






Preview text:
Chức Năng Của Văn Học
Văn học là một loại hình sáng tác, tái hiện những vấn đề của đời sống xã hội và con
người. Phương thức sáng tạo của văn học được thông qua sự hư cấu, cách thể hiện
nội dung các đề tài được biểu hiện qua ngôn ngữ. Khái niệm văn học đôi khi có nghĩa
tương tự như khái niệm văn chương và thường bị dùng lẫn lộn. Tuy nhiên, về mặt tổng
quát, khái niệm văn học thường có nghĩa rộng hơn khái niệm văn chương, văn chương
thường chỉ nhấn mạnh vào tính thẩm mĩ, sự sáng tạo…
Giới thiệu khái niệm Văn Học
Văn học (nghĩa rộng): là tên gọi chung mọi tác phẩm bằng ngôn ngữ nói hay viết. Văn
học (nghĩa hẹp): là văn học nghệ thuật, tức các sáng tác ngôn từ hư cấu, tưởng tượng,
biểu hiện tình cảm con người như thơ, tiểu thuyết, tản văn, kịch…
Chức năng của Văn học gồm 4 chức năng chính sau: I. Chức năng nhận thức II. Chức năng giáo dục III. Chức năng thẩm mỹ IV. Chức năng giao tiếp
I. Chức năng nhận thức của văn học
1. Văn học cung cấp tri thức bách khoa về hiện thực đời sống:
– Văn học cung cấp tri thức, mang đến sự hiểu biết cho con người.
Nhưng văn học không như các môn khoa học khác, nhận thức hiện thực theo kiểu
phân môn mà phản ánh cuộc sống trong toàn bộ tính toàn vẹn của nó.Ví dụ: Khi đọc
tác phẩm “Dế Mèn phiêu lưu ký” của nhà văn Tô Hoài, người đọc tìm hiểu thêm nhiều
chi tiết lí thú từ hình dáng đến tập tính sống của loài dế mèn, dế trũi, hay bọ ngựa…
Thế giới loài vật trở nên sống động và gần gũi hơn trong mắt người đọc. Đọc bộ “Thần
thoại Hy Lạp”, người đọc còn khám phá thêm những cách giải thích các hiện tượng tự
nhiên, đời sống tinh thần của người xưa theo cái nhìn mới mẻ và đầy logic thú vị, văn
học chính là cuốn bách khoa toàn thư phản ánh hiện thực đời sống. Hay như “Chí
Phèo”, “Trẻ con không thể ăn thịt chó”, “Lão Hạc”, “Một bữa no”… của nhà văn Nam
Cao,nhà văn đã dựng lên cả một thời lầm than, khổ cực và túng quẫn của người nông
dân trong dưới ách đô hộ “một cổ hai tròng”.
– Văn học là cái kho chứa khổng lồ những tri thức về đời sống xã hội. Văn học dễ dàng
tái hiện lại quá khứ, chứa đựng cả những sự kiện lịch sử, cung cấp những tri thức có
giá trị về lịch sử, kinh tế, quân sự, văn hóa…
Thực vậy, các tiểu thuyết lịch sử như “Tam Quốc Diễn Nghĩa” của La Quán Trung hay
“Hoàng Lê Nhất Thống Chí” của Ngô gia văn phái đã đưa ta về với lịch sử, với quá khứ
xa xăm của dân tộc. “Chí Phèo” của Nam Cao, “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố hay “Bỉ vỏ”
của Nguyên Hồng… phản ánh quá trình phá sản, bần cùng hóa của người nông dân
đang diễn ra một cách khốc liệt. Không chỉ những người viết văn, thưởng thức văn học
mới nhận thấy chức năng phản ánh hiện thực này của văn học. Chính các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Marx cũng đánh giá cao khả năng cung cấp tri thức của văn học.
