Chương 2: Quy phạm pháp luật hành chính và quan hệ pháp - Luật hành chính | Trường đại học Luật, đại học Huế

Chương 2: Quy phạm pháp luật hành chính và quan hệ pháp - Luật hành chính | Trường đại học Luật, đại học Huế được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

 

1
CHƯƠNG 2
QUY PHẠM PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH VÀ QUAN HỆ PHÁP
LUẬT HÀNH CHÍNH
I. QUY PHẠM PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH
1. Khái niệm và đặc điểm của quy phạm pháp luật hành chính
a. Khái niệm
Trước hết, qui phạm được hiểu điều qui định chặt chẽ phải tuân theo.
Trong đời sống hàng ngày, ta vẫn thường gặp những khái niệm như qui phạm
đạo đức, qui phạm pháp luật. Tuy nhiên, khác với qui phạm đạo đức, qui phạm
pháp luật được ban hành bởi nhà nước mang tính cưỡng chế nhà nước. Ðể
thực hiện chức năng quản nhà nước, quản hội, các quan nhà nước
thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh hoạt
động quản hành chính nhà nước. Các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt
động quản lý hành chính nhà nước chính là quy phạm pháp luật hành chính.
Như vậy, quy phạm pháp luật hành chính các quy tắc xử sự chung do
cơ quan Nhà nước, các cán bộ nhà nước có thẩm quyền ban hành, chủ yếu điều
chỉnh những quan hệ hội phát sinh trong lĩnh vực quản hành chính Nhà
nước (hay còn gọi hoạt động chấp hành - điều hành của Nhà nước) hiệu
lực bắt buộc thi hành đối với những đối tượng có liên quan.
b. Ðặc điểm của quy phạm pháp luật hành chính
Qua khái niệm trên cho thấy quy phạm pháp luật hành ch chính một trong
những dạng quy phạm pháp luật và nó có những đặc điểm sau:
1. qui tắc xử sự mang tính bắt buộc chung. Giống như các qui phạm
pháp luật khác, qui phạm pháp luật hành chính hiệu lực bắt buộc thi hành
đối với các đối tượng liên quan được bảo đảm thực hiện bằng sự cưỡng
chế nhà nước. Những qui phạm này xác định hành vi của các đối tượng có liên
quan: được làm gì, không được làm gi làm như thế nào. Các qui tắc xử sự
này được ban hành theo thủ tục, trình tự chắt chẽ theo pháp luật. Khi một
quan hệ pháp luật hành chính cụ thể tương ứng phát sinh, qui tắc xử sự chung
trên sẽ là căn cứ để ra văn bản áp dụng. Tuy vậy, dù có hay chưa có văn bản áp
dụng, qui phạm pháp luật trên vẫn tồn tại không mất đi giá trị pháp trừ
khi hết hiệu lực.
2. Ðược ban hành bởi những quan nhà nước cán bộ nhà nước
thẩm quyền các cấp khác nhau với, mục đích cụ thể hóa các quy phạm pháp
2
luật hành chính của các quan quyền lực nhà nước các quan nhà nước
cấp trên. các văn bản pháp luật do các quan quyền lực nhà nước ban
hành trong lĩnh vực quản hành chính mới chỉ quy định một cách chung nhất
nên chúng đòi hỏi phải được cụ thể hóa trong từng lĩnh vực của quản hành
chính.
3. Tính thống nhất: mặc quy phạm pháp luật hành chính được ban
hành bởi những quan khác nhau, hiệu lực pháp cũng như phạm vi thi
hành khác nhau nhưng về bản chúng hợp thành một hệ thống thống nhất.
Tính thống nhất của các quy phạm pháp luật hành chính được bảo đảm bởi hệ
thống các nguyên tắc trong luật hành chính, đặc biệt là nguyên tắc pháp chế
hội chủ nghĩa và nguyên tắc tập trung dân chủ. Những nguyên tắc này đòi hỏi:
+ Các quy phạm pháp luật hành chính do các quan hành chính nhà
nước ban hành phải phù hợp với Hiến pháp, Nghị quyết Pháp lệnh của các
cơ quan quyền lực nhà nước.
+ Những quy phạm pháp luật hành chính do các cơ quan hành chính nhà
nước thẩm quyền chuyên môn ban hành phải phù hợp với những quy phạm
pháp luật hành chính do quan hành chính nhà nước thẩm quyền chung
ban hành.
+ Các quy phạm pháp luật hành chính phải được ban hành theo trình tự,
thủ tục và hình thức pháp luật đã quy định.
+ Việc ban hành các quy phạm pháp luật hành chính của quan cấp
dưới đòi hỏi phải phù hợp với những quy phạm pháp luật hành chính do cấp
trên ban hành.
+ Các quy phạm pháp luật hành chính do quan địa phương ban hành
để thi hành địa phương phải phù hợp với quy phạm pháp luật hành chính do
các cơ quan ở trung ương ban hành để thi hành trong cả nước.
4. Những qui phạm pháp luật hành chính ban hành chủ yếu điều chỉnh
những quan hệ hội phát sinh trong lĩnh vực hành chính nhà nước. Ðiều này
đồng nghĩa với sẽ có những văn bản thứ yếu phát sinh trong lĩnh vực khác của
nhà nước. Thật vậy, ngoài việc xác định thẩm quyền của các quan hành
chính nhà nước trong lĩnh vực lao động, luật hành chính đồng thời điều chỉnh
những quan hệ hội liên quan đến việc tổ chức quá trình lao động chế độ
công vụ...
5. Các quy phạm pháp luật hành chính được đặt ra, sửa đổi hay bãi bỏ
trên cơ sở những quy luật phát triển khách quan của xã hội và những đặc điểm
3
cụ thể trong từng giai đoạn. Hiện nay, qui phạm pháp luật Hành chính tổng
hợp các qui phạm về quản nhà nước trong các lĩnh vực tương ứng với các
lĩnh vực quản của đời sống hội. vậy, qui phạm pháp luật hành chính
hiện tại được ban hành bởi khá nhiều quan, hiệu lực pháp khác nhau
thi hành khác nhau, cũng như tính ổn định các văn bản này không cao. Tuy
nhiên, đây không phải là bản chất của qui phạm pháp luật hành chính. Tuy tính
đa dạng về văn bản các cấp gắn liền với qui phạm hành chính, nhưng về lâu
dài sẽ phải một Bộ Luật hành chính hoặc Luật hành chính thống nhất điều
chỉnh các mối quan hệ chung nhất chứa đựng một cách hệ thống hơn các
qui phạm pháp luật hành chính.
