








Preview text:
lOMoAR cPSD| 22014077
VẤN ĐỀ CHUẨN BỊ LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG TIẾN TỚI TỔNG
KHỞI NGHĨA THÁNG TÁM 1945 Ở NAM BỘ
Nguyễn Thanh Tiến1
Tháng Tám 1945, lực lượng cách mạng ở Nam Bộ, dưới sự lãnh ạo trực tiếp của
Xứ uỷ Nam Kỳ (Tiền phong), ã tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
Cuộc khởi nghĩa diễn ra trong thời gian ngắn và nhanh chóng thu ược thắng lợi. Sau hơn
tám thập kỉ bị thực dân thống trị, người dân nơi ây ã thoát khỏi thân phận nô lệ, giành lại
quyền làm chủ ất nước. Cần nói thêm rằng Nam Bộ là một thực thể có vị trí rất quan trọng
trong xứ Đông Dương thuộc Pháp. Chính vì vậy, sự thành công của khởi nghĩa tháng Tám
ở nơi ây có tác ộng rất tích cực ối với cách mạng trong phạm vi cả nước.
Đối với các cuộc cách mạng nói chung, nếu muốn ảm bảo thắng lợi thì công cuộc
chuẩn bị (Tuyên truyền, tổ chức quần chúng, xây dựng lực lượng chính trị và vũ trang, xây
dựng căn cứ ịa…) có vai trò rất quan trọng. Nếu không có sự chuẩn bị ấy thì khi thời cơ
ến, lực lượng cách mạng sẽ khó có thể tận dụng ể vùng dậy giành chính quyền. Ở trường
hợp của Nam Bộ, tính ến tháng 3/1945 (khi Nhật ảo chính Pháp), lực lượng cách mạng ở
ây vẫn chưa chuẩn bị xong. Nói cách khác, những yếu tố cần thiết ể khởi nghĩa giành chính
quyền vẫn chưa hội tụ ầy ủ ở Nam Bộ khi mà thời cơ ã ến rất gần. Thế nhưng, chỉ 5 tháng
sau (8/1945), Nam Bộ vẫn kịp ứng lên giành chính quyền cùng với nhân dân cả nước. Vì
sao lại có hiện tượng như vậy? Bài tham luận này sẽ góp phần làm sáng tỏ một vài khía
cạnh của vấn ề nói trên qua việc tìm hiểu công cuộc chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa ở Nam
Bộ. Đồng thời, người viết cũng xem xét những yếu tố chủ quan cũng như khách quan có tác
ộng ến công cuộc chuẩn bị này. ***
1. Công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền của Đảng và Mặt
trận Việt Minh sau Hội nghị trung ương 8 (5/1941)
Có thể nói, trong cuộc vận ộng giải phóng dân tộc, Đảng Cộng sản Đông
Dương ã xem việc xây dựng lực lượng cách mạng là nhiệm vụ trọng tâm. Sau Hội
nghị trung ương Đảng lần 8 (5/1941), với sự ra ời của Mặt trận Việt Minh, công
cuộc xây dựng lực lượng cách mạng ược tiến hành rất tích cực ở nhiều ịa phương.
Hàng loạt các tổ chức quần chúng yêu nước (các “Hội Cứu quốc”) thuộc Mặt trận
Việt Minh ra ời. Thông qua các tổ chức này, Đảng ã tuyên truyền trong nhân dân về
nhiệm vụ giải phóng dân tộc, về các bước phải chuẩn bị ể tiến tới tổng khởi
nghĩa…Mục tiêu của Đảng và Mặt trận Việt Minh là phát triển một lực lượng chính
trị rộng lớn ể làm hậu thuẫn cho cách mạng. Bên cạnh ó, xuất phát từ nhận ịnh “Cuộc
cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang”23 của
trung ương Đảng, vấn ề xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ ịa cách mạng cũng
rất ược chú trọng. Các ội quân du kích (các ội Cứu quốc quân) lần lượt ược thành
lập, tạo tiền ề cho sự ra ời của ội quân giải phóng về sau. Công tác xây dựng các căn
cứ ịa cũng ược xúc tiến dưới sự chỉ ạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Từ căn cứ ịa
1 Khoa Lịch sử-Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
2 Nghị quyết Hội nghị trung ương Đảng lần 8 (Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, nxb CTQG, HN, 2000, trang 3 ) lOMoAR cPSD| 22014077
ban ầu (căn cứ Cao Bằng-ra ời ầu năm 1941), Đảng ã quyết ịnh mở rộng thành căn
cứ ịa Việt Bắc ể làm chỗ dựa cho sự phát triển của cách mạng.
Kết quả của quá trình chuẩn bị nói trên là lực lượng cách mạng ngày càng lớn
mạnh. Gần 4 năm sau Hội nghị Trung ương 8 (tính ến tháng 3 năm 1945), lực lượng
chính trị phát triển ở cả nông thôn và thành thị. Lực lượng vũ trang, tuy chưa thực
sự hoàn thiện, song cũng ảm ương ược vai trò hỗ trợ cho phong trào ấu tranh của
quần chúng. Khi thời cơ xuất hiện, về cơ bản, lực lượng cách mạng ã ở trong tư thế
sẵn sàng nổi dậy giành lại nền ộc lập.
