lOMoARcPSD| 59732875
Chương 1: Nhập môn luật so sánh
I. Khái niệm luật so sánh 1
. Định nghĩa luật so sánh
a. Luật so sánh là gì???
- Luật so sánh: Comparative Law
+ Việc sử dụng thuật ngữ “Luật so sánh” vẫn đang là vấn đề gây tranh cãi trong khoa học pháp lý.
+ Nếu đúng bản chất thì phải sử dụng thuật ngữ “so sánh luật” (legal comparison), tuy nhiên do “thói quen” sử dụng thuật ngữ “luật so sánh”
nên các học giả vẫn chủ yếu sử dụng thuật ngữ “luật so sánh”. - Có nhiều học giả đưa ra định nghĩa về luật so sánh :
+ “luật so sánh là so sánh các hệ thống PL khác nhau trên thế giới”
+ “luật so sánh là nghiên cứu có hệ thống các truyền thống PL và các quy phạm PL nào đó trên cơ sở so sánh”
- ĐN luật so sánh theo 1 học giả VN: “Luật so sánh là phương pháp để xem xét, nghiên cứu, tiếp cận PL trên bình diện của sự giao lưu quốc
tế.”
Nhận xét về định nghĩa: ưu điểm là ngắn gọn; nhược điểm cụm từ cuối “bình diện của sgiao lưu quốc tế” khó hiểu, đi ngược lại với
quan điểm của các học giả trên thế giới.
- ĐN luật so sánh theo Michael Bogdan: “Luật so sánh bao gồm :
+ So sánh các hệ thống PL khác nhau để xác định những điểm tương đồng và khác biệt giữa chúng;
+ Nghiên cứu những điểm tương đồng khác biệt đã được c định, chẳng hạn, giải thích nguồn gốc của chúng, đánh giá những giải
pháp được sử dụng trong các hệ thống PL khác nhau, phân nhóm các hệ thống PL thành các dòng họ PL hoặc tìm kiếm những điểm
cốt lõi chung của các hệ thống PL;
lOMoARcPSD| 59732875
1
+ Làm những vấn đề mang tính phương pháp luận nảy sinh liên quan đến các nhiệm vụ trên, bao gồm cả những vấn đề tính
phương pháp luận liên quan đến việc nghiên cứu PL nước ngoài”.
Nhận xét về định nghĩa: ưu điểm nêu được đầy đủ các nội dung của luật so sánh; nhược điểm là dài, phức tạp, mặc dù liệt kê chi tiết nội
dung nhưng không nêu rõ được bản chất của luật so sánh. b. Đặc điểm của luật so sánh
- Luật so sánh không phải 1 ngành luật hay lĩnh vực PL thực định trong hệ thống PL quốc gia: tức luật so sánh không phải 1 hệ thống
các quy phạm PL điều chỉnh 1 lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội như luật dân sự, luật hôn nhân gia đình.
- Luật so sánh là 1 ngành khoa học độc lập: đây là bản chất của luật so sánh, dựa trên các lập luận sau :
+ Việc thường xuyên so sánh các hệ thống PL với nhau đã tạo ra một hệ thống tri thức độc lập với hệ thống tri thức của các ngành khoa
học độc lập khác.
+ Tương tự với các ngành khoa học khác, nhất khoa học hội, khi thực hiện so sánh thể phát sinh ra ngành khoa học độc lập,
dụ: bên cạnh ngành triết học ngành triết học so sánh, bên cạnh ngành hội học ngành hội học so sánh, ngôn ngữ học ngôn
ngữ học so sánh.
+ Các học giả đã chứng minh được “luật so sánh” và phương pháp so sánh luật” là hoàn toàn khác nhau không thể coi luật so sánh là
1 phương pháp nghiên cứu mà phải coi đó là 1 ngành khoa học độc lập.
- Phạm vi nghiên cứu của luật so sánh rất rộng: căn cứ vào định nghĩa luật so sánh của Michael Bogdan :
+ So sánh các hệ thống PL khác nhau để xác định những điểm tương đồng và khác biệt giữa chúng: hiện nay trên thế giới có hàng trăm
hệ thống PL (mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ đều ít nhất 1 hệ thống PL, ở các quốc gia liên bang thì mỗi bang lại 1 hệ thống PL
riêng như Hoa Kỳ, Đức, Nga), mà không có 2 hệ thống PL nào trùng hoàn toàn với nhau số lượng đối tượng nghiên cứu là rất lớn.
lOMoARcPSD| 59732875
2
+ Nghiên cứu những điểm tương đồng khác biệt giữa các hệ thống PL: trong mỗi hệ thống PL đều rất nhiều các chế định, các nguyên
tắc, các quy phạm có rất nhiều nội dung để luật so sánh nghiên cứu.
2 . Đối tượng nghiên cứu của luật so sánh
- Mặc còn tranh luận về bản chất của luật so sánh những các học giả đều thừa nhận: “việc so sánh các hệ thống PL khác nhau nhằmm
ra những điểm tương đồng và khác biệt của chúng” là nội dung cơ bản, chủ đạo của các công trình luật so sánh. a. Khái quát các đối tượng
nghiên cứu.
- Hệ thống pháp luật (legal system): có 3 cách hiểu (cách sử dụng ):
+ Tổng thể các quy phạm PL và thiết chế PL của 1 quốc gia/ vùng lãnh thổ: ngoài các quy phạm PL còn có các vấn đề khác như mô hình
tổ chức tòa án của quốc gia đó, về hoạt động nghề nghiệp của luật sư, thẩm phán, công chứng viên, công tố viên,..., về hoạt động đào
tạo luật và đào tạo nghề luật.
+ Tổng thể các quy phạm PL của 1 quốc gia/ lãnh thổ: VD tổng thể các quy phạm PL của Trung Quốc
+ PL của 1 nhóm quốc gia/ vùng lãnh thổ mà trong đó PL điểm chung nhất định: VD nhóm hệ thống PL các nước XHCN, nhóm hệ
thống PL các nước châu Âu lục địa
Trong môn hc này, s hiu H thông PL theo cách hiu thu 2, tuc là H thông PL là tông th quy phm PL và thit ch PL ca 1 quôc
gia/ vùng lãnh thô.
- Dòng họ PL (legal family): hệ thống PL của 1 nhóm quốc gia/ vùng lãnh thổ mà những điểm chung nhất định. VD dòng họ PL common
law, dòng họ PL các nước XHCN,...
lOMoARcPSD| 59732875
3
+ Thuật ngữ “ng họ PL” do Montesquieu sáng tạo ra khi nghiên cứu các hệ thống PL, sau đó Rene David sử dụng rất nhiều trong các
tác phẩm của mình (nhiều đến mức công chúng lầm tưởng Rene David là người sáng tạo ra thuật ngữ “ng họ PL”) + Là nhóm hệ
thống PL có đặc điểm chung nhất định
+ Trong đó xuất hiện hệ thống PL gốc, hệ thống PL bố mẹ. VD hệ thống PL của Anh được coi hệ thống PL gốc của dòng họ PL common
law, hệ thống PL ca Pháp được coi là gốc của dòng họ PL civil law
+ Thuật ngữ “truyền thống PL” (legal tradition) được sử dụng với nghĩa tương tự: thể dùng cả 2 thuật ngữ “dòng họ PL” truyền
thống PL” với ý nghĩa tương đương.
- Pháp luật quốc tế: hiện nay vẫn còn tranh cãi giữa các học giải xem PL quốc tế có phải là đối tượng nghiên cứu của luật so sánh không. Lý
do vì PL quốc tế thường là “đơn nhất”, không có 2 đối tượng PL quốc tế để so sánh, VD công ước luật biển quốc tế là duy nhất. Tuy nhiên,
vẫn trường hợp khi 1 quốc gia gia nhập 1 điều ước quốc tế, thì quốc gia đó phải xem xét các quy định trong điều ước quốc tế có phù hợp,
có mâu thuẫn với luật quốc gia của mình không, tức là có sự so sánh.
Lưu ý:
+ So sánh luật không phải là so sánh toàn bộ hệ thống PL với nhau mà có thể chỉ so sánh 1 vấn đề nhỏ hoặc rất nhỏ. VD so sánh chế định
bầu cử của Vn tới Pháp, so sánh chế định tài sản của Vn với Thái Lan.
+ Chỉ đối tượng của luật so sánh khi đặt chúng trong mối tương quan so sánh. b.
Cấp độ so sánh
- Chia hoạt động so sánh làm 2 cấp độ :
+ Cấp độ so sánh vĩ mô: đối tượng so sánh là những vấn đề mang tính cốt lõi, chủ đạo, khái quát.
+ Cấp độ so sánh vi mô: đối tượng so sánh là những vấn đề chi tiết, cụ thể
lOMoARcPSD| 59732875
4
- Việc phân chia này chỉ mang tính tương đối, thường phải kết hợp cả vĩ vi mô trong từng công trình nghiên cứu so sánh luật, VD ở
công trình so sánh cấp độ vĩ mô, thìng cần so sánh những đối tượng ở cấp độ vi mô để minh họa cho so sánh đó. VD: các hoạt động sau
là so sánh vĩ mô hay sonh vi mô:
+ So sánh hệ thống PLVN với hệ thống PL Lào vĩ mô
+ So sánh PL hình sự Trung Quốc với PL hình sự Nhật vi mô, vì sẽ phải so sánh từng chế định cụ thể.
+ So sánh quy phạm PL định nghĩa bất động sản trong PL Thái Lan và PL Pháp vi mô
+ So sánh dòng họ PL XHCN và dòng họ Civil Law vĩ mô
+ So sánh chế định hợp đồng của PL Anh và PL Đức vi mô
3 . Phương pháp nghiên cứu của luật so sánh
a. Các phương pháp nghiên cứu mà luật so sánh sử dụng
- Có nhiều phương pháp nghiên cứu mà luật so sánh sử dụng: so sánh, lịch sử, phân tích, tổng hợp, logic,...
- Phương pháp so sánh là phương pháp nghiên cứu chủ đạo của ngành khoa học luật so sánh (đến mức nhiều người lầm tưởng luật so sánh
là phương pháp so sánh).