2. Nội dung của quy phạm pháp luật hành chính
c quy phạm pp luật hành chính thể có những nội dung cơ bản sau:
- Quy phạm pháp luật hành chính quy định địa vị pháp của các bên
tham gia quan hệ quản hành chính nhà nước tức là xác định quyền nghĩa
vụ cũng như mối liên hệ chủ yếu giữa các bên tham gia quan hệ quản hành
chính nhà nước. Ðiều này liên quan trực tiếp tới bản thân quan hệ pháp luật
hành chính cụ thể. Ta có các trường hợp sau:
+ QPPL hành chính trong quan hệ pháp luật hành chính công: chủ thể có
thẩm quyền hành chính nhà nước - chủ thể thẩm quyền hành chính nhà
nước.
+ QPPL hành chính trong quan hệ pháp luật hành chính tư: chủ thể
thẩm quyền hành chính nhà nước - chủ thể không thẩm quyền hành chính
nhà nước hoặc tham gia không với cách chủ thể thẩm quyền hành chính
nhà nước.
- Quy phạm pháp luật hành chính xác định những thủ tục, trình tự cần
thiết cho việc thưc hiện quyền nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ pháp
luật hành chính một số quan hệ pháp luật khác như quan hệ pháp luật lao
động, tài chính, đất đai...
- Quy phạm pháp luật hành chính xác định các biện pháp khen thưởng
và các biện pháp cưỡng chế hành chính đối với các đối tượng quản l
3. Cơ cấu của quy phạm pháp luật hành chính
Quy phạm pháp luật hành chính được cấu thành bởi ba bộ phận.
a. Giả định
4
Giả định phần nêu những điều kiện thực tế nếu chúng thì
mới có thể thi hành hoặc áp dụng những quy phạm đó. Giả định của quy phạm
pháp luật hành chính có thể xác định là tuyệt đối.
b. Quy định
Quy định phần xác định nội dung quyền nghĩa vụ, trình tự thực
hiện quyền nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật, đây
phần bản trọng tâm của quy phạm pháp luật hành chính. Đặc trưng phần
quy định của quy phạm hành chính tính mệnh lệnh thể hiện dưới các hình
thức cấm đoán, cho phép, trao quyền.
c. Chế tài
Chế tài là biện pháp cưỡng chế mà Nhà nước dự kiến áp dụng đối với cá
nhân, tổ chức trong điều kiện được nêu ra ở giả định nhưng không thực hiện
đúng nội dung phần quy định.
Tóm lại, quy phạm pháp luật hành chính các quy tắc xử sự chung do
quan Nhà nước thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ
hội trong lĩnh vực quản hành chính nhà nước, hiệu lực bắt buộc thi hành
đối với các đối tượng liên quan được thực hiện bằng sự cưỡng chế nhà
nước.
3. Phân loại quy phạm pháp luật hành chính
Ðể phân loại các quy phạm pháp luật hành chính thể dựa trên nhiều
tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, trong giới hạn của chương trình học ta chỉ phân
loại dựa trên một số tiêu chí chủ yếu. Các tiêu chí đó là các căn cứ về nội dung
pháp lý, về tính chất của những quan hệ được quy phạm pháp luật hành chính
điều chỉnh, về thời gian áp dụng, cơ quan ban hành cũng như căn cứ vào phạm
vi hiệu lực pháp lý của các quy phạm hành chính.
a) Căn cứ vào nội dung pháp của quy phạm pháp luật hành chính ta
có ba loại quy phạm:
+ Quy phạm đặt nghĩa vụ: là quy phạm buộc các đối tượng liên quan
phải thực hiện những hành vi nhất định.
+ Quy phạm trao quyền: quy phạm trao quyền cho các đối tượng
liên quan quyền thực hiện những hành vi nhất định. Qui phạm trao quyền được
thể hiện trong quan hệ pháp luật hành chính công khi cấp trên ban hành qui
phạm trao quyền cho cấp dưới.
+ Quy phạm ngăn cấm: quy phạm buộc các đối tượng liên quan
tránh thực hiện những hành vi nhất định.
5
b) Căn cứ vào tính chất của những quan hệ được điều chỉnh ta hai
loại quy phạm:
+ Quy phạm nội dung: là quy phạm quy định quyền và nghĩa vụ của các
bên tham gia quan hệ quản lý hành chính nhà nước.
+ Quy phạm thủ tục: quy phạm quy định trình tự thủ tục các bên
phải tuân theo trong khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
c) Căn cứ vào cơ quan ban hành ta có các quy phạm sau:
+ Những quy phạm do cơ quan quyền lực nhà nước ban hành.
+ Những quy phạm do Chủ tịch nước ban hành.
+ Những quy phạm do Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành.
+ Những quy phạm do cơ quan hành chính nhà nước ban hành.
+ Những quy phạm do các cơ quan nhà nước và tổ chức chính trị-xã hội
phối hợp ban hành.
Lưu ý rằng qui phạm pháp luật hành chính không chỉ được ban hành bởi
quan hành chính nhà nước, mà cả các cơ quan khác trong hệ thống quan
nhà nước.
Ví dụ: Quốc hội (hệ thống cơ quan dân cử), Hội đồng thẩm phán TAND
tối cao (hệ thống cơ quan tư pháp).
Tuy nhiên, tất cả các văn bản của các tổ chức xã hội với tư cách độc lập
của tổ chức hội đó, trong mọi trường hợp, không được xem văn bản
QPPL hành chính.
dụ: Văn kiện của Ðảng Cộng sản Việt nam tính chất chỉ đạo cho
hoạt động quản hành chính nhà nước, nhưng hoàn toàn không phải văn
bản QPPL hành chính.
d) Căn cứ vào thời gian áp dụng chúng ta ba loại quy phạm, đó là: quy
phạm áp dụng lâu dài, quy phạm áp dụng thời hạn và những quy phạm tạm
thời.
+ Quy phạm áp dụng lâu dài: quy phạm trong văn bản ban hành
chúng không ghi thời hạn áp dụng, do vậy, chúng chỉ hết hiệu lực khi quan
thẩm quyền tuyên bố bãi bỏ hay thay thế chúng bằng những quy phạm
khác.
+ Quy phạm áp dụng có thời hạn: những quy phạm trong văn bản
ban hành chúng có ghi thời hạn áp dụng. Thường là những quy phạm được ban
6
hành để điều chỉnh những quan hệ hội phát sinh trong tình huống đặc biệt,
khi tình huống này không còn thì quy phạm cũng hết hiệu lực.
+ Quy phạm tạm thời: những quy phạm được ban hành để áp
dụng thử. Nếu sau thời gian áp dụng thử xét thấy phù hợp thì sẽ
ban hành chính thức. những trường hợp được ban hành thí điểm, áp
dụng giới hạn một số địa phương nhất định. Sau một thời gian đánh
giá hiệu quả hoạt động trên thực tế, sẽ ban hành đồng loạt.
e) Căn cứ vào phạm vi hiệu lực pháp lý ta có hai loại sau:
+ Quy phạm pháp luật hành chính có hiệu lực trên phạm vi cả nước.