Tuy nhiên, có một thực tế phải ghi nhận là, những chủ trương của Đảng và
Mặt trận Việt Minh về chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa chỉ ược thực hiện và em lại
kết quả ở Bắc Bộ.1 Còn ở Nam Bộ, do nhiều lí do khác nhau, chủ trương này ã không
ược triển khai (và trong một chừng mực nào ó, có thể nói là không có iều kiện ể triển
khai) một cách ầy ủ. Điều ó dẫn ến hệ quả là công cuộc chuẩn bị cho cách mạng giải
phóng dân tộc ở nơi ây mang nhiều nét khác biệt so với phần còn lại của cả nước.
2. Xứ uỷ Nam Kỳ và công cuộc chuẩn bị lực lượng tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền
Như ã ề cập ở trên, từ sau Hội nghị Trung ương 8, công cuộc chuẩn bị khởi
nghĩa giành chính quyền ược Đảng và Mặt trận Việt Minh xúc tiến mạnh mẽ ở Bắc
(và phần nào ở Trung bộ). Song, quá trình ó lại diễn ra chậm chạp và ầy trắc trở trên
ất phương Nam. Một trong những nguyên nhân dẫn ến tình trạng này là sự tổn thất
quá nặng nề của lực lượng cách mạng ở Nam Bộ sau cuộc khởi nghĩa tháng 11 năm
1940. Trước sự àn áp khốc liệt của thực dân Pháp, “hệ thống tổ chức Đảng từ cấp
xứ ến cấp cơ sở bị phá vỡ gần hết. Bốn Liên tỉnh uỷ, 14 Tỉnh uỷ, Ban cán sự bị xoá
sổ hoặc tê liệt, hai Bí thư Xứ uỷ, một Bí thư Thành uỷ bị xử tử. Toàn Nam Kỳ mất
tới 90% cán bộ cách mạng”2. Liên lạc giữa Trung ương và Đảng bộ Nam Kỳ có lúc
bị cắt ứt. Vì thế, “Nghị quyết của Trung ương về xây dựng Mặt trận Việt Minh ến
Nam Kỳ bị chậm”3 Trong khoảng thời gian từ tháng 11/1941 ến tháng 10/1943, Xứ
uỷ Nam Kỳ thực tế không còn tồn tại.4 Lúc này, một số ảng viên thoát khỏi sự truy
bắt của Pháp vẫn cố gắng hoạt ộng ể gây dựng lại cơ sở Đảng. Kết quả là, từ giữa
năm 1941 trở i, các Liên tỉnh uỷ Miền Tây, Liên tỉnh uỷ Miền Đông… lần lượt ược
thành lập. Song, do chính quyền thực dân vẫn ang khủng bố gay gắt nên hoạt ộng
của các cơ quan này bị gián oạn, thậm chí có lúc tổ chức bị phá vỡ. Đó là chưa kể
ến tình trạng phân tán, thiếu thống nhất trong hành ộng của một số nhóm ảng viên.
Do hoàn cảnh ngặt nghèo như vậy cho nên các chỉ thị của Trung ương Đảng ến với
Nam Bộ hết sức khó khăn. Cuối năm 1941, tuy văn kiện Hội nghị Trung ương 8 và
1 Phong trào Việt Minh ở Trung Bộ cũng rất yếu ớt do tổ chức Đảng ở ây bị Pháp khủng bố và bị các phần
tử AB (Anti-Bolchevik-chống Cộng sản) phá hoại. Tuy nhiên, tình hình ở Trung Bộ vẫn rất khác so với Nam Bộ.
2 Báo Sự thật, số 104 (19/12/1948)-Dẫn theo: Cách mạng tháng Tám 1945 những sự kiện lịch sử. Nxb KHXH, HN, 2000, trang 60.
3 Trung tâm KHXH và NV QG-Viện Sử học, Cách mạng tháng Tám 1945 những sự kiện lịch sử. Nxb KHXH, HN, 2000, trang 98. 4 S d, trang 163. lOMoAR cPSD| 22014077
Chương trình, Điều lệ của Việt Minh ã ược ông Nguyễn Hữu Xuyến ưa vào ến Sài
Gòn nhưng việc triển khai rất hạn chế. Liên tỉnh uỷ Miền Đông-cơ quan nhận ược
tài liệu của Trung ương cũng ã bắt tay vào việc tuyên truyền cho Việt Minh1, xây
dựng các oàn thể cứu quốc. Tuy nhiên, công việc chưa tiến hành ược bao nhiêu thì
Liên tỉnh uỷ lại tan rã do Pháp ánh phá (tháng 8/1942). Liên lạc với Trung ương lại
gián oạn. Do vậy, thay vì tập trung phát ộng phong trào Việt Minh như ở miền ngoài,
các ảng viên ở Nam Bộ lại phải dành sức lực cho công tác khôi phục lại tổ chức.