- Phân biệt Phương pháp so sánh luật với Luật so sánh :
Luật so sánh
Phương pháp so sánh luật
Bản chất
- Là ngành khoa học độc lập
- Sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó có
phương pháp so sánh luật
- Là 1 phương pháp nghiên cứu luật
- Được áp dụng trong nhiều ngành khoa học khác,
trong đó có ngành khoa học luật so sánh
lOMoARcPSD| 59732875
5
Mục đích
- Tìm ra những điểm tương đồng khác biệt giữa những
đối tượng so sánh
- giải nguồn gốc của những điểm tương đồng khác
biệt đó.
- Đánh giá các giải pháp pháp dành cho các đối tượng so
sánh. VD khi so sánh chế định bầu cử của Vn với Hoa Kỳ,
sẽ phần đánh giá ưu, nhược điểm của mỗi chế định bầu
cử, đánh giá xem liệu có thể áp dụng những ưu
- Tìm ra điểm tương đồng và khác biệt giữa các đối
tượng so sánh - Không cần lý giải
- Không cần đánh giá.
điểm của chế độ bầu cử Hoa Kỳ vào VN không,...
Lưu ý:
- Để lý giải được, còn phải sử dụng phương pháp logic và phương pháp lịch sử - Để đánh giá được, thể phải sử dụng phương pháp
hội học. Đây là sự khác biệt lớn nhất của luật so sánh và phương pháp so sánh luật. b. Phương pháp so sánh trong luật so sánh
- Nguyên lý chung khi sử dụng phương pháp so sánh: các đối tượng so sánh phải tương đồng, tương ứng với nhau.
- Trong luật so sánh phải tuân thủ nguyên đó các đối tượng trong 1 công trình so sánh luật phải thực hiện cùng chức năng. c. Các bước
của quá trình so sánh luật Gồm 6 bước:
Bước 1: Xây dựng giải quyết nghiên cứu
- Xác định vấn đề dự kiến nghiên cứu: đưa ra câu hỏi để nghiên cứu
- Xây dựng giả thuyết nghiên cứu: để định hướng chương trình đi theo hướng nào
Bước 2: Lựa chọn đối tượng nghiên cứu: xác định cụ thể, rõ ràng đối tượng nghiên cứu, phải có thuộc tính pháp lý tương ứng để so sánh.
Bước 3: Thu thập tài liệu tham khảo - Mục đích:
lOMoARcPSD| 59732875
6
+ Để xem các học giả khác đã giải quyết vấn đề mình đặt ra như thế nào, từ đó đánh giá cách giải quyết của họ, đưa ra những điểm
đồng tình/ không đồng tình với họ nhằm đưa ra quan điểm, cách giải quyết của mình.
+ Để xem vấn đề mình đặt ra đã được các học giả khác giải quyết đến đâu rồi, còn có những phần nào các học giả chưa giải quyết
không Nhằm tập trung vào những phần chưa được giải quyết.
Mục đích của việc thu thập tài liệu là để xác định hướng đi cụ thể của công trình nghiên cứu
- Lưu ý: phải đánh giá độ tin cậy của tài liệu tham khảo dựa vào nguồn cung cấp tài liệu VD nhà xuất bản, tác giả, đơn vchủ quản của
website.
Bước 4: Xây dựng hệ thống tiêu chí so sánh
+ Mục đích: để công trình nghiên cứu được trọn vẹn hơn, rõ ràng hơn
+ Lưu ý: tránh sử dụng thuật ngữ pháp lý không đồng nhất giữa các quốc gia, giữa các hệ thống PL
Bước 5: Viết báo cáo so sánh
+ Chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa các đối tượng so sánh trên cơ sở những tiêu chí đã đặt ra ở Bước 4
+ Lưu ý: cần trung thực, khách quan khi viết báo cáo, tránh áp đặt ý chí chủ quan của mình, và cũng tránh tuân theo “mù quángquan
điểm, ý kiến của học giả khác, dù cho học giả có uy tín và nổi tiếng như thế nào. Bước 6: Đánh giá có phê phán kết quả so sánh
+ Giải thích nguồn gốc của những điểm tương đồng, điểm khác biệt +
Phân tích, đánh giá ưu, nhược của các giải pháp pháp lý.
+ Nhận xét về hiệu quả của các giải pháp pháp lý.
Chú ý: khác với Bước 5 yêu cầu cần khách quan, thì ở bước 6, nhà nghiên cứu hoàn toàn có thể đưa ra ý kiến chủ quan của mình.
Chú ý: không nhất thiết phải thực hiện tất cả các bước trên. Tùy theo mục đích nghiên cứu mà lựa chọn những bước thực hiện cho phù hợp.
lOMoARcPSD| 59732875
7
c. Một số điều cần lưu ý khi nghiên cứu PL nước ngoài.
- Phải so sánh các đối tượng của PL trong nước với PL nước ngoài hoặc của PL nước ngoài với nhau chứ không phải đối tượng của PL
trong nước với nhau vì nó không là đối tượng của luật so sánh.
VD: so sánh Luật hình sự 1999 với Luật hình sự 2015: đây không phải là đối tượng của luật so sánh
- Cần có nguồn thông tin chính xác và đáng tin cậy về PL nước ngoài
- Phải có thông tin cập nhật về PL nước ngoài
- Nắm được các nguồn luật và sử dụng đúng các thuật ngữ pháp lý của nước ngoài. e. Cơ sở để lý giải những điểm tương đồng và khác biệt
giữa các hệ thống PL
- Hệ thống chính trị và tư tưởng: VD xã hội chủ nghĩa và hệ tư tưởng Mác Lê nin đề cao sở hữu chung, sở hữu toàn dân; tư bản chủ nghĩa và
hệ tư tưởng phương Tây đề cao sở hữu tư nhân.
- Sự phát triển của nền kinh tế: VD hthống PL của nước phát triển khác với hệ thống PL của nước đang phát triển, hay nước chậm phát
triển.
- Yếu tố lịch sử và địa lý :
+ Lịch sử: VD các quốc gia từng là thuộc địa chịu ảnh hưởng lớn của hệ thống PL chính quốc.
+ Địa lý = vị trí + khí hậu: VD pháp luật về biển chỉ có ở những quốc gia có biển
- Yếu tố về dân số: ảnh hưởng tới PL về hôn nhân gia đình, an sinh xã hội
- Tác động phối hợp của các biện pháp kiểm soát: liên quan đến PL về thuế, sở hữu trí tuệ,... của mi quốc gia.
- Những yếu tố ngẫu nhiên: có những trường hợp hệ thống PL của 2 quốc gia giống nhau (một phần) mà không thuộc các yếu tố đã u trên.
II. Sự hình thành và phát triển của luật so sánh.
lOMoARcPSD| 59732875
8
1 . Sự hình thành và phát triển của luật so sánh trên thế giới
a. Giai đoạn trước thế kỷ 19 - Các
tiểu giai đoạn :
+ Cổ đại
+ Nhà nước đế quốc La Mã
+ Trung cổ
+ Cận đại (thời kỳ ánh sáng và PL tự nhiên) - Thời
kỳ cổ đại (trước Công nguyên )
+ Gồm Nhà nước Lưỡng Hà, Hy Lạp cổ đại, La Mã cổ đại
+ Theo Rene David: “ Việc so sánh các hệ thống PL ở cạnh nhau về mặt địa lý là công việc đã có từ xa xưa như chính khoa học pháp lý”
+ Nhà nước Hy Lạp cổ đại: Plato với tác phẩm “các luật lệ”, Aristot với tác phẩm “Chính trị”,... trong đó so sánh PL của các thành bang
Hy Lạp với nhau, từ đó rút ra những quy định PL tốt nhất, tối ưu nhất.
+ Nhà nước La Mã cổ đại: các học giả La Mã cổ đại đã nghiên cứu và so sánh PL của các thành bang Hy Lạp cổ đại với nhau và so sánh
với tập quán của La Mã, từ đó rút ra những quy định được cho là tốt nhất, kết quả là Luật 12 bảng ra đời Ngay từ thời cổ đại đã xuất hiện
những mầm mống của luật so sánh.
Chú ý: mới chỉ ở mức độ “mầm mống” của luật so sánh chứ chưa phải là đã có luật so sánh từ thời cổ đại. Lý do là vì: những công trình so
sánh luật không được đưa vào thực tiễn ứng dụng, ví dụ Aristot viết tác phẩm “chính trị” rất nổi tiếng nhưng ông không đề nghị thành bang
Hy Lạp cổ đại nào ứng dụng vào thực tiễn.
- Thời kỳ nhà nước đế quốc La Mã (thế kỷ 1 trước CN - thế kỷ 6)
lOMoARcPSD| 59732875
9
+ Do các luật gia, đặc biệt là các luật gia La Mã quan niệm Luật La Mã là luật phát triển nhất và cho rằng PL nước ngoài là “rối rắm và ngớ
ngẩn” không cần phải nghiên cứu so sánh thực tế, tại thời điểm này thì hệ thống PL của nhà nước La phát triển nhất, tạo nền tng
xây dựng hệ thống PL của hầu hết các quốc gia sau này.
+ 1 số học giả nghiên cứu so sánh Luật La với luật nước ngoài, nhưng mục đích nghiên cứu của hlại để phân tích những “ngớ
ngẩn” của luật nước ngoài luật so sánh không có cơ hội phát triển ở nhà nước La Mã. - Thời kỳ trung cổ (thế kỷ 6 - thế kỷ 14)
+ Châu Âu rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng (“đêm trường trung cổ”), PL không được coi trọng hầu như không sự nghiên cứu,
phát triển PL
+ Châu Âu lục địa tồn tại nhiều loại luật: luật La Mã, tập quán pháp, luật giáo hội, nhưng hầu như không xuất hiện công trình so sánh nào.
Các luật gia cho rằng Luật La Mã và Luật Giáo hội là những luật có hiệu lực tuyệt đối và không có gì nghi ngờ.
