



















Preview text:
CHƯƠNG I
LÍ LUẬN MÁC – LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT I.
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA MÔN HỌC LÍ LUẬN MÁC – 
LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Là một môn khoa học xã hội, lí luận Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật 
nghiên cứu những hiện tượng xã hội nhà nước và pháp luật.
Lí luận về nhà nước và pháp luật sẽ giải đáp những vấn đề chung, cơ bản về 
những nguyên nhân, điều kiện phát sinh nhà nước và pháp luật; về những quy luật 
phát triển của nhà nước và pháp luật; thay thế kiểu nhà nước và pháp luật này bằng
kiểu nhà nước và pháp luật khác; về bản chất, hình thức, chức năng của nhà nước 
và pháp luật, đặc biệt là nhà nước và pháp luật XHCN; về mối quan hệ hữu cơ giữa nhà nước và pháp luật.
Lí luận về nhà nước và pháp luật là môn khoa học nhập môn đối với luật học. 
Nó giới thiệu những khái niệm và phạm trù cơ bản về nhà nước và pháp luật, vì 
vậy nó mang tính chất triết học khái quát. Đây là môn khoa học về phương pháp 
luật, có nhiệm vụ trình bày đặc thù của việc áp dụng phương pháp biện chứng 
Mác-xít vào các hiện tượng nhà nước và pháp luật. Lí luận về nhà nước và pháp 
luật chiếm một vị trí trung tâm trong hệ thống các môn khoa học chuyên nghiên 
cứu về những hiện tượng nhà nước và pháp luật. Mác, Ănghen, Lênin là những 
người đặt cơ sở cho khoa học về lí luận nhà nước và pháp luật. Các nhà kinh điển 
của chủ nghĩa Mác – Lênin đã nghiên cứu rất sâu những quy luật phát sinh và phát 
triển của nhà nước và pháp luật.
II. NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, vấn đề nhà nước là vấn đề chủ 
yếu, vấn đề then chốt trong toàn bộ hệ thống chính trị. Đây cũng là “… vấn đề 
phức tạp nhất, khó khăn nhất… là vấn đề mà các học giả, các nhà văn, các nhà triết
học tư sản đã làm cho rắc rối nhất”.
Để có sự hiểu biết đúng đắn về bản chất của nhà nước và pháp luật, theo lời 
dạy của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, chúng ta phải dựa trên quan 
điểm lịch sự, để nghiên cứu các hiện tượng nhà nước và pháp luật.
Điều đó có nghĩa là phải bắt đầu bằng việc phân tích nguồn gốc lịch sử, điều 
kiện lịch sử làm xuất hiện nhà nước và pháp luật, phải nghiên cứu xem nhà nước 
và pháp luật đầu tiên ra như thế nào, do những nguyên nhân gì?
1. Quan điểm Mác – Lênin về nguồn gốc phát sinh nhà nước và pháp luật
Chủ nghĩa Mác – Lê nin coi nhà nước và pháp luật là những hiện tượng lịch sử, 
không cùng xuất hiện với loài người mà chỉ xuất hiện ở nơi nào, lúc nào mà xã hội 
đã phân chia thành giai cấp và mâu thuẫn giữa những giai cấp ấy không thể điều 
hòa được. Trước đây, đã có một thời kì không có nhà nước và pháp luật. Đó là xã 
hội Cộng sản nguyên thủy.
a. Xã hội loài người thời kì Cộng sản nguyên thủy
Trong xã hội Cộng sản nguyên thủy, lúc đầu còn người sống thành từng bầy 
lưu động, không lớn và đi lang thang tìm kiếm hoa quả làm thức ăn. Trải qua nhiều
thế hệ, loài người đã biết dùng lửa, biết làm ra những công cụ bằng đá, biết tạo ra 
cung tên và biến nghề săn bắn thành nguồn cung cấp tư liệu sinh hoạt cho mình. Vì
trình độ sản xuất lúc đó còn rất thấp, công cụ sản xuất còn rất lạc hậu, thô sơ, 
người ta không thể đấu tranh riêng lẻ với thiên nhiên và thú dữ. Muốn sống còn, 
những người cùng chung một huyết tộc tập hợp lại với nhau, cùng lao động tập thể 
và cùng nhau thừa hưởng những thành quả lao động đó. Lối sống lao động tập thể 
này đã dẫn đến chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và sản phẩm đã sản xuất ra. 
Mọi người đều bình đẳng đối với tư liệu sản xuất và địa vị của con người trong xã 
hội cũng bình đẳng với nhau. Vì trình độ sản xuất còn quá thấp nên người ta không
thể sản xuất ra một số sản phẩm nhiều hơn so với nhu cầu của bản thân con người, 
do đó giữa con người với nhau không có và không thể có sự phân chia giai cấp, 
không có và không thể có bóc lột. Mọi người trong xã hội nguyên thủy đều làm 
chung, ăn chung, thậm chí ở chung với nhau không có gì phân biệt nên thời kì này 
còn được gọi là thời kì “Cộng sản nguyên thủy”. Hình thức cơ bản về cách tổ chức 
đời sống của người nguyên thủy là Thị tộc. Thị tộc cũng là đơn vị sản xuất và là 
hình thức tổ chức kinh tế đầu tiên của loài người. Thị tộc là tập hợp những người, 
gồm từ hàng chục đến hàng trăm người được tổ chức theo quan hệ huyết thống, có 
cùng một dòng máu. Là hình thức tổ chức xã hội đầu tiên của loài người, Thị tộc là
đặc trưng của chế độ Cộng sản nguyên thủy phát triền. Về điều này, F. Ăngghen đã
từng kết luận: Đây là “… một chế độ chung cho tất cả các người dã man mãi cho 
đến khi họ bước sáng thời đại văn minh, thậm chí còn sau hơn nữa”.
Mỗi thị tộc đều có một Tộc trường đứng đầu, thời chiến còn có Thủ lĩnh 
quân sự. Tộc trưởng và Thủ lĩnh quân sự do toàn thể thành viê trong Thị tộc bầu ra 
và có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào. Tộc trường chỉ là người đại biểu và chấp hành
ý chí của toàn thể thành viên trong Thị tộc. Họ không có bất kì đặc quyền nào 
khác, họ cùng lao động và cùng sinh hoạt chung với các thành viên khác của Thị 
tộc. Trong Thị tộc không có bất kì cơ quan cưỡng chế nào. Quan hệ giữa các thành 
viên trong Thị tộc là quan hệ bình đẳng.
Nhiều Thị tộc thống nhất hợp lại với nhau thành Bộ lạc. Mỗi Bộ lạc đều có 
lãnh thổ riêng, có tên gọi riêng. Các Thị tộc hợp thành Bộ lạc cùng nói chung một 
ngôn ngữ, cùng có chung một loại thần thánh nhất định. Đứng đầu Bộ lạc là một 
Thủ lĩnh do các thành viên Bộ lạc bầu ra. Thủ lĩnh này cùng với các Tộc trưởng và 
các Thủ lĩnh quân sự của các Thị tộc thành viên hợp thành Hội đồng Bộ lạc để bàn 
bạc và giải quyết những vấn đề trong nội bộ cũng như những vấn đề quan hệ với 
các Bộ lạc láng giềng. Các cuộc họp của Hội đồng Bộ lạc được tiến hành công khai
để cho bất kì thành viên nào của Bộ lạc cũng có thể tham dự và đóng góp ý kiến. 