+ Quy phạm pháp luật hành chính hiệu lực pháp từng địa
phương.
Việc phân loại này sẽ được phân tích cụ thể trong phần sau về hiệu lực
của QPPL hành chính.
4. Vấn đề thực hiện quy phạm pháp luật hành chính
a. Việc thực hiện quy phạm pháp luật hành chính
Thực hiện quy phạm pháp luật hành chính việc dùng quy phạm pháp
luật hành chính để tác động vào hành vi của các bên tham gia quan hệ quản
nhà nước, được biểu hiện dưới hai hình thức chấp hành áp dụng quy
phạm pháp luật hành chính.
1. Chấp hành quy phạm pháp luật hành chính: việc các quan, tổ
chức nhân làm theo đúng những yêu cầu của quy phạm pháp luật hành
chính. Các chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính thưc hiện hành vi chấp
hành quy phạm pháp luật hành chính trong những trường hợp sau:
+ Khi thực hiện đúng các hành vi quy phạm pháp luật hành chính
cho phép;
+ Khi thực hiện đúng các hành vi quy phạm pháp luật hành chính
buộc phải thực hiện;
+ Khi không thực hiện những hành vi quy phạm pháp luật hành chính cấm
thực hiện.
2. Áp dụng quy phạm pháp luật hành chính: việc quan thẩm
quyền của nhà nước căn cứ vào pháp luật hiện hành để giải quyết các công
việc cụ thể phát sinh trong quá trình quản hành chính nhà nước. Việc áp
dụng quy phạm pháp luật hành chính trực tiếp làm phát sinh, thay đổi hay
chấm dứt các quan hệ pháp luật hành chính cụ thể- quan hệ pháp luật hành
chính tư. Chúng liên quan trực tiếp tới việc thực hiện quyền nghĩa vụ của
7
các bên tham gia vào quan hệ quản lý hành chính nhà nước, đặc biệt là đối với
tổ chức, công dân. Do vậy, việc áp dụng quy phạm pháp luật hành chính phải
tuân theo những yêu cầu sau:
+ Việc áp dụng quy phạm pháp luật hành chính phải tuân theo những
yêu cầu của nguyên tắc pháp chế hội chủ nghĩa đảm bảo nhân dân lao
động điều kiện tham gia vào quản nhà nước theo Ðiều 12 Ðiều 53
Hiến pháp 1992. áp dụng quy phạm pháp luật hành chính hoạt động của
các quan nhà nước thẩm quyền giải quyết tất cả những vấn đề liên
quan đến quyền lợi của các tổ chức, cá nhân.
+ Việc áp dụng quy phạm pháp luật hành chính trực tiếp làm phát sinh,
thay đổi hay chấm dứt các quan hệ pháp luật hành chính cụ thể, vậy phải
được thực hiện bởi quan thẩm quyền của nhà nước phải được tiến
hành theo đúng trình tự, thủ tục, đúng thời hạn pháp luật quy định, phải xem
xét, giải quyết đúng hạn các yêu cầu nhận được, trả lời công khai, chính thức
về kết quả giải quyết cho các đối tượng có liên quan.
dụ: Ðiều 67 Luật khiếu nại tố cáo 02/12/98 (sửa đổi bổ sung năm
2005), quan, nhân thẩm quyền phải giải quyết tố cáo trong thời hạn
60 ngày kể từ ngày thụ giải quyết, đối với vụ việc phức tạp thời hạn giải
quyết thể kéo dài hơn nhưng không quá 90 ngày kể từ ngày thụ để giải
quyết.
+ Kết quả áp dụng quy phạm pháp luật hành chính phải được thể hiện
bằng văn bản của các quan nhà nước thẩm quyền việc áp dụng chỉ
được coi hoàn thành khi quyết định của quan áp dụng pháp luật được
chấp hành trong thực tế.
b. Mối quan hệ giữa chấp hành và áp dụng quy phạm pháp luật hành
chính
Chấp hành áp dụng quy phạm pháp luật hành chính mối quan hệ
hữu với nhau, được tiến hành song song trong thực tiễn cuộc sống. Mối
quan hệ này được thể hiện:
1. Chấp hành - áp dụng: Chấp hành tiền đề, sở của áp dụng quy
phạm pháp luật hành chính, từ việc chấp hành quy phạm pháp luật hành chính
dẫn đến áp dụng quy phạm pháp luật hành chính;
dụ: công dân chấp hành các quy định về thuế của nhà nước, đã nộp
thuế đầy đủ dẫn đến áp dụng quy phạm pháp luật của quan nhà nước
thẩm quyền.
8
2. Không chấp hành - áp dụng: trường hợp không chấp hành quy
phạm pháp luật hành chính dẫn đến việc áp dụng quy phạm pháp luật hành
chính.
dụ: không chấp hành luật lệ giao thông dẫn tới việc xử phạt vi phạm hành
chính.
3. Áp dụng - chấp hành: Trong nhiều trường hợp khác, áp dụng quy
phạm pháp luật hành chính lại tiền đ.ề, sở của việc chấp hành quy phạm
pháp luật hành chính.
dụ: Một quan cấp giấy phép cho một đơn vị sản xuất thì việc cấp
giấy phép hành động áp dụng quy phạm pháp luật hành chính, còn việc
không vi phạm những điều ghi trong giấy phép hành động chấp hành quy
phạm pháp luật hành chính. Thế nhưng, nếu đơn vị đó không chấp hành thì tất
yếu sẽ dẫn đến việc áp dụng quy phạm pháp luật hành chính.
II. QUAN HỆ PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH.
1. Khái niệm và đặc điểm của quan hệ pháp luật hành chính
a. Khái niệm
Quan hệ pháp luật hành chính một dạng của quan hệ pháp luật. Ðó
những quan hệ hội phát sinh chủ yếu trong lĩnh vực chấp hành điều hành
giữa một bên mang quyền lực nhà nước chức năng quản hành chính nhà
nước một bên đối tượng quản lý. Các quan hệ này được điều chỉnh bởi
những quy phạm pháp luật hành chính. Trong một quan hệ pháp luật hành
chính thì quyền của bên này sẽ là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Chúng rất
phong phú và đa dạng, phát sinh trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Như vậy, quan hệ pháp luật hành chính những quan hệ hội phát
sinh trong lĩnh vực chấp hành điều hành của nhà nước được điều chỉnh bởi
quy phạm pháp luật hành chính giữa những chủ thể mang quyền nghĩa vụ
đối với nhau theo quy định của pháp luật hành chính.
b. Ðặc điểm của quan hệ pháp luật hành chính.
