Chủ nghĩa khắc kỷ là gì? Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa khắc kỷ?
Chủ nghĩa khắc kỷ cho rằng vì con người là một sinh vật thuộc về xã hội, nên con đường đi tới
eudaimonia (hạnh phúc) của chúng ta sẽ được m ra thông qua việc chấp nhận việc mọi thứ đang
diễn ra, không cho phép bản thân bị kiểm soát bởi những khao khát được thỏa mãn
Mục lục bài viết
1. Chủ nghĩa khắc kỷ là gì?
Triết học Hy Lạp cổ đại kéo dài từ thế kỷ thứ bảy trước Công nguyên cho đến đầu của Đế chế La Mã,
vào thế kỷ đầu ên sau Công nguyên Trong thời kỳ y, năm truyền thống triết học lớn đã bắt nguồn:
Platon, Aristoteles, Stoic, Epicurean, và Skepc .
Chủ nghĩa khắc kỷ (hay chủ nghĩa stoic/stoa, ếng Hy Lạp: Στωικισμός, ếng Lanh: Stoicismus) là một
trường phái triết học Hy Lạp cổ đại do Zeno thành Cium sáng lập ra tại Athens vào đầu thế kỷ th3
Trước Công Nguyên. Chủ nghĩa khắc kỷ là một nhánh triết học về đạo đức con nời, thứ được tạo ra
bằng logic và cách mà con người nhìn nhận bản chất thế gii.
Chủ nghĩa khắc kỷ cho rằng vì con người là một sinh vật thuộc về xã hội, nên con đường đi
tới eudaimonia (hạnh phúc) của chúng ta sẽ được m ra thông qua việc chấp nhận việc mọi thứ đang
diễn ra, không cho phép bản thân bị kiểm soát bởi những khao khát được thỏa mãn hoặc sợ hãi trước
những đớn đau, thông qua việc sử dụng trí óc của mình để hiểu thế giới này và làm những phần việc
mình cần làm để đóng góp cho kế hoch mà tự nhiên đã vạch ra sẵn, và thông qua việc cùng làm việc,
đối xử với những người khác một cách công bằng, bất thiên vị.
Những con người Stoic được biết đến nhiều nhất qua những lời răn dạy rằng "đức hạnh là điều tt
đẹp duy nhất" đối với con người, và rằng những thứ xung quanh ta, ví dụ như sức khỏe, ền bạc
niềm vui, về bản chất không xấu cũng chẳng tốt (adiaphora), nhưng chúng có giá trị là "điều quan
trọng để đc hạnh hành động". Bên cạnh đạo đức Aristoteles, những nguyên tắc của khắc kỷ cũng đã
tạo nên trong những cách ếp cận nền tảng có giá trị lớn lao tạo nên luân lý luận đức hạnh của
phương Tây. Con người khắc kỷ còn cho rằng những cảm xúc nhất định của chúng ta bị tổn thương là
do sai lầm trong việc phán xét các vấn đề, và họ n rằng con người nên hướng tới việc duy trì ý chí
(gọi là prohairesis) sao cho "hòa hợp với tự nhiên". Chính lý do này, những người theo chủ nghĩa khắc
kỷ n rằng dấu hiệu rõ ràng nhất về triết lý của mỗi cá nhân sẽ được bộc lộ, không phải thông qua lời
họ nói, mà thông qua cách họ cư xử. Để có một cuộc sống tốt đẹp, con người phải hiểu được những
quy tắc của trật tự tự nhiên bởi lẽ chủ nghĩa khắc kỷ n rằng tự nhiên chính là gốc rễ của mọi điều.
Nhiều con người khắc kỷ, như Seneca Epictetus, nhấn mạnh rằng, bởi "có đức hạnh là đã đủ hạnh
phúc", nên một nhà hiền triết sẽ trở nên vô cùng kiên cường về mặt cảm xúc trước nhng bất hạnh.
Niềm n này có ý nghĩa tương tự với cụm từ "bình nh khắc kỷ", dù vậy thì cụm từ này không bao
hàm quan điểm đạo đức cơ bản của khắc kỷ cho rằng chỉ có một nhà hiền triết mới thc sự được tự
do, và tất cả các suy đồi đạo đức đều xấu xa như nhau.
Từ khi hình thành, các học thuyết khắc kỷ đã dần trở nên rất phổ biến trong xã hội Hy Lạp La