-Văn học còn giúp ta tìm hiểu thân phận của con người, khám phá các tính cách xã hội
của một giai đoạn, một xã hội, một tầng lớp, một giai cấp…
• Những ai từng say mê với kịch của Sheaspear thì hẳn không khó nhận thấy sự cực
đoan của xã hội thời bấy giờ, những chuyện tình bi đát chính là cục diện, là cuộc sống
giàu có trong tù túng không lối thoát
• “Truyện Kiều” cũng dựng lại một xã hội nhơ bẩn, xem đồng tiền hơn cả con người, lấy
sự vạn năng của đồng tiền để xoay chuyển cả thế gian, vùi dập con người…
• Mỗi tác phẩm văn học dù ít hay nhiều điều đề cập một khía cạnh của xã hội đó
2. Văn học giúp con người tự nhận thức chính mình và cuộc sống:
– Bằng các hình tượng nghệ thuật, văn học giúp ta nhận thức được các giá trị tinh thần
kết tinh trong thế giới đối tượng, khơi gợi khả năng biến quá trình nhận thức thế giới
khách quan thành quá trình tự nhận thức về bản thân- Văn học còn giúp con người tự nhận thức về mình.
Đọc những đoạn thơ sau đây, bạn có cảm nghĩ gì? “Thà một phút huy hoàng rồi chợp
tối Còn hơn le lói buồn suốt trăm năm.” Xuân Diệu – “Giục giã” “Hoa sen nở trong ánh
mặt trời Rồi mất đi tất cả những gì nó có Nhưng chắc nó không muốn làm chiếc nụ
Trong sương mù vĩnh viễn của mùa Đông.” Tago – “Người làm vườn” Có phải sau khi
đọc những dòng thơ trên, bạn bắt đầu trăn trở suy nghĩ hay chí ít cũng tự đặt ra cho
mình những câu hỏi: mình là ai? Mình sống vì cái gì? Mục đích sống của đời mình là
gì? Nếu có, tức nhiên bạn phải nhìn nhận thực tế rằng văn học bước đầu đã tác động
đến nhận thức của bạn
• Lịch sử văn học đã từng chứng kiến không ít những thay đổi tích cực (lẫn tiêu cực)
của con người dưới ảnh hưởng của văn học: Đã có không ít những chí sĩ yêu nước
tòng quân giữ nước khi nghe “Hịch tướng sĩ” của Trần Hưng Đạo, hay không ít người
mê muội đã quay đầu lại khi đọc những tác phẩm của Nguyển Ái Quốc, Phan Bội Châu.
Thơ của Hồ Xuân Hương phản ánh cái khát vọng khẳng định bản thân và khát vọng
sống của người phụ nữ -Văn học giúp ta hiểu được cái giá trị của mình,thấy được vị trí
của mình, biết mình phải làm gì và có thể làm gì cho cuộc sống chung Khi cùng hòa
mình vào công tác khôi phục đất nước sau chiến tranh, khí thế hừng hực lẫn tinh thần
kiên cường, biến chiến trường xưa thành một nông trường xanh tươi trong “Mùa lạc”
của Nguyễn Khải, bạn có băn khoăn suy ngẫm về giá trị của cuộc đời: “Sự sống nảy
sinh từ cái chết” Hay như tiếp cận với những dòng thơ rỉ máu của Hàn Mặc Tử, bạn có
từng nghĩ đến và khâm phục nhà thi sĩ, dám sống, dám yêu và cả dũng cảm đón nhận
cái chết được báo trước, không nao núng, hay trốn chạy cái chết mà vẫn sống là làm
thơ đấy. Như vậy chức năng nhận thức của văn học là vô cùng rộng lớn, tùy theo cách
diễn đạt của nhà văn, sự cảm thụ của người đọc mà văn học tác động khác nhau.