Khi Hội đồng đã ra quyết định thì mọi người đều tuân theo và chấp hành một cách 
tự giác trên cơ sở tôn trọng các Thủ lĩnh. Mọi sự tranh chấp hay xích mích đều do 
các bên hữu quan tự giải quyết, hoặc là do tập thể giải quyết một cách ổn thỏa theo 
phong tục, tập quán má không cần tới bất kì cơ quan bạo lực nào cả.
Như vậy, trong xã hội Cộng sản nguyên thủy, do sức lao động còn thấp kém,
công cụ lao động còn thô sơ, cơ sở của lao động sản xuất là chế độ công hữu về tư 
liệu sản xuất, không có tài sản tư hữu, không có giai cấp nên không có mâu thuẫn 
giai cấp đối kháng. Do đó mà không có nhà nước và pháp luật.
b. Sự tan rã của chế độ Cộng sản nguyên thủy và sự xuất hiện nhà nước  và pháp luật
Sức sản xuất trong xã hội nguyên thủy tuy rất chậm chạp những đã phát triển
không ngừng. Sự ngừng phát triển của sức sản xuất trong xã hội là nhân tố có tính 
chất quyết định làm phát sinh chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất: công cụ sản xuất 
được cải tiến, đặc biệt kĩ thuật luyện sắt được phát minh, người ta đã có thể chế tạo
ra đồ sắt, năng suất lao động được nâng cao, của cải làm ra càng dồi dào hơn, có sự dư thừa so với trước.
Cùng với sự phát triển của sức sản xuất, xã hội loài người đã trải qua ba lần 
phân công lao động. Lần thứ nhất là giữa trồng trọt và chăn nuôi. Lần thứ hai là 
giữa thủ công nghiệp và nông nghiệp. Lần thứ ba là giữa sản xuất và những người 
chuyên làm nghề buôn bán (tức là khi thương nghiệp xuất hiện).
Ba lần phân công lao động lớn trong xã hội làm cho trao đổi ra đời và phát 
triển. công cụ sản xuất được cải tiến, thúc đẩy sản xuất phát triển. Chế độ tư hữu về
tư liệu sản xuất ra đời dần dần thay thế cho độ công hữu về tư liệu sản xuất. Công 
xã bắt đầu chia thành gia đình nhỏ theo chế độ phụ hệ.
Con người ngày xàng sản xuất ra nhiều hơn của cải để sống, tạo ra tài sản dư
thừa. Hiện tượng chênh lệch về của cải đã đưa công xã đến tình trạng phân ra 
người giàu và người nghèo. Chiến tranh trở thành phương tiện cướp bóc của cải để 
làm giàu và bắt tù binh làm nô lệ nhằm bóc lột sức lao động của họ. Số người 
nghèo trong công xã cũng bị đẩy xuống là nô lệ. Trong Thị tộc xuất hiện người 
giàu và người nghèo, xuất hiện những người bóc lột và người bị bóc lột, xuất hiện 
giai cấp chủ nô và nô lệ. Xung đột giữa những tập đoàn người này, giữa những giai
cấp này ngày càng gay gắt đưa đến sự tan rã của xã hội Thị tộc. Công xã nguyên 
thủy không có giai cấp đã bị xã hội có giai cấp (chế độ chiếm hữu nô lệ) thay thế. 
Bắt đầu từ đấy lịch sử loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp.
Lợi ích vật chất của hai giai cấp chủ nô và nô lệ căn bản đối lập nhau. Chủ 
nô là người chiếm hữu nô lệ, cưỡng bức nô lệ lao động một cách nặng nhọc, chiếm
hữu sản phẩm lao động của nô lệ. Còn nô lệ thì lao động quanh năm mà không đủ 
nuôi thân, hàng loạt nô lệ bị hành hạ đến chết. Nô lệ chẳng những không có quyền 
lợi nào về mặt kinh tế mà về mặt chính trị họ cũng không có chút đảm bảo và địa 
vị nào cả. Chủ nô có quyền bắn hoặc thậm chí giết nô lệ. Tình trạng đó tất nhiên 
dẫn đến sự phản kháng của nô lệ và như vậy giữa chủ nô và nô lệ đã diễn ra cuộc 
đấu tranh giai cấp không thể điều hòa được.
Muốn củng cố địa vị thống trị của chủ nô, cần phải có một cơ quan bạo lực 
đặc biệt, nếu không sẽ không thể trấn áp được sự phản kháng của nô lệ, không thể 
củng cố được sự thống trị của chủ nô. Tổ chức Thị tộc không thể hoàn thành được 
nhiệm vụ này mà cần thiết phải xây dựng một tổ chức bạo lực mới để thay thế tổ 
chức Thị tộc. Tổ chức bạo lực đó chính là nhà nước.
V. I. Lênin đã trình bày lí luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về nguồn gốc của 
nhà nước trong một công thức ngắn gọn như sau: “Nhà nước là sản phẩm và biểu 
hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Bất cứ ở đâu, lúc nào 
và chừng nào mà về mặt khách quan những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa 
được thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại, sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng 
những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được.
Như vậy, nguyên nhân căn bản, chủ yếu làm cho Công xã nguyên thủy tan rã
và nhà nước xuất hiện là:
• Sự phát triển kinh tế trong nội bộ xã hội dẫn đến sự phát sinh và phát 
triển của chế độ tư hưu về tư liệu sản xuất.
• Sự phát sinh giai cấp và mâu thuẫn giữa những giai cấp đối kháng tới 
mức không thể điều hòa được.
Nhà nước xuất hiện tức là xuất hiện một bộ máy thống trị tách ra khỏi xã hội
và đứng trên xã hội, gồm một nhóm người đặc biệt chuyên làm công tác lãnh đạo, 
sử dụng bộ máy cưỡng bức đặc biệt gồm: hiến binh, quân đội, cảnh sát, tòa án, nhà
tù… nhằm đàn áp các giai cấp đối lập. Nhà nước xuất hiện để duy trì chế độ tư 
hữu, bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị trong xã hội và để duy trì mãi mãi địa 
vị của giai cấp thống trị đó. Chính vì vậy, Lênin đã nêu một định nghĩa rằng: “Nhà 
nước là một bộ máy để duy trì sự thống trị của một giai cấp này đối với một giai 
cấp khác”. Bản chất của nhà nước, bất kể là nhà nước của giai cấp nào cũng đều là 
công cụ, là cơ quan, là bộ máy áp bức giai cấp, là chuyên chính giai cấp.
Quyền của giai cấp thống trị thông qua nhà nước bắt buộc cả xã hội phải 
phục tùng gọi là quyền thống trị chính trị, tức là chuyên chính giai cấp. Không có 
nhà nước, giai cấp thống trị không thể thực hiện được quyền lực của mình đối với 
xã hội. Nhà nước là tổ chức chính trị của xã hội, của các giai cấp thống trị về mặt 
kinh tế. Nhà nước là biểu hiện trực tiếp của chuyên chính giai cấp.