Trong ó, nhiệm vụ khôi phục lại Xứ uỷ-cơ quan lãnh ạo cao nhất của Đảng ở Nam
Bộ-luôn là nhiệm vụ quan trọng hàng ầu.
Bước sang năm 1943, do sự àn áp của thực dân giảm bớt, phong trào cách
mạng ở Nam Bộ có iều kiện hồi phục khá mạnh. Một số ảng viên vượt ngục Tà Lài
từ tháng 3/1941 như Trần Văn Giàu, Dương Quang Đông, Nguyễn Tấn Đức…phối
hợp với các ồng chí bên ngoài ã tích cực chuẩn bị cho việc tái lập Xứ uỷ. Tháng 10
năm 1943 (từ ngày 13 ến 15), Hội nghị thành lập Xứ uỷ Nam Kỳ ã ược tổ chức tại
nhà ông Hương trưởng Trần Vinh Hoài ở ấp Tân Thuận Bình, huyện Chợ Gạo-tỉnh
Mỹ Tho (nay là Tiền Giang). Hội nghị ã bầu ra Xứ uỷ mới gồm 7 ồng chí, ông Trần
Văn Giàu (không dự họp) ược bầu làm Bí thư Xứ uỷ.2 Cơ quan ngôn luận của Xứ
uỷ là tờ báo Tiền phong.
Sự kiện Xứ uỷ Nam Kỳ ược tái lập ã ánh một dấu mốc quan trọng trong quá
trình khôi phục tổ chức Đảng ở miền Nam. Tuy nhiên, sự kiện này cũng dẫn ến sự
chia rẽ trong nội bộ Đảng ở nơi ây. Việc tái lập Xứ uỷ ã gặp phải sự không ồng tình
của một số ảng viên.3 Tiếp ó, chủ trương hoạt ộng của Xứ uỷ mới cũng không hoàn
toàn thuyết phục ược tất cả các ồng chí. Đây chính là một trong những nguyên nhân
khiến cho Nam Bộ có thêm một Xứ uỷ thứ hai (Xứ uỷ lâm thời Nam Kỳ) vào tháng
3 năm 1945, với công cụ tuyên truyền là báo Giải phóng.3 Tài liệu của Hội nghị mở
rộng Xứ uỷ lâm thời Nam Kỳ (Giải phóng) tháng 4/1945 cho biết mâu thuẫn giữa
hai bên ã bắt ầu từ năm 1943-1944, “gây ra chánh kiến trên hai tờ báo Giải phóng
và Tiền phong, thậm chí nguyền rủa nhau thậm tệ, làm tổn thương cho Đảng, gây
cho quần chúng hoang mang.”4
Mặc dù vấp phải một số trở ngại như vậy, nhưng những người lãnh ạo của
Xứ uỷ Nam Kỳ (Tiền phong) vẫn kiên trì với ường lối ã ề ra. Chủ trương của
1 Công tác tuyên truyền của Liên tỉnh uỷ Miền Đông ược tiến hành thông qua tờ báo Giải phóng-tờ báo của
Xứ uỷ Nam Kỳ trước ó.
2 Ban Tuyên Giáo Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh-ThS Phạm Ngọc Bích (cb), Cách mạng tháng Tám
1945 ở Sài Gòn-Chợ Lớn và Gia Định. Nxb Tổng hợp TP.HCM, 2008, trang 52. Hồi ký của Bà Nguyễn Thị
Thập (từng là Xứ uỷ viên Nam Kỳ) cho biết ông Trần Văn Giàu có mặt trong Hội nghị thành lập Xứ uỷ tháng
10/1943. (xem: Nguyễn Thị Thập, Từ ất Tiền Giang. Nxb Văn nghệ TP.HCM, 1986, trang 260). 3 Trong hồi
ký, Bà Nguyễn Thị Thập cho biết: khi ông Trần Văn Giàu nhờ người mời Bà tham gia Xứ uỷ mới, Bà ã từ
chối với lí do “Xứ uỷ cũ dù bị bắt gần hết, dù chỉ còn một ôi người, nhưng ã giải tán âu…” và chỉ hứa là
sẽ thống nhất với Xứ uỷ của ông Trần Văn Giàu sau. (xem Từ ất Tiền Giang, s d, trang 260-261).
3 Trong bài này, ể phân biệt, tác giả sử dụng cách gọi Xứ uỷ Nam Kỳ (Tiền phong) và Xứ uỷ Nam Kỳ (Giải
phóng) như một số công trình nghiên cứu khác ã sử dụng.