Căn cứ vào những đặc trưng riêng của quan hệ pháp luật hành chính, ta
thấy quan hệ pháp luật hành chính có những đặc điểm sau:
- Quan hệ pháp luật hành chính chủ yếu chỉ phát sinh trong quá trình
quản hành chính nhà nước trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống hội,
luôn gắn liền với hoạt động chấp hành điều hành của nhà nước, chúng vừa
thể hiện lợi ích của các bên tham gia quan hệ vừa thể hiện những yêu cầu
mục đích của hoạt động chấp hành - điều hành.
9
- Quan hệ pháp luật hành chính thể phát sinh giữa tất cả các loại chủ
thể như cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, công dân, người nước ngoài...nhưng
ít nhất một bên trong quan hệ phải quan hành chính nhà nước hoặc
quan nhà nước khác hoặc tổ chức, nhân được trao quyền quản lý. Ðiều này
nghĩa quan hệ giữa công dân với công dân, tổ chức với tổ chức hay tổ
chức với một công dân nào đó (không mang quyền lực hành chính nhà nước)
thì không thể hình thành quan hệ pháp luật hành chính.
- Quan hệ pháp luật hành chính thể phát sinh do đề nghị hợp pháp
của bất kỳ bên nào, sự thỏa thuận của bên kia không phải là điều kiện bắt buộc
cho sự hình thành quan hệ .
- Các tranh chấp phát sinh trong quan hệ pháp luật hành chính phần lớn
được giải quyết theo trình tự, thủ tục hành chính chủ yếu thuộc thẩm quyền
của cơ quan hành chính nhà nước.
- Trong quan hệ pháp luật hành chính, bên vi phạm phải chịu trách
nhiệm trước nhà nước chứ không phải chịu trách nhiệm trước chủ thể bên kia
của quan hệ pháp luật hành chính.
2. Cấu thành của quan hệ pháp luật hành chính
a. Chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính
Chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính những bên tham gia vào quan hệ
pháp luật hành chính, năng lực chủ thê,ứ quyền nghĩa vụ tương ứng
đối với nhau theo quy định của pháp luật hành chính.
Chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính bao gồm: quan nhà nước, cán bộ
nhà nước, tổ chức hội, đơn vị kinh tế, công dân Việt Nam, người nước
ngoài người không quốc tịch. Trong đó, một loại chủ thể luôn luôn hiện
diện trong mọi quan hệ pháp luật hành chính: chủ thể quản - bên thẩm
quyền hành chính nhà nước.
* Chủ thể quản hành chính nhà nước: các nhân hay tổ chức của
con người mang quyền lực hành chính nhà nước, nhân danh nhà nước thực
hiện chức năng quản hành chính nhà nước. "Mang quyền lực nhà nước"
đây cần hội đủ 2 yếu tố sau:
- Có thẩm quyền hành chính nhà nước do pháp luật qui định;
- Tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính với tư cách của chủ thể
thẩm quyền hành chính nhà nước, không vượt ra khỏi thẩm quyền đã được luật
định;
10
Nói lên điều này để phân biệt rạch ròi "vai trò" của một chủ thể nhất
định trong những trường hợp cụ thể nhất định. Trường hợp chủ thể A chủ
thể thẩm quyền hành chính nhà nước, nhưng tham gia vào quan hệ không
với cách thẩm quyền ấy, thì không thể hình thành quan hệ pháp luật hành
chính với A là chủ thể quản lý
dụ: Nguyễn Văn A chủ tịch UBND huyện B, hành vi vi phạm
trật tự an toàn giao thông trong khi điều khiển phương tiên xe 2 bánh. Trường
hợp này, A phải chịu xử theo pháp luật hành chính như tất cả các nhân
khác vi phạm trật tư an toàn giao thông.
Chủ thể bắt buộc trong quan hệ pháp luật hành chính quyền nhân
danh Nhà nước để đơn phương ra những mệnh lệnh (thể hiện dưới dạng các
quy phạm pháp luật hoặc các mệnh lệnh cụ thể để giải quyết công việc cụ thể)
buộc phía bên kia phải thực hiện. Ðây một đặc trưng bản của quan hệ
pháp luật hành chính so với các quan hệ pháp luật khác. Ðiều kiện để trở thành
chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính phải năng lực pháp luật hành
chính và năng lực hành vi hành chính. Chủ thể này có thể là:
- quan hành chính nhà nước, cán bộ hành chính nhà nước. Tuy
nhiên, cần phân biệt quan hệ pháp luật hành chính với quan hệ chỉ đạo công
tác trong nội bộ một cơ quan.
dụ: Quan hệ pháp luật giữa UBND Tỉnh A với UBND Huyện B
tương ứng trực thuộc là quan hệ pháp luật hành chính. Tuy nhiên, quan hệ giữa
thủ trưởng quan hành chính nhà nước với thư của cơ quan đó trong việc
"nhờ" thư đánh máy một công văn thì không phái quan hệ pháp luật
hành chính. Nó dựa trên quan hệ pháp luật hành chính, nhưng là quan hệ công
tác nội bộ của cơ quan.
- quan nhà nước khác, nhân, tổ chức hội tham gia vào một
quan hệ pháp luật cụ thể với cách bên thẩm quyền hành chính nhà
nước được qui định trong pháp luật hành chính.
* Chủ thể của quản lý hành chính nhà nước:
một bên trong quan hệ pháp luật hành chính, chịu sự quản lý, chấp
hành mệnh lệnh của chủ thể quản lý. Trong quan hệ pháp luật hành chính, đây
thể quan, tổ chức, nhân tham gia không với cách quyền lực
hành chính nhà nước; hoặc nhân công dân, các tổ chức kinh tế ngoài quốc
doanh, các tổ chức hội không mang quyền lực hành chính nhà nước. Theo
pháp luật Việt nam:
11
- "Nhà nước CH XHCN Việt nam nhà nước của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân". (Ðiều 2 Hiến pháp 1992)
- "Nhà nước bảo đảm không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi
mặt của nhân dân". (Ðiều 3 Hiến pháp 1992)
- "Công dân quyền tham gia vào quản nhà nước..." (Ðiều 53 Hiến
pháp 1992).