II. Chức năng Giáo dục
1. Văn học khêu gợi tư tưởng, tình cảm, nuôi dưỡng tâm hồn, niềm tin cho con người
• Văn học có khả năng hướng thiện, hướng con người đến cái thiện thông qua hình
thành quan điểm đạo đức, khơi gợi tình cảm đạo đức cho con người
+ Từ hình tượng Lạc Long Quân và Âu Cơ trong truyền thuyết, đến cô Tấm, Thạch
Sanh trong cổ tích, hình tượng Thúy Kiều, Nguyệt Nga, Lục Vân Tiên trong truyện thơ
Nôm cho đến hình tượng mẹ Tơm, mẹ Suốt, anh hùng Núp trong văn thơ hiện đại đã ít
nhiều ảnh hưởng mạnh mẽ đến quan niệm đạo đức của lớp lớp thế hệ người Việt Nam
– Văn học là nơi nuôi dưỡng tình cảm nhân ái:
• Những tác phẩm văn học ưu tú luôn khơi dậy trong tâm hồn ta khả năng đồng cảm,
làm cho ta biết vui, biết buồn, dạy cho ta biết yêu, biết ghét, biết khinh bỉ sự phản
trắc,cái tẹp nhẹp, tầm thường, lười biếng.• Văn học khơi dậy ở ta niềm tin vào sự tất
thắng của cái thiện, niềm tin vào cuộc sống…
2. Văn học biến sự giáo dục thành khả năng tự giáo dục, giúp con
người tự hoàn thiện nhân cách
• Nhân cách của con người được hình thành một cách trọn vẹn thông qua văn học Các
hình tượng văn học đã được nhà văn cẩn thận chọn lọc và gây được xúc cảm tự nhiên
trong lòng người đọc. Ta kinh ghét Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Hồ Tôn Hiến vì ta nhận
ra được bộ mặt thật của chúng qua các động tác thoáng qua:“Ghế trên ngồi tót sổ
sàng” hay “Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào”Nhờ sự yêu, ghét hay thương cảm cho
các nhân vật mà từ đó, nhân cách dần được hình thành trong người đọc một cách tự
giác, dần biến tư tưởng, tình cảm thoáng qua ấy thành nhận thức của người đọc Một
đặc điểm khiến văn học dễ dàng đảm nhiệm chức năng giáo dục đó chính là tính cuốn hút của nó.
• Tác phẩm văn học hiện ra không phải như người thấy thuyết giáo mà như người đồng
hành, người đối thoại với bạn đọc, với khán giả. Những chân lý, luân lý, đạo đức, tư
tưởng, tình cảm mà văn học mang lại không khô khan trừu tượng như triết học hay
khoa học mà rất sống động mà giàu hình ảnh, và được người đọc cảm thụ một cách
thích thú. Nếu không tin, mời bạn khảo sát ví dụ sau đây: Nếu dạy cho đứa trẻ biết thế
nào là tình yêu quê hương đất nước, yêu thiên nhiên,yêu thương đồng bào, đoàn kết
yêu thương nhau, biết được giá trị của cuộc sống bằng những định nghĩa khô khan liệu
có đem lại hiệu quả và dễ gây thiện cảm ở trẻ hơn khi đọc bài thơ “Tiếng ru” của Tố
Hữu. Phải chăng cách đọc thơ (tác phẩm văn học) này sẽ giúp việc nhận thức và giáo
dục có kết quả thật mỹ mãn lẫn gây hứng thú với trẻ? Câu trả lời xin dành cho các bạn
III. Chức năng thẩm mỹ của văn học
Chức năng thẩm mỹ của văn học là một chức năng đặc trưng. Thẩm mỹ chính là cái
đẹp. Cái đẹp ở đây đến từ nhiều phương diện, nhưng tựu trung lại con người luôn thích
chiêm ngưỡng cái đẹp. Đó chính là bản chất của con người, là nhu cầu mà con người luôn hướng đến.
Mỗi người sẽ có định nghĩa khác nhau về cái đẹp, nên không có một thước đo chuẩn
xác cho cái đẹp, bởi lẽ nó khởi phát trong lòng người. Nhưng chức năng của cái đẹp,
sự tác động của cái đẹp thì ta có thể thấy rõ và cảm nhận được. Cái đẹp xoa dịu tâm
hồn con người, gạt bỏ mọi điều xấu xa khỏi tâm hồn con người chỉ để lại những gì
thanh khiết trong tâm hồn con người.Cái đẹp có chức năng cứu rỗi là vì thế. Chính nhờ
có cái đẹp mà con người sẽ cảm thấy thêm yêu cuộc đời này, thấy cuộc sống có thêm
ý nghĩa. Đó chính là giá trị chức năng đặc trưng của các loại hình nghệ thuật nói chung, của văn học nói riêng.
Cái đẹp của văn học đến từ cả hai phương diện hình thức và nội dung. Hình thức của
văn học chính là thể loại chính là ngôn ngữ, hình ảnh được tác giả sử dụng. Nếu họa sĩ
dùng màu sắc để vẽ tranh, nhà điêu khắc dùng đường nét để khắc họa, nhạc sĩ dùng
âm nhạc để nói nên nỗi lòng mình thì nhà văn lại dùng ngòi bút để tạo nên đứa con tinh
thần của mình. Ngôn ngữ chính là chìa khóa vạn năng để thi nhân mở ra cánh cửa của
muôn vàn cảm xúc. Nhà văn nhà thơ là người chắt lọc và sử dụng ngôn ngữ để diễn tả
nỗi lòng của mình. Cái đẹp ấy chính là ngôn ngữ.
