhiên, những tác động đó người ta không thể ngăn chặn một sớm một
chiều, nếu không nghiên cứu những quan hệ lợi ích tác động vào quan hệ nhân quả.
Do đó nghiên cứu mối quan hệ nhân-quả trong đời sống hội cũng chính nghiên cứu mối quan
hệ tác động về mặt lợi ích. Những lợi ích nào được sinh ra từ những tác động nào, nó đưa lại những hậu quả
nào, đó chính là mục tiêu đề nghiên cứu mối quan hệ nhân quả trong đời sống cộng đồng.
Tóm lại, mối quan hệ nhân – quả được thể hiện ở rất nhiều lĩnh vực. Nhưng dù ở lĩnh vực nào thì con
người cũng phải luôn luôn tìm hiểu, nghiên cứu để khắc phục, tránh những hậu quả xấu do các tác động gây
ra. Ngược lại, chúng ta ng thể lợi dụng mối quan hệ nhân quả y để phục vụ cho cuộc sống của mình.
KẾT LUẬN
Tất cả các mối quan hệ phép biện chứng nêu lên đều sự khái quát những đặc trưng của những
mối liên hệ cụ thể, ở trong những lĩnh vực cụ thể của thế giới vật chất. Quan hệ về nhân - quả cũng như vậy,
chúng ta thể coi như quan hệ nhân - quả kết quả của việc khái quát những hiện tượng từ một sự tác
động này suy ra một kết quả khác ở trong rất nhiềmlĩnh vực: trong tự nhiên, trong xã hội, cả trong vật, hóa
học, cả trong đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa... Quan hệ nhân - quả là một trong những quan
hệ tính phổ biến nhất trong thế giới hiện thực. Đặc biệt, vai trò rất quan trọng đối với quá trình
hình thành nhận thức của chúng ta. Quá trình nhân - quả được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ làm cho tư duy của
lOMoARcPSD| 48541417
9
con người phản ánh được những mối quan he nhân - quả, đồng thời khi nghiên cứu ở khía cạnh khác dẫn tới
những kết luận về mặt phương pháp luận rất phong phú.
vậy, trong những câu ngạn ngữ chúng ta cũng bắt gặp được sự tổng kết của cha ông ta về quan hệ
nhân - quả là rất nhiều Ví dụ:
“ Mưa dầm thấm lâu, cày sâu tốt lúa”
“ Ấc giả ác báo”
“ Gieo gió gặt bão”..
Tóm lại mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân kết quả những sở lsy luận rất quan trọng
giúp cho chúng ta rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình đào tạo thực tiễn. Những haotj động thực
tiễn là sở để cho chũng ta nhận thức được về đặc trưng của mối quan hệ nhân quả và những đặc trưng
này với cách thành quả của nhận thức lại sẽ tiếp tục chỉ đạo cho người trong hoạt động thực tiễn đeer
có thể gặt hái được những thành công to lớn hơn.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 48541417
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
KHOA ĐÀO TẠO CƠ BẢN
Bộ môn: Chính trị & Pháp luật BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
Chủ đề: Vận dụng nội dung mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết
quả trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Hãy chứng minh?
Giảng viên giảng dạy : NGUYỄN THỊ LUẬN
Sinh viên thực hiện : LÊ THỊ MAI ANH LỚP : K30T3
MÃ SINH VIÊN : 23A7201D0016
Hà Nội, Ngày 11 Tháng 11 Năm 2023 1 lOMoAR cPSD| 48541417 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................................................3
Lý do chọn đề tài..............................................................................................................................3
2. Mục đích của đề tài......................................................................................................................3
3. Phương pháp nghiên cứu..............................................................................................................3
CHƯƠNG 1: CẶP PHẠM TRÙ NGUYÊN NHÂN VÀ KẾT QUẢ...................................................3
Khái niệm nguyên nhân và kết quả:.................................................................................................3
Tính chất của mối liên hệ nhân - quả...............................................................................................4
CHƯƠNG 2: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA NGUYÊN NHÂN VÀ KẾT QUẢ.................6
Nguyên nhân sinh ra kết quả nên nguyên nhân luôn luôn có trước kết quả, còn kết quả bao giờ
cũng xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện............................................................................6
Nguyên nhân sinh ra kết quả, nhưng kết quả không hoàn toàn thụ động, nó vẫn có khả năng tác
động trở lại nguyên nhân..................................................................................................................7
Nguyên nhân - kết quả có thể hoán đổi vị trí cho nhau....................................................................7