Do đó, công dân Việt nam không chỉ chủ thể của quản còn
quyền và nghĩa vụ tham gia vào quản lý nhà nước, làm cho mục đích của quản
lý hành chính ngày càng thể hiện rõ hơn lợi ích và nguyện vọng của nhân dân.
b. Khách thể của quan hệ pháp luật hành chính
Là trật tự quản lý hành chính nhà nước. Trật tự này được quy định trong
từng lĩnh vực cụ thể khi tham gia vào quan hệ này, đối tượng các chủ
thể mong muốn hướng tới những lợi ích về vật chất hoặc những lợi ích phi
vật chất, đóng vai trò yếu tố định hướng cho sự hình thành vận động
của một quan hệ pháp luật hành chính. ở đây có sự khác nhau về khách thể của
quan hệ pháp luật hành chính công và tư.
c. Cơ sở của sự phát sinh, thay đổi và chấm dứt quan hệ pháp luật hành
chính
- Quan hệ pháp luật hành chính chỉ phát sinh, thay đổi hay chấm dứt khi có đủ
ba điều kiện:
- Quy phạm pháp luật hành chính;
- Năng lực chủ thể hành chính;
- Sự kiện pháp lý hành chính.
* Quy phạm pháp luật hành chính: sở ban đầu cho sự phát sinh,
thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật hành chính, bởi quan hệ pháp luật
hành chính quy định:
- Ðiều kiện và hoàn cảnh phát sinh quan hệ pháp luật hành chính;
- Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể;
- Các biện pháp xử lý những trường hợp vi phạm.
Như vậy, quy phạm pháp luật hành chính quy định các quyền nghĩa
vụ của các bên trong quản hành chính nhà nước, quy định nội dung những
quy tắc xử sự của các bên tham gia quan hệ, do đó nếu không các chủ thể
thì quan hệ pháp luật hành chính không thể phát sinh, thay đổi hay chấm dứt,
bản thân nó không tạo ra được quan hệ pháp luật hành chính mà phải có những
tình huống, những điều kiện cụ thể khác như chủ thể, sự kiện pháp lý ...
12
* Sự kiện pháp hành chính: những sự kiện thực tế khi xảy ra
làm phát sinh quyền nghĩa vụ pháp hành chính. Hay nói cách khác, sự
kiện pháp hành chính những sự kiện xảy ra trong thực tế phù hợp với
những điều kiện mà quy phạm pháp luật hành chính dự liệu trước.
Sự kiện pháp hai loại: sự kiện pháp ý chí sự kiện pháp phi
ý chí.
*Sự kiện pháp ý chí những sự kiện xảy ra tùy thuộc vào ý chí của
con người.
Ví dụ: cố ý chạy xe vượt tuyến, cố ý làm sai lệch hồ sơ...
* Sự kiện pháp phi ý chí (còn gọi sự biến) những sự kiện xảy ra
không phụ thuộc vào ý chí con người, nó mang yếu tố khách quan.
Ví dụ: lũ lụt, bão, cái chết tự nhiên của con người...
3. Phân loại quan hệ pháp luật hành chính
Căn cứ chủ yếu vào yếu tố chủ thể một phần khách thể của quan hệ
pháp luật hành chính, quan hệ pháp luật hành chính được phân thành 2 loại
chính yếu:
a) Quan hệ pháp luật hành chính công
Chủ thể quản lý và chủ thể của quản lý:
Ðối với chủ thể quan nhà nước thì năng lực chủ thể xuất hiện từ
khi quan đó được chính thức thành lập ấn định thẩm quyền, đồng thời
chấm dứt khi cơ quan đó bị giải thểx.
Ðối với chủ thể là cán bộ có thẩm quyền thì
* năng lực pháp luật xuất hiện từ khi cán bộ đó được chính thức bổ
nhiệm hay Nhà nước giao cho một chức vụ nhất định trong bộ máy Nhà nước.
* năng lực hành vi khả năng thực hiện những hành vi trong phạm vi
năng lực pháp luật của quyền hạn, chức vụ được bổ nhiệm.
Ðối với chủ thể là tổ chức hội được giao thẩm quyền hành chính nhà
nước, thì năng lực chủ thể xuất hiện từ khi tổ chức đó được chính thức thành
lập ấn định thẩm quyền theo nội dung công việc cố định, chu hoặc theo
tình huống cụ thể; thẩm quyền này chấm dứt khi tổ chức đó không còn được
ấn định thẩm quyền hành chính nhà nước
b) Quan hệ pháp luật hành chính tư
- Chủ thể quản lý: giống như chủ thể quản lý của quan hệ pháp luật hành
chính công
- Chủ thể của quản lý:
13
Ðối với chủ thể tổ chức hội, đơn vị kinh tế thì năng lực chủ thể
xuất hiện khi Nhà nước quy định quyền nghĩa vụ của các tổ chức hội,
đơn vị kinh tế đó.
Ðối với chủ thể công dân Việt Nam thì thời điểm xuất hiện năng lực
pháp luật và năng lực hành vi khác nhau.
- Năng lực pháp luật hành chính của công dân xuất hiện khi công dân đó
sinh ra chấm dứt khi công dân đó chết đi. Ðó làỡ khả năng hưởng các
quyền nghĩa vụ nhất định do luật hành chính quy định cho nhân. dụ:
quyền bầu cử, ứng cử, quyền học tập...
- Còn năng lực hành vi hành chính của công dân năng lực của công
dân thực hiện được các quyền nghĩa vụ của mình trên thực tế . Năng lực
đóù xuất hiện khi công dân đạt một độ tuổi nhất định hay sức khỏe, trình
độ, chuyên môn nghiệp vụ, lịch nhân...Nói cách khác, đó khả năng
bằng hành vi nhân của mình thực hiện các quyền nghĩa vụ trong quản
hành chính Nhà nước và được Nhà nước thừa nhận.
Ðối với các chủ thể quan nhà nước, tổ chức hội, hoặc nhân
thẩm quyền hành chính nhà nước nhưng tham gia vào quan hệ pháp luật hành
chính cụ thể không với tư cách ấy thì vẫn là chủ thể của quản lý và có năng lực
pháp luật hành chính tương ứng như các chủ thể của quản trong quan hệ
pháp luật hành chính tư.
c) Mục đích của việc phân chia quan hệ pháp luật hành chính "công" và
"tư"
- Nhận ra được sự khác nhau của chủ thể và khách thể của quan hệ pháp
luật hành chính, từ đó có phương pháp điều chỉnh hợp lý hơn.
+ Hành chính công: mệnh lệnh phục tùng theo thể thức quản hành
chính.
+ Hành chính tư: quyết định của quan hành chính nhà nước phải bảo
đảm hợp pháp và hợp lý, thực sự đáp ứng nhu cầu của người dân.
- Thấy rõ được phạm vi điều chỉnh của luật hành chính ở tầm rộng, nhận
ra bản chất các mối quan hệ pháp luật nguồn gốc hoặc khả năng được
điều chỉnh, hoặc quan hệ trực tiếp với quan hệ pháp luật hành chính.
dụ: Luật đất đai "ngành luật quản nhà nước về đất đai", tức
quan hệ pháp luật hành chính ở phương diện quản lý nhà nước.