cho đến thế kỷ thứ 3 Công Nguyên, một trong số những người nổi ếng nhất theo trường phái
này vào lúc đó là hoàng đế Marcus Aurelius. Chủ nghĩa khắc kỷ với vị thế là trường phái triết học riêng
biệt dần suy giảm sau khi Kitô giáo trở thành quốc giáo vào thế kỷ 4 CN.
Mặt khác, một số ý niệm của chủ nghĩa khắc kỷ lại được ch hợp vào Kitô giáo từ thuở sơ khởi. Sau
này triết học khắc kỷ cũng có một số giai đoạn phát triển trở lại, đáng chú ý nhất là trong thời kỳ Phc
hưng (chủ nghĩa tân khắc kỷ) và trong thời đại ngày nay (chủ nghĩa khắc kỷ hiện đại).
2. Nguồn gốc tên gọi
Tên ếng Anh của chủ nghĩa khắc kỷ là Stoicism, có nguồn gốc ban đầu là ‘Zenonism’, tức là được đặt
theo tên của người sáng lập, Zeno thành Cium. Tuy nhiên, cái tên này dần dần bị quên lãng, nhiều
khả năng là do những môn đồ Stoic sau này không cho rằng Zeno là một người đủ thông tuệ để đưc
đặt tên cho cả một trường phái, và cũng nhằm hạn chế khả năng chủ nghĩa triết học này đi chệch
ớng, trở thành một sự sùng bái nh cách.
Cái tên 'Stoicism' xuất phát từ Stoa Poikile (ếng Hy Lạp c: ἡ ποικίλη στοά), hay ‘Dãy Cột Sơn’, một
dãy cột lớn được trang hoàng bằng những hình vẽ tái hiện khung cảnh thần thoại và lịch s, nm
phía bắc Agora, Athens, nơi Zeno và các môn đồ của ông tụ họp để bàn luận về những ý tưởng. Khi
Zeno mới bắt đầu giảng dạy, ông ta không thể chi trả cho một tòa nhà giống như Học viện của Plato
hay mảnh vườn Lyceum của Aristotle, vậy nên ông và những môn đệ đã tụ tập tại khu vực bóng râm
của Stoa Poikile giữa khu chợ, nơi bất cứ ai cũng có thể lắng nghe và tham gia tranh luận.
3. Những nguyên lý cơ bản
Những nhà triết học khắc kỷ đã đưa ra một cái nhìn thống nhất vthế giới, bao gồm logic hình
thc, vật lý học nhất nguyên và đạo đức tự nhiên. Trong số đó, họ nhấn mạnh rằng đạo đức là trọng
tâm chính trong kiến thức của con người, mặc dù vậy, các triết lý về logic của họ mới là thứ được các
nhà triết học sau này quan tâm nhiều hơn.
Chủ nghĩa khắc kỷ dạy cho chúng ta về sự phát triển của việc tự kiểm soát bản thân và sự cương nghị
như một phẩm chất để ợt qua những cảm xúc mang nh phá hủy; chủ nghĩa này n rằng việc rèn
luyện để suy nghĩ một cách rõ ràng, mạch lạc và bất thiên vị sẽ giúp cho con người hiểu ra bản chất
của vũ trụ (logos). Một khía cạnh chính của chủ nghĩa khắc kỷ cũng lưu tâm đến việc cải thiện những
điều tốt đẹp về đạo đức và luân lý của mỗi cá nhân: "Đức hạnh được bao hàm trong một ý chí hòa
hợp với Tnhiên."
Nguyên lý này cũng được áp dụng trong các mối quan hệ giữa các cá nhân; "để được tự do trước
những nỗi tức giận, sự đố kị và ghen tị," và phải chấp nhận rằng kể cả những người nô lệ cũng "bình
đẳng như những con người khác, bởi tất cả mọi người đều là sản phm của t nhiên".
Nguyên tắc đạo đức theo chủ nghĩa Stoic tán thành với một quan điểm của chủ nghĩa quyết đoán; khi
nói về những người thiếu đi đức hạnh Stoic, Cleanthes từng phản đối rằng kẻ độc ác "giống như một
con chó bị trói vào một chiếc xe đẩy, nó buộc phải đi theo chiếc xe đẩy đến bất cứ đâu". Người tuân
theo đức hạnh Stoic, ngược lại, sẽ nắn chỉnh lại ý chí của anh ta sao cho phù hợp với thế giới và sẽ,