Một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả, và ngược lại, một kết quả có thể được ra đời từ rất
nhiều nguyên nhân............................................................................................................................8
Kết quả không bao giờ được to hơn nguyên nhân............................................................................9
Vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả vào cuộc sống thực tiễn........................................9
KẾT LUẬN........................................................................................................................................10 LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trong sự vận động của hiện thực, mối liên hệ nhân quả là mối liên hệ được lặp đi lặp lại nhiều nhất,
phổ biến nhất. Do đó có thể nói, mối liên hệ nhân quả là một trong những mối liên hệ tự anhiên đầu tiên được
phản ánh vào trong đầu óc của con người. Chúng ta nói rằng, phạm trù là kết quả của những quá trình phản
ánh những mối liên hệ được lặp đi lặp lại của đời sống, và trong trường hợp này, phạm trù nguyên nhân và
kết quả là những phạm trù chứng minh cho quan niệm đó. Mối liên hệ nguyên nhân và kết quả, hay gọi tắt
là mối liên hệ nhân - quả là mối liên hệ vốn có của thế giới vật chất. Nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ
quan của con người. Chính những tác động của các sự vật hiện tượng trong thế giới vật chất, nó được phản
ánh ở trong nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đã làm cho thế giới vận động, sự tác động đó nếu đặt trong
mối quan hệ với kết quả thì đó là nguyên nhân. Vì vậy, bất kỳ một sự vận động nào ở trong thế giới vật chất
suy cho cùng đều là những mối liên hệ nhân quả, xét ở những phạm vi khác nhau, những thời điểm khác
nhau và những hình thức khác nhau. Nói một cách khác, nếu như vận động là thuộc tính của thế giới vật chất,
là phương thức tồn tại của vật chất thì vận động luôn luôn là sự tác động, hoặc là sự tác động giữa những bộ
phận khác nhau ở trong cùng một một sự vật hiện tượng, hoặc là sự tác động lẫn nhau giữa các sự vật hiện
tượng. Tất cả những tác động đó chỉ cần xét theo định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của Lô - mô
- nô - xốp cũng thấy rằng, chúng nhất định phải sinh ra từ nguyên nhân nào đó. Vấn đề chỉ là ở chỗ ý thức
của chúng ta có phản ánh được những cấp bậc đó hay không mà thôi. 2 lOMoAR cPSD| 48541417
Từ những lý do trên cùng sự kết hợp với bài giảng của cô em đã chọn đề tài “Về cặp phạm trù nguyên
nhân - kết quả trong triết học Mác - Lênin” làm tiểu luận của mình. Do thời gian có hạn và kién thức còn hạn
chế cho nên bài viết tiểu luận sẽ khoong tránh khỏi những thiếu sót. Vậy kính mong sự góp ý của cô cùng toàn thể bạn đọc.
2. Mục đích của đề tài.
Mục đích của đề tài là làm rõ hơn về cặp phạm trù nguyên nhân - kết quả trong triết học Mác - Lênin.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong niên luận này, các phương pháp được em sử dụng khi trình bày là:
• phương pháp lôgic và lịch sử.
• phương pháp tổng hợp.
• phương pháp phân tích.
• phương pháp trừu tượng hóa…
CHƯƠNG 1: CẶP PHẠM TRÙ NGUYÊN NHÂN VÀ KẾT QUẢ 1.
Khái niệm nguyên nhân và kết quả:
Nguyên nhân là phạm trù dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong cùng một sự vật hoặc
giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó.
Kết quả là một phạm trù dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các mặt trong
một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra.
Nội hàm của khái niệm nguyên nhân vừa trình bày đưa lại cho chúng ta nhận thức đầu tiên rất quan
trọng, đó là sự vật hiện tượng không bao giờ là chính bản thân nguyên nhân, chỉ có sự tác động của các sự
vật hiện tượng mới là nguyên nhân. Cho nên, nếu ta ở gần một thằng lưu manh thì bản thân thằng lưu manh
chưa là tai họa cho ta, chỉ khi nó có những hành động lưu manh xâm hại đến chính bản thân ta, bấy giờ hành
động xâm hại đó mới là nguyên nhân gây ra tai họa cho chúng ta.
Ví dụ bản thân cái nhân chứa ở trong hạt không phải là nguyên nhân của cái mầm, mà những quá trình
sinh học và hóa học (quá trình sinh học, hóa học này mới chính là nguyên nhân làm nảy sinh nên mầm chứ
không phải bản thân cái nhân). Do đó trong trường hợp này có thể liên hệ sang lĩnh vực khác, một cặp phạm
trù khác đó là khả năng và hiện thực. Trong trường hợp này, cái nhân ở trong hạt mới chỉ là khả năng mà
thôi, chỉ bao giờ nó hóa thành hiện thực là những quá trình sinh hóa ở trong cái hạt, bấy giờ nó mới là sự tác
động và nó mới làm nảy sinh mầm.