- Tăng cường sự tham gia của nhân dân vào hoạt động quản lý nhà nước
phù hợp theo từng lĩnh vực. Ðặc biệt sự tham gia trực tiếp vào việc xây
14
dựng những qui định trong quan hệ pháp luật hành chính địa phương
mình.
Ví dụ: Ðồ án qui hoạch
+ Trước khi qui hoạch (dự thảo đồ án)
+ Sau khi qui hoạch (khiếu nại, khiếu kiện nếunh hưởng đến quyền lợi)
- Khẳng định mục đích chính của quản nhà nước hướng tới nhân
dân, với vai trò "công bộc" của nhân dân, quan hành chính nhà nước
trách nhiệm phải phục vụ, đáp ứng những nhu cầu quyền lợi hợp pháp của
công dân.
- Cải cách hành chính: "cắt khúc" quan hệ pháp luật hành chính theo
từng đoạn, xem thủ tục nào còn rườm rà, khâu nào còn chưa hợp để sự
cải cách thích hợp, góp phần vào việc cải cách chung "toàn khâu" thể chế hành
chính:
+ Thủ tục quan hệ pháp luật hành chính công: Trước hết phải gọn, đồng
bộ.
+ Thủ tục của quan hệ pháp luật hành chính tư: Trước hết phải nhanh
chóng, "phục vụ" không gây phiền cho nhân dân. Thực hiện "một cửa
một dấu" là một ví dụ.
Tuy nhiên, mọi sự phân chia đều là tương đối bởi vì 2 loại quan hệ pháp
luật này đều gắn hỗ trợ cho nhau: không chú ý quan hệ pháp luật hành
chính công thì bộ máy hành chính không thực hiện tốt, không chú ý quan hệ
pháp luật hành chính thì mất đi mục đích cao nhất của quan hệ pháp luật
hành chính phục vụ cho nhân dân. Nói tóm tại, chúng mối liên hệ không
thể tách rời bởi cùng quan hệ pháp luật hành chính, chúng thể hiện
phục vụ cho quan hệ chấp hành điều hành.
III. NGUỒN CỦA LUẬT HÀNH CHÍNH.
1.Khái niệm
Nguồn của luật Hành chính là những văn bản quy phạm pháp luật do
quan nhà nước thẩm quyền ban hành theo thủ tục dưới những hình thức
nhất định, nội dung các quy phạm pháp luật hành chính hiệu lực bắt
buộc thi hành đối với các đối tượng liên quan được thực hiện bằng
cưỡng chế nhà nước.
2. Hệ thống nguồn của luật hành chính:
a. Văn bản qppl của cơ quan quyền lực nhà nước bao gồm:
15
Hiến pháp đạo luật bản của nhà nước ta, hiến pháp chứa đựng
những qui định cơ bản về chế độ văn hóa giâo dục...nội dung của hiến pháp
chứa đựng những quy phạm pháp luật hành chính do đó hiến pháp nguồn
của luật hành chính.
Luật là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực sau hiến pháp, quy định
những vấn đề quan trọng quan hệ xã hội mang tính ổn định. nhiều văn bản
luật chứa đựng quy phạm pháp luật hành chính. Ví dụ: Luật tổ chức chính phủ,
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân Ủy ban nhân dân, Luật khiếu nại tố cáo,
luật giáo dục...
Nghị quyết của Quốc hội: Đây loại văn bản qppl pháp luật để giải
quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của quốc hội. Các nghị quyết chứa
đựng các quy phạm pháp luật hành chính là nguồn của luật hành chính.
Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ quốc hội văn bản quy phạm pháp
luật để điều chỉnh các quan hệ hội chưa được luật quy định. Các pháp lệnh
chứa đựng các quy phạm pháp luật Hành chính nguồn của luật hành
chính.
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp: -Đây hình thức văn bản
pháp luật duy nhất hội đồng nhân dân các cấp ban hành. Nghị quyết của
hội đồng nhân dân sở pháp quan trọng để quan hành chính nhà
nước địa phương tiến hành hoạt động chấp hành điều hành. Nếu trong nghị
quyết chứa quy phạm pháp luật hành chính thì nguồn của luật hành
chính.
b. Văn bản qui phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước:
- Nghị định của chính phủ
- Quyết định của Thủ tướng chính phủ
c. Văn bản qui phạm pháp luật liên tịch:
Nghị quyết liên tịch: Được sử dụng khi quan hành chính nhà nước
phối hợp với lãnh đạo một số tổ chức hội cùnh cấp phối hợp ban hành qui
định hoặc để giải quyết đến những vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của
các tổ chức đó.
Thông liên tịch: Thông liên tịch dùng để ban hành hoặc để hướng
dẫn thực hiện một chính sách chế độ của nhà nước do nhiều bộ hoặc một bộ
lãnh đạo tổ chức xã hội phối hợp ban hành (những vấn đề liên quan đến quyền
và nghĩa vụ của các thành viên trong tổ chức xã hội đó(. Thông tư liên tịch còn
được dùng để ban hành hoặc hướng dẫn thực hiện một chính sách chế độ của
16
nhà nước do Bộ phối hợp với viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc tòa án nhân
dân tối cao cùng ban hành.
Văn bản pháp luât của quan Toà án: nguồn của luật hành chính
khí có chứa đựng qui phạm pháp luật hành chính
Văn bản quy phạm pháp luật của Viện Kiểm Sát: nguồn của luật
hành chính khí có chứa đựng qui phạm pháp luật hành chính.
IV. CÁC HÌNH THỨC THÔNG TIN NHIỆM VHỆ THỐNG
A NGUỒN CỦA LUẬT HÀNH CHÍNH
1 - Các hình thức thông tin
Khi ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quan ban hành cần
công bố chính thức văn bản để các quan nhà nước, tổ chức hội mọi
công dân biết để thi hành.
Hiện nay nước ta việc công bố các văn bản quy phạm pháp luật chủ
yếu được tiến hành theo hai cách.
a - Cách thứ nhất : quan ban hành văn bản gửin bản qua đường công
n cho c quan trực thuộc, quan trực thuộc sao văn bản gửi cấp dưới.
b - Cách thứ hai : Công bố qua phương tiện đại chúng: Báo, công báo,
đài, niêm yết.