4 Tài liệu Hội nghị mở rộng Xứ uỷ lâm thời Nam Kỳ ngày 20, 21 tháng 4 năm 1945. (In trong phần phụ lục
của sách Cách mạng tháng Tám 1945 ở Sài Gòn-Chợ Lớn và Gia Định, s d, trang 202) lOMoAR cPSD| 22014077
Xứ uỷ lúc này là lãnh ạo phong trào cách mạng theo nội dung Nghị quyết Trung
ương Đảng lần 6 (11/1939). Xuất phát từ nhận ịnh “Nắm nông thôn thì dễ, nắm ược
Sài Gòn-Chợ Lớn nơi yết hầu của giặc mới là khó. Muốn nắm vững Sài GònChợ
Lớn phải nắm vững công nhân và thanh niên. Lực lượng công nhân có mạnh mới
lôi kéo ược các tầng lớp khác, có nắm ược thanh niên mới thu hút ược các tầng lớp
tiểu tư sản, trí thức, tư sản dân tộc”1, ịa bàn hoạt ộng mà Xứ uỷ ặt trọng tâm là các
ô thị, quan trọng nhất là Sài Gòn-Chợ Lớn. Đối tượng vận ộng là các tầng lớp trí
thức, thanh niên, công chức, tiểu thương, tiểu chủ, công nhân…Trong ó, công nhân
và thanh niên ược chú trọng nhiều nhất. Để lãnh ạo công nhân chuẩn bị tiến ến tổng
khởi nghĩa, Xứ uỷ ã chủ trương thành lập Tổng Công oàn Nam Bộ. Tháng 4/1944,
hội nghị thành lập Tổng Công oàn Nam Bộ ược tiến hành tại nhà máy thuốc lá MIC
(Sài Gòn). Hội nghị ã bầu ra Ban Chấp hành Tổng Công oàn, do Hoàng Đôn Văn
làm Tổng thư ký.2 Cần nói thêm rằng, các nhân vật lãnh ạo Xứ uỷ Nam Kỳ (Tiền
phong) như Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Trân, Dương Quang Đông…vốn là những
trí thức, có kinh nghiệm hoạt ộng ở ô thị. Vì vậy, cơ sở của Xứ uỷ ở các thành phố
như Sài Gòn, Chợ Lớn phát triển khá nhanh. Còn ối với ịa bàn nông thôn, Xứ uỷ
vẫn chú ý nhưng ở mức ộ có phần hạn chế hơn. Công tác xây dựng lực lượng vũ
trang và căn cứ ịa ở nông thôn hầu như không có gì áng kể. Đầu năm 1945, Xứ uỷ
cũng phái cán bộ “lập chiến khu ở Biên Hoà, Chợ Lớn, Tân An, nhưng khi nổ ra
cuộc ảo chính 9/3 (Nhật ảo chính Pháp-NTT) thì các ồng chí ược rút về Sài Gòn,
chỉ ể lại một ngọn èn leo lét ở Tân Uyên”.3
Tuy Xứ uỷ Nam Kỳ (Tiền phong) rất nỗ lực trong quá trình khôi phục lực
lượng, chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa, nhưng cho ến ầu năm 1945, quá trình ấy vẫn
chưa em lại những kết quả rõ rệt. Tình hình chỉ thực sự xoay chuyển theo hướng
tích cực sau sự kiện Nhật ảo chính Pháp ngày 9 tháng 3 năm 1945. Với sự kiện này,
Đông Dương ã từ thuộc ịa của Pháp trở thành thuộc ịa của Nhật. Ngày 12/3/1945,
Ban Thường vụ Trung ương Đảng CSĐD ã ra Chỉ thị “Nhật– Pháp bắn nhau và
hành ộng của chúng ta”. Chỉ thị nêu rõ “Sau cuộc ảo chính này, ế quốc phát xít
Nhật trở thành kẻ thù chính-kẻ thù cụ thể trước mắt – duy nhất của nhân dân Đông
Dương”. Trên cơ sở ó, Đảng thay khẩu hiệu “Đánh uổi Nhật, Pháp” bằng khẩu hiệu
“Đánh uổi phát xít Nhật”, chủ trương phát ộng “một cao trào kháng Nhật cứu nước
mạnh mẽ ể làm tiền ề cho cuộc tổng khởi nghĩa”.4 Bản Chỉ thị của Trung ương nhanh
chóng ược phổ biến ở các tỉnh Bắc và Trung bộ, làm dấy lên cao trào chống Nhật
mạnh mẽ. Song, Văn kiện này lại không ến ược với Xứ uỷ Nam Kỳ.5
1 Lịch sử Cách mạng tháng Tám 1945. Nxb CTQG, HN, 1995, trang 93-94. Dẫn theo: Cách mạng tháng Tám
1945 ở Sài Gòn-Chợ Lớn và Gia Định. S d, trang 66.
2 Cách mạng tháng Tám 1945 những sự kiện lịch sử, S d, trang 170.
3 Trần Văn Giàu, Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX ến cách mạng tháng Tám (tập 3). Nxb TP. HCM, 1993, trang 632.
4 Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7. Nxb CTQG, HN, 2000, trang 366-367.