theo lời của Epictetus, "ốm đau nhưng vẫn hạnh phúc, hiểm nguy nhưng vẫn hạnh phúc, chết đi
nhưng vẫn hạnh phúc, lưu đày nhưng vẫn hạnh phúc, sống ô nhục nhưng vẫn hạnh phúc," do đó họ
luôn hướng tới việc đạt được cảnh giới ý chí cá nhân "hoàn toàn tự chủ", và đồng thời được ở trong
một vũ trụ "tổng thể độc nhất có nh quyết đoán nghiêm ngặt". Quan điểm này sau này được miêu tả
với tên gọi "Chủ nghĩa phiếm thần cổ điển" (và được nhà triết học người Hà Lan Baruch Spinoza theo
đui).
4. Suy nghĩ chung về triết học
Những người theo chủ nghĩa khắc kỷ cho rằng triết học là một môn học tư duy để giúp con người tr
nên thông thái, làm chủ và biết cách ứng xử trước những khó khăn của cuộc đời. Vì vậy, triết học
không chỉ là một khoa học mà còn là một phong cách sống, một nghệ thuật sống của con người
trong cộng đồng xã hội. Và cũng theo những con người nói trên, đối tượng của triết học là phải bao
quát nhiều lĩnh vực, bởi vì sự thông thái do triết học mang lại không hạn đinh, bó hẹp ở trong
một giới hạn cụ thể nào đó. Quan niệm này vốn phổ biến trong một thời gian rất dài. Và cũng theo họ,
triết học gồm 3 lĩnh vực: vật lý học, đạo đức học logic học. Chúng liên hệ mật thiết với nhau. Zeno
xứ Cium đã có lời ví von như sau:Có thể so sánh triết học với một con vật: xương thần kinh
logic học, thịt là đạo đức học, tâm hồn là vật lý học; hay là v qu trng là logic học, lòng đỏ là đạo
đức học, còn cái nằm giữa là vật lý học”
4.1. Logic học
Những nhà triết học khắc kỷ cho rằng logic học là khoa học sử dụng ngôn từ. Nhờ ngôn từ chúng ta
trở thành người hùng biện, dẫn dắt, làm chủ được tưởng của mình trong mọi nh huống. Vì vậy,
logic học được xem là khoa học công cụ.
4.2. Vật lý học
Chủ nghĩa khắc kỷ nhìn nhận rằng vật lý học là học thuyết n về giới tự nhiên, về nguồn gốc của
các sự vật mà chúng ta hay gặp mỗi ngày. Karl Marx đã đánh giá rằng cơ sở cho tư tưởng vật lý học
của những người này là của Heracltus và họ dựa vào đó để phát triển.
Cũng giống như những người trước đó, chủ nghĩa khắc kỷ cũng dùng tư tưởng duy vật để giải thích
thế giới. Họ cho rằng thế giới được cấu thành từ các yếu tố đất, c, lửa, không khí. Họ cũng khẳng
định các vật cảm nh là có thực tồn và nền tảng của vũ trụ. Đối với họ, cái chung không phải là
cái vô hình không thể cảm nhận được mà cái chung tồn tại trong cái riêng. Thêm vào đó, chủ nghĩa
khắc kỷ cũng cho thấy suy nghĩ biện chứng khi cho rằng thế giới tồn tại trong sự vân động không
ngừng của các vật thể. Có thể nói các nhà triết học này là những nhà duy vật biện chứng đầu ên
trong lịch s tư tưởng thế giới. Marx đánh giá cao về điều này: “Nhà thông thái theo phái khắc kỷ lưu
ý tới cuộc sống tuyệt đối động, quan niệm đó được rút ra từ quan điểm về tự nhiên theo hướng
Heraclitus, có nh năng động và có nh sinh động”
Tuy nhiên, chủ nghĩa khắc kỷ lại không kiên trì theo tư tưởng này khi sau đó họ cho rằng mọi vật phát
triển theo các trình tự do Thượng đế sắp đặt. Chính vì thế, học thuyết này có chút gì đó là của mục
đích luận.
4.3. Đạo đức học
Chủ nghĩa khắc kỷ đã đưa ra ý kiến rằng tri thức là điều kiện cần của lý tưởng đạo đức, còn điều kiện
đủ là sự nh tâm và bình thản của tâm hồn. Việc sống khắc khổ hay không khắc khổ không ảnh hưởng