Đặc trưng của nhà nước so với Thị tộc:
• Dân cư được phân theo khu vực địa lí chứ không phân theo quan hệ huyết 
thống. Dân cư sống trong khu vực địa lí do một nhà nước quả lí đều có 
quyền và có nghĩa vụ đối với nhà nước đó.
• Nhà nước là tổ chức quyền lực của giai cấp thống trị, gồm những người tách 
ra khỏi nhân dân, đứng trên nhân dân và thực hiện quyền lực tách khỏi dân 
cư. Đó là quyền lực chính trị. Nhà nước do đó vừa là công cụ tổ chức giai 
cấp, vừa là hình thức thực hiện quyền lực xã hội công khai.
• Thuế xuất hiện, nhà nước chỉ có thể tồn tại nhờ có thuế do nhân dân lao  động đóng góp.
Cùng với sự ra đời của nhà nước, pháp luật cũng phát sinh. Dưới chế độ 
Công xã nguyên thủy, quan hệ giữa người với người do phong tục, tập quán điều 
chỉnh. Phong tục, tập quán nảy sinh ra từ trong lòng xã hội nguyên thủy, xác định 
cái gì có thể làm, cái gì không được làm, cái gì tốt, cái gì xấu. Tập quán phản ánh ý
chí của mọi thành viên trong xã hội, đại biểu cho lợi ích của tất cả mọi người. Tập 
quán dựa vào sự tuân thủ tự giác của con người và được bảo đảm thực hiện bằng 
dư luận xã hội và sức mạnh truyền thống. Nhưng khi xã hội đã nảy sinh ra hai giai 
cấp đối lập, khi cuộc đấu tranh giai cấp là không thể điều hòa được thì những tạp 
quán trước đây vốn tiêu biểu cho lợi ích của toàn thể thành viên trong xã hội sẽ 
không còn sức mạnh để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Để củng cố địa vị thống trị 
của mình, giai cấp bóc lột cần phải có những quy tắc điều chỉnh hành vi mới, 
những quy tắc này chỉ phản ánh ý chí của giai cấp thống trị. Muốn làm cho giai cấp
bị thống trị phục tùng những quy tắc này, thì những quy tắc điều chỉnh này phải 
được nhà nước chế định ra và được bảo đảm thực hiện bằng sự cưỡng chế của nhà 
nước. Những quy tắc điều chỉnh hành vi mới này chính là pháp luật.
Pháp luật cũng như nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn 
giai cấp không thể điều hòa được. Pháp luật thay thế tập quán nguyên thủy không 
phải trong một lúc mà phải trải qua một quá trình lâu dài và phức tạp. Thoạt đầu, 
người ta sửa lại những tập quán cũ cho phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị và
dần dần người ta quy định, ban hành thêm những quy tắc mới. Pháp luật lúc đầu 
biểu hiện bằng tập quán pháp (bất thành văn) và thực tiển xét xử (tiền lệ pháp). Sau
này, nhà nước mới chế định ra một số luật thành văn (văn bản pháp luật).
Pháp luật là những quy tắc điều chỉnh hành vi của con người, do nhà nước ban 
hành và có tính cưỡng chế.
Trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, Mác và Ăngghen đã định nghĩa: “Pháp luật 
là ý chí của giai cấp thống trị được đưa lên thành lên, ý chí đó do những điều kiện 
sinh hoạt vật chất của xã hội quyết định”.
Định nghĩa kinh điển này đã nói lên bản chất của pháp luật là ý chí của giai cấp 
thống trị được để lên thành luật.
• Từ định nghĩa này, có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản của pháp luật:
• Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị, tức là của giai cấp thực hiện quyền 
lãnh đạo của nhà nước đối với xã hội, giai cấp nắm chính quyền;
• Ý chí đó được đề lên thành pháp luật, tức là được quy định thành những quy 
tắc điều chỉnh hành vi của mọi người, có tính chất cưỡng chế, bắt buộc tất cả
mọi người phải phục tùng;
• Pháp luật là những quy tắc có tính chất cưỡng chế chung;
• Ý chí nêu lên thành luật là do điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội quyết 
định, tức là do điều kiện kinh tế xã hội chi phối;
• Pháp luật là một trong những công cụ quan trọng nhất để giai cấp thốn trị 
thực hiện chuyên chính giai cấp.
2. Các học thuyết phản động, phản khoa học về nguồn gốc của nhà nước và  pháp luật
Cuộc đấu tranh giai cấp được phản ánh ngay trong cuộc đấu tránh giữa các quan
điểm về vấn đề nguồn gốc và bản chất của nhà nước và pháp luật. Sở dĩ có những 
quan điểm khác nhau về nguồn gốc và bản chất của nhà nước và pháp luật vì mỗi 
người đều xuất phát từ lợi ích của một giai cấp để nhìn nhận vấn đề. 
Những người đại diện cho giai cấp bóc lột xuất phát từ quan điểm duy
tâm, phản động, xuyên tạc nguyên nhân sâu xa làm xuất hiện nhà nước và pháp
luật, che đậy bản chất giai cấp của hai hiện tượng lịch sử này, cho rằng nhà 
nước là một cái gì thần bí (đại diện cho quan điểm này là Kan, Hêghen, Tibô 
v.v…) tồn tại vĩnh viễn trong lịch sử nhân loại, nhà nước thay mặt thượng đế 
để cai trị dân chúng… Múc đích của quan điểm duy tâm này là mê hoặc quần 
chúng, làm cho quần chúng an phận thủ thường, tin vào định mệnh và từ bỏ 
cuộc đấu tranh chống lại nhà nước của giai cấp thống trị. 
Quan điểm phản khoa học thứ hai cho rằng: trong nhân dân có người 
này sẵn có ý thức phục tùng,còn người khác vốn có ý thức quản lí, lãnh đạo, và
sự kết hợp hai loại tâm lí này làm nảy sinh ra nhà nước và pháp luật (đại diện 
cho quan điểm này là A-ris-tot).
Khi chủ nghĩa tư bản bước vào giai đoạn tột cùng là chủ nghĩa đế quốc, học 
thuyết về ý thức phục tùng và ý thức lãnh đạo được truyền bá rất rộng rãi và được 
sử dụng làm cơ sở để bào chữa cho chính sách bành trướng xâm lược và nô dịch 
của các nước đế quốc đối với các dân tộc ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ - Latinh, 
bào chữa cho chính sách áp bức, bóc lột nhân dân lao động ở các nước tư bản.
Những học thuyết cơ bản nêu trên đều là phản khoa học, không dựa vào quan 
điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để xem xét các hiện tượng xã hội nhà  nước và pháp luật.
III. CÁC KIỂU, HÌNH THỨC, CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC VÀ  PHÁP LUẬT
1. Các kiểu, hình thức, chức năng của nhà nước a. Kiểu nhà nước
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, kiểu nhà nước là khái niệm dùng
để chỉ những nhà nước cùng ra đời trên một cơ sở kinh tế và cùng có một bản chất  giai cấp nhất định.