Tóm lại, cái mầm là kết quả sinh ra từ những quá trình sinh học, hóa học ở trong cái nhân chứ không
phải bản thân cái nhân là nguyên nhân của nó.
Vấn đề thứ hai là trong thế giới luôn luôn có sự tác động qua lại của các sự vật hiện tượng với nhau.
Suy cho cùng, mỗi một sự tác động đều đưa lại những hệ quả nào đó, một kết quả nào đó, nhưng như vậy
mọi tác động của bản thân nó đều chưa được xem xét như là những nguyên nhân. Nguyên nhân chỉ là nguyên
nhân trong mối quan hệ với kết quả. Nếu không có kết quả thì cũng không gọi sự tác động đó là nguyên nhân.
Hay nói cách khác, nếu không quy kết quả như là hậu quả của một quá trình tác động thì tác động đó cũng
không được gọi là nguyên nhân.
Còn bây giờ chúng ta nói đến vấn đề kết quả. Kết quả vốn là sự xuất hiện của một sự vật hiện tượng
nào đó. Như vậy, sự xuất hiện đó chỉ được xem là kết quả nếu xem xét nó sinh ra từ những nhân tố nào. 3 lOMoAR cPSD| 48541417
Các nguyên nhân là sự tác động thì kết quả có thể là sự vật hiện tượng.
Tính chất của mối liên hệ nhân - quả.
Phép biện chứng duy vật khẳng định mối liên hệ nhân quả có tính khách quan, tính phổ biến và tính tất yếu.
Tính khách quan của mối liên hệ nhân - quả thể hiện ở chỗ, mối liên hệ nhân - quả là cái vốn có của
bản thân sự vật, nó không phụ thuộc vào ý thức của con người. Chúng ta biết rằng, mọi sự vật trong thế giới
là luôn luôn vận động, tác động lẫn nhau, và sự tác động đó tất yếu sẽ dẫn đến một sự biến đổi nhất định. Do
đó có thể nói mối liên hệ nhân - quả luôn mang tính khách quan.
Còn tính phổ biến của mối quan hệ này thì điều đầu tiên chúng ta có thể thấy là mối liên hệ phổ biến
có tính phổ biến như thế nào thì mối liên hệ nhân quả cũng có tính phổ biến như thế. Chúng ta có thể nhận
thấy mối liên hệ nhân quả tồn tại ở khắp mọi nơi, trong cả tự nhiên, xã hội và trong cả tư duy của con người.
Không có một hiện tượng nào không có nguyên nhân, nhưng vấn đề là ở chỗ nguyên nhân đó đã được nhận thức hay chưa mà thôi.
Ví dụ mối liên hệ nhân - quả được thể hiện trong trường hợp khi trời mưa, độ ẩm cao, làm cho con
chuồn chuồn không bay được lên cao. Ngược lại, nếu trời nắng, độ ẩm thấp đã tạo điều kiện cho chuồn chuồn
bay cao hơn. Hay như trong xã hội, nếu như luật pháp càng lỏng lẻo thì an ninh trật tự của xã hội đó sẽ bất ổn.
Tính tất yếu thể hiện ở một điểm là cùng một nguyên nhân như nhau, trong những điều kiện giống nhau
sẽ nhất định nảy sinh những kết quả như nhau.
Ví dụ là tất cả những cuộc chiến tranh phi nghĩa xâm lược ở trong lịch sử nhân loại dù sớm hay dù
muộn đều có kết thúc giống nhau. Kẻ đi xâm lược nhất định sẽ bị thất bại. Nói riêng về quan hệ nhân quả ở
trong trường hợp này thì chúng ta sẽ thấy được sự thất bại của chiến tranh xâm lược với tư cách là một kết
quả bắt nguồn từ những tác động của những điều kiện kinh tế - xã hội, do tính phi nghĩa của cuộc chiến tranh
đó đem lại. Cuộc chiến tranh phi nghĩa đó và sự tác động của tính chất đó làm cho nhân dân ở trong bản thân
các nước đi xâm lược đều là chán ghét cuộc chiến tranh, đứng lên phản đối cuộc chiến tranh dẫn đến quân
lính ở trong một đội quân xâm lược cũng như vậy, sớm muộn họ cũng nhận ra tính chất phi nghĩa của cuộc
chiến, và tinh thần của họ sẽ bị giảm sút. Đó là một trong những lý do làm cho quân xâm lược bị thất bại.