+ Đến thế kỷ 13, Anh là quốc gia đầu tiên xây dựng thống nhất hệ thống PL của mình, trong khi các nước Châu Âu khác thì PL vẫn còn
manh mún, chưa thành hệ thống. Khi đó xuất hiện một số học giả Anh quốc tiến hành các công trình nghiên cứu so sánh PL Anh và PL Pháp
nhưng thiếu khách quan, phần lớn chỉ để chê bai PL Pháp và khẳng định sự tối ưu của PL Anh. - Thời kỳ cận đại (thế kỷ 17 - thế kỷ 18, là
thời đại ánh sáng và PL tự nhiên )
+ Các quốc gia đã dần ổn định, PL được quan tâm và phát triển
+ Các luật gia chỉ tập trung nghiên cứu PL quốc gia, luật so sánh hầu như không phát triển.
+ Tuy nhiên, 1 số học giả, đặc biệt Montesquieu đề xuất các học giả cần thoát khỏi khuôn khổ hệ thống PL quốc gia, để đánh giá
được gtrị đúng của hệ thống PL. Montesquieu đã sử dụng phương pháp so sánh để phát triển các bài giảng của mình tạo nền móng
cho luật so sánh phát triển mạnh mẽ sau này.
lOMoARcPSD| 59732875
10
b. Từ thế kỷ 19 đến nay (một số học giả lấy mốc 1869 – nay, lấy mốc ra đời của Tạp chí Luậtso sánh ở Pháp) –
Ngay từ đầu thế kỷ 19, một số trường đại học ở Anh đã đưa môn Luật so sánh vào giảng dạy.
Sự ra đời của một loạt các bộ luật của các quốc gia châu Âu, đặc biệt sự ra đời của Bộ luật thương mại chung của Đức năm 1861, đều
dựa trên việc so sánh luật của các quốc gia
Ngày càng nhiều học giả tập trung nghiên cứu luật so sánh, dần dần, với tri thức tích lũy được, các giả nhận ra rằng cần phải coi luật so
sánh là 1 môn khoa học độc lập
Luật so sánh phát triển mạnh mẽ dưới 2 hình thức:
+ Luật so sánh lập pháp: là quá trình theo dõi PL của nước ngoài được viện dẫn để soạn thảo các văn bản PL quốc gia
+ Luật so sánh học thuật: là việc so sánh các hệ thống PL khác nhau, đơn giản chỉ là nhằm nâng cao hiểu biết về PL
c. Sự phát triển của luật so sánh ở khối các nước XHCN trước đây
Trước những năm 50 của thế kỷ 20, luật so sánh không có cơ hội phát triển
Sau khi khối các nước XHCN hình thành, luật so sánh được thừa nhận bắt đầu được quan tâm, tuy nhiên luật so sánh vị trí rất mờ
nhạt, có rất ít công trình so sánh luật. Nguyên nhân:
+ Khách quan: bị cấm vận, nguồn luật thì chủ yếu các nước TBCN + Chủ
quan :
Việc tìm hiểu về PL TBCN bị cấm đối với các luật gia XHCN
Luật so sánh phạm vi nghiên cứu chủ yếu là hệ thống PL của các nước XHCN, mà các nước XHCN chủ yếu sao chép luật của Liên
bang Xô Viết không có gì để so sánh.
2 . Sự phát triển của luật so sánh ở VN
lOMoARcPSD| 59732875
11
Thời kỳ phong kiến: rất mờ nhạt, mới chỉ có luật so sánh lập pháp, tức là tiếp thu luật từ nước khác (chủ yếu từ Trung Quốc) vào xây dựng
luật, VD Quốc triều hình luật tiếp thu PL nhà Đường, Bộ luật Gia Long gần như sao chép hoàn toàn luật nhà Thanh Thời kỳ 1945-1975:
+ hầu như không có ở miền bắc
+ miền nam: luật so sánh rất phát triển
xuất hiện các học giả nổi tiếng về luật so sánh như Tiến sỹ Ngô Bá Thành (tiến sỹ ở Pháp, là tiến sỹ về luật so sánh đầu tiên của VN),
luật sư Vũ Văn Mẫu
năm 1961 bộ Dân luật Nam kỳ được xây dựng trên cơ sở của luật so sánh
miền nam VN là thành viên của Hiệp hội Luật so sánh thế giới
Thời kỳ 1975 – 1986: hầu như không phát triển vì cả nước đang xây dựng XHCN
Thời kỳ 1986 – nay: đạt được nhiều thành tựu lớn
+ luật so sánh lập pháp: xây dựng PL trên sở học hỏi luật nước ngoài, VD luật hình sự 1999, luật dân sự 2015 +
luật so sánh học thuật :
xuất hiện nhiều học giả nghiên cứu luật so sánh như TS Nguyễn Kim Pháp, TS Thị Ánh Vân, TS Khánh Vinh, TS Nguyễn
Thanh Tâm,
xuất hiện các đơn vị tổ chức nghiên cứu luật so sánh như Phòng luật so sánh của Viện Nhà nước và Pháp luật, Trung tâm luật so sánh
của ĐH Quốc gia Hà Nội, Viện Luật so sánh – ĐH Luật Hà Nội, …
môn học luật so sánh được đưa vào giảng dạy tại tất cả các cơ sở đào tạo luật
III. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luật so sánh
lOMoARcPSD| 59732875
12
1. Trang bị kiến thức văn hóa chung cho người nghiên cứu: khi thực hiện nghiên cứu luật so sánh, các học giả thường không chỉ nghiên
cứu các quy phạm PL, các thiết chế, mà còn nghiên cứu sao các quy phạm PL, các thiết chế, lại được xây dựng như thế, tức là
biết được kiến thức về văn hóa của quốc gia đó
2. Nâng cao hiểu biết về PL quốc gia :
+ bằng việc nghiên cứu luật so sánh, các học giả thể biết những quy định, thiết chế trong luật quốc gia mình nguồn gốc từ đâu, từ đó
nắm được sâu hơn bản chất PL quốc gia mình
+ bằng việc so sánh PL các quốc gia, nhà nghiên cứu sẽ có đánh giá khách quan về PL của nước mình so với thế giới (chứ không bị tư tưởng
chủ quan, coi PL nước mình là ưu việt hơn)
3. Hỗ trợ tìm kiếm hình PL tưởng: đánh giá được cái tốt, cái xấu, cái phù hợp nhất, tưởng nhất cho hệ thống PL quốc gia mình.Đây
là ý nghĩa chính, quan trọng nhất của luật so sánh.
4. Hỗ trợ tiến trình hòa hợp và nhất thể hóa PL :
+ hài hòa hóa PL: là việc làm cho PL của các quốc gia dù khác nhau nhưng có thể “sống chung” với nhau
+ nhất thể hóa PL: là việc đưa ra những quy định PL chung cho các quốc gia
==> nghiên cứu luật so sánh giúp cho việc xây dựng và áp dụng luật quốc tế (cả công pháp quốc tế và tư pháp quốc tế), tức là giúp cho việc
xử lý được những xung đột PL giữa các quốc gia Giúp như thế nào ?
+ việc nghiên cứu luật so sánh giúp cho những nhà thương thuyết hiểu được sự tương đồng và khác biệt trong hệ thống PL của các nước liên
quan ==> dễ dàng hơn cho việc xây dựng luật quốc tế
+ giúp cho việc đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các bên tham gia trong điều ước quốc tế
lOMoARcPSD| 59732875
13
+ nghiên cứu luật so sánh giúp rất nhiều cho việc xây dựng các quy định của luật quốc tế, thường sẽ bắt nguồn từ 1 tập quán hay 1 quy
định của 1 hay 1 số quốc gia cụ thể (chứa rất ít khi xây dựng từ đầu)
5. Hỗ trợ thực hiện áp dụng PL: khi giải quyết các vụ việc yếu tố nước ngoài, việc hiểu biết luật so sánh (tức hiểu biết PL nước
ngoài trên sở so sánh với luật nước mình) sẽ hỗ trợ rất nhiều cho những người xét xử những người liên quan. IV. Sự phân nhóm
các hệ thống PL trên thế giới
1 . Mục đích phân nhóm
Nắm được sự tương đồng giữa các hệ thống luật sẽ giúp nghiên cứu PL nước ngoài trở nên rõ ràng hơn.
Số lượng hệ thống PL trên thế giới là rất nhiều, trên 200 hệ thống PL ==> 1 học giả gần như không thể nghiên cứu chi tiết từng hệ thống PL
==> tìm ra những điểm tương đồng của các hệ thống PL và sắp xếp chúng vào cùng 1 nhóm ==> khi so sánh các hệ thống PL, chỉ cần chọn
1 hệ thống PL điển hình của nhóm đó (mà không cần tìm hiểu lần lượt từng hệ thống PL )
Mục đích chủ yếu của việc phân nhóm các hệ thống PL trên thế giới nhằm mục đích sư phạm.
2 . Tính tương đối của việc phân nhóm các hệ thống PL trên thế giới
Sử dụng những tiêu chí phân nhóm khác nhau sẽ cho ra kết quả phân nhóm khác nhau.
+ Rene David dựa vào 2 tiêu chí là Hệ tư tưởng và Kỹ thuật lập pháp ==> cho ra 4 nhóm :
nhóm PL Đức – La Mã (hay nhóm Roman Giecmanh),
nhóm PL xã hội chủ nghĩa,
nhóm PL dựa trên tôn giáo truyền thống (những nước Hồi giáo, Phật giáo một số nước châu Phi), nhóm PL Anh – Mỹ (common
law)
+ Zweigert và Kotz sử dụng 5 tiêu chí ==> cho ra 8 nhóm PL
lOMoARcPSD| 59732875
14
Mặc dù sử dụng những tiêu chí phân nhóm giống nhau nhưng tiến hành tại thời điểm khác nhau, sẽ cho ra kết quả phân nhóm khác nhau.
Chẳng hạn trường hợp phân nhóm theo 2 tiêu chí là Hệ tư tưởng và Kỹ thuật lập pháp của Rene David được thực hiện vào những năm 60
của thế kỷ 20, kết quả cho ra 4 nhóm PL (như đã nêu trên).
Đến đầu thế kỷ 21, 1 học giả khác cũng sử dụng 2 tiêu chí là Htư tưởng và Kỹ thuật lập pháp, nhưng lại cho ra kết quả khác, chỉ có 3 nhóm
là nhóm civil law, nhóm common law, nhóm PL dựa trên tôn giáo và truyền thống ==> lý do là vì cuối thế kỷ 20 khối XHCN đã sụp đổ ==>
không còn tạo thành 1 dòng họ PL riêng như trước đây.