Kiểu nhà nước do kiểu quan hệ sản xuất và do bản chất giai cấp của nhà  nước quyết định.
Từ khi lịch sử xã hội loài người xuất hiện giai cấp và đấu tranh giai cấp đến 
nay, trong xã hội có bốn cơ sở kinh tế khác nhau, kế tiếp, thay thế nhau: cơ sở kinh 
tế chiếm hữu nô lệ, cơ sở kinh tế phong kiến, cơ sở kinh tế tư bản chủ nghĩa và cơ 
sở kinh tế xã hội chủ nghĩa (XHCN). Thích ứng với bốn cơ sở kinh tế đó thì có bốn
kiểu nhà nước: kiểu nhà nước chiếm hữu nô lệ, kiểu nhà nước phong kiến, kiểu nhà
nước tư bản chủ nghĩa và kiểu nhà nước XHCN. Các kiểu nhà nước này có bản  chất giai cấp khác nhau.
Kiểu nhà nước biểu lệ bản chất của nhà nước. Nhà nước có bản chất tư bản 
thì nhà nước đó được tổ chức theo kiểu tư bản của nó. Nó không thể sử dụng kiểu 
nhà nước phong kiến hay kiểu nhà nước XHCN.
b. Hình thức của nhà nước
Hình thức nhà nước cũng là vấn đề quan trọng trong lí luận về nhà nước và 
pháp luật của chủ nghĩa Mác-Lênin. Bản chất của nhà nước là công cụ thống trị 
của một giai cấp, là quyền lực chính trị. Nhưng quyền lực đó tồn tại dưới hình thức
nào, được tổ chức như thế nào, được sắp xếp như thế nào thì lại là những vấn đề 
thược nội dung của lí luận về hình thức nhà nước.
Nhà nước có hai loại hình thức: Hình thức tổ chức và hình thức chính thể.
 Về hình thức tổ chức: nhà nước có hai loại là nhà nước đơn nhất và 
nhà nước liên bang. Nhà nước đơn nhất là nhà nước trong đó chỉ có một hệ 
thống cơ quan quyền lực tối cao duy nhất thực hiện chủ quyền quốc gia (Việt
Nam, Lào, Bun-ga-ri, Pháp, Nhật Bản, v.v…), còn nhà nước liên bang là nhà
nước có nhiều hệ thống cơ quan quyền lực tối cao: cơ quan của liên bang và 
cơ quan của từng nước thành viên trong liên bang. Mỗi hệ thống cơ quan 
quyền lực tối cao thực hiện chủ quyền quốc gia của mình trong phạm vi 
thẩm quyền đã được phân chia (ví dụ: Liên Xô cũ, Tiệp Khắc cũ, Liên bang 
Đức và đặc biệt là Hợp chủng quốc Hoa Kì hiện nay…).
 Về hình thức chính thể: người ta chia hình thức nhà nước ra làm hai 
loại cơ bản là chính thể quân chủ và chính thể cộng hòa. Hình thức chính thể
quân chủ có những đặc điểm như sau: người đứng đầu nhà nước và thống trị 
suốt đời là vua. Vua lên ngôi theo thừa kế, cha truyền con nối. Vua có toàn 
quyền định đoạt mọi công việc của quốc gia (quân chủ tuyệt đối) hoặc chỉ có
danh vọng, không có thực quyền hay thực quyền bị hạn chế trong một phạm 
vi nhất định (quân chủ lập hiến).
Hình thức chính thể cộng hòa là hình thức trong đó người đứng đầu nhà 
nước là cá nhân hay tập thể do bầu cử mà ra và chỉ thi hành quyền hạn của mình 
trong một thời hạn nhất định (nhiệm kì). Trong chính thể cộng hòa có cộng hòa 
quý tộc (La Mã, Hy Lạp cổ đại) và cộng hòa dân chủ. Trong chính thể cộng hòa 
dân chủ có chính thể cộng hòa tổng thống (ví dụ: Hoa Kì) và cộng hòa đại nghị (ví  dụ: Cộng hòa Pháp).
Hình thức nhà nước có liên quan chặt chẽ với kiểu nhà nước. Cùng một kiểu 
nhà nước có thể có nhiều hình thức khác nhau và một hình thức có thể áp dụng 
trong nhiều kiểu nhà nước khác nhau. Nhưng, có những hình thức chỉ thích hợp 
với một kiểu nhà nước nào đó chứ không thể thích hợp với các kiểu khác. Ví dụ: 
Hình thức chính thể quân chủ không thể có ở kiểu nhà nước XHCN v.v…
c. Chức năng của nhà nước
Chức năng của nhà nước là phương hướng hoạt động cơ bản của nhà nước 
trong từng thời kí nhất định. Nhà nước có hai chức năng cơ bản là chức năng đối 
nội và chức năng đối ngoại.
Chức năng đối nội gồm:
• Trấn áp sự phản kháng của giai cấp đối lập nhằm bảo vệ lợi ích và quyền 
thống trị của giai cấp thống trị;
• Tổ chức xây dựng kinh tế phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị;
• Tổ chức giáo dục văn hóa nhằm bảo đảm sự thống trị của hệ tư tưởng của  giai cấp thống trị.
Chức năng đối ngoại gồm:
• Bảo vệ đất nước chống sự xâm lăng của nước ngoài;
• Thi hành chính sách đối ngoại phục vụ quyền lực của giai cấp thống trị. Tất 
cả những chức năng nêu trên đều liên quan chặt chẽ với nhau, tác động qua 
lại với nhau và biểu hiện bản chất của nhà nước.
2. Các kiểu, hình thức, chức năng của pháp luật a. Kiểu pháp luật
Kiểu pháp luật là khái niệm gắn liền với kiểu nhà nước vì pháp luật do nhà 
nước chế định ra. Nhà nước thuộc kiểu nào thì chế định ra pháp luật thuộc kiểu ấy. 
Từ xưa đến nay có bốn kiểu nhà nước thì cũng có bốn kiểu pháp luật: kiểu pháp 
luật nô lệ, kiểu pháp luật phong kiến, kiểu pháp luật tư sản và kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Kiểu pháp luật nói lên bản chất của pháp luật, tức là nói pháp luật đó phục 
vụ cho giai cấp thống trị nào, thực hiện chuyên chính đối với giai cấp nào.
b. Hình thức của pháp luật
Pháp luật biểu hiện dưới nhiều hình thức như Hiến pháp, Luật, Nghị định, 
Quyết định, Mệnh lệnh, Chỉ thị v.v… Hình thức pháp luật còn bao gồm cả phong 
tục, tập quán được nhà nước thừa nhận và các tiền lệ xét xử (Án lệ) của các tòa án.
c. Chức năng của pháp luật
Chức năng của pháp luật gắn liền với chức năng của nhà nước và biểu hiện cụ 
thể ở bốn chức năng chủ yếu sau đây:
• Ấn định tổ chức của quốc gia, của xã hội;
• Điều chỉnh các quan hệ xã hội quan trọng nhất như quan hệ giữa các cơ quan
quyền lực với nhau, giữa các cơ quan chính quyền và nhân dân, quan hệ 
giữa các giai cấp, các tầng lớp nhân dân với nhau;
• Định ra những chuẩn mực, khuôn phép cho những hành động hoặc các cư xử của nhân dân;
• Xây dựng trật tự xã hội.
d. Các hệ thống pháp luật chủ yếu trên thế giới
Theo sự phân loại của Tòa án Quốc tế Liên hợp quốc (International Court of 
Justice), có sáu hệ thống pháp luật cơ bản là Common law, Islamic law, Indian law,
Chinese law và Law inspired by Communism.