Như câu thơ của Quang Dũng trong bài Tây Tiến dù cách đây đã lâu nhưng vẫn đủ sức
làm lay động trái tim người đọc mọi thời đại
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Câu thơ với cách ngắt nhịp 4/3 cùng với sự lặp lại từ “dốc” ở đầu mỗi phần ngắt nhịp đã
tạo nên một hình ảnh độc đáo. Sự bẻ đôi của câu thơ cũng đã phần nào diễn tả được
độ dốc của địa hình. Và câu thơ có nhiều thanh trắc càng gợi được sự khó khăn trúc
trắc trên bước đường hành quân của người lính.
Nhịp thơ như chính hơi thở của người lính trên hành trình leo dốc đầy gian nan này.
Trên bước đường hành quân, khó khăn gian khổ là điều không thể tránh khỏi nhưng
quan trọng là cách ta đối diện với khó khăn. Những người lính Tây Tiến cũng thế. Họ
chấp nhận khó khăn và đối diện nó một cách đầy hiên ngang nhưng không kém phần tinh nghịch.
Biện pháp đảo ngữ đưa từ láy “heo hút” lên đầu đã nhấn mạnh sự vắng vẻ của khung
cảnh nơi đây đồng thời còn nhấn mạnh sự hoang sơ của khung cảnh nơi đây không
một bóng người. Thường với không gian hoang vắng như thế, con người sẽ oán than
cuộc đời hoặc cảm thấy mình bé nhỏ cô độc nhưng những người lính không thế. Họ
nhìn xa hơn vào cái hoang vắng ấy để thấy “súng ngửi trời”.
“Súng ngửi trời” là một hình ảnh nhân hóa đầy thú vị. Súng đeo trên vai luôn theo sát
người lính ở mọi bước đường hành trình. Đi trên con dốc khiến người lính có cảm
tưởng như chạm đến mây. Hình ảnh ấy gợi được độ cao của con dốc. Nhưng qua cái
nhìn của người lính Tây Tiến khung cảnh hiện lên có cảm giác thật nhẹ nhàng, tinh
nghịch như một bộ phim hoạt hình. Thế nhưng chính sự lạc quan tươi vui ấy lại là một
phẩm chất cần có ở người lính. Bởi lẽ nó là chất xúc tác giúp người lính có thể vượt qua mọi khó khăn.
Câu thơ “Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống” là một nét phác họa gợi cho ta liên
tưởng đến một bức tranh thủy mặc thời cổ của một thi sĩ nào đó. Chính nét phác họa
ấy đã tạo nên một bức tranh nhiều chiều, dường như không chỉ là độ cao mà nó còn là
độ sâu nữa. Dù hình ảnh người lính không xuất hiện trực tiếp nhưng trên phông nền
hùng vĩ của thiên nhiên ấy, ta có thể tưởng tượng hình ảnh người lính xuất hiện hùng
tráng biết bao như các chiến sĩ thời trung đại.
Có lẽ chính vì có lí tưởng, có mục đích chiến đấu cao cả nên người lính Tây Tiến không
hề bé nhỏ cô đơn mà ngược lại. Kết thúc bức tranh núi rừng tây tiến hoang sơ nhưng
hùng vĩ ấy là một hình ảnh thật nên thơ thơ mộng với “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Câu thơ chỉ toàn thanh bằng khiến người đọc có một cảm giác thật nhẹ nhàng lãng mạn….
Trong những giây phút dừng chân hiếm hoi, người lính Tây Tiến phóng tầm mắt ra xa
tìm kiếm một nơi ấm, một mái nhà ấm áp. Chỉ bấy nhiêu đó thôi cũng đủ làm dấy lên
trong lòng họ ngọn lửa ấm áp. Đó chính là cái đẹp mà văn học mang lại nhưng cái đẹp
đó không đơn thuần là ở bên ngoài mà còn tác động đến tầng sâu cảm xúc làm lắng
đọng những suy tư. Chính vì vậy, cái đẹp của văn học mới có thể tồn tại.
IV. Chức năng giao tiếp của văn học
Văn học bên cạnh chức năng giáo dục, thẩm mỹ còn có chức năng giao tiếp. Chức
năng giao tiếp của văn học không trực tiếp cụ thể mặt đối mặt như các kiểu giao tiếp
thông thường trong cuộc sống mà nó là sự đối thoại đặc biệt giữa tác giả và người đọc.