5 Theo GS Trần Văn Giàu-Bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ lúc bấy giờ- thì Xứ uỷ Nam Kỳ không nhận ược Chỉ thị
của Trung ương. (xem: Cách mạng tháng Tám 1945 những sự kiện lịch sử, S d, trang 198). Thiển ý cho
rằng vấn ề này cần ược nghiên cứu thêm. lOMoAR cPSD| 22014077
Sau sự kiện ngày 9/3/1945, căn cứ vào hoàn cảnh của Nam Bộ, Xứ uỷ Nam
Kỳ (Tiền phong) nhận ịnh: “tình hình sắp tới, chiến trường quyết ịnh sẽ là thành
phố, hình thức ấu tranh sẽ là ấu tranh chính trị, là bạo lực chính trị”.1 Xứ uỷ ề ra
chủ trương “lợi dụng Nhật ể tập hợp lực lượng cho cuộc tổng khởi nghĩa sắp tới,
góp phần làm phân hoá kẻ thù ở Nam Kỳ…”2 Chủ trương này của Xứ uỷ ã gặp thuận
lợi khi Nhật ang thi hành chính sách lôi kéo các tầng lớp nhân dân ở Đông Dương.
Khi nghe bác sĩ Phạm Ngọc Thạch3 báo cáo về lời ề nghị thành lập một phong trào
thanh niên thân Nhật của Ida4 (Tổng uỷ viên thanh niên-thể dụcthể thao của Nhật ở
Đông Dương), Xứ uỷ ã quyết ịnh nắm lấy cơ hội này ể nhanh chóng tập hợp lực
lượng yêu nước một cách công khai. Ngày 26/5/1945, một tổ chức Thanh niên, với
tên gọi là Thanh niên Tiền phong ược thành lập. Hội ồng quản trị của Thanh niên
Tiền phong do Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch ứng ầu, trụ sở óng tại số 14 ường Charner
(nay là ường Nguyễn Huệ-Quận 1TP.HCM). Về danh nghĩa, Thanh niên Tiền phong
là tổ chức hoạt ộng hợp pháp và do Nhật bảo trợ.5 Song thực chất, ây là tổ chức yêu
nước do Xứ uỷ Nam Kỳ (Tiền phong) lãnh ạo, có sứ mệnh chuẩn bị lực lượng khởi
nghĩa giành chính quyền. Chỉ một thời gian ngắn sau khi ra ời, Thanh niên Tiền
phong ã phát triển rộng khắp. Theo Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch thì “ ến ầu tháng
7/1945, mỗi xí nghiệp, mỗi xóm lao ộng, mỗi công sở và mỗi nhà trường ở Sài Gòn
–Chợ Lớn ều có Thanh niên Tiền phong”.5 Để tuyên truyền chủ trương của Xứ uỷ,
thu hút sự ủng hộ của quần chúng, tổ chức này ã có nhiều hoạt ộng như i giữ trật tự
ngoài ường, dạy bình dân học vụ, i làm vệ sinh, chủng ậu trong các xóm lao ộng,
quyên tiền, gạo cứu ói ồng bào ngoài Bắc…Nhờ hoạt ộng tích cực như vậy mà Thanh
niên Tiền phong ã tập hợp ược nhiều thành phần xã hội như trí thức viên chức, thanh
niên, công nhân, sinh viên, học sinh…Khi Xứ uỷ cho Tổng Công oàn Nam Bộ ra
hoạt ộng công khai với danh nghĩa Thanh niên Tiền phong-Ban xí nghiệp, lực lượng
Thanh niên Tiền phong càng mạnh thêm. Đến ầu tháng 8/1945, số lượng oàn viên ở
Sài Gòn-Chợ lớn là 200.000 người. Nếu tính cả 21 tỉnh thành Nam Bộ thì số lượng
oàn viên lên tới 1.200.000 người.6 Ngoài công tác xã hội, những người lãnh ạo
Thanh niên Tiền phong còn chú trọng công tác huấn luyện chính trị và huấn luyện
quân sự cho oàn viên. Đây là hai công tác không thể thiếu trong quá trình chuẩn bị
lực lượng khởi nghĩa. Ngày 22/8/1945, Thanh niên Tiền phong tuyên bố tự nguyện
ứng trong hàng ngũ Việt Minh.
1 Trần Văn Giàu, Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX ến cách mạng tháng Tám, s d, trang 632.
2 Cách mạng tháng Tám 1945 ở Sài Gòn-Chợ Lớn và Gia Định, S d, trang 53.
3 Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch (1909-1968) là một trí thức Tây học có tinh thần yêu nước. Ông ã dấn thân vào
hoạt ộng cách mạng và gia nhập ảng Cộng sản vào tháng 3/1945.
4 Ida từng ược bác sĩ Phạm Ngọc Thạch chữa bệnh nên quen thân với Bác sĩ. Ida nhờ bác sĩ Thạch vận ộng
một phong trào thanh niên thân Nhật mà không biết rằng bác sĩ Thạch ã là một ảng viên Cộng sản. 5 Theo
GS Trần Văn Giàu thì từ tháng 7/1945, Nhật ã bắt ầu nghi ngờ Thanh niên Tiền phong, nhưng ã quá trễ ể có biện pháp ối phó.