Trong nhiều cách phân nhóm hệ thống PL phổ biến, có 1 số hệ thống PL khó xếp vào bất cứ nhóm nào trong số các nhóm được phân chia.
VD hệ thống PL của VN gồm các đặc điểm của cả Civil law và Common law; hệ thống PL của Malaysia là sự pha trộn của luật Hồi Giáo
và common law; ngoài ra hệ thống PL của Quebec, Louisiana, Nam Phi cũng rất khó để xếp vào nhóm nào.
- Hệ quả: không thể khẳng định cách phân nhóm của học giả nào là chính xác nhất và cách phân nhóm nào là không chính xác.
3 . Các tiêu chí để phân nhóm
a. Sự thay đổi trong quan niệm sử dụng tiêu chí phân nhóm
Trước đây, nhiều học giả luật so sánh đã cố tìm ra tiêu chí duy nhất để phân chia các hệ thống PL thành các nhóm. VD tiêu chí hệ thống
kinh tế, hay tiêu chí nguồn gốc lịch sử của hệ thống PL.
Tuy nhiên, đã không thể tìm ra tiêu chí duy nhất đó.
Ngày nay, phần lớn các học giả đều cho rằng không thể có tiêu chí hoàn hảo, và để việc phân nhóm có ý nghĩa, cần dựa trên 1 vài tiêu chí
khác nhau
VD nếu dùng tiêu chí Hệ tư tưởng thì có thể phân chia Hệ thống PL XHCN và Hệ thống PL TBCN, nhưng trong hệ thống PLTBCN có nước
Anh theo common law, nước Pháp theo civil law ==> mục đích không đạt b. Các tiêu chí phân nhóm Các tiêu chí cơ bản:
lOMoARcPSD| 59732875
15
+ nguồn gốc lịch sử phát triển
+ hệ tưởng + k
thuật lập pháp
Các tiêu chí thứ cấp:
+ nguồn luật
+ kiểu tư duy pháp lý đặc thù
+ cấu trúc PL
4 . Các cách phân nhóm điển hình
Rene David
Zweigert và Kotz
Số lượng
các
tiêu chí sử
dụng
+ Hệ tư tưởng
+ Kỹ thuật lập pháp
5 tiêu chí :
+ nguồn gốc lịch sử phát triển của hệ thống PL
+ Nguồn luật
+ Kiểu tư duy pháp lý đặc t
+ Cấu trúc PL +
Hệ tư tưởng
Cách sử
dụng tiêu
chí phân
nhóm
Sử dụng đồng thời chứ không phân biệt cao - thấp
Sử dụng theo thứ tự ưu tiên các tiêu chí, lần lượt sử dụng
các tiêu chí để tiến hành phân nhóm
lOMoARcPSD| 59732875
16
Kết quả
phân
nhóm
4 nhóm, mi nhóm là 1 dòng họ PL
8 nhóm, mỗi nhóm là 1 dòng họ PL
CHƯƠNG 2: DÒNG HỌ PHÁP LUẬT CHÂU ÂU LỤC ĐỊA
- Có 3 tên gọi :
+ Dòng họ Civil Law: dòng họ PL dân luật, dòng họ PL dân sự
+ Dòng họ PL châu Âu lục địa: vì ra đời đầu tiên ở các quốc gia thuộc châu Âu lục địa, sau lan rộng ra các quốc gia trên toàn thế giới.
+ Dòng họ PL thành văn: coi trọng pháp điển hóa PL (tức là PL thành văn) và trung tâm là PL dân sự, có nguồn gốc từ thời La Mã.
- Chế định PL đặc thù: luật nghĩa vụ, gồm 3 nội dung :
+ Hợp đồng
+ Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
+ Làm giàu bất thành
I. Sự hình thành và phát triển của dòng họ Civil Law -
Có 2 giai đoạn :
+ Dòng họ Civil law hình thành và phát triển ở châu Âu lục địa +
Dòng họ Civil law mở rộng sang các châu lục khác.
1. Sự hình thành phát triển của dòng họ civil law châu Âu lục địa
Chia làm 3 giai đoạn:
+ giai đoạn trước thế kỷ 11
+ giai đoạn từ thế kỷ 11 – thế kỷ 18
lOMoARcPSD| 59732875
17
+ giai đoạn từ cuối thế kỷ 18 – nay
a. Giai đoạn trước thế kỷ 11
- PL các nước châu Âu lục địa trước thế kỷ 11 là sự tồn tại của nhiều loại PL khác nhau. Có 3 loại chính:
+ PL thành văn: luật La Mã,
+ tập quán pháp: PL của các vùng, miền khác nhau
+ luật giáo hội: ra đời muộn hơn, xuất hiện vào thế kỷ 6, 7
Thời kỳ này PL còn đơn giản, có sự khác biệt giữa 2 tiểu giai đoạn:
+ trước thế kỷ 7: gồm PL La Mã, tập quán địa phương
+ thế kỷ 7 – thế kỷ 10: tập quán địa phương, luật giáo hội (thời kỳ khủng hoảng toàn diện, gọi là “Đêm trường trung cổ” với sự thống
trị của luật tôn giáo)
Dòng họ civil law được cấu thành từ luật La Mã, tập quán địa phương, luật giáo hội, và tư tưởng về PL tự nhiên đã trải qua 1
quá trình phát triển lâu dài và phức tạp. Nhưng nền tảng chính tạo nên dòng họ civil law là luật La Mã. Về luật La Mã
- Có nhiều quan điểm về khái niệm Luật La Mã :
+ bộ tổng luật do Hoàng đế Justinian ban hành (gọi Corpus Juris Civilis) (đây thời kỳ thịnh vượng của đế quốc La Mã): đây
tổng luật đồ sộ nhất trong hơn 1000 năm tồn tại của nhà nước La Mã, là tập hợp toàn bộ các quy định PL của nhà nước La Mã. Bộ
tổng luật này không chỉ có hiệu lực trong thời hoàng đế Justinian mà vẫnhiệu lực trong các triều đại về sau của nhà nước La Mã.
Không những thế, bộ luật này ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ các hthống PL của nhân loại, rất nhiều quy tắc pháp lý, rất nhiều
quy định PL của các quốc gia sau này bắt nguồn từ bộ tổng luật này chính vì tầm ảnhởng quá lớn của Corpus Juris Civilis và các
biến tướng của Corpus Juris Civilis.
lOMoARcPSD| 59732875
18
+ Là Corpus Juris Civilis và các biến tướng của Corpus Juris Civilis.
+ Là toàn bộ các bluật La Mã từ thế kỷ 5 trước CN đến thế 6, 7: tức là toàn bộ các sản phẩm PL của các triều đại La Mã. Chú ý: mặc dù
nhà nước La tồn tại đến tận thế kỷ 15, tuy nhiên kể từ thế kỷ 6, 7 thì nhà nước La đã suy yếu rất nhiều không còn đưa ra
được sản phẩm lập pháp nào đáng chú ý nữa.
Nhận xét: Cách hiểu 1 và 2 không chính xác. Cách hiểu thứ 3 mới được công nhận rộng rãi.
- Một số thành tố cơ bản của Luật La Mã :
+ Thuật ngữ “luật La Mã” được dùng để chỉ toàn bộ khối lượng PL La Mã được ban hành trong hơn 1 thiên niên kỷ (kéo dài từ
năm 450 trước CN đến thế kỷ 6, 7) + 3 thành tố cơ bản của luật La Mã :
Luật 12 bảng
Tác phẩm Institutes của Gaias
Corpus Juris Civilis - Luật 12 bảng :
+ Gọi là Luật 12 bảng vì sau khi ban hành, nhà nước La Mã đã khắc bộ luật này ra 12 tấm bảng và để ra nơi công cộng để người dân
biết và tuân theo.
+ Ra đời khoảng năm 451 449 trước CN, trong quá trình xây dựng Luật 12 bảng, các nhà lập pháp La Mã đã sử dụng luật so
sánh. Vào thời điểm này thì nhà nước Hy Lạp láng giềng đã hệ thống PL tương đối hoàn chỉnh với những hệ thống PL
riêng của mỗi thành bang Hy Lạp (khoảng 50 thành bang), để học hỏi thì nhà nước La Mã đã thành lập Hội đồng pháp quan
sang Hy Lạp học hỏi, những pháp quan này đã so sánh PL của mỗi thành bang Hy Lạp, đồng thời so sánh với tập quán La
Mã để xây dựng nên những quy định PL phù hợp nhất.
+ Đặc điểm:
lOMoARcPSD| 59732875
19
Chứa đựng nhiều tập quán la - tinh (tập quán của người La Mã cổ đại) và nhiều quy định giống PL Hy Lạp cổ đại
Phạm vi điều chỉnh hẹp (luật 12 bảng có rất ít quy định cụ thể mà phần lớn là các quy định mang tính nguyên tắc, và chủ
yếu chỉ quy định luật tư, cụ thể là luật dân sự) sau khi ra đời, nhà nước La Mã vẫn phải sử dụng tập quán pháp để điều
chỉnh các quan hệ xã hội.
Mặc dù ra đời rất sớm, luật 12 bảng bên cạnh 1 số quy định còn lạc hậu, mang đậm tính chất của xã hội chiếm hữu nô lệ,
còn có rất nhiều quy định được đánh giá là rất tiến bộ như quy định về thừa kế, quy định về thủ tục tố tụng,...
+ Ý nghĩa: luật 12 bảng có ý nghĩa rất lớn không chỉ đối với nhà nước La Mã mà còn đối với nhân loại:
Đây là bộ luật thành văn đầu tiên của nhà nước La Mã, góp phần xây dựng nên nhà nước La Mã thịnh vượng.
Từ thành công của Luật 12 bảng, nhà nước La Mã đã rất quan tâm đến PL thành văn, và các nhà nước ở Châu Âu lục địa
sau này kế thừa tư duy xây dựng PL thành văn.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 59732875
Chương 1: Nhập môn luật so sánh
I. Khái niệm luật so sánh 1
. Định nghĩa luật so sánh
a. Luật so sánh là gì???
- Luật so sánh: Comparative Law
+ Việc sử dụng thuật ngữ “Luật so sánh” vẫn đang là vấn đề gây tranh cãi trong khoa học pháp lý.