Tác giả sẽ truyền tải câu chuyện thông điệp vào trong từng trang viết.
Cuộc đời thi nhân dường như trải ra tâm trạng của người viết cũng được phơi bày một
cách trung thực nhất không giấu giếm không lừa dối. Bởi lẽ thơ ca chỉ có thể tác động
đến trái tim người đọc khi nó đi ra từ chính trái tim của người viết. Trái tim mới có thể đi
đến trái tim. Nếu như những gì anh viết không phải là tình cảm nồng hậu chân thành thì
làm sao có thể rung lên ở người đọc vô vàn xúc cảm. Như đọc những vần thơ của Xuân Diệu:
“Tôi khờ khạo lắm ngu ngơ quá
Chỉ biết yêu thôi chẳng biết gì”
Hay những vần thơ của Hàn Mặc Tử:
“Làm sao giết được người trong mộng
Để trả nợ duyên kiếp phũ phàng”
Nếu đó không phải là những vần thơ xuất phát từ trái tim của thi nhân – một trái tim cô
đơn khát khao tìm kiếm tình yêu thì làm sao những vần thơ ấy còn được lưu truyền đến
ngày nay. Thời gian là dòng chảy khắc nghiệt nhất phũ phàng nhất có thể hủy hoại hết
mọi thứ. Nhưng với tác phẩm văn học, thời gian lại chính là thước đo giá trị chính xác nhất.
Bởi tác phẩm sẽ còn tồn tại, nhà văn nhà thơ sẽ còn tồn tại đến khi nào người đọc thôi
nhớ, thôi xúc động khi đọc tác phẩm. Muốn như thế thì trước hết tác phẩm phải là cái
tình của nhà thơ. Đó là lí do vì sau đã hơn nghìn năm nhưng mỗi lần đọc lại những câu
ca dao xưa ông bà để lại ta không khỏi xúc động trước một nỗi niềm
“Em tưởng giếng nước sâu
Em nối sợi gàu dài
Ai ngờ giếng nước cạn
Em tiếc hoài sợi dây”
Nhưng sự đối thoại giữa người đọc và tác giả lại được diễn ra gián tiếp thông qua tác
phẩm. Nếu như nhà văn là người mang đứa con tinh thần của mình đến với người đọc
thì người đọc lại chính là người mang lại hơi thở, sự sống cho tác phẩm. Và lời hồi đáp
của người đọc dành cho tác giả chính là những nỗi niềm trân quý, sự rung lên trong
tâm hồn và sự thay đổi của người đọc. Tất cả đều góp phần kiến tạo nên một thế giới tốt đẹp hơn.
Văn học là thế, không cần những mĩ từ ngợi ca mà nó được người đời tung hô bởi
những giá trị tự thân, mà giá trị ấy do nhiều yếu tố hợp thành như nhà văn, tư tưởng
của tác phẩm, người đọc,… Một tác phẩm hội tụ đầy đủ những giá trị chức năng này ắt
hẳn sẽ không phải là một tác phẩm nông cạn, trôi tuột trong kí ức người đọc mà ngược
lại sẽ neo đậu trong lòng người đọc bao thế hệ .
• Tóm lại: văn học là phương tiện hữu hiệu nhất có khả năng làm cho những người
cùng chung nỗi đau, khát vọng, quan niệm đạo đức và lí tưởng thẩm mỹ xích lại gần
nhau, đoàn kết với nhau, biến tư tưởng, tình cảm, chuyển nhận thức của họ thành
những hành động thực tiễn.
Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Chức Năng Của Văn Học. Hy
vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường
ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.
Document Outline
- Chức Năng Của Văn Học
- Giới thiệu khái niệm Văn Học
- I. Chức năng nhận thức của văn học
- 1. Văn học cung cấp tri thức bách khoa về hiện thực đời sống:
- 2. Văn học giúp con người tự nhận thức chính mình và cuộc sống:
- II. Chức năng Giáo dục
- 1. Văn học khêu gợi tư tưởng, tình cảm, nuôi dưỡng tâm hồn, niềm tin cho con người
- 2. Văn học biến sự giáo dục thành khả năng tự giáo dục, giúp con người tự hoàn thiện nhân cách
- III. Chức năng thẩm mỹ của văn học
- IV. Chức năng giao tiếp của văn học