tới họ.
5. Nhận thức luận
5.1. Linh hồn con người
Chủ nghĩa khắc kỷ nghiên cu nhận thức luận theo lập trường duy cảm duy vật. Theo những nhà triết
học này, linh hồn được cấu tạo từ 8 bộ phận: năm giác quan thính giác, thị giác, khứu giác, vị
giác xúc giác, giọng nói, bộ phận tái tạo và bộ phận điều khiển. Linh hồn của con người như tờ
giy trng để in dấu sự tác động của thế giới bên ngoài. Biểu tượng của sự vật là do chính nó tạo nên.
5.2. Nhận thức cảm nh nhận thức lý nh
Chủ nghĩa khắc kỷ đã m thấy mối liên hệ giữa hai đối tượng này. Zeno xứ Cium đã viết rằng: “Chúng
ta có khả năng lĩnh hội về nhận thức thế gii bên ngoài bẳng cả cảm nh lẫn lý nh”
5.3. Suy nghĩ về khái niệm
Chủ nghĩa khắc kỷ có suy nghĩ rất hay về khái niệm. Zeno xứ Cium cho rằng "các khái niệm không
phải là kết quả thỏa thuận giữa mọi người về việc đặt tên cho sự vật mà ngược lại bản thân các khái
niệm được quy định bởi các vật và bản chất của các vật."
Nguồn tham khảo: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
6. Một số câu hỏi thường gặp về chủ nghĩa khắc kỷ
6.1 Chủ nghĩa khắc kỷ theo Seneca?
Một người đàn ông cao quý có sự giáo dục và giàu có, một triết gia, người từng là cố vấn thân cận của
hoàng đế Claudius. Claudius đày Seneca trong tám năm vì tội ngoại nh. Trong thời gian lưu vong, ông
viết thư cho gia đình để an ủi họ, không thương hại bản thân hay hoàn cảnh. Ông được thả ra, từ k
lưu vong đến làm gia sư cho Nero, con trai của vua Claudius, người sau này sẽ lên nắm quyền. Senera
ở lại với vai trò một nhà cố vấn trung thành cho đến khi Nero ra lệnh phải tự tử. Ngay cả sau đấy ông
cũng không thương hại chính mình, chỉ là có những người sẽ than khóc về cái chết của ông.
“Chúng ta thường sợ hãi nhiều hơn là tổn thương, và chúng ta chịu đựng nhiều hơn từ trí tưởng
ợng hơn là thc tế.” – Seneca
6.2 Chủ nghĩa khắc kỷ theo Marcus Aurelius?
Hoàng đế của Đế chế La Mã, người đàn ông quyền lực nhất thời k đó được các vị thần phong chức và
với sự thông thái ngoài tầm hiểu biết đã giảng những lời khiêm nhường, từ bi và kiềm chế. Mỗi ngày
ông đều viết nhật ký của mình, ghi chú về ý nghĩa thc sự của việc trthành một Stoic. Mặc dù đó
không phải là ý định của ông lúc đó. Ông chỉ đơn thuần là cố gắng cải thiện bản thân.
“Hãy lướt theo danh sách những người cảm thấy tức giận dữ dội về một điều gì đó: nổi ếng nhất,
bất hạnh nhất, đáng ghét nhất, bất cứ điều gì nhất. y giờ tất cả đang ở đâu? Khói, cái bụi, huyền
thoại, hoặc thậm chí không phải là một huyền thoại. Hãy nghĩ về tất cả các ví dụ. Và chúng ta say mê
những thứ tầm thường đến mức nào.” – Marcus Aurelius.
6.3 Chủ nghĩa khắc kỷ theo Epictetus?
Ông sinh ra là một nô lệ và được tự do khi là thiếu niên. Sau nhiều năm chịu đựng sự khủng khiếp của
chế độ nô lệ, ông đã học được cách truyền cảm xúc và vượt qua hoàn cảnh của mình bằng cách duy trì
sự kiểm soát tâm lý. Ông học Chủ nghĩa khắc kỷ như một sự phụ thuộc ếp tục mở rộng trường học
của mình để truyền lại giáo lý của bản thân sau khi được giải thoát khỏi chế độ nô lệ.
“Không phải điều gì xảy ra với bạn, cách bạn phản ứng với nó mới là vấn đề.” – Epictetus