5 Cách mạng tháng Tám 1945 những sự kiện lịch sử, S d, trang 242.
6 Nhiều tác giả, Sài Gòn mùa thu 1945. Nxb Công An nhân dân, 2005, trang 14-15. lOMoAR cPSD| 22014077
Có thể nói, trong ba tháng xây dựng và phát triển, tuy mang tên là Thanh niên
Tiền phong, nhưng thực tế tổ chức này là một hình thức mặt trận dân tộc thống nhất
rộng rãi. Đây là một thành quả rất quan trọng trong quá trình chuẩn bị lực lượng
khởi nghĩa của Xứ uỷ Nam Kỳ (Tiền phong). Tháng 8/1945, Thanh niên Tiền phong
ã óng vai trò quyết ịnh trong tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Sài Gòn và Nam Bộ.
Ngoài Xứ uỷ Nam Kỳ (Tiền phong), trong công cuộc chuẩn bị tổng khởi
nghĩa ở Nam Bộ, không thể không nhắc ến Xứ uỷ lâm thời Nam Kỳ (Giải phóng)
với các nhân vật chủ chốt như Trần Văn Di, Lê Hữu Kiều, Nguyễn Thị Thập, Hoàng
Dư Khương…1 Xứ uỷ lâm thời (Giải phóng) chủ trương hoạt ộng theo úng ường lối
của Trung ương, dựa vào ịa bàn nông thôn ể phát ộng quần chúng, tập hợp công
nông ể tổ chức các hội cứu quốc, tiến tới thành lập Việt Minh. Khác với sách lược
lợi dụng Nhật của Xứ uỷ Nam Kỳ (Tiền phong), Xứ uỷ lâm thời (Giải phóng) lại ề
ra quyết nghị “Ra truyền ơn lấy tên Việt Minh Nam Kỳ, vạch trần chính sách Đại
Đông Á, ộc lập bánh vẽ của phát xít Nhật”.2 Nói cách khác, Xứ uỷ Giải phóng chủ
trương phát ộng cao trào chống Nhật như ở miền ngoài.
Nhìn chung, những hoạt ộng của Xứ uỷ Nam Kỳ (Giải phóng) ã góp phần
quan trọng trong việc gây dựng lại cơ sở Đảng ở các ịa phương. Thế nhưng, trong
công tác tập hợp quần chúng, Xứ uỷ Nam Kỳ (Giải phóng) lại không thu ược nhiều
kết quả. Việc triển khai vận ộng trên ịa bàn nông thôn, thiên về bí mật ã khiến cho
công tác này bị chậm, không theo kịp phong trào do Xứ uỷ Tiền phong tổ chức ở
các ô thị. Trong khi ó, Xứ uỷ Giải phóng lại chỉ trích chủ trương hoạt ộng công khai
của Xứ uỷ Nam Kỳ (Tiền phong), cho rằng Xứ uỷ này ã “lãnh ạo Thanh niên Tiền
phong i chệch ường lối cách mạng của Đảng”.3
Do bất ồng về ường lối hoạt ộng nên những cuộc tiếp xúc giữa ại diện hai Xứ
uỷ ể i ến thống nhất ều bất thành. Hệ quả là hai Xứ uỷ vẫn tồn tại song song nhưng
vai trò i ầu trong cách mạng tháng Tám ở Nam Bộ thuộc về Xứ uỷ Nam Kỳ (Tiền Phong).4
Điểm qua một số sự kiện như trên, có thể thấy rằng trong quá trình chuẩn bị
lực lượng khởi nghĩa, ặc biệt là sau sự kiện ngày 9/3/1945, Xứ uỷ Nam Kỳ (Tiền
phong) ã có những bước i khác với cách mà Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh
ang thực hiện ở miền ngoài. Những bước i ấy cũng khác với chủ trương của một số
ảng viên thuộc Xứ uỷ lâm thời Nam Kỳ (Giải phóng). Một trong những biểu hiện rõ
rệt của sự khác biệt ó là ối sách trước quân Nhật, lúc này ã là “kẻ thù chính” của
1 Hội nghị thành lập Xứ uỷ Nam Kỳ (Giải phóng) họp tại Xoài Hột, Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho (nay là Tiền Giang) vào ngày 20/3/1945.
2 Biên bản cuộc Hội nghị Xứ uỷ lâm thời Nam Kỳ 25/3/1945 (In trong phần phụ lục của sách Cách mạng
tháng Tám 1945 ở Sài Gòn-Chợ Lớn và Gia Định, s d trang 188).
3 Thông báo số 5 (20/5/1945) của Thường vụ lâm thời Xứ uỷ Nam Kỳ. (In trong phần phụ lục của sách Cách
mạng tháng Tám 1945 ở Sài Gòn-Chợ Lớn và Gia Định, s d trang 204).