+ Nếu đúng bản chất thì phải sử dụng thuật ngữ “so sánh luật” (legal comparison), tuy nhiên do “thói quen” sử dụng thuật ngữ “luật so sánh”
nên các học giả vẫn chủ yếu sử dụng thuật ngữ “luật so sánh”. - Có nhiều học giả đưa ra định nghĩa về luật so sánh :
+ “luật so sánh là so sánh các hệ thống PL khác nhau trên thế giới”
+ “luật so sánh là nghiên cứu có hệ thống các truyền thống PL và các quy phạm PL nào đó trên cơ sở so sánh”
- ĐN luật so sánh theo 1 học giả VN: “Luật so sánh là phương pháp để xem xét, nghiên cứu, tiếp cận PL trên bình diện của sự giao lưu quốc tế.”
Nhận xét về định nghĩa: ưu điểm là ngắn gọn; nhược điểm là cụm từ cuối “bình diện của sự giao lưu quốc tế” khó hiểu, đi ngược lại với
quan điểm của các học giả trên thế giới.
- ĐN luật so sánh theo Michael Bogdan: “Luật so sánh bao gồm :
+ So sánh các hệ thống PL khác nhau để xác định những điểm tương đồng và khác biệt giữa chúng;
+ Nghiên cứu những điểm tương đồng và khác biệt đã được xác định, chẳng hạn, giải thích nguồn gốc của chúng, đánh giá những giải
pháp được sử dụng trong các hệ thống PL khác nhau, phân nhóm các hệ thống PL thành các dòng họ PL hoặc tìm kiếm những điểm
cốt lõi chung của các hệ thống PL; lOMoAR cPSD| 59732875
+ Làm rõ những vấn đề mang tính phương pháp luận nảy sinh có liên quan đến các nhiệm vụ trên, bao gồm cả những vấn đề có tính
phương pháp luận liên quan đến việc nghiên cứu PL nước ngoài”.
Nhận xét về định nghĩa: ưu điểm là nêu được đầy đủ các nội dung của luật so sánh; nhược điểm là dài, phức tạp, mặc dù liệt kê chi tiết nội
dung nhưng không nêu rõ được bản chất của luật so sánh. b. Đặc điểm của luật so sánh
- Luật so sánh không phải là 1 ngành luật hay lĩnh vực PL thực định trong hệ thống PL quốc gia: tức là luật so sánh không phải là 1 hệ thống
các quy phạm PL điều chỉnh 1 lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội như luật dân sự, luật hôn nhân gia đình.
- Luật so sánh là 1 ngành khoa học độc lập: đây là bản chất của luật so sánh, dựa trên các lập luận sau :
+ Việc thường xuyên so sánh các hệ thống PL với nhau đã tạo ra một hệ thống tri thức độc lập với hệ thống tri thức của các ngành khoa học độc lập khác.
+ Tương tự với các ngành khoa học khác, nhất là khoa học xã hội, khi thực hiện so sánh có thể phát sinh ra ngành khoa học độc lập, ví
dụ: bên cạnh ngành triết học có ngành triết học so sánh, bên cạnh ngành xã hội học có ngành xã hội học so sánh, ngôn ngữ học có ngôn ngữ học so sánh.
+ Các học giả đã chứng minh được “luật so sánh” và “phương pháp so sánh luật” là hoàn toàn khác nhau ⇒ không thể coi luật so sánh là
1 phương pháp nghiên cứu mà phải coi đó là 1 ngành khoa học độc lập.
- Phạm vi nghiên cứu của luật so sánh rất rộng: căn cứ vào định nghĩa luật so sánh của Michael Bogdan :
+ So sánh các hệ thống PL khác nhau để xác định những điểm tương đồng và khác biệt giữa chúng: hiện nay trên thế giới có hàng trăm
hệ thống PL (mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ đều có ít nhất 1 hệ thống PL, ở các quốc gia liên bang thì mỗi bang lại có 1 hệ thống PL
riêng như Hoa Kỳ, Đức, Nga), mà không có 2 hệ thống PL nào trùng hoàn toàn với nhau ⇒ số lượng đối tượng nghiên cứu là rất lớn. 1 lOMoAR cPSD| 59732875
+ Nghiên cứu những điểm tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống PL: trong mỗi hệ thống PL đều có rất nhiều các chế định, các nguyên
tắc, các quy phạm ⇒ có rất nhiều nội dung để luật so sánh nghiên cứu.
2 . Đối tượng nghiên cứu của luật so sánh
- Mặc dù còn tranh luận về bản chất của luật so sánh những các học giả đều thừa nhận: “việc so sánh các hệ thống PL khác nhau nhằm tìm
ra những điểm tương đồng và khác biệt của chúng” là nội dung cơ bản, chủ đạo của các công trình luật so sánh. a. Khái quát các đối tượng nghiên cứu.
- Hệ thống pháp luật (legal system): có 3 cách hiểu (cách sử dụng ):
+ Tổng thể các quy phạm PL và thiết chế PL của 1 quốc gia/ vùng lãnh thổ: ngoài các quy phạm PL còn có các vấn đề khác như mô hình
tổ chức tòa án của quốc gia đó, về hoạt động nghề nghiệp của luật sư, thẩm phán, công chứng viên, công tố viên,..., về hoạt động đào
tạo luật và đào tạo nghề luật.
+ Tổng thể các quy phạm PL của 1 quốc gia/ lãnh thổ: VD tổng thể các quy phạm PL của Trung Quốc
+ PL của 1 nhóm quốc gia/ vùng lãnh thổ mà trong đó PL có điểm chung nhất định: VD nhóm hệ thống PL các nước XHCN, nhóm hệ
thống PL các nước châu Âu lục địa
⇒ Trong môn học này, sẽ hiểu Hệ thông PL theo cách hiểu thu 2, tuc là Hệ thông PL là tông thể quy phạm PL và thiểt chể PL của 1 quôc gia/ vùng lãnh thô.
- Dòng họ PL (legal family): là hệ thống PL của 1 nhóm quốc gia/ vùng lãnh thổ mà có những điểm chung nhất định. VD dòng họ PL common
law, dòng họ PL các nước XHCN,... 2 lOMoAR cPSD| 59732875
+ Thuật ngữ “dòng họ PL” do Montesquieu sáng tạo ra khi nghiên cứu các hệ thống PL, sau đó Rene David sử dụng rất nhiều trong các
tác phẩm của mình (nhiều đến mức công chúng lầm tưởng Rene David là người sáng tạo ra thuật ngữ “dòng họ PL”) + Là nhóm hệ
thống PL có đặc điểm chung nhất định
+ Trong đó xuất hiện hệ thống PL gốc, hệ thống PL bố mẹ. VD hệ thống PL của Anh được coi là hệ thống PL gốc của dòng họ PL common
law, hệ thống PL của Pháp được coi là gốc của dòng họ PL civil law
+ Thuật ngữ “truyền thống PL” (legal tradition) được sử dụng với nghĩa tương tự: có thể dùng cả 2 thuật ngữ “dòng họ PL” và “truyền
thống PL” với ý nghĩa tương đương.
- Pháp luật quốc tế: hiện nay vẫn còn tranh cãi giữa các học giải xem PL quốc tế có phải là đối tượng nghiên cứu của luật so sánh không. Lý
do vì PL quốc tế thường là “đơn nhất”, không có 2 đối tượng PL quốc tế để so sánh, VD công ước luật biển quốc tế là duy nhất. Tuy nhiên,
vẫn có trường hợp khi 1 quốc gia gia nhập 1 điều ước quốc tế, thì quốc gia đó phải xem xét các quy định trong điều ước quốc tế có phù hợp,
có mâu thuẫn với luật quốc gia của mình không, tức là có sự so sánh. Lưu ý:
+ So sánh luật không phải là so sánh toàn bộ hệ thống PL với nhau mà có thể chỉ so sánh 1 vấn đề nhỏ hoặc rất nhỏ. VD so sánh chế định
bầu cử của Vn tới Pháp, so sánh chế định tài sản của Vn với Thái Lan.
+ Chỉ là đối tượng của luật so sánh khi đặt chúng trong mối tương quan so sánh. b.
Cấp độ so sánh
- Chia hoạt động so sánh làm 2 cấp độ :
+ Cấp độ so sánh vĩ mô: đối tượng so sánh là những vấn đề mang tính cốt lõi, chủ đạo, khái quát.
+ Cấp độ so sánh vi mô: đối tượng so sánh là những vấn đề chi tiết, cụ thể 3 lOMoAR cPSD| 59732875
- Việc phân chia này chỉ mang tính tương đối, thường phải kết hợp cả vĩ mô và vi mô trong từng công trình nghiên cứu so sánh luật, VD ở
công trình so sánh cấp độ vĩ mô, thì cũng cần so sánh những đối tượng ở cấp độ vi mô để minh họa cho so sánh đó. VD: các hoạt động sau
là so sánh vĩ mô hay so sánh vi mô:
+ So sánh hệ thống PLVN với hệ thống PL Lào ⇒ vĩ mô
+ So sánh PL hình sự Trung Quốc với PL hình sự Nhật ⇒ vi mô, vì sẽ phải so sánh từng chế định cụ thể.
+ So sánh quy phạm PL định nghĩa bất động sản trong PL Thái Lan và PL Pháp ⇒ vi mô
+ So sánh dòng họ PL XHCN và dòng họ Civil Law ⇒ vĩ mô
+ So sánh chế định hợp đồng của PL Anh và PL Đức ⇒ vi mô
3 . Phương pháp nghiên cứu của luật so sánh
a. Các phương pháp nghiên cứu mà luật so sánh sử dụng
- Có nhiều phương pháp nghiên cứu mà luật so sánh sử dụng: so sánh, lịch sử, phân tích, tổng hợp, logic,...
- Phương pháp so sánh là phương pháp nghiên cứu chủ đạo của ngành khoa học luật so sánh (đến mức nhiều người lầm tưởng luật so sánh là phương pháp so sánh).