• Common law là hệ thống pháp luật hình thành ở Anh, sau đó là ở Hoa Kì và 
các nước từng là thuộc địa của Anh, Mỹ.
Đặc điểm của Common law là khi mới ra đời, các quy tắc pháp luật chủ yếu là bất 
thành văn. Common law là tập hợp các quy tắc từ các tập quán và các án lệ (tiền lệ  xét xử).
Ngày nay, những nước xây dựng hệ thống pháp luật theo Common law cũng đã 
và đang từng bước pháp điển hóa pháp luật dưới hình thức văn bản. Tuy nhiên, án 
lệ và tập quán ở những nước này vẫn đóng vai trò quan trọng.
• Civil law là hệ thống pháp luật hình thành lần đầu tiên ở La Mã cổ đại, sau 
này là ở Pháp và các nước TBCN ở lục địa châu Âu.
Đặc điểm của Civil law là hệ thống pháp luật được xây dựng dưới hình thức thành 
văn. Các quy tắc pháp luật được xây dựng một cách có hệ thống, rõ ràng và được 
tập hợp trong các bộ luật, luật hoặc văn bản dưới luật.
Ở những nước này, án lệ không đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng  pháp luật.
• Islamic law là hệ thống pháp luật hình thành ở các nước hồi giáo.
Đặc điểm của Islamic law là chịu nhiều ảnh hưởng của các đạo giáo, đặc biệt là 
đạo Hồi. Vì vậy, người ta gọi Islamic law là luật Hồi giáo.
• Indian law là hệ thống pháp luật của Ấn Độ
Đặc điểm của Indian law là chịu nhiều ảnh hưởng của các tập quán, phong tục, lễ 
nghi, văn hóa của Ấn Độ. Indian law chịu nhiều ảnh hưởng của đạo Hindu.
• Chinese law là hệ thống pháp luật của Trung Quốc.
Chinese law chịu nhiều ảnh hưởng của đạo Khổng Tử cũng như nền văn hóa của 
Trung Quốc. Ngày này, Chinese law chịu nhiều ảnh hưởng của một nước Trung  Quốc hai chế độ.
• Law inspired by Communist (Hệ thống pháp luật XHCN) là hệ thống pháp 
luật tồn tại ở các nước XHCN như Liên Xô (cũ) và ở Việt Nam hiện nay.
IV. CÁC KIỂU NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT CỦA CÁC GIAI CẤP  BÓC LỘT
1. Nhà nước và pháp luật Chiếm hữu nô lệ
a. Cơ sở chính trị, kinh tế, xã hội của nhà nước và pháp luật Chiếm  hữu nô lệ 
Sau khi chế độ Cộng sản nguyên thủy tan rã, nhà nước và pháp luật chiếm 
hữu nô lệ ra đời. Đây là kiểu nhà nước và pháp luật đầu tiên trong lịch sử xã hội 
loài người. Kiểu nhà nước và pháp luật này xuất hiện đầu tiên ở Ai Cập (năm 2000 
trước Công nguyên) và Hy Lạp (năm 600 trước Công nguyên). Cơ sở kinh tế của 
nhà nước và pháp luật của các giai cấp bóc lột là chế độ chiếm hữu tư nhận về tư 
liệu sản xuất. Nhưng trong xã hội chiếm hữu nô lệ, tư liệu sản xuất nói chung như 
hầm mỏ, ruộng đất chưa phải là đối tượng chiếm hữu chủ yếu, mà người nô lệ là 
đối tượng chiếm hữu chính của giai cấp chủ nô.
Giai cấp chủ nô là giai cấp thống trị, bóc lột, có mọi quyền lực trong tay. 
Giai cấp nô lệ là giai cấp bị bóc lột chỉ có nghĩa vụ mà không có bất kì quyền lợi 
gì. Ngoài hai giai cấp chủ yếu này ra còn có bọn quý tộc, tăng lữ (thuộc giai cấp 
thống trị) và những người dân tư do (thược giai cấp bị trị).
Cơ sở chính trị của nhà nước và pháp luật chiếm hữu nô lệ là sự thống trị 
của giai cấp chủ nô đối với giai cấp nô lệ.
b. Nhà nước Chiếm hữu nô lệ
Bản chất của nhà nước chiếm hữu nô lệ là chuyên chính của giai cấp chủ nô,
là bộ máy thống trị, công cụ áp bức bóc lột và đàn áp của giai cấp chủ nô đối với 
giai cấp nô lệ và các tầng lớp nhân dân lao động khác.
Chức năng của nhà nước Chiếm hữu nô lệ. o Về đối nội:
 Bảo vệ quyền sở hữu của giai cấp chủ nô về tư liệu sản xuất, chủ yếu là quyền 
sở hữu của giai cấp chủ nô về người nô lệ;
 Tổ chức và bảo vệ địa vị thống trị, ách áp bức, bóc lột của chủ nô đối với nô lệ 
và những người lao động khác;
  Đàn áp nô lệ và các tầng lớp lao động khác bằng các hình thức bao lực, tư  tưởng và tôn giáo;
 Củng cố sự thống nhất trong giai cấp thống trị nhằm củng cố nền chuyên chính  của giai cấp chủ nô. o Về đối ngoại:
 Bảo vệ đất nước, chống nạn xâm lăng của nước ngoài;
 Tiến hành chiến tranh để bắt nô lệ, chiếm đoạt đất đai của nước khác nhằm 
mở rộng lãnh thổ và vơ vét của cải.
Hình thức chính thể của nhà nước chiếm hữu nô lệ:
• Chính thể quân chủ là hình thức chính thể phổ biến trong thời kì chiếm hữu  nô lệ;
• Chính thể Cộng hòa dân chủ: ví dụ ở A-ten cổ đại, về hình thức, mọi người 
dân tự do đều có quyền bầu cử để bầu ra cơ quan quyền lực tối cao là Hội 
nghị nhân dân. Song, trong thực tế nền dân chủ ở A-ten chủ yếu là nền dân  chủ của bọn chủ nô;
• Chính thể Cộng hòa quý tộc: ví dụ ở La mã và cộng hòa X-pat trước đây, chỉ
có những chủ nô đặc quyền, đặc lợi mới có quyền tham gia quản lí nhà nước
thông qua việc bầu cử và sử dụng Viện nguyên lão và đại hội công dân.
c. Pháp luật Chiếm hữu nô lệ
Bản chất của pháp luật Chiếm hữu nô lệ là ý chí của giai cấp chủ nô được 
nhà nước chiếm hữu nô lệ đề lên thành những quy tắc, bắt buộc nhân dân phải thi 
hành. Pháp luật Chiếm hữu nô lệ bảo vệ chế độ chiếm hữu tư nhân về người nô lệ, 
hợp pháp hóa chế độ chính trị bất bình đẳng. Theo pháp luật, người nô lệ chỉ là đồ 
vật, là một thứ tư liệu sản xuất, là công cụ sản xuất “biết nói”, do đó họ không có 
quyền mà chỉ có nghĩa vụ.