Ở trên chúng ta đã nói rằng, với cùng một nguyên nhân và với cùng những điều kiện giống nhau, những
kết quả sinh ra sẽ giống nhau. Điều này cũng là một nguyên tắc để chúng ta rút ra một kết luận khác đó là,
thực ra ở trong thế giới vật chất không bao giờ có những tác động hoàn toàn giống nhau, cũng không bao giờ
có những điều kiện hoàn toàn giống nhau. Cho nên, thực tế là mỗi một sự vật hiện tượng với tư cách là kết
quả đều được sinh ra từ những nguyên nhân khác biệt, ngay cả khi nguyên nhân đó có thể giống nhau về mặt
chủng loại. Mặt khác, những điều kiện cũng không bao giờ có thể được lặp lại hoàn toàn, do đó kết quả bao
giờ cũng rất độc đáo. Nguyên nhân tác động trong những điều kiện, hoàn cảnh ít khác nhau bao nhiêu thì kết
quả do chúng gây ra giống nhau bấy nhiêu. Tuy nhiên, sự ít khác nhau lại cực kỳ hiếm, do đó bao giờ cũng
như vậy, mỗi một kết quả là một thực tại độc đáo, không lặp đi lặp lại trong bất kỳ một thời gian, không gian
nào. Ví dụ, trong chiến tranh, bộ đội ta có một kết luận rất thực tế là, rất ít khi hai quả bom rơi vào cùng một
chỗ. Vì vậy, các chiến sĩ ta hay tránh bom địch ở chính những hố bom mà quả bom trước đã đào lên.
CHƯƠNG 2: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA
NGUYÊN NHÂN VÀ KẾT QUẢ
Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả có thể được khái quát thành năm vấn đề sau đây. 4 lOMoAR cPSD| 48541417
1. Nguyên nhân sinh ra kết quả nên nguyên nhân luôn luôn có trước kết quả, còn kết quả bao
giờ cũng xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện.
Ở đây vấn đề là tự bản thân nó đã rõ ràng, không cần phải luận chứng gì thêm, chỉ cần phải phân biệt
không phải một sự vật nào đó có trước sự vật thứ hai, thì tác động của nó đã được coi là nguyên nhân của
hiện tượng thứ hai. Ví dụ, ngày là sự nối tiếp của đêm nhưng không phải là nguyên nhân của đêm. Ở đây sự
phân biệt không phải là thời gian mà là mối liên hệ hiện thực giữa nguyên nhân và kết quả. Hai hiện tượng,
hiện tượng trước không phải là nguyên nhân của hiện tượng sau chỉ là ở chỗ sự tác động của nó không có
liên quan gì đến sự xuất hiện của hiện tượng sau. Còn trong quan hệ nhân quả, thì bao giờ sự tác động của
nguyên nhân là cái sinh ra kết quả. Sự kế tục giữa các mùa ở trong năm cũng như vậy. Đó là hậu quả của
những vị trí khác nhau của trái đất so với mặt trời trong vòng quay của trái đất xung quanh mặt trời, chứ
không phải mùa xuân sinh ra mùa hè, mùa hè sinh ra mùa thu…
Vấn đề thứ hai cần chú ý là sự kế tiếp nhau của nguyên nhân và kết quả trong mối quan hệ nhân quả
không có nghĩa là nguyên nhân sinh ra xong rồi thì kết quả mới nảy sinh. Trái lại, nguyên nhân vừa tác động
thì sự hình thành của kết quả đã có thể được coi như là bắt đầu, cho đến khi kết quả hình thành như một sự
vật, hiện tượng nó vẫn còn nhận tác động của nguyên nhân, và như vậy nó vẫn còn đang tiếp tục biến đổi do
tác động của nguyên nhân.
Tóm lại, người ta không thể nhìn quan hệ nhân quả như là sự đứt đoạn mà là trong sự vận động biến
đổi liên tục của thế giới vật chất, của sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng.
Việc nguyên nhân sinh ra kết quả còn có một yếu tố nữa, đó là điều kiện. Không phải cứ có sự tác động
là có ngay kết quả, phải ở trong những điều kiện nhất định thì có thể mới có kết quả.
Ví dụ, trở lại các quá trình sinh - hóa ở trong hạt cây nảy mầm chúng ta thấy rằng, nếu một hạt tốt có
đầy đủ khả năng để sinh ra một cái mầm tốt, nhưng nếu có được độ ẩm, ánh sáng, nhiệt độ đầy đủ thì cũng
không bao giờ có cái mầm xuất hiện. Điều kiện có vai trò rất quan trọng, làm cho nguyên nhân nào sinh ra
kết quả nào. Có thể cùng một nguyên nhân, cùng một khả năng tác động như nhau, nhưng ở trong những
điều kiện khác nhau thì nó đưa lại những hậu quả khác nhau.
Ví dụ, hai cái nhân tốt như nhau, nhưng với những điều kiện như nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng khác nhau
thì hai cái mầm mọc ra cũng có chất lượng khác nhau.