- Phân biệt Phương pháp so sánh luật với Luật so sánh : Luật so sánh
Phương pháp so sánh luật Bản chất
- Là ngành khoa học độc lập
- Là 1 phương pháp nghiên cứu luật
- Sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó có
- Được áp dụng trong nhiều ngành khoa học khác,
phương pháp so sánh luật
trong đó có ngành khoa học luật so sánh 4 lOMoAR cPSD| 59732875 Mục đích
- Tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa những
- Tìm ra điểm tương đồng và khác biệt giữa các đối đối tượng so sánh
tượng so sánh - Không cần lý giải
- Lý giải nguồn gốc của những điểm tương đồng và khác - Không cần đánh giá. biệt đó.
- Đánh giá các giải pháp pháp lý dành cho các đối tượng so
sánh. VD khi so sánh chế định bầu cử của Vn với Hoa Kỳ,
sẽ có phần đánh giá ưu, nhược điểm của mỗi chế định bầu
cử, đánh giá xem liệu có thể áp dụng những ưu
điểm của chế độ bầu cử Hoa Kỳ vào VN không,... Lưu ý:
- Để lý giải được, còn phải sử dụng phương pháp logic và phương pháp lịch sử - Để đánh giá được, có thể phải sử dụng phương pháp xã
hội học. ⇒ Đây là sự khác biệt lớn nhất của luật so sánh và phương pháp so sánh luật. b. Phương pháp so sánh trong luật so sánh
- Nguyên lý chung khi sử dụng phương pháp so sánh: các đối tượng so sánh phải tương đồng, tương ứng với nhau.
- Trong luật so sánh phải tuân thủ nguyên lý đó ⇒ các đối tượng trong 1 công trình so sánh luật phải thực hiện cùng chức năng. c. Các bước
của quá trình so sánh luật Gồm 6 bước:
Bước 1: Xây dựng giải quyết nghiên cứu
- Xác định vấn đề dự kiến nghiên cứu: đưa ra câu hỏi để nghiên cứu
- Xây dựng giả thuyết nghiên cứu: để định hướng chương trình đi theo hướng nào
Bước 2: Lựa chọn đối tượng nghiên cứu: xác định cụ thể, rõ ràng đối tượng nghiên cứu, phải có thuộc tính pháp lý tương ứng để so sánh.
Bước 3: Thu thập tài liệu tham khảo - Mục đích: 5 lOMoAR cPSD| 59732875
+ Để xem các học giả khác đã giải quyết vấn đề mình đặt ra như thế nào, từ đó đánh giá cách giải quyết của họ, đưa ra những điểm
đồng tình/ không đồng tình với họ ⇒ nhằm đưa ra quan điểm, cách giải quyết của mình.
+ Để xem vấn đề mình đặt ra đã được các học giả khác giải quyết đến đâu rồi, còn có những phần nào các học giả chưa giải quyết
không ⇒ Nhằm tập trung vào những phần chưa được giải quyết.
⇒ Mục đích của việc thu thập tài liệu là để xác định hướng đi cụ thể của công trình nghiên cứu
- Lưu ý: phải đánh giá độ tin cậy của tài liệu tham khảo dựa vào nguồn cung cấp tài liệu VD nhà xuất bản, tác giả, đơn vị chủ quản của website.
Bước 4: Xây dựng hệ thống tiêu chí so sánh
+ Mục đích: để công trình nghiên cứu được trọn vẹn hơn, rõ ràng hơn
+ Lưu ý: tránh sử dụng thuật ngữ pháp lý không đồng nhất giữa các quốc gia, giữa các hệ thống PL
Bước 5: Viết báo cáo so sánh
+ Chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa các đối tượng so sánh trên cơ sở những tiêu chí đã đặt ra ở Bước 4
+ Lưu ý: cần trung thực, khách quan khi viết báo cáo, tránh áp đặt ý chí chủ quan của mình, và cũng tránh tuân theo “mù quáng” quan
điểm, ý kiến của học giả khác, dù cho học giả có uy tín và nổi tiếng như thế nào. Bước 6: Đánh giá có phê phán kết quả so sánh
+ Giải thích nguồn gốc của những điểm tương đồng, điểm khác biệt +
Phân tích, đánh giá ưu, nhược của các giải pháp pháp lý.
+ Nhận xét về hiệu quả của các giải pháp pháp lý.
Chú ý: khác với Bước 5 yêu cầu cần khách quan, thì ở bước 6, nhà nghiên cứu hoàn toàn có thể đưa ra ý kiến chủ quan của mình.
Chú ý: không nhất thiết phải thực hiện tất cả các bước trên. Tùy theo mục đích nghiên cứu mà lựa chọn những bước thực hiện cho phù hợp. 6 lOMoAR cPSD| 59732875
c. Một số điều cần lưu ý khi nghiên cứu PL nước ngoài.
- Phải là so sánh các đối tượng của PL trong nước với PL nước ngoài hoặc của PL nước ngoài với nhau chứ không phải đối tượng của PL
trong nước với nhau vì nó không là đối tượng của luật so sánh.
VD: so sánh Luật hình sự 1999 với Luật hình sự 2015: đây không phải là đối tượng của luật so sánh
- Cần có nguồn thông tin chính xác và đáng tin cậy về PL nước ngoài
- Phải có thông tin cập nhật về PL nước ngoài
- Nắm được các nguồn luật và sử dụng đúng các thuật ngữ pháp lý của nước ngoài. e. Cơ sở để lý giải những điểm tương đồng và khác biệt
giữa các hệ thống PL
- Hệ thống chính trị và tư tưởng: VD xã hội chủ nghĩa và hệ tư tưởng Mác Lê nin đề cao sở hữu chung, sở hữu toàn dân; tư bản chủ nghĩa và
hệ tư tưởng phương Tây đề cao sở hữu tư nhân.
- Sự phát triển của nền kinh tế: VD hệ thống PL của nước phát triển khác với hệ thống PL của nước đang phát triển, hay nước chậm phát triển.
- Yếu tố lịch sử và địa lý :
+ Lịch sử: VD các quốc gia từng là thuộc địa ⇒ chịu ảnh hưởng lớn của hệ thống PL chính quốc.
+ Địa lý = vị trí + khí hậu: VD pháp luật về biển chỉ có ở những quốc gia có biển
- Yếu tố về dân số: ảnh hưởng tới PL về hôn nhân gia đình, an sinh xã hội
- Tác động phối hợp của các biện pháp kiểm soát: liên quan đến PL về thuế, sở hữu trí tuệ,... của mỗi quốc gia.
- Những yếu tố ngẫu nhiên: có những trường hợp hệ thống PL của 2 quốc gia giống nhau (một phần) mà không thuộc các yếu tố đã nêu trên.
II. Sự hình thành và phát triển của luật so sánh. 7 lOMoAR cPSD| 59732875
1 . Sự hình thành và phát triển của luật so sánh trên thế giới
a. Giai đoạn trước thế kỷ 19 - Các tiểu giai đoạn : + Cổ đại
+ Nhà nước đế quốc La Mã + Trung cổ
+ Cận đại (thời kỳ ánh sáng và PL tự nhiên) - Thời
kỳ cổ đại (trước Công nguyên )
+ Gồm Nhà nước Lưỡng Hà, Hy Lạp cổ đại, La Mã cổ đại
+ Theo Rene David: “ Việc so sánh các hệ thống PL ở cạnh nhau về mặt địa lý là công việc đã có từ xa xưa như chính khoa học pháp lý”
+ Nhà nước Hy Lạp cổ đại: Plato với tác phẩm “các luật lệ”, Aristot với tác phẩm “Chính trị”,... trong đó so sánh PL của các thành bang
Hy Lạp với nhau, từ đó rút ra những quy định PL tốt nhất, tối ưu nhất.
+ Nhà nước La Mã cổ đại: các học giả La Mã cổ đại đã nghiên cứu và so sánh PL của các thành bang Hy Lạp cổ đại với nhau và so sánh
với tập quán của La Mã, từ đó rút ra những quy định được cho là tốt nhất, kết quả là Luật 12 bảng ra đời ⇒ Ngay từ thời cổ đại đã xuất hiện
những mầm mống của luật so sánh.
Chú ý: mới chỉ ở mức độ “mầm mống” của luật so sánh chứ chưa phải là đã có luật so sánh từ thời cổ đại. Lý do là vì: những công trình so
sánh luật không được đưa vào thực tiễn ứng dụng, ví dụ Aristot viết tác phẩm “chính trị” rất nổi tiếng nhưng ông không đề nghị thành bang
Hy Lạp cổ đại nào ứng dụng vào thực tiễn.
- Thời kỳ nhà nước đế quốc La Mã (thế kỷ 1 trước CN - thế kỷ 6) 8 lOMoAR cPSD| 59732875
+ Do các luật gia, đặc biệt là các luật gia La Mã quan niệm Luật La Mã là luật phát triển nhất và cho rằng PL nước ngoài là “rối rắm và ngớ
ngẩn” ⇒ không cần phải nghiên cứu so sánh thực tế, tại thời điểm này thì hệ thống PL của nhà nước La Mã là phát triển nhất, tạo nền tảng
xây dựng hệ thống PL của hầu hết các quốc gia sau này.
+ Có 1 số học giả nghiên cứu so sánh Luật La Mã với luật nước ngoài, nhưng mục đích nghiên cứu của họ lại là để phân tích những “ngớ
ngẩn” của luật nước ngoài ⇒ luật so sánh không có cơ hội phát triển ở nhà nước La Mã. - Thời kỳ trung cổ (thế kỷ 6 - thế kỷ 14)
+ Châu Âu rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng (“đêm trường trung cổ”), PL không được coi trọng ⇒ hầu như không có sự nghiên cứu, phát triển PL
+ Châu Âu lục địa tồn tại nhiều loại luật: luật La Mã, tập quán pháp, luật giáo hội, nhưng hầu như không xuất hiện công trình so sánh nào.
Các luật gia cho rằng Luật La Mã và Luật Giáo hội là những luật có hiệu lực tuyệt đối và không có gì nghi ngờ.