Hình thức pháp luật Chiếm hữu nô lệ: pháp luật Chiếm hữu nô lệ biểu hiện 
chủ yếu dưới hình thức tập quán không thành văn. Những tập quán này phần lớn 
do bọn thống trị đặt ra rồi thi hành lặp đi, lặp lại nhiều lần và trở thành những quy 
tắc chung cho xã hội. Khi cần thiết, bọn thống trị vứt bỏ đi những tập quán cũ, 
không còn thích hợp với quyền lợi của chúng và đặt ra những tập quán mới bắt 
nhân dân phải tuân theo. Khi những mối quan hệ torng xã hội Chiếm hữu nô lệ 
phát triển thì tập quán pháp không thể đáp ứng được yêu cầu điều chỉnh những mối
quan hệ đó, do đó, những quy phạm có tính chất tập quán dần dần được thay thế 
bằng luật thành văn. Những bộ luật thành văn đầu tiên là Bộ luật 12 bảng ở La Mã 
cổ đại, Bộ luật Ma-nu ở Ấn Độ, Bộ luật Dra-côn ở A-ten v.v…
2. Kiểu nhà nước và pháp luật Phong kiến a. Nhà nước Phong kiến
Cơ sở kinh tế của nhà nước Phong kiến là quan hệ sản xuất phong kiến, cụ thể 
là chế độ chiếm hữu tư nhân của giai cấp địa chủ, phong kiến về tư liệu sản xuất 
(chủ yếu là ruộng đất). Bọn địa chủ phong kiến làm chủ ruộng đất, cho dân cày cấy
để thu tô. Nền kinh tế dưới chế độ phong kiến rất phân tán, mang tính chất tự 
nhiên, nhất là ở giai đoạn đầu của thời kì phong kiến.
• Giai cấp địa chủ, phong kiến chiếm thiểu số trong xã hội là giai cấp thống  trị, giai cấp bóc lột.
• Giai cấp nông nô (nông dân) chiếm tuyệt đại đa số trong xã hội là giai cấp bị trị và trị bóc lột.
• Ngoài hai giai cấp chủ yếu nói trên, trong xã hội còn có tầng lớp xã hội khác
như tăng lữ, thợ thủ công, thương nhân.
Cơ sở chính của nhà nước và pháp luật Phong kiến là sự thống trị của chú 
phong kiến, địa chủ đối với nông dân và các tầng lớp lao động khác.
• Chức năng của nhà nước Phong kiến: o Về đối nội:
  Củng cố và bảo vệ quyền chiếm hữu tư nhân về ruộng đất của giai cấp phong  kiến, địa chủ;
 Củng cố và bảo vệ các hình thức bóc lột phong kiến;
  Đàn áp sự phản kháng của nông dân và các tầng lớp lao động khác bằng thủ 
đoạn chính trị, kinh tế, tư tưởng tôn giáo và bạo lực công khai. o Về đối ngoại:
 Bảo vệ đất nước chống ngoại xâm. Tiến hành chiến tranh xâm lược khi có điều 
kiện để chiếm đoạt lãnh thổ nước khác và biến dân cư nước này thành nông nô của  mình.
• Hình thức chính thể của nhà nước Phong kiến:
Hình thức chính thể điển hình và phổ biến của nhà nước Phong kiến là chính thể 
quân chủ, trong đó chính thể quân chủ phong kiến cát cứ và chính thể quân chủ tập
quyền là chủ yếu. Ngoài ra, cón có hình thức chính thể cộng hòa phong kiến. b. Pháp luật Phong kiến
Pháp luật Phong kiến là một công cụ chuyên chính của giai cấp phong kiến, địa 
chủ để củng cố và bảo vệ quan hệ sản xuất phong kiến và trật tự xã hội phong kiến 
nhằm duy trì sự thống trị và bóc lột của giai cấp phong kiến, địa chủ đối với nông 
dân và các tầng lớp lao động khác.
Pháp luật Phong kiến xác lập một trật tự khắc nghiệt trong xã hội và gia 
đình; bảo vệ triệt để tôn giáo và lễ giáo phong kiến, không phân biệt ranh giới giữa 
quy phạm pháp luật với quy phạm đạo đức và quy phạm tôn giáo. Pháp luật Phong 
kiến định ra những hình phạt tàn nhẫn và dã man như tùng xẻo, cho voi giày, bỏ 
vạc dầu, chu di tam tộc v.v…
Hình thức của pháp luật Phong kiến được biểu hiện dưới dạng tập quán pháp
và luật thành văn, trong đó tập quán pháp là hình thức chủ yếu ở giai đoạn đầu của  thời kì phong kiến.
c. Nhà nước và pháp luật Phong kiến Việt Nam
Do hoàn ảnh lịch sử, để đảm bảo nhu cầu dựng nước và giữ nước, ở Việt 
Nam về cơ bản, quốc gia thống nhất được thành lập sớm, vì vậy nền quân chủ 
trung ương tập quyền của giai cấp phong kiến Việt Nam cũng nảy nở khá sớm.
Nhà nước Phong kiến dưới các triều Lý Nam Đế, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, 
Hậu Lê và Nguyễn là các hình thức phong kiến trung ương tập quyền. Tính chất 
tập quyền của triều đại sau cao hơn triều đại trước. Bộ máy chính quyền từ trung 
ương đến địa phương được tổ chức ngày một chặt chẽ và không ngừng được củng 
cố, có quân đội thường trực đủ mạnh để bảo vệ đất nước và đè bẹp cát cứ địa 
phương. Triều Nguyễn là vương triều phong kiến cuối cùng. So với các triều đại 
trước, tính chất tập quyền chuyên chế của nhà Nguyễn mạnh hơn. Là vương triều 
hàn yếu, phản động, triều Nguyễn đã bán rẻ chủ quyền nước ta cho thực dân Pháp 
để duy trì lợi ích giai cấp ích kỉ của họ.
Pháp luật Phong kiến Việt Nam cũng sớm được hình thành. Bắt đầu từ triều 
Tiền Lê (979) một số luật lệ đã được ban hành. Đặc biệt năm 1042, Lý Thái Tổ cho
ban hành Bộ luật Hình thư. Đến đời Trần, một Bộ luật Hình thư mới được công bố.