Vấn đề còn trở nên phức tạp hơn khi có nhiều nguyên nhân cùng tác động một lúc, khi đó thì kết quả
ra sao còn tùy thuộc ở việc mối quan hệ giữa các nguyên nhân với nhau là như thế nào.
Ví dụ, sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa của chúng ta sẽ hoàn thành trong tương lai, chắc chắn
phải chịu sự tác động của các nguyên nhân như quá trình phát triển kinh tế bên trong, đồng thời là nguyên
nhân của thị trường thế giới nói chung, tức là nhịp độ phát triển của kinh tế thế giới, những điều kiện thuận
lợi mà kinh tế thế giới đem lại cho chúng ta, những thách thức mà chúng ta phải vượt qua để xây dựng nền
kinh tế tự chủ trong hòa nhập. Vì vậy, xem xét kết quả này chúng ta vừa phải xem xét trước hết là sự tác
động qua lại giữa hai nguyên nhân là sự phát triển, vận động của nền kinh tế ở trong nước và diễn biến của
nền kinh tế toàn cầu, mỗi bên có những vai trò riêng biệt. Và đương nhiên chúng ta khẳng định rằng, nguyên
nhân ở bên trong, những tác động nội tại của nền kinh tế nước ta, tinh thần độc lập tự chủ và những kết quả
do bản thân nỗ lực của nền kinh tế Việt Nam đem lại mới là những nguyên nhân chủ yếu, đóng góp vào sự
phát triển của đất nước, sự hoàn thành quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa của đất nước ta. Xét nền kinh
tế trong nước, chúng ta lại còn có thể tiếp tục phân chia nguyên nhân đó thành những nguyên nhân như là:
sự tác động, vai trò của mỗi thành phần kinh tế trong thời kỳ đổi mới và trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện
đại hóa. Hiện nay, năm thành phần kinh tế cơ bản của chúng ta là kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế
tư bản tư nhân, trong đó gồm cả tư bản nước ngoài, kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ và kinh tế tự cung tự cấp
ở những vùng còn chưa phát triển được kinh tế hàng hóa, tất cả những thành phần kinh tế này đều có những
vai trò nhất định trong sự phát triển của kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên chúng ta thấy rằng, nền kinh tế quốc 5 lOMoAR cPSD| 48541417
doanh bao giờ cũng nắm vai trò chủ yếu do chỗ chúng ta định hướng phát triển kinh tế và định hướng xã hội
chủ nghĩa, những ngành kinh tế chủ chốt có vai trò cơ bản tác động đến nền kinh tế quốc dân đều thuộc khu
vực quốc doanh, do đó hiển nhiên thành phần kinh tế này luôn đóng vai trò chủ đạo, phát huy những tác dụng
của nó làm cho kinh tế Việt Nam ngày càng trở nên hiện đại.
2. Nguyên nhân sinh ra kết quả, nhưng kết quả không hoàn toàn thụ động, nó vẫn có khả năng
tác động trở lại nguyên nhân.
Cần chú ý là tác động này là hai nghĩa, cả tác động tích cực hoặc tác động tiêu cực.
Ví dụ, trình độ dân trí thấp là do nền kinh tế kém phát triển gây ra, nếu không đủ đầu tư cho việc nâng
cao dân trí của nhân dân, đầu tư giáo dục không đầy đủ. Đến lượt mình, dân trí thấp với tư cách là kết quả
lại tác động trở lại với quá trình phát triển kinh tế và xã hội của đất nước, làm cho kinh tế kém phát triển và
dân trí sẽ lại tiếp tục thấp xuống. Ngược lại, trình độ dân trí cao vốn là kết quả của sự phát triển xã hội cả về
chính trị, kinh tế, văn hóa… làm cho nền giáo dục quốc dân cũng phát triển đầy đủ, khi đó nó sẽ đem lại một
kết quả là tầng lớp trí thức và một đội ngũ lao động với trình độ cao, tay nghề vững và điều đó chắc chắn
làm cho kinh tế quốc dân càng phát triển tốt hơn.
Vấn đề tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân có một ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng. Nó
làm cho người ta phải dự kiến rất đầy đủ những hậu quả của một chính sách xã hội chẳng hạn, đặc biệt trong
vấn đề đầu tư, một trong những yếu tố tạo ra nguyên nhân phát triển nền kinh tế đất nước. Việc đầu tư rất có
thể mang lại những hậu quả lớn, làm cho kinh tế phát triển rất cao nếu đúng đắn.