Preview text:

Chủ nghĩa khắc kỷ là gì? Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa khắc kỷ?
Chủ nghĩa khắc kỷ cho rằng vì con người là một sinh vật thuộc về xã hội, nên con đường đi tới
eudaimonia (hạnh phúc) của chúng ta sẽ được tìm ra thông qua việc chấp nhận việc mọi thứ đang
diễn ra, không cho phép bản thân bị kiểm soát bởi những khao khát được thỏa mãn

Mục lục bài viết
1. Chủ nghĩa khắc kỷ là gì?
Triết học Hy Lạp cổ đại kéo dài từ thế kỷ thứ bảy trước Công nguyên cho đến đầu của Đế chế La Mã,
vào thế kỷ đầu tiên sau Công nguyên Trong thời kỳ này, năm truyền thống triết học lớn đã bắt nguồn:
Platon, Aristoteles, Stoic, Epicurean, và Skeptic .

Chủ nghĩa khắc kỷ (hay chủ nghĩa stoic/stoa, tiếng Hy Lạp: Στωικισμός, tiếng Latinh: Stoicismus) là một
trường phái triết học Hy Lạp cổ đại do Zeno thành Citium sáng lập ra tại Athens vào đầu thế kỷ thứ 3
Trước Công Nguyên. Chủ nghĩa khắc kỷ là một nhánh triết học về đạo đức con người, thứ được tạo ra
bằng logic và cách mà con người nhìn nhận bản chất thế giới.

Chủ nghĩa khắc kỷ cho rằng vì con người là một sinh vật thuộc về xã hội, nên con đường đi
tới eudaimonia (hạnh phúc) của chúng ta sẽ được tìm ra thông qua việc chấp nhận việc mọi thứ đang
diễn ra, không cho phép bản thân bị kiểm soát bởi những khao khát được thỏa mãn hoặc sợ hãi trước
những đớn đau, thông qua việc sử dụng trí óc của mình để hiểu thế giới này và làm những phần việc
mình cần làm để đóng góp cho kế hoạch mà tự nhiên đã vạch ra sẵn, và thông qua việc cùng làm việc,
đối xử với những người khác một cách công bằng, bất thiên vị.

Những con người Stoic được biết đến nhiều nhất qua những lời răn dạy rằng "đức hạnh là điều tốt
đẹp duy nhất" đối với con người, và rằng những thứ xung quanh ta, ví dụ như sức khỏe, tiền bạc và
niềm vui, về bản chất không xấu cũng chẳng tốt (adiaphora
), nhưng chúng có giá trị là "điều quan
trọng để đức hạnh hành động". Bên cạnh đạo đức Aristoteles, những nguyên tắc của khắc kỷ cũng đã
tạo nên trong những cách tiếp cận nền tảng có giá trị lớn lao tạo nên luân lý luận đức hạnh của
phương Tây. Con người khắc kỷ còn cho rằng những cảm xúc nhất định của chúng ta bị tổn thương là
do sai lầm trong việc phán xét các vấn đề, và họ tin rằng con người nên hướng tới việc duy trì ý chí
(gọi là prohairesis
) sao cho "hòa hợp với tự nhiên". Chính lý do này, những người theo chủ nghĩa khắc
kỷ tin rằng dấu hiệu rõ ràng nhất về triết lý của mỗi cá nhân sẽ được bộc lộ, không phải thông qua lời
họ nói, mà thông qua cách họ cư xử. Để có một cuộc sống tốt đẹp, con người phải hiểu được những
quy tắc của trật tự tự nhiên bởi lẽ chủ nghĩa khắc kỷ tin rằng tự nhiên chính là gốc rễ của mọi điều.

Nhiều con người khắc kỷ, như Seneca và Epictetus, nhấn mạnh rằng, bởi "có đức hạnh là đã đủ hạnh
phúc", nên một nhà hiền triết sẽ trở nên vô cùng kiên cường về mặt cảm xúc trước những bất hạnh.
Niềm tin này có ý nghĩa tương tự với cụm từ "bình tĩnh khắc kỷ", dù vậy thì cụm từ này không bao
hàm quan điểm đạo đức cơ bản của khắc kỷ cho rằng chỉ có một nhà hiền triết mới thực sự được tự
do, và tất cả các suy đồi đạo đức đều xấu xa như nhau.