2. Hệ thống hóa nguồn của luật hành chính
Do văn bản pháp luật hành chính do nhiều cơ quan ban hành nên không
tránh khỏi sự trùng lặp chồng chéo mâu thuẩn với nhau dẫn đến việc tìm hiểu,
nghiên cứu và thực hiện pháp luật gặp khó khăn. Để khăïc phục tình trạng này
cần phải hệ thống hóa pháp luật
Hệ thống hóa nguồn của luật hành chính được tiến hành theo hai cách
chủ yếu sau:
a/ Tập hợp hóa: có hai hình thức tập hợp hoá:
* Tập hợp hóa chính thức: Là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền nhằm tập hợp các vi phạm pháp luật hoặc một phần của văn bản pháp
luật hiện hành theo một trật tự nhất định. Kết quả của hoạt động này là tập luật
lệ hiện hành ra đời. Trong đó các văn bản được in toàn văn hay trích đoạn;
Được sắp xếp theo một thứ tự nhất định: Thời gian ban hành, hiệu lực pháp lý,
theo vần chữ cái hoặc theo lĩnh vực chuyên môn.
Đặc điểm của hình thức tập hợp hoá này trong quá trình tập hợp hóa
các qui phạm pháp luật không bị thay đổi về nội dung. Người tập hợp hóa chỉ
loại bỏ những qui phạm pháp luật đã hết hiệu lực hoặc chồng chéo nhau. Tuy
nhiên người tập hợp có thể hợp nhất những qui phạm pháp luật phân tán để tạo
nên một qui phạm pháp luật mới tập trung, thống nhất.
17
* Tập hợp hóa không chính thức: Bên cạnh việc tập hợp hóa chính thức
còn hình thức tập hợp hóa không chính thức được thực hiện bởi bất
nhân hay tổ chức nào. Đặc điểm của hình thức tập hợp hoá này trong quá
trình tập hợp hóa các quy phạm pháp luật không bị thay đổi về nội dung.
Người tập hợp hóa chỉ loại bỏ những quy phạm pháp luật đã hết hiệu lực hay
chồng chéo nhau. Thông qua hoạt động hay người tập hợp hóa chỉ sưu tầm sắp
xếp các văn bản pháp luật hiện hành theo một trật tự nhất định. Người tập hợp
hóa không có quyền hợp nhất các quy phạm phân tán.
b/ Pháp điển hóa
hoạt động của cơ quan nhà nước thẩm quyền ban hành là một văn
bản quy pham pháp luật mới hiệu lực pháp cao hơn thay thế cho nhiều
văn bản quy phạm pháp luật hiện hành cùng điều chỉnh một lĩnh vực. dụ:
Bộ luật dân sự được ban hành để thay thế Pháp lệnh thừa kế, pháp lệnh hợp
đồng dân sự. Ban hành bộ luật là hình thức pháp điển hóa cao nhất.
------------------------------------------------------------------------
CÂU HỎI
Câu 1. Tại sao các bên vi phạm trong quan hệ pháp luật hành chính chỉ
chịu trách nhiệm trước nhà nước? Cho ví dụ
Câu 2. Tại sao trong quan hệ pháp luật hành chính các chủ thể thể
đơn phương thiết lập quan hệ khi có yêu cầu hợp pháp?
Câu 3. Cho biết sự khác nhau của việc chấp hành qui phạm pháp luật
hành chính và áp dụng qui phạm pháp luật hành chính.
Câu 4. Tại sao các tranh chấp trong quan hệ pháp luật hành chính được
giải quyết bằng thủ tục hành chính do quan hành chính thẩm quyền
giải quyết?
Câu 5. Qui phạm pháp luật hành chính hương ước trong thôn bản,
làng xã có giống nhau hay không? Hãy so sánh chúng?
Câu 6. Nói "Qui phạm pháp luật hành chính chỉ được ban hành bởi
quan hành chính nhà nước" là đúng hay sai? Tại sao?
Câu 7. Hãy nêu mục đích, ý nghĩa của việc phân chia quan hệ pháp luật
hành chính công và quan hệ pháp luật hành chính tư?
Câu 8. Hệ thống hóa nguồn của luật hành chính gì? Pháp điển hóa
khác tập hợp hóa như thế nào?
| 1/17

Preview text:

CHƯƠNG 2
QUY PHẠM PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH VÀ QUAN HỆ PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH
I. QUY PHẠM PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH
1. Khái niệm và đặc điểm của quy phạm pháp luật hành chính a. Khái niệm
Trước hết, qui phạm được hiểu là điều qui định chặt chẽ phải tuân theo.
Trong đời sống hàng ngày, ta vẫn thường gặp những khái niệm như qui phạm
đạo đức, qui phạm pháp luật. Tuy nhiên, khác với qui phạm đạo đức, qui phạm
pháp luật được ban hành bởi nhà nước và mang tính cưỡng chế nhà nước. Ðể
thực hiện chức năng quản lý nhà nước, quản lý xã hội, các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh hoạt
động quản lý hành chính nhà nước. Các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt
động quản lý hành chính nhà nước chính là quy phạm pháp luật hành chính.
Như vậy, quy phạm pháp luật hành chính là các quy tắc xử sự chung do
cơ quan Nhà nước, các cán bộ nhà nước có thẩm quyền ban hành, chủ yếu điều
chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính Nhà
nước (hay còn gọi là hoạt động chấp hành - điều hành của Nhà nước) có hiệu
lực bắt buộc thi hành đối với những đối tượng có liên quan.
b. Ðặc điểm của quy phạm pháp luật hành chính
Qua khái niệm trên cho thấy quy phạm pháp luật hành ch chính là một trong
những dạng quy phạm pháp luật và nó có những đặc điểm sau:
1. Là qui tắc xử sự mang tính bắt buộc chung. Giống như các qui phạm
pháp luật khác, qui phạm pháp luật hành chính có hiệu lực bắt buộc thi hành
đối với các đối tượng có liên quan và được bảo đảm thực hiện bằng sự cưỡng
chế nhà nước. Những qui phạm này xác định hành vi của các đối tượng có liên
quan: được làm gì, không được làm gi và làm như thế nào. Các qui tắc xử sự
này được ban hành theo thủ tục, trình tự chắt chẽ theo pháp luật. Khi có một
quan hệ pháp luật hành chính cụ thể tương ứng phát sinh, qui tắc xử sự chung
trên sẽ là căn cứ để ra văn bản áp dụng. Tuy vậy, dù có hay chưa có văn bản áp
dụng, qui phạm pháp luật trên vẫn tồn tại và không mất đi giá trị pháp lý trừ khi hết hiệu lực.
2. Ðược ban hành bởi những cơ quan nhà nước và cán bộ nhà nước có
thẩm quyền ở các cấp khác nhau với, mục đích cụ thể hóa các quy phạm pháp 1
luật hành chính của các cơ quan quyền lực nhà nước và các cơ quan nhà nước
cấp trên. Vì các văn bản pháp luật do các cơ quan quyền lực nhà nước ban
hành trong lĩnh vực quản lý hành chính mới chỉ quy định một cách chung nhất
nên chúng đòi hỏi phải được cụ thể hóa trong từng lĩnh vực của quản lý hành chính.