Ví dụ, người ta đầu tư vào những ngành mũi nhọn có tác dụng làm thay đổi căn bản nền kinh tế, vì chỉ
một thời gian ngắn sau, nền kinh tế quốc dân đã có một động lực lớn như là công nghệ thông tin, bưu chính
viễn thông, công nghệ tin học… Những kết quả do sự đầu tư đúng đắn đó làm cho các ngành kinh tế như
công nghiệp, thủy sản, nông nghiệp… có những sự phát triển vượt bậc, khi đó nó lại tạo điều kiện cho việc
tái đầu tư ngày càng tốt hơn với lực lượng tài chính, lực lượng vật chất ngày càng to lớn hơn. Rồi khi đó,
trong một chu kỳ khác, sự đầu tư đúng đắn lại làm cho các ngành khoa học mới ra đời, cứ như thế một chu
trình đầu tư mang lại một kết quả và bản thân kết quả đó làm cho quá trình đầu tư ngày càng có ý nghĩa kinh
tế xã hội sâu sắc hơn. Trong những năm vừa qua, chúng ta đã có những hiện tượng đầu tư bất hợp lý. Sự đầu
tư bất hợp lý như vào một nhà máy mía ở vùng không có nguyên liệu, những nhà máy xi măng lò đứng với
hàng chục triệu đôla đã gây ra những hậu quả tai hại. Những hậu quả này lại làm cho bản thân những ngành
đó không phát triển hoặc phát triển rất chậm, thậm chí có những bước thụt lùi. Ngày nay toàn bộ chiến lược
xi măng đang phải tính toán lại cơ cấu đầu tư. Nhà máy mía cũng phải lựa chọn những vùng có nguyên liệu
lâu bền, vừa làm thay đổi bộ mặt của một vùng nông thôn, vừa đem lại những bước tiến vững chắc cho ngành mía đường toàn quốc. 3.
Nguyên nhân - kết quả có thể hoán đổi vị trí cho nhau.
Nguyên nhân và kết quả có thể hoán đổi vị trí cho nhau theo hai ý nghĩa dưới đây:
Thứ nhất, nguyên nhân sinh ra kết quả, nhưng bản thân nguyên nhân khi sinh ra kết quả lại đã là kết
quả ở một mối quan hệ nhân - quả trước đó. Ngược lại, kết quả với tư cách là kết quả được sinh ra từ một
nguyên nhân nhưng bản thân nó không dừng lại. Nó lại tiếp tục tác động, và sự tác động của nó lại gây ra
những kết quả khác. Nói một cách khác, có thể tóm lại trong chuỗi nhân – quả: A sinh ra B, B sinh ra C, C
sinh ra D… thì mỗi cái đều là nguyên nhân ở trong một mối quan hệ này, nhưng đồng thời lại là kết quả ở một mối quan hệ khác.
Ví dụ, sự phân phối thu nhập không công bằng dẫn tới mâu thuẫn trong xã hội. Những mâu thuẫn xã
hội làm nảy sinh những tệ nạn xã hội. Những tệ nạn xã hội lại làm cho nền kinh tế xã hội phát triển chậm lại.
Thứ hai, đó chính là ý nghĩa đã được xét ở khía cạnh trên, tức là nguyên nhân sinh ra kết quả, nhưng
kết quả lại có khả năng tác động trở lại đối với nguyên nhân. Trong mối quan hệ này, khi kết quả tác động 6 lOMoAR cPSD| 48541417
trở lại với nguyên nhân thì kết quả lại có tư cách là nguyên nhân chứ không phải là kết quả nữa. Do đó có
thể nói có sự hoán đổi vị trí giữa nguyên nhân và kết quả ngay trong cùng một mối quan hệ nhân – quả.
Chúng ta có thể lấy lại những ví dụ về dân trí và giáo dục đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân vừa được dẫn ra ở trên.
Vì vậy, Ph. Ăng – ghen nói rằng, nguyên nhân và kết quả là những khái niệm chỉ có ý nghĩa là nguyên
nhân và kết quả khi được áp dụng vào một trường hợp riêng biệt nhất định. Hay nói cách khác, một hiện
tượng nào đấy được coi là nguyên nhân hay kết quả bao giờ cũng ở trong một quan hệ xác định cụ thể.
4. Một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả, và ngược lại, một kết quả có thể được ra đời
từ rất nhiều nguyên nhân.