+ Đến thế kỷ 13, Anh là quốc gia đầu tiên xây dựng thống nhất hệ thống PL của mình, trong khi các nước Châu Âu khác thì PL vẫn còn
manh mún, chưa thành hệ thống. Khi đó xuất hiện một số học giả Anh quốc tiến hành các công trình nghiên cứu so sánh PL Anh và PL Pháp
nhưng thiếu khách quan, phần lớn chỉ để chê bai PL Pháp và khẳng định sự tối ưu của PL Anh. - Thời kỳ cận đại (thế kỷ 17 - thế kỷ 18, là
thời đại ánh sáng và PL tự nhiên )
+ Các quốc gia đã dần ổn định, PL được quan tâm và phát triển
+ Các luật gia chỉ tập trung nghiên cứu PL quốc gia, luật so sánh hầu như không phát triển.
+ Tuy nhiên, có 1 số học giả, đặc biệt là Montesquieu đề xuất các học giả cần thoát khỏi khuôn khổ hệ thống PL quốc gia, để đánh giá
được giá trị đúng của hệ thống PL. Montesquieu đã sử dụng phương pháp so sánh để phát triển các bài giảng của mình ⇒ tạo nền móng
cho luật so sánh phát triển mạnh mẽ sau này. 9 lOMoAR cPSD| 59732875
b. Từ thế kỷ 19 đến nay (một số học giả lấy mốc 1869 – nay, lấy mốc ra đời của Tạp chí Luậtso sánh ở Pháp) –
Ngay từ đầu thế kỷ 19, một số trường đại học ở Anh đã đưa môn Luật so sánh vào giảng dạy.
– Sự ra đời của một loạt các bộ luật của các quốc gia châu Âu, đặc biệt là sự ra đời của Bộ luật thương mại chung của Đức năm 1861, đều
dựa trên việc so sánh luật của các quốc gia
– Ngày càng nhiều học giả tập trung nghiên cứu luật so sánh, dần dần, với tri thức tích lũy được, các giả nhận ra rằng cần phải coi luật so
sánh là 1 môn khoa học độc lập
– Luật so sánh phát triển mạnh mẽ dưới 2 hình thức:
+ Luật so sánh lập pháp: là quá trình theo dõi PL của nước ngoài được viện dẫn để soạn thảo các văn bản PL quốc gia
+ Luật so sánh học thuật: là việc so sánh các hệ thống PL khác nhau, đơn giản chỉ là nhằm nâng cao hiểu biết về PL
c. Sự phát triển của luật so sánh ở khối các nước XHCN trước đây
– Trước những năm 50 của thế kỷ 20, luật so sánh không có cơ hội phát triển
– Sau khi khối các nước XHCN hình thành, luật so sánh được thừa nhận và bắt đầu được quan tâm, tuy nhiên luật so sánh có vị trí rất mờ
nhạt, có rất ít công trình so sánh luật. Nguyên nhân:
+ Khách quan: bị cấm vận, mà nguồn luật thì chủ yếu ở các nước TBCN + Chủ quan :
● Việc tìm hiểu về PL TBCN bị cấm đối với các luật gia XHCN
● Luật so sánh có phạm vi nghiên cứu chủ yếu là hệ thống PL của các nước XHCN, mà các nước XHCN chủ yếu sao chép luật của Liên
bang Xô Viết ⇒ không có gì để so sánh.
2 . Sự phát triển của luật so sánh ở VN 10 lOMoAR cPSD| 59732875
– Thời kỳ phong kiến: rất mờ nhạt, mới chỉ có luật so sánh lập pháp, tức là tiếp thu luật từ nước khác (chủ yếu từ Trung Quốc) vào xây dựng
luật, VD Quốc triều hình luật tiếp thu PL nhà Đường, Bộ luật Gia Long gần như sao chép hoàn toàn luật nhà Thanh – Thời kỳ 1945-1975:
+ hầu như không có ở miền bắc
+ miền nam: luật so sánh rất phát triển
● xuất hiện các học giả nổi tiếng về luật so sánh như Tiến sỹ Ngô Bá Thành (tiến sỹ ở Pháp, là tiến sỹ về luật so sánh đầu tiên của VN), luật sư Vũ Văn Mẫu
● năm 1961 bộ Dân luật Nam kỳ được xây dựng trên cơ sở của luật so sánh
● miền nam VN là thành viên của Hiệp hội Luật so sánh thế giới
– Thời kỳ 1975 – 1986: hầu như không phát triển vì cả nước đang xây dựng XHCN
– Thời kỳ 1986 – nay: đạt được nhiều thành tựu lớn
+ luật so sánh lập pháp: xây dựng PL trên cơ sở học hỏi luật nước ngoài, VD luật hình sự 1999, luật dân sự 2015 +
luật so sánh học thuật :
● xuất hiện nhiều học giả nghiên cứu luật so sánh như TS Nguyễn Kim Pháp, TS Vũ Thị Ánh Vân, TS Võ Khánh Vinh, TS Nguyễn Thanh Tâm, …
● xuất hiện các đơn vị tổ chức nghiên cứu luật so sánh như Phòng luật so sánh của Viện Nhà nước và Pháp luật, Trung tâm luật so sánh
của ĐH Quốc gia Hà Nội, Viện Luật so sánh – ĐH Luật Hà Nội, …
● môn học luật so sánh được đưa vào giảng dạy tại tất cả các cơ sở đào tạo luật
III. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luật so sánh 11 lOMoAR cPSD| 59732875
1. Trang bị kiến thức văn hóa chung cho người nghiên cứu: khi thực hiện nghiên cứu luật so sánh, các học giả thường không chỉ nghiên
cứu các quy phạm PL, các thiết chế, … mà còn nghiên cứu vì sao các quy phạm PL, các thiết chế, … lại được xây dựng như thế, tức là
biết được kiến thức về văn hóa của quốc gia đó
2. Nâng cao hiểu biết về PL quốc gia :
+ bằng việc nghiên cứu luật so sánh, các học giả có thể biết những quy định, thiết chế trong luật quốc gia mình có nguồn gốc từ đâu, từ đó
nắm được sâu hơn bản chất PL quốc gia mình
+ bằng việc so sánh PL các quốc gia, nhà nghiên cứu sẽ có đánh giá khách quan về PL của nước mình so với thế giới (chứ không bị tư tưởng
chủ quan, coi PL nước mình là ưu việt hơn)
3. Hỗ trợ tìm kiếm mô hình PL lý tưởng: đánh giá được cái tốt, cái xấu, cái phù hợp nhất, lý tưởng nhất cho hệ thống PL quốc gia mình.Đây
là ý nghĩa chính, quan trọng nhất của luật so sánh.
4. Hỗ trợ tiến trình hòa hợp và nhất thể hóa PL :
+ hài hòa hóa PL: là việc làm cho PL của các quốc gia dù khác nhau nhưng có thể “sống chung” với nhau
+ nhất thể hóa PL: là việc đưa ra những quy định PL chung cho các quốc gia
==> nghiên cứu luật so sánh giúp cho việc xây dựng và áp dụng luật quốc tế (cả công pháp quốc tế và tư pháp quốc tế), tức là giúp cho việc
xử lý được những xung đột PL giữa các quốc gia Giúp như thế nào ?
+ việc nghiên cứu luật so sánh giúp cho những nhà thương thuyết hiểu được sự tương đồng và khác biệt trong hệ thống PL của các nước liên
quan ==> dễ dàng hơn cho việc xây dựng luật quốc tế
+ giúp cho việc đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các bên tham gia trong điều ước quốc tế 12 lOMoAR cPSD| 59732875
+ nghiên cứu luật so sánh giúp rất nhiều cho việc xây dựng các quy định của luật quốc tế, vì thường sẽ bắt nguồn từ 1 tập quán hay 1 quy
định của 1 hay 1 số quốc gia cụ thể (chứa rất ít khi xây dựng từ đầu)
5. Hỗ trợ thực hiện và áp dụng PL: khi giải quyết các vụ việc có yếu tố nước ngoài, việc hiểu biết luật so sánh (tức là hiểu biết PL nước
ngoài trên cơ sở so sánh với luật nước mình) sẽ hỗ trợ rất nhiều cho những người xét xử và những người liên quan. IV. Sự phân nhóm
các hệ thống PL trên thế giới
1 . Mục đích phân nhóm
– Nắm được sự tương đồng giữa các hệ thống luật sẽ giúp nghiên cứu PL nước ngoài trở nên rõ ràng hơn.
Số lượng hệ thống PL trên thế giới là rất nhiều, trên 200 hệ thống PL ==> 1 học giả gần như không thể nghiên cứu chi tiết từng hệ thống PL
==> tìm ra những điểm tương đồng của các hệ thống PL và sắp xếp chúng vào cùng 1 nhóm ==> khi so sánh các hệ thống PL, chỉ cần chọn
1 hệ thống PL điển hình của nhóm đó (mà không cần tìm hiểu lần lượt từng hệ thống PL )
– Mục đích chủ yếu của việc phân nhóm các hệ thống PL trên thế giới nhằm mục đích sư phạm.
2 . Tính tương đối của việc phân nhóm các hệ thống PL trên thế giới
– Sử dụng những tiêu chí phân nhóm khác nhau sẽ cho ra kết quả phân nhóm khác nhau.
+ Rene David dựa vào 2 tiêu chí là Hệ tư tưởng và Kỹ thuật lập pháp ==> cho ra 4 nhóm :
● nhóm PL Đức – La Mã (hay nhóm Roman – Giecmanh),
● nhóm PL xã hội chủ nghĩa,
● nhóm PL dựa trên tôn giáo và truyền thống (những nước Hồi giáo, Phật giáo và một số nước châu Phi), ● nhóm PL Anh – Mỹ (common law)
+ Zweigert và Kotz sử dụng 5 tiêu chí ==> cho ra 8 nhóm PL 13 lOMoAR cPSD| 59732875
– Mặc dù sử dụng những tiêu chí phân nhóm giống nhau nhưng tiến hành tại thời điểm khác nhau, sẽ cho ra kết quả phân nhóm khác nhau.
Chẳng hạn trường hợp phân nhóm theo 2 tiêu chí là Hệ tư tưởng và Kỹ thuật lập pháp của Rene David được thực hiện vào những năm 60
của thế kỷ 20, kết quả cho ra 4 nhóm PL (như đã nêu trên).