4 Các tác giả sách Cách mạng tháng Tám 1945 những sự kiện lịch sử nhận ịnh: “…hoạt ộng của Xứ uỷ
(Giải phóng) chỉ giới hạn trong phạm vi hạn chế. Việc chuẩn bị giành chính quyền ở Sài Gòn và Nam Bộ
chủ yếu là do Xứ uỷ (Tiền phong) tổ chức”. (s d, trang 386) lOMoAR cPSD| 22014077
nhân dân Đông Dương. Trong khi Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh phát
ộng cao trào chống Nhật quyết liệt (nhất là ở Bắc Bộ) thì ở Nam Bộ, Xứ uỷ lại chủ
trương lợi dụng chính sách của Nhật ể xây dựng lực lượng chính trị. Ở ây, vấn ề
không phải là Xứ uỷ Nam Kỳ (Tiền phong) cố tình i ngược với chủ trương của Trung
ương Đảng mà do Xứ uỷ căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của Nam Bộ. Tình thế ang trở
nên hết sức cấp bách nhưng phong trào Việt Minh ở Nam Bộ quá yếu ớt. Muốn
nhanh chóng tập hợp mọi tầng lớp nhân dân ể chớp thời cơ giành chính quyền, không
cách nào tốt hơn là xây dựng một phong trào công khai ở ngay các ô thị. Chưa kể,
sau khi Nhật lật ổ Pháp, các tổ chức chính trị và giáo phái thân Nhật như Phục Quốc1,
Cao Đài, Hoà Hảo càng hoạt ộng mạnh ể tranh thủ quần chúng. Giữa các tổ chức,
giáo phái này lại có sự liên hệ với nhau.2 Nó làm cho bức tranh chính trị ở Nam Bộ
pha nhiều màu sắc và cũng hết sức phức tạp. Cho nên, phải có một tổ chức công
khai như Thanh niên Tiền phong do Xứ uỷ lãnh ạo mới ủ khả năng kéo quần chúng
về phía cách mạng. Để thực hiện mục tiêu ó thì không thể phát ộng ngay phong trào
chống Nhật. Vì vậy, Xứ uỷ Nam Kỳ (Tiền phong) mới chủ trương lợi dụng chính
sách của Nhật chứ không phải là “từ bỏ ường lối chánh trị của Trung ương Đảng”
như Xứ uỷ Nam Kỳ (Giải phóng) ã phê phán.3
Nét khác biệt kế tiếp ở Nam Bộ trong quá trình chuẩn bị lực lượng ó là, Xứ
uỷ Nam Kỳ (Tiền phong) không tập trung vào công tác xây dựng căn cứ ịa và lực
lượng vũ trang du kích. Vì lẽ ó, Nam Bộ hầu như không phát ộng chiến tranh du
kích và khởi nghĩa từng phần ể tiến tới tổng khởi nghĩa như Bắc Bộ. GS Trần Văn
Giàu (Bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ lúc bấy giời) cũng khẳng ịnh “Trong Nam không có
chủ trương làm chiến tranh du kích, khởi nghĩa từng phần mà tập trung sức vào
phong trào ấu tranh chính trị”.4 Cũng vì vậy mà công tác chuẩn bị khởi nghĩa ở ây
không tập trung vào ịa bàn nông thôn. Không phải ịa bàn nông thôn không quan
trọng. Vấn ề là ở chỗ, nếu lúc này mà tập trung gây dựng phong trào ở nông thôn thì
sẽ không theo kịp chuyển biến của thời cuộc. Tình thế trước mắt ã khiến cho Xứ uỷ
Tiền phong phải dành ưu tiên cho ịa bàn ô thị hơn là nông thôn.
Khi nói ến ịa bàn ô thị trong công cuộc chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa ở Nam
Bộ, không thể không nói ến vai trò ầu tàu của Sài Gòn-Chợ Lớn. Đây là ô thị quan
trọng hàng ầu của xứ Đông Dương thuộc Pháp. Phong trào ấu tranh công khai ở Sài
gòn ã có cả một quá trình, bắt ầu từ phong trào òi tự do, dân chủ trong những năm
20. Vì vậy, khi Xứ uỷ Nam Kỳ (Tiền phong) chọn nơi ây làm trung tâm ể tập hợp
1 Tên gọi tắt của Việt Nam Phục quốc Đồng minh hội do Hoàng thân Cường Để lập ra tại Thượng Hải (Trung Quốc) tháng 3/1939.
2 Trong sách The Struggle for Indochina (Stanford University Press, California, 1954, trang 51) Ellen
J.Hammer cho biết : “một nhánh của Phục quốc ã ược tổ chức dưới sự bảo trợ của Nhật tại Nam Kỳ ngay
trong chế ộ của Decoux và nó ược hai tổ chức tôn giáo-chính trị ở phía Nam-Cao Đài và Hoà Hảo tham
gia”. (nguyên văn: A branch of the Phuc Quoc had been organized under Japanese auspices in Cochin China
during the Decoux regime and it was joined by two political-religious sects in the South-the Cao Dai and the Hoa Hao).