Ví dụ trường hợp chặt phá rừng bừa bãi ở trên đầu nguồn có thể sinh ra nhiều kết quả. Sự thay đổi sinh
thái ở bản thân vùng đó làm cho quỹ gien động vật và thực vật bị biến đổi, sự cân bằng sinh thái bị phá vỡ
gây ra sự thay đổi khí hậu ở chính bản thân vùng rừng đầu nguồn. Thứ hai, nó là nguyên nhân gây ra những
trận lụt, thậm chí là những trận lũ quét gây ra rất nhiều thiệt hại cho đời sống kinh tế – xã hội không chỉ ở
vùng cao mà còn ở vùng đồng bằng. Thứ ba, nó gây ra những hậu quả làm xáo trộn đời sống xã hội của cư
dân, làm ảnh hưởng đến tình hình xã hội chung của toàn quốc. Thứ tư, nó làm cho ngân sách quốc gia bị ảnh
hưởng do phải chi trả cho những thiệt hại mà thiên nhiên và xã hội đã đưa đến. Như thế là một nguyên nhân
có thể sinh ra nhiều kết quả.
Một kết quả cũng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra.
Ví dụ, thành công của công cuộc đổi mới ở trên đất nước ta bắt nguồn từ rất nhiều nguyên nhân. Thứ
nhất là sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình của Đảng. Khi thực tiễn đã nảy sinh những hiện tượng mới, khi cảm
thấy nền kinh tế quốc dân đang bị trì trệ, không còn lối thoát, chúng ta đã nghiên cứu lý luận, đúc kết thực
tiễn và đề ra chính sách đổi mới. Chính sách này còn được bắt nguồn từ những thúc ép của đời sống xã hội,
nền kinh tế với cơ chế hành chính quan liêu bao cấp đã làm cho sức sản xuất của xã hội Việt Nam bị cản trở
rất lớn, thậm chí có những khi đẩy đất nước đến bờ vực thẳm, như tình trạng năm 1985. Đồng thời, ngày đó
chúng ta cũng thực hiện một công việc ở tầm vĩ mô rất sai lầm, đó là liên tiếp thực hiện những cuộc đổi tiền.
Điều này đã làm cho nền tài chính quốc gia bị đảo lộn, càng ngày càng mất cân bằng thu chi, làm cho đồng
tiền Việt Nam ngày càng mất giá và sức sống của toàn bộ nền kinh tế bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tất cả
những cái đó đã dồn ép chúng ta và bắt buộc chúng ta phải thay đổi một cách cơ bản đường lối kinh tế của đất nước.
Và kết quả là sự ra đời của đường lối đổi mới. Thành công của công cuộc đổi mới còn bắt nguồn trực
tiếp từ sự chỉ đạo tầm vĩ mô của Đảng và Chính phủ rất đúng đắn và kịp thời. Đặc biệt là còn bắt nguồn từ
những hoạt động kinh tế của một cộng đồng cư dân sáu, bảy chục triệu người, quyết tâm ra khỏi tình trạng
khủng hoảng, quyết tâm thoát nghèo, thoát đói, thoát nghèo nàn, lạc hậu.
5. Kết quả không bao giờ được to hơn nguyên nhân.
Đây là một vấn đề rất quan trọng. Vấn đề này đã được He – ghen đề cập đến trong cuốn lôgic của ông,
đó là một phát hiẹn rất tài tình. Kết quả không bao giờ to hơn nguyên nhân, chỉ cần dựa và định luật bảo toàn
và chuyển hoá năng lượng vủa Lô – mô – xốp cũng có thể đi đến kết luận này. Một kết quả được xem xét
như là cái được sinh ra từ sự tác động của bản thân nó không thể nào lại lớn hơn tác động được. Do đó, nếu
chúng ta đun nước ở ngoài trời nắng thì nước sẽ sôi nhanh hơn, nhanh nóng hơn bởi vì nó được tiếp thu từ ánh sáng mặt trời
Ví dụ, cùn một đooj củi khoảng 3000 calo là đã có thể nâng được nhiệt độ nhiệt độ nước: 3kg nước lên
một độ. Nhưng nếu để nó ở ngoài trời nắng thì người ta thấy rằng chỉ cần 2800 calo chẳng hạn. Vì vậy, khi
thấy kết quả to hợn nguyên nhân thì lập tức chúng ta phải đi tìm những nguyên nhân khác bổ sung để làm
nên kết quả mà chúng có được. 7 lOMoAR cPSD| 48541417
Điều này có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng. Bời vì trong thực tế, khi chũng ta nhìn thấy về mặt hình
thức, nhận được kết quả to hơn sự tác động, thì chúng tabiết rằng phải đi tìm những nguyên nhân khác để bổ
sung cho kết quả đó, qua quá trình đó chúng ta phát hiện thêm được những mối liên hệ mới. Và nhưngc lần
hoạt động tiếp theo, chúng ta có thể sử dụng những nguyên nhân mới mà chúng ta phát hiện được trong quá
trình hoạt động của chúng ta.
6. Vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả vào cuộc sống thực tiễn.
Đối với những mối liên hệ nhân – quả ở trong tự nhiên, con người càng nghiên cứu được càng nhiều
càng tốt. Nhờ biết được những hậu quả do các tác động lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng trong tự nhiên,
con người ta có thể lợi dụng được những nguồn năng lượng lớn để phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu của con người.