Từ khi hình thành, các học thuyết khắc kỷ đã dần trở nên rất phổ biến trong xã hội Hy Lạp và La
Mã cho đến thế kỷ thứ 3 Công Nguyên, một trong số những người nổi tiếng nhất theo trường phái

này vào lúc đó là hoàng đế Marcus Aurelius. Chủ nghĩa khắc kỷ với vị thế là trường phái triết học riêng
biệt dần suy giảm sau khi Kitô giáo trở thành quốc giáo vào thế kỷ 4 CN.

Mặt khác, một số ý niệm của chủ nghĩa khắc kỷ lại được tích hợp vào Kitô giáo từ thuở sơ khởi. Sau
này triết học khắc kỷ cũng có một số giai đoạn phát triển trở lại, đáng chú ý nhất là trong thời kỳ Phục
hưng (chủ nghĩa tân khắc kỷ) và trong thời đại ngày nay (chủ nghĩa khắc kỷ hiện đại).

2. Nguồn gốc tên gọi
Tên tiếng Anh của chủ nghĩa khắc kỷ là Stoicism, có nguồn gốc ban đầu là ‘Zenonism’, tức là được đặt
theo tên của người sáng lập, Zeno thành Citium. Tuy nhiên, cái tên này dần dần bị quên lãng, nhiều
khả năng là do những môn đồ Stoic sau này không cho rằng Zeno là một người đủ thông tuệ để được
đặt tên cho cả một trường phái, và cũng nhằm hạn chế khả năng chủ nghĩa triết học này đi chệch
hướng, trở thành một sự sùng bái tính cách.

Cái tên 'Stoicism' xuất phát từ Stoa Poikile (tiếng Hy Lạp cổ: ἡ ποικίλη στοά), hay ‘Dãy Cột Sơn’, một
dãy cột lớn được trang hoàng bằng những hình vẽ tái hiện khung cảnh thần thoại và lịch sử, nằm ở
phía bắc Agora, Athens, nơi Zeno và các môn đồ của ông tụ họp để bàn luận về những ý tưởng. Khi
Zeno mới bắt đầu giảng dạy, ông ta không thể chi trả cho một tòa nhà giống như Học viện của Plato
hay mảnh vườn Lyceum của Aristotle, vậy nên ông và những môn đệ đã tụ tập tại khu vực bóng râm
của Stoa Poikile giữa khu chợ, nơi bất cứ ai cũng có thể lắng nghe và tham gia tranh luận.

3. Những nguyên lý cơ bản
Những nhà triết học khắc kỷ đã đưa ra một cái nhìn thống nhất về thế giới, bao gồm logic hình
thức, vật lý học nhất nguyên và đạo đức tự nhiên. Trong số đó, họ nhấn mạnh rằng đạo đức là trọng
tâm chính trong kiến thức của con người, mặc dù vậy, các triết lý về logic của họ mới là thứ được các
nhà triết học sau này quan tâm nhiều hơn.

Chủ nghĩa khắc kỷ dạy cho chúng ta về sự phát triển của việc tự kiểm soát bản thân và sự cương nghị
như một phẩm chất để vượt qua những cảm xúc mang tính phá hủy; chủ nghĩa này tin rằng việc rèn
luyện để suy nghĩ một cách rõ ràng, mạch lạc và bất thiên vị sẽ giúp cho con người hiểu ra bản chất
của vũ trụ (logos
). Một khía cạnh chính của chủ nghĩa khắc kỷ cũng lưu tâm đến việc cải thiện những
điều tốt đẹp về đạo đức và luân lý của mỗi cá nhân: "Đức hạnh
được bao hàm trong một ý chí hòa hợp với Tự nhiên."
Nguyên lý này cũng được áp dụng trong các mối quan hệ giữa các cá nhân; "để được tự do trước
những nỗi tức giận, sự đố kị và ghen tị," và phải chấp nhận rằng kể cả những người nô lệ cũng "bình
đẳng như những con người khác, bởi tất cả mọi người đều là sản phẩm của tự nhiên".