Triều Trần còn có Bộ Quốc triều thống chế, quy định việc tổ chức chính quyền và 
các quy chế hành chính. Dưới triều Hậu Lê hoạt động tạp quán được đẩy mạnh và 
thể hiện ở nhiều mặt. Các chế độ quản lí và thể chế của bộ máy nhà nước dần dần 
được quy định thành luật lệ hoàn chỉnh. Đặc biệt, năm 1483, Lê Thánh Tông cho 
ban hành Bộ luật Hồng Đức gồm 721 điều, chia làm 6 quyển, 16 chương, bao gồm 
Luật Hình sự, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật dân sự và Luật Tố tụng dân sự. 
Luật Hồng Đức được thi hành đến cuối thế kỉ XVIII.
Có thể nói, Bộ luật Hồng Đức là một công trình lập pháp lớn, chứng tỏ bước
phát triển mới rất quan trọng của lịch sử pháp luật Việt Nam.
Pháp luật đời Lý, Trần và Hậu Lê bảo vệ lợi ích và đặc quyền của giai cấp 
thống trị phong kiến, củng cố chế độ quân chủ chuyên chế. Các hình phạt hà khắc 
còn duy trì, chế độ phân biệt các đẳng cấp trong xã hội thể hiện khá rõ nét. Song, 
các bộ luật trên, ở mức độ khác nhau cũng phản ánh và tôn trọng một số phong tục,
tập quán của nhân dân và còn có tác dụng tích dực trong việc bảo vệ chủ quyền 
quốc gia và phát triển kinh tế.
Năm 1915, Triều Nguyễn cho ban hành Bộ luật Gia Long. Bộ luật này chỉ là 
một bản sao chép gần như nguyên vẹn Bộ luật nhà Mãn Thanh. Bộ luật này mang 
nhiều tính chất phản động và khắc nghiệt hơn so với các bộ luật trước đó.
3. Nhà nước và pháp luật Tư bản chủ nghĩa a. Nhà nước Tư sản
Nhà nước Tư sản là tổ chức chính trị, là công cụ của giai cấp tư sản để đàn 
áp bóc lột công nhân và nhân dân lao động. Cơ sở kinh tế của nhà nước tư sản là 
quyền sở hữu của giai cấp tư sản về tư liệu sản xuất. Giai cấp vô sản không có tư 
liệu sản xuất nên phải bán sức lao động cho giai cấp tư sản.
Khi tiến hành cách mạng Tư sản để đánh đổ giai cấp phong kiến, giai cấp tư 
sản đã nêu ra những khẩu hiệu rất tiến bộ như: bình đẳng, tự do, bác ái. Ví dụ: 
trong “Tuyên ngôn Nhân quyền và ân quyền của Pháp năm 1791” tuyên bố: “Tất 
cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không 
ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do 
và bình đẳng về quyền lợi”.
Giai cấp tư sản lúc đó đóng một vai trò lịch sử tiến bộ, đã xóa bỏ được chế 
độ phong kiến bất công, kìm hãm bước tiến của loài người trong hàng nghìn năm. 
Nền dân chủ tư sản được thiết lập đã chấm dứt đêm trường trung cổ là một thành 
quả to lớn của loài người trong quá trình đấu tranh giành tư do. Tuy nhiên, chủ 
nghĩa tư bản không xóa bỏ áp bức bóc lột mà chỉ chuyển dịch quyền áp bức bóc lột
xã hội từ tay giai cấp địa chủ, phong kiến sang tay giai cấp tư sản. Vì vậy, nhà 
nước tư sản vẫn mang bản chất là một nhà nước bóc lột.
• Bản chất của nhà nước Tư sản là chuyên chính tư sản
Việc theo đuổi lợi nhuận tối đa bắt buộc giai cấp tư sản phải cải tiến và mở rộng
sản xuất. Việc mở rộng sản xuất đó diễn ra trong tình trạng tư do cạnh tranh. Trong
quá trình cạnh tranh, những xí nghiệp lớn thôn tính những xí nghiệp nhỏ. Việc tập 
trung và tích tụ tư bản dẫn đến sự hình thành chủ nghĩa tư bản lũng đoạn, tức là 
chủ nghĩa đế quốc. Như vậy, xã hội tư bản và nhà nước tư bản đã trải qua hai giai 
đoạn: giai đoạn tư do cạnh tranh và giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Mặc dù trải qua 
hai giai đoạn đó, nhà nước Tư sản không thay đổi về bản chất mà ngày càng tăng 
trưởng sự bóc lột về kinh tế và sự áp bức về chính trị đối với giai cấp công nhân và
các tầng lớp nhân dân lao động khác.
• Chức năng của nhà nước Tư sản Về đối nội:
 Bảo vệ quyền sở hữu tư bản chủ nghĩa và bóc lột nhân dân lao động;
 Bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư sản chống lại các giai cấp bị bóc lột khác… o Về đối ngoại:
 Đề phòng và chống ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập của quốc gia;
 Bành trướng, xâm lược, nô dịch các nước khác, các dân tộc khác đặc biệt là 
trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
• Hình thức chính thể của nhà nước Tư sản:
 Chính thể cộng hòa tư sản trong đó có công hòa đại nghị (Pháp) và cộng hòa  tổng thống (Mỹ);
 Chính thể quân chủ lập hiến (Anh) trong đó có quan chủ tập quyền và quân chủ  đại nghị. b. Pháp luật Tư sản
Pháp luật Tư sản là ý chí của giai cấp tư sản được đề lên thành luật và được 
nhà nước Tư sản đảm bảo thực hiện bằng sự cưỡng chế, ý chí ấy do quan hệ sản 
xuất tư bản chủ nghĩa quyết định. Là một trong những công cụ chuyên chính của 
giai cấp tư sản, pháp luật tư sản có nhiệm vụ duy trì một trật tự xã hội có lợi cho 
giai cấp tư sản nhằm bảo vệ sự thống trị và bóc lột của giai cấp tư sản đối với giai 
cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động.
Pháp luật Tư sản trên giấy tờ, có xác nhận một số quyền tự do dân chủ của 
giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Song, những quy định này chỉ mang tính 
chất hình thức thậm chí phủ định lẫn nhau. Trong thực tế, pháp luật tư sản thể hiện 
sự bất bình đẳng rõ rệt.
Hình thức của pháp luật Tư sản.
Pháp luật Tư sản biểu hiện chủ yếu dưới hình thức luật thành văn. Ngoài ra, 
ở nhiều nước, pháp luật biểu hiện dưới hình thức luật tập quán (tập quán pháp) và 
tiền lệ pháp, ví dụ ở Anh, Mỹ. So với luật pháp phong kiến, luật pháp tư sản phát 
triển hơn cả về cách thức quy định, ban bố và thi hành lẫn việc pháp điển hóa và 
phân loại. Ví dụ: giai cấp tư sản phân loại pháp luật thành hai ngành lớn: công 
pháp và tư pháp. Ngành công pháp bao gồm: luật hiến pháp, luật hành chính, luật 
tài chính, luật hình sự, luật tố tụng hình sự v.v… Ngành tư pháp bao gồm: luật dân 
sự, luật tố tụng dân sự, luật lao động, luật thương mại, tư pháp quốc tế v.v…
V. NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Nhà nước Xã hội chủ nghĩa
a. Nhà nước Xã hội chủ nghĩa
Năm 1917, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân Nga, mà chính đảng của
nó là Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích, quần chúng cách mạng Nga đã dùng bạo lực 
cách mạng lật đổ chính quyền tư sản thành lập nhà nước chuyên chính vô sản Xô 
Viết. Sau khi giành chính quyền, xác lập nền chuyên chính vô sản dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích, nhân dân lao động Nga thành lập Nhà nước Xô 
Viết (nhà nước của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân). 