3 Thông báo số 5 (20/5/1945) của Thường vụ lâm thời Xứ uỷ Nam Kỳ, Tl d, trang 204.
4 Trần Văn Giàu, Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX ến cách mạng tháng Tám, s d, trang 636. lOMoAR cPSD| 22014077
lực lượng, Xứ uỷ ã thu ược kết quả rất nhanh. Công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa ở Sài
Gòn –Chợ Lớn ã có sức lan toả ra khắp các ịa phương ở Nam Bộ, tạo thành một làn
sóng tiền khởi nghĩa rất sôi nổi. Đây cũng là một nét riêng của Sài Gòn-Chợ Lớn so
với các ô thị khác trong cả nước.
Ngoài các vấn ề nêu trên, công cuộc chuẩn bị lực lượng ở Nam Bộ còn có
một iểm áng chú ý, ó là Xứ uỷ ã tận dụng hoàn cảnh khách quan thuận lợi một cách
nhanh nhạy, úng thời iểm. Việc lợi dụng chính sách của Nhật ể xây dựng Thanh
niên Tiền phong “chỉ có thể áp dụng khi Nhật sắp thua; nếu áp dụng lúc Nhật còn
hùm hổ thì chỉ có thể làm lợi cho kẻ i xâm lược; trái lại, sau 9/3/1945, ở Sài Gòn, ở
Nam Kỳ mà không dùng chiến thuật Thanh niên Tiền phong uyển chuyển, sáng tạo
thì không có tổng khởi nghĩa ở ây, mà không có tổng khởi nghĩa ở Sài Gòn và Nam
Bộ thì cách mạng tháng 8-1945 sẽ ụng phải những khó khăn khó lường trước”.1 Có
thể nói, thời cơ khách quan ể phát triển lực lượng cách mạng ở Nam Bộ có ý nghĩa
quan trọng không kém thời cơ tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Kết luận
Trong khoảng thời gian từ 23/8 ến 28/8/1945, cuộc tổng khởi nghĩa giành
chính quyền ở Sài Gòn và Nam Bộ ã thành công trọn vẹn. Tính từ khi Xứ uỷ Nam
Kỳ (Tiền phong) bắt tay xây dựng Thanh niên Tiền phong ến khi tổng khởi nghĩa
thắng lợi, thời gian chỉ khoảng 3 tháng. Đây là giai oạn mà những iều kiện khách
quan thuận lợi trở nên rõ rệt hơn bao giờ hết. Song, nếu lực lượng cách mạng không
chuẩn bị kịp thì iều kiện thuận lợi ấy sẽ thành vô nghĩa. Đặt trong hoàn cảnh cụ thể
của Nam bộ từ sau Nam Kỳ khởi nghĩa trở i, chúng ta mới thấy hết ý nghĩa trong
ường lối xây dựng lực lượng mà Xứ uỷ Nam Kỳ (Tiền phong) ã ề ra. Xứ uỷ Nam
Kỳ (Tiền phong) ã mạnh dạn, sáng tạo trong công tác chuẩn bị khởi nghĩa sao cho
phù hợp với thực tế của Nam Bộ, chứ không máy móc làm theo chủ trương của
Trung ương như Xứ uỷ Nam Kỳ (Giải phóng). Vì vậy, Xứ uỷ Tiền phong ã xây dựng
ược một lực lượng chính trị hùng hậu trong khoảng thời gian vô cùng gấp gáp. Nếu
Xứ uỷ không thành công trong công tác chuẩn bị này thì không thể có tổng khởi nghĩa ở Nam Bộ.
Nhìn lại quyết ịnh của các nhân vật lãnh ạo Xứ uỷ Nam Kỳ (Tiền phong)
trong những ngày lịch sử 1945, chúng ta thấy ó là những bài học sáng giá về sự sáng
tạo, dám nghĩ dám làm. Những bài học ấy cho ến nay vẫn còn nguyên giá trị.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tuyên giáo Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh, Cách mạng tháng Tám
1945 ở Sài Gòn-Chợ Lớn và Gia Định, Nxb Tổng hợp TP HCM, 2008.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7 (1940-1945), Nxb
Chính trị Quốc gia, HN, 2000.
1 Trần Văn Giàu, Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX ến cách mạng tháng Tám, s d, trang 650. lOMoAR cPSD| 22014077
3. GS Trần Văn Giàu, Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX ến
Cách mạng tháng tám, tập III: Thành công của Chủ nghĩa Mác-Lênin- tư
tưởng Hồ Chí Minh, Nxb TP Hồ Chí Minh, 1993.
4. Hammer, Ellen J., The struggle for Indochina, Standford University Press, California, 1954.
5. Nguyễn Thị Thập, Từ ất Tiền Giang (hồi ký-Đoàn Giỏi ghi), Nxb Văn Nghệ TP HCM, 1986,
6. Nhiều tác giả, Sài Gòn mùa thu 1945, Nxb Công An Nhân dân, 2005.
7. Trung tâm KHXH và NV Quốc gia-Viện sử học, Cách mạng tháng Tám 1945
những sự kiện lịch sử, Nxb Khoa học xã hội, HN, 2000.
8. Viện Lịch sử Đảng, Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945, Nxb Sự thật, HN, 1985.