Nguyên tắc đạo đức theo chủ nghĩa Stoic tán thành với một quan điểm của chủ nghĩa quyết đoán; khi
nói về những người thiếu đi đức hạnh Stoic, Cleanthes từng phản đối rằng kẻ độc ác "giống như một
con chó bị trói vào một chiếc xe đẩy, nó buộc phải đi theo chiếc xe đẩy đến bất cứ đâu". Người tuân
theo đức hạnh Stoic, ngược lại, sẽ nắn chỉnh lại ý chí của anh ta sao cho phù hợp với thế giới và sẽ,
theo lời của Epictetus, "ốm đau nhưng vẫn hạnh phúc, hiểm nguy nhưng vẫn hạnh phúc, chết đi
nhưng vẫn hạnh phúc, lưu đày nhưng vẫn hạnh phúc, sống ô nhục nhưng vẫn hạnh phúc," do đó họ
luôn hướng tới việc đạt được cảnh giới ý chí cá nhân "hoàn toàn tự chủ", và đồng thời được ở trong

một vũ trụ "tổng thể độc nhất có tính quyết đoán nghiêm ngặt". Quan điểm này sau này được miêu tả
với tên gọi "Chủ nghĩa phiếm thần cổ điển" (và được nhà triết học người Hà Lan Baruch Spinoza theo đuổi).

4. Suy nghĩ chung về triết học
Những người theo chủ nghĩa khắc kỷ cho rằng triết học là một môn học tư duy để giúp con người trở
nên thông thái, làm chủ và biết cách ứng xử trước những khó khăn của cuộc đời. Vì vậy, triết học
không chỉ là một khoa học mà còn là một phong cách sống, một nghệ thuật sống của con người
trong cộng đồng xã hội. Và cũng theo những con người nói trên, đối tượng của triết học là phải bao
quát nhiều lĩnh vực, bởi vì sự thông thái do triết học mang lại không hạn đinh, bó hẹp ở trong
một giới hạn cụ thể nào đó. Quan niệm này vốn phổ biến trong một thời gian rất dài. Và cũng theo họ,
triết học gồm 3 lĩnh vực: vật lý học, đạo đức học và logic học. Chúng liên hệ mật thiết với nhau. Zeno
xứ Citium đã có lời ví von như sau: “Có thể so sánh triết học với một con vật: xương và thần kinh là
logic học, thịt là đạo đức học, tâm hồn là vật lý học; hay là vỏ quả trứng là logic học, lòng đỏ là đạo
đức học, còn cái nằm ở giữa là vật lý học”
4.1. Logic học
Những nhà triết học khắc kỷ cho rằng logic học là khoa học sử dụng ngôn từ. Nhờ ngôn từ chúng ta
trở thành người hùng biện, dẫn dắt, làm chủ được tư tưởng của mình trong mọi tình huống. Vì vậy,
logic học được xem là khoa học công cụ.
4.2. Vật lý học
Chủ nghĩa khắc kỷ nhìn nhận rằng vật lý học là học thuyết bàn về giới tự nhiên, về nguồn gốc của
các sự vật mà chúng ta hay gặp mỗi ngày. Karl Marx đã đánh giá rằng cơ sở cho tư tưởng vật lý học
của những người này là của Heracltus và họ dựa vào đó để phát triển.

Cũng giống như những người trước đó, chủ nghĩa khắc kỷ cũng dùng tư tưởng duy vật để giải thích
thế giới. Họ cho rằng thế giới được cấu thành từ các yếu tố đất, nước, lửa, không khí. Họ cũng khẳng
định các vật cảm tính là có thực tồn và là nền tảng của vũ trụ. Đối với họ, cái chung không phải là
cái vô hình không thể cảm nhận được mà cái chung tồn tại trong cái riêng. Thêm vào đó, chủ nghĩa
khắc kỷ cũng cho thấy suy nghĩ biện chứng khi cho rằng thế giới tồn tại trong sự vân động không
ngừng của các vật thể. Có thể nói các nhà triết học này là những nhà duy vật biện chứng đầu tiên
trong lịch sử tư tưởng thế giới. Marx đánh giá cao về điều này: “Nhà thông thái theo phái khắc kỷ lưu
ý tới cuộc sống tuyệt đối động, quan niệm đó được rút ra từ quan điểm về tự nhiên theo hướng
Heraclitus, có tính năng động và có tính sinh động”

Tuy nhiên, chủ nghĩa khắc kỷ lại không kiên trì theo tư tưởng này khi sau đó họ cho rằng mọi vật phát
triển theo các trình tự do Thượng đế sắp đặt. Chính vì thế, học thuyết này có chút gì đó là của mục đích luận.

4.3. Đạo đức học
Chủ nghĩa khắc kỷ đã đưa ra ý kiến rằng tri thức là điều kiện cần của lý tưởng đạo đức, còn điều kiện
đủ là sự tĩnh tâm và bình thản của tâm hồn. Việc sống khắc khổ hay không khắc khổ không ảnh hưởng tới họ.