Ví dụ biết được về hiện tượng của thủy triều là do sức hút của mặt trăng tạo nên làm cho nước biển bị
cuốn theo gây nên những đợtt thủy triều tràn vào đất liền, người ta có thể lợi dụng nó để tạo ra nguồn điện.
Đồng thời người ta sử dụng mối quan hệ nhân – quả của các hiện tượng tự nhiên để thấy được những
tác hại mà các hiện tượng đó gây ra. Mối liên hệ nhân – quả ở trong lĩnh vực xã hội, tức là lĩnh vực hoạt động
của con người phức tạp hơn rất nhiều.
Mối quan hệ nhân – quả này có đặc điểm trước hết là nó chỉ xuất hiện khi có hoạt động của con người.
Đặc điểm này có thể đúng, không đúng ở trong những lĩnh vực khác nhau. Có những hoạt động được coi là
hoạt động có ý thức của cá nhân, nhưng lại là hoạt động vô ý thức đối với cộng đồng. Chủ thể hoạt động bao
giờ cũng xuất phát từ lợi ích của chính bản thân mình, nhưng tác động của nó tới đời sống xã hội còn tùy
thuộc vào những mối liên hệ và những hậu quả xã hội mà nó gây ra.
Ví dụ, lợi nhuận buôn ma túy là rất cao, cho nên bọn buôn bán ma túy không từ bỏ một hành vi nào
thúc giục việc buôn bán ma túy để kiếm lợi. Xét từ phía cộng đồng, đó là hành động rất có hại, hành động có
thể nói là một hành động tự sát. Tuy nhiên, những tác động đó người ta không thể ngăn chặn một sớm một
chiều, nếu không nghiên cứu những quan hệ lợi ích tác động vào quan hệ nhân – quả.
Do đó nghiên cứu mối quan hệ nhân-quả ở trong đời sống xã hội cũng chính là nghiên cứu mối quan
hệ tác động về mặt lợi ích. Những lợi ích nào được sinh ra từ những tác động nào, nó đưa lại những hậu quả
nào, đó chính là mục tiêu đề nghiên cứu mối quan hệ nhân – quả trong đời sống cộng đồng.
Tóm lại, mối quan hệ nhân – quả được thể hiện ở rất nhiều lĩnh vực. Nhưng dù ở lĩnh vực nào thì con
người cũng phải luôn luôn tìm hiểu, nghiên cứu để khắc phục, tránh những hậu quả xấu do các tác động gây
ra. Ngược lại, chúng ta cũng có thể lợi dụng mối quan hệ nhân – quả này để phục vụ cho cuộc sống của mình. KẾT LUẬN
Tất cả các mối quan hệ mà phép biện chứng nêu lên đều là sự khái quát những đặc trưng của những
mối liên hệ cụ thể, ở trong những lĩnh vực cụ thể của thế giới vật chất. Quan hệ về nhân - quả cũng như vậy,
chúng ta có thể coi như quan hệ nhân - quả là kết quả của việc khái quát những hiện tượng từ một sự tác
động này suy ra một kết quả khác ở trong rất nhiềmlĩnh vực: trong tự nhiên, trong xã hội, cả trong vật lý, hóa
học, cả trong đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa... Quan hệ nhân - quả là một trong những quan
hệ có tính phổ biến nhất ở trong thế giới hiện thực. Đặc biệt, nó có vai trò rất quan trọng đối với quá trình
hình thành nhận thức của chúng ta. Quá trình nhân - quả được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ làm cho tư duy của 8 lOMoAR cPSD| 48541417
con người phản ánh được những mối quan he nhân - quả, đồng thời khi nghiên cứu ở khía cạnh khác dẫn tới
những kết luận về mặt phương pháp luận rất phong phú.
Vì vậy, trong những câu ngạn ngữ chúng ta cũng bắt gặp được sự tổng kết của cha ông ta về quan hệ
nhân - quả là rất nhiều Ví dụ:
“ Mưa dầm thấm lâu, cày sâu tốt lúa” “ Ấc giả ác báo” “ Gieo gió gặt bão”..
Tóm lại mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả là những cơ sở lsy luận rất quan trọng
giúp cho chúng ta rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình đào tạo thực tiễn. Những haotj động thực
tiễn là cơ sở để cho chũng ta nhận thức được về đặc trưng của mối quan hệ nhân – quả và những đặc trưng
này với tư cách là thành quả của nhận thức lại sẽ tiếp tục chỉ đạo cho người trong hoạt động thực tiễn đeer
có thể gặt hái được những thành công to lớn hơn. 9