Đến đầu thế kỷ 21, 1 học giả khác cũng sử dụng 2 tiêu chí là Hệ tư tưởng và Kỹ thuật lập pháp, nhưng lại cho ra kết quả khác, chỉ có 3 nhóm
là nhóm civil law, nhóm common law, nhóm PL dựa trên tôn giáo và truyền thống ==> lý do là vì cuối thế kỷ 20 khối XHCN đã sụp đổ ==>
không còn tạo thành 1 dòng họ PL riêng như trước đây.
– Trong nhiều cách phân nhóm hệ thống PL phổ biến, có 1 số hệ thống PL khó xếp vào bất cứ nhóm nào trong số các nhóm được phân chia.
VD hệ thống PL của VN gồm các đặc điểm của cả Civil law và Common law; hệ thống PL của Malaysia là sự pha trộn của luật Hồi Giáo
và common law; ngoài ra hệ thống PL của Quebec, Louisiana, Nam Phi cũng rất khó để xếp vào nhóm nào.
- Hệ quả: không thể khẳng định cách phân nhóm của học giả nào là chính xác nhất và cách phân nhóm nào là không chính xác.
3 . Các tiêu chí để phân nhóm
a. Sự thay đổi trong quan niệm sử dụng tiêu chí phân nhóm
– Trước đây, nhiều học giả luật so sánh đã cố tìm ra tiêu chí duy nhất để phân chia các hệ thống PL thành các nhóm. VD tiêu chí hệ thống
kinh tế, hay tiêu chí nguồn gốc lịch sử của hệ thống PL.
Tuy nhiên, đã không thể tìm ra tiêu chí duy nhất đó.
– Ngày nay, phần lớn các học giả đều cho rằng không thể có tiêu chí hoàn hảo, và để việc phân nhóm có ý nghĩa, cần dựa trên 1 vài tiêu chí khác nhau
VD nếu dùng tiêu chí Hệ tư tưởng thì có thể phân chia Hệ thống PL XHCN và Hệ thống PL TBCN, nhưng trong hệ thống PLTBCN có nước
Anh theo common law, nước Pháp theo civil law ==> mục đích không đạt b. Các tiêu chí phân nhóm – Các tiêu chí cơ bản: 14 lOMoAR cPSD| 59732875
+ nguồn gốc lịch sử phát triển + hệ tư tưởng + kỹ thuật lập pháp
– Các tiêu chí thứ cấp: + nguồn luật
+ kiểu tư duy pháp lý đặc thù + cấu trúc PL
4 . Các cách phân nhóm điển hình Rene David Zweigert và Kotz
Số lượng 2 tiêu chí: 5 tiêu chí : các + Hệ tư tưởng
+ nguồn gốc lịch sử phát triển của hệ thống PL tiêu chí sử + Kỹ thuật lập pháp + Nguồn luật dụng
+ Kiểu tư duy pháp lý đặc thù + Cấu trúc PL + Hệ tư tưởng
Cách sử Sử dụng đồng thời chứ không phân biệt cao - thấp
Sử dụng theo thứ tự ưu tiên các tiêu chí, lần lượt sử dụng dụng tiêu
các tiêu chí để tiến hành phân nhóm chí phân nhóm 15 lOMoAR cPSD| 59732875 Kết quả
4 nhóm, mỗi nhóm là 1 dòng họ PL
8 nhóm, mỗi nhóm là 1 dòng họ PL phân nhóm
CHƯƠNG 2: DÒNG HỌ PHÁP LUẬT CHÂU ÂU LỤC ĐỊA - Có 3 tên gọi :
+ Dòng họ Civil Law: dòng họ PL dân luật, dòng họ PL dân sự
+ Dòng họ PL châu Âu lục địa: vì ra đời đầu tiên ở các quốc gia thuộc châu Âu lục địa, sau lan rộng ra các quốc gia trên toàn thế giới.
+ Dòng họ PL thành văn: coi trọng pháp điển hóa PL (tức là PL thành văn) và trung tâm là PL dân sự, có nguồn gốc từ thời La Mã.
- Chế định PL đặc thù: luật nghĩa vụ, gồm 3 nội dung : + Hợp đồng
+ Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng + Làm giàu bất thành
I. Sự hình thành và phát triển của dòng họ Civil Law - Có 2 giai đoạn :
+ Dòng họ Civil law hình thành và phát triển ở châu Âu lục địa +
Dòng họ Civil law mở rộng sang các châu lục khác.
1. Sự hình thành phát triển của dòng họ civil law châu Âu lục địa – Chia làm 3 giai đoạn:
+ giai đoạn trước thế kỷ 11
+ giai đoạn từ thế kỷ 11 – thế kỷ 18 16 lOMoAR cPSD| 59732875
+ giai đoạn từ cuối thế kỷ 18 – nay
a. Giai đoạn trước thế kỷ 11
- PL các nước châu Âu lục địa trước thế kỷ 11 là sự tồn tại của nhiều loại PL khác nhau. Có 3 loại chính:
+ PL thành văn: luật La Mã,
+ tập quán pháp: PL của các vùng, miền khác nhau
+ luật giáo hội: ra đời muộn hơn, xuất hiện vào thế kỷ 6, 7
– Thời kỳ này PL còn đơn giản, có sự khác biệt giữa 2 tiểu giai đoạn:
+ trước thế kỷ 7: gồm PL La Mã, tập quán địa phương
+ thế kỷ 7 – thế kỷ 10: tập quán địa phương, luật giáo hội (thời kỳ khủng hoảng toàn diện, gọi là “Đêm trường trung cổ” với sự thống
trị của luật tôn giáo)
– Dòng họ civil law được cấu thành từ luật La Mã, tập quán địa phương, luật giáo hội, và tư tưởng về PL tự nhiên đã trải qua 1
quá trình phát triển lâu dài và phức tạp. Nhưng nền tảng chính tạo nên dòng họ civil law là luật La Mã. ● Về luật La Mã
- Có nhiều quan điểm về khái niệm Luật La Mã :
+ Là bộ tổng luật do Hoàng đế Justinian ban hành (gọi là Corpus Juris Civilis) (đây là thời kỳ thịnh vượng của đế quốc La Mã): đây là
tổng luật đồ sộ nhất trong hơn 1000 năm tồn tại của nhà nước La Mã, là tập hợp toàn bộ các quy định PL của nhà nước La Mã. Bộ
tổng luật này không chỉ có hiệu lực trong thời hoàng đế Justinian mà vẫn có hiệu lực trong các triều đại về sau của nhà nước La Mã.
Không những thế, bộ luật này có ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ các hệ thống PL của nhân loại, rất nhiều quy tắc pháp lý, rất nhiều
quy định PL của các quốc gia sau này bắt nguồn từ bộ tổng luật này ⇒ chính vì tầm ảnh hưởng quá lớn của Corpus Juris Civilis và các
biến tướng của Corpus Juris Civilis. 17 lOMoAR cPSD| 59732875
+ Là Corpus Juris Civilis và các biến tướng của Corpus Juris Civilis.
+ Là toàn bộ các bộ luật La Mã từ thế kỷ 5 trước CN đến thế 6, 7: tức là toàn bộ các sản phẩm PL của các triều đại La Mã. Chú ý: mặc dù
nhà nước La Mã tồn tại đến tận thế kỷ 15, tuy nhiên kể từ thế kỷ 6, 7 thì nhà nước La Mã đã suy yếu rất nhiều và không còn đưa ra
được sản phẩm lập pháp nào đáng chú ý nữa.
Nhận xét: Cách hiểu 1 và 2 không chính xác. Cách hiểu thứ 3 mới được công nhận rộng rãi.
- Một số thành tố cơ bản của Luật La Mã :
+ Thuật ngữ “luật La Mã” được dùng để chỉ toàn bộ khối lượng PL La Mã được ban hành trong hơn 1 thiên niên kỷ (kéo dài từ
năm 450 trước CN đến thế kỷ 6, 7) + 3 thành tố cơ bản của luật La Mã : ● Luật 12 bảng
● Tác phẩm Institutes của Gaias
● Corpus Juris Civilis - Luật 12 bảng :
+ Gọi là Luật 12 bảng vì sau khi ban hành, nhà nước La Mã đã khắc bộ luật này ra 12 tấm bảng và để ra nơi công cộng để người dân biết và tuân theo.
+ Ra đời khoảng năm 451 – 449 trước CN, trong quá trình xây dựng Luật 12 bảng, các nhà lập pháp La Mã đã sử dụng luật so
sánh. Vào thời điểm này thì nhà nước Hy Lạp láng giềng đã có hệ thống PL tương đối hoàn chỉnh với những hệ thống PL
riêng của mỗi thành bang Hy Lạp (khoảng 50 thành bang), để học hỏi thì nhà nước La Mã đã thành lập Hội đồng pháp quan
sang Hy Lạp học hỏi, những pháp quan này đã so sánh PL của mỗi thành bang Hy Lạp, đồng thời so sánh với tập quán La
Mã để xây dựng nên những quy định PL phù hợp nhất. + Đặc điểm: 18 lOMoAR cPSD| 59732875
● Chứa đựng nhiều tập quán la - tinh (tập quán của người La Mã cổ đại) và nhiều quy định giống PL Hy Lạp cổ đại
● Phạm vi điều chỉnh hẹp (luật 12 bảng có rất ít quy định cụ thể mà phần lớn là các quy định mang tính nguyên tắc, và chủ
yếu chỉ quy định luật tư, cụ thể là luật dân sự) ⇒ sau khi ra đời, nhà nước La Mã vẫn phải sử dụng tập quán pháp để điều
chỉnh các quan hệ xã hội.
● Mặc dù ra đời rất sớm, luật 12 bảng bên cạnh 1 số quy định còn lạc hậu, mang đậm tính chất của xã hội chiếm hữu nô lệ,
còn có rất nhiều quy định được đánh giá là rất tiến bộ như quy định về thừa kế, quy định về thủ tục tố tụng,...
+ Ý nghĩa: luật 12 bảng có ý nghĩa rất lớn không chỉ đối với nhà nước La Mã mà còn đối với nhân loại:
● Đây là bộ luật thành văn đầu tiên của nhà nước La Mã, góp phần xây dựng nên nhà nước La Mã thịnh vượng.
● Từ thành công của Luật 12 bảng, nhà nước La Mã đã rất quan tâm đến PL thành văn, và các nhà nước ở Châu Âu lục địa
sau này kế thừa tư duy xây dựng PL thành văn. 19