5. Nhận thức luận
5.1. Linh hồn con người
Chủ nghĩa khắc kỷ nghiên cứu nhận thức luận theo lập trường duy cảm duy vật. Theo những nhà triết
học này, linh hồn được cấu tạo từ 8 bộ phận: năm giác quan thính giác, thị giác, khứu giác, vị
giác và xúc giác, giọng nói, bộ phận tái tạo và bộ phận điều khiển. Linh hồn của con người như tờ
giấy trắng để in dấu sự tác động của thế giới bên ngoài. Biểu tượng của sự vật là do chính nó tạo nên.

5.2. Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
Chủ nghĩa khắc kỷ đã tìm thấy mối liên hệ giữa hai đối tượng này. Zeno xứ Citium đã viết rằng: “Chúng
ta có khả năng lĩnh hội về nhận thức thế giới bên ngoài bẳng cả cảm tính lẫn lý tính”

5.3. Suy nghĩ về khái niệm
Chủ nghĩa khắc kỷ có suy nghĩ rất hay về khái niệm. Zeno xứ Citium cho rằng "các khái niệm không
phải là kết quả thỏa thuận giữa mọi người về việc đặt tên cho sự vật mà ngược lại bản thân các khái
niệm được quy định bởi các vật và bản chất của các vật."

Nguồn tham khảo: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
6. Một số câu hỏi thường gặp về chủ nghĩa khắc kỷ
6.1 Chủ nghĩa khắc kỷ theo Seneca?
Một người đàn ông cao quý có sự giáo dục và giàu có, một triết gia, người từng là cố vấn thân cận của
hoàng đế Claudius. Claudius đày Seneca trong tám năm vì tội ngoại tình. Trong thời gian lưu vong, ông
viết thư cho gia đình để an ủi họ, không thương hại bản thân hay hoàn cảnh. Ông được thả ra, từ kẻ
lưu vong đến làm gia sư cho Nero, con trai của vua Claudius, người sau này sẽ lên nắm quyền. Senera
ở lại với vai trò một nhà cố vấn trung thành cho đến khi Nero ra lệnh phải tự tử. Ngay cả sau đấy ông
cũng không thương hại chính mình, chỉ là có những người sẽ than khóc về cái chết của ông.

“Chúng ta thường sợ hãi nhiều hơn là tổn thương, và chúng ta chịu đựng nhiều hơn từ trí tưởng
tượng hơn là thực tế.” – Seneca

6.2 Chủ nghĩa khắc kỷ theo Marcus Aurelius?
Hoàng đế của Đế chế La Mã, người đàn ông quyền lực nhất thời kỳ đó được các vị thần phong chức và
với sự thông thái ngoài tầm hiểu biết đã giảng những lời khiêm nhường, từ bi và kiềm chế. Mỗi ngày
ông đều viết nhật ký của mình, ghi chú về ý nghĩa thực sự của việc trở thành một Stoic. Mặc dù đó
không phải là ý định của ông lúc đó. Ông chỉ đơn thuần là cố gắng cải thiện bản thân.

“Hãy lướt theo danh sách những người cảm thấy tức giận dữ dội về một điều gì đó: nổi tiếng nhất,
bất hạnh nhất, đáng ghét nhất, bất cứ điều gì nhất. Bây giờ tất cả đang ở đâu? Khói, cái bụi, huyền
thoại, hoặc thậm chí không phải là một huyền thoại. Hãy nghĩ về tất cả các ví dụ. Và chúng ta say mê
những thứ tầm thường đến mức nào.” – Marcus Aurelius.

6.3 Chủ nghĩa khắc kỷ theo Epictetus?
Ông sinh ra là một nô lệ và được tự do khi là thiếu niên. Sau nhiều năm chịu đựng sự khủng khiếp của
chế độ nô lệ, ông đã học được cách truyền cảm xúc và vượt qua hoàn cảnh của mình bằng cách duy trì
sự kiểm soát tâm lý. Ông học Chủ nghĩa khắc kỷ như một sự phụ thuộc và tiếp tục mở rộng trường học
của mình để truyền lại giáo lý của bản thân sau khi được giải thoát khỏi chế độ nô lệ.

“Không phải điều gì xảy ra với bạn, cách bạn phản ứng với nó mới là vấn đề.” – Epictetus