Cùng với sự ra đời của Nhà nước Xô Viết, một loạt các nhà nước XHCN khác 
cũng xuất hiện ở châu Âu.
Ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam mà chính 
đảng của nó là Đảng Cộng sản Đông Dương (sau này là Đảng Lao động Việt Nam, 
và ngày nay là Đảng Cộng sản Việt Nam), nhân dân Việt Nam đã làm cuộc Cách 
mạng tháng Tám năm 1945 thành công, đánh đổ bộ máy nhà nước của bọn thực 
dân phong kiến, giành độc lập tự do cho Tổ quốc, thành lập nên nước Việt Nam  Dân chủ Cộng hòa.
Với việc hoàn thành thống nhất nước nhà về mặt nhà nước, năm 1975 trên 
cơ sở chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta đã có một nhà nước theo kiểu XHCN – Nhà 
nước cộng hòa XHCN Việt Nam.
Bản chất của nhà nước XHCN là chuyên chính vô sản.
Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định rằng chuyên chính vô sản nghĩa là giai 
cấp vô sản phải trở thành cấp thống trị, nghĩa là “chỉ có một giai cấp nhất định, tức 
là giai cấp công nhân thành thị và nói chung là công nhân nhà máy, công nhân 
công nghiệp, mới có khả năng lãnh đạo toàn thể quần chúng lao động và những 
người bị bóc lột trong cuộc đấu tranh để lật đổ ách tư bản… trong cuộc đấu tranh 
để duy trì và củng cố thắng lợi, trong sự nghiệp sáng tạo một trật tự xã hội mới – 
trật tư xã hội chủ nghĩa, trong toàn bộ cuộc đấu tranh để hoàn toàn xóa bỏ giai  cấp”.
Chuyên chính vô sản là chuyên chính của giai cấp công nhân – giai cấp nắm 
quyền lãnh đạo nhân dân lao động trên cơ sở liên minh công nông, trấn áp sự phản 
kháng của giai cấp bóc lột đã bị lật đổ, xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản 
xuất và tàn dư của chế độ người bóc lột người, xóa dần sự phân chia xã hội thành 
giai cấp để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Từ những điểm trình bày trên, có thể rút ra các đặc trưng sau đây của chuyên chính vô sản:
• Chuyên chính vô sản trước hết là bạo lực đối với giai cấp tư sản và các giai 
cấp bóc lột khác, là cuộc đấu tranh giai cấp tiếp tục dưới hình thức mới;
• Chuyên chính vô sản là cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chiến thắng đã 
nắm được chính quyền trong tay chống lại giai cấp tư sản chiến bại nhưng 
chưa bị tiêu diệt, chưa thôi phản kháng mà ngược lại, còn tăng cường phản  kháng mạnh hơn;
• Liên minh công nông là nguyên tắc tối cao của chuyên chính vô sản;
• Chuyên chính vô sản còn nhằm mục đích đặc biệt lớn lao là xây dựng một 
xã hội mới tốt đẹp hơn chế độ xã hội cũ, trong đó không có người bóc lột 
người, một xã hội ấm no và hạnh phúc. Ý nghĩa của vấn đề này đã được
V.I. Lênin khẳng định: “Chuyên chính vô sản,… không phải chỉ là bạo lực đối 
với bọn bóc lột và cũng không phải chủ yếu là bạo lực. Cơ sở kinh tế của bạo lực 
cách mạng đó, cái đảm bảo cho sức sống và sự thắng lợi của nó chính là việc giai 
cấp vô sản phải đưa ra và thực hiện được kiểu tổ chức xã hội có năng suất lao động
cao hơn so với chủ nghĩa tư bản. Đây là nội dung của vấn đề. Do đó mà có lực 
lượng đảm bảo được thắng lợi hoàn toàn và tất nhiên của chủ nghĩa cộng sản”.
b. Chức năng của nhà nước XHCN o Về đối nội
 • Tổ chức xây dựng nền kinh tế XHCN;
• Xây dựng nền văn hóa mới và con người XHCN;
• Trấn áp giai cấp bóc lột, các phần tử phản động, ay sai đế quốc phá hoại, bảo vệ 
chế độ XHCN trên mọi lĩnh vực. o Về đối ngoại
• Sẳn sàng đập tan mọi hành động xâm lược và âm mưu gây chiến của chủ nghĩa 
đế quốc để bảo vệ đất nước, đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới, bảo vệ 
nền hòa bình và an ninh thế giới;
• Ủng hộ về mọi mặt phong trào đấu tranh của nhân dân các nước vì độc lập, hòa 
bình, dân chủ và tiến bộ xã hội;
• Tổ chức hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước anh em XHCN, thiết lập và 
mở rộng quan hệ bình thường với các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau 
trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập chủ quyền và hai bên cùng có lợi;
• Tích cực tham gia vào tiến trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
c. Hình thức nhà nước XHCN
• Công xã Pari: là hình thức nhà nước tồn tại ở Pari năm 1871. Công xã Pari là 
hình thức đầu tiên, phôi thai của nhà nước XHCN.
• Cộng hòa Xô Viết: tồn tại ở nước Nga sau khi Cách mạng Nga thành công  năm 1917.
• Cộng hòa dân chủ nhân dân: tồn tại ở các nước XHCN ở châu Âu, châu Á và 
châu Mỹ - Latinh (ví dụ ở Việt Nam từ 1945 đến 1975…).
• Cộng hòa XHCN: tồn tại ở Liên Xô cũ, các nước XHCN ở Đông Âu cũ hoặc 
Cộng hòa XHCN Việt Nam hiện nay.
d. Hệ thống chuyên chính vô sản trong nhà nước XHCN
• Hệ thống chuyên chính vô sản là “… một bộ máy mềm dẻo và tương đối rộng rãi,
vững mạnh, một bộ máy thông qua đó Đảng liên hệ chặt chẽ với giai cấp và quần 
chúng và thông qua đó chuyên chính của giai cấp được thực hiện dưới sự lãnh đạo 
của Đảng”. Hệ thống chuyên chính vô sản bao gồm ba loại tổ chức: tổ chức Đảng 
là lực lượng lãnh đạo, tổ chức nhà nước là lực lượng quản lí và tổ chức quần chúng
là lực lượng trực tiếp thực hiện công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
• Đảng cộng sản: Đảng Cộng sản là Đảng của giai cấp công nhân, là đội tiên phong
có tổ chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân, là bộ phận đầu não trong 
hệ thống chuyên chính vô sản, trong từng cơ quan nhà nước trong từng tổ chức  quần chúng.
• Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản thể hiện trước hết ở chỗ Đảng là người vạch 
ra đường lối chính trị, chỉ ra mục tiêu và vạch ra phương hướng hành động cho  