3. Tính thống nhất: mặc dù quy phạm pháp luật hành chính được ban
hành bởi những cơ quan khác nhau, có hiệu lực pháp lý cũng như phạm vi thi
hành khác nhau nhưng về cơ bản chúng hợp thành một hệ thống thống nhất.
Tính thống nhất của các quy phạm pháp luật hành chính được bảo đảm bởi hệ
thống các nguyên tắc trong luật hành chính, đặc biệt là nguyên tắc pháp chế xã
hội chủ nghĩa và nguyên tắc tập trung dân chủ. Những nguyên tắc này đòi hỏi:
+ Các quy phạm pháp luật hành chính do các cơ quan hành chính nhà
nước ban hành phải phù hợp với Hiến pháp, Nghị quyết và Pháp lệnh của các
cơ quan quyền lực nhà nước.
+ Những quy phạm pháp luật hành chính do các cơ quan hành chính nhà
nước có thẩm quyền chuyên môn ban hành phải phù hợp với những quy phạm
pháp luật hành chính do cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung ban hành.
+ Các quy phạm pháp luật hành chính phải được ban hành theo trình tự,
thủ tục và hình thức pháp luật đã quy định.
+ Việc ban hành các quy phạm pháp luật hành chính của cơ quan cấp
dưới đòi hỏi phải phù hợp với những quy phạm pháp luật hành chính do cấp trên ban hành.
+ Các quy phạm pháp luật hành chính do cơ quan địa phương ban hành
để thi hành ở địa phương phải phù hợp với quy phạm pháp luật hành chính do
các cơ quan ở trung ương ban hành để thi hành trong cả nước.
4. Những qui phạm pháp luật hành chính ban hành chủ yếu điều chỉnh
những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hành chính nhà nước. Ðiều này
đồng nghĩa với sẽ có những văn bản thứ yếu phát sinh trong lĩnh vực khác của
nhà nước. Thật vậy, ngoài việc xác định thẩm quyền của các cơ quan hành
chính nhà nước trong lĩnh vực lao động, luật hành chính đồng thời điều chỉnh
những quan hệ xã hội liên quan đến việc tổ chức quá trình lao động và chế độ công vụ...
5. Các quy phạm pháp luật hành chính được đặt ra, sửa đổi hay bãi bỏ
trên cơ sở những quy luật phát triển khách quan của xã hội và những đặc điểm 2
cụ thể trong từng giai đoạn. Hiện nay, qui phạm pháp luật Hành chính là tổng
hợp các qui phạm về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực tương ứng với các
lĩnh vực quản lý của đời sống xã hội. Vì vậy, qui phạm pháp luật hành chính
hiện tại được ban hành bởi khá nhiều cơ quan, có hiệu lực pháp lý khác nhau
và thi hành khác nhau, cũng như tính ổn định các văn bản này không cao. Tuy
nhiên, đây không phải là bản chất của qui phạm pháp luật hành chính. Tuy tính
đa dạng về văn bản các cấp gắn liền với qui phạm hành chính, nhưng về lâu
dài sẽ phải có một Bộ Luật hành chính hoặc Luật hành chính thống nhất điều
chỉnh các mối quan hệ chung nhất chứa đựng một cách có hệ thống hơn các
qui phạm pháp luật hành chính.
2. Nội dung của quy phạm pháp luật hành chính
Các quy phạm pháp luật hành chính có thể có những nội dung cơ bản sau:
- Quy phạm pháp luật hành chính quy định địa vị pháp lý của các bên
tham gia quan hệ quản lý hành chính nhà nước tức là xác định quyền và nghĩa
vụ cũng như mối liên hệ chủ yếu giữa các bên tham gia quan hệ quản lý hành
chính nhà nước. Ðiều này liên quan trực tiếp tới bản thân quan hệ pháp luật
hành chính cụ thể. Ta có các trường hợp sau:
+ QPPL hành chính trong quan hệ pháp luật hành chính công: chủ thể có
thẩm quyền hành chính nhà nước - chủ thể có thẩm quyền hành chính nhà nước.
+ QPPL hành chính trong quan hệ pháp luật hành chính tư: chủ thể có
thẩm quyền hành chính nhà nước - chủ thể không có thẩm quyền hành chính
nhà nước hoặc tham gia không với tư cách chủ thể có thẩm quyền hành chính nhà nước.
- Quy phạm pháp luật hành chính xác định những thủ tục, trình tự cần
thiết cho việc thưc hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ pháp
luật hành chính và một số quan hệ pháp luật khác như quan hệ pháp luật lao
động, tài chính, đất đai...
- Quy phạm pháp luật hành chính xác định các biện pháp khen thưởng
và các biện pháp cưỡng chế hành chính đối với các đối tượng quản l
3. Cơ cấu của quy phạm pháp luật hành chính
Quy phạm pháp luật hành chính được cấu thành bởi ba bộ phận. a. Giả định 3
Giả định là phần nêu rõ những điều kiện thực tế mà nếu có chúng thì
mới có thể thi hành hoặc áp dụng những quy phạm đó. Giả định của quy phạm
pháp luật hành chính có thể xác định là tuyệt đối. b. Quy định
Quy định là phần xác định nội dung quyền và nghĩa vụ, trình tự thực
hiện quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật, đây là
phần cơ bản trọng tâm của quy phạm pháp luật hành chính. Đặc trưng phần
quy định của quy phạm hành chính là tính mệnh lệnh thể hiện dưới các hình
thức cấm đoán, cho phép, trao quyền. c. Chế tài
Chế tài là biện pháp cưỡng chế mà Nhà nước dự kiến áp dụng đối với cá
nhân, tổ chức ở trong điều kiện được nêu ra ở giả định nhưng không thực hiện
đúng nội dung phần quy định.
Tóm lại, quy phạm pháp luật hành chính là các quy tắc xử sự chung do
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã
hội trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước, có hiệu lực bắt buộc thi hành
đối với các đối tượng có liên quan và được thực hiện bằng sự cưỡng chế nhà nước.
3. Phân loại quy phạm pháp luật hành chính
Ðể phân loại các quy phạm pháp luật hành chính có thể dựa trên nhiều
tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, trong giới hạn của chương trình học ta chỉ phân
loại dựa trên một số tiêu chí chủ yếu. Các tiêu chí đó là các căn cứ về nội dung
pháp lý, về tính chất của những quan hệ được quy phạm pháp luật hành chính
điều chỉnh, về thời gian áp dụng, cơ quan ban hành cũng như căn cứ vào phạm
vi hiệu lực pháp lý của các quy phạm hành chính.
a) Căn cứ vào nội dung pháp lý của quy phạm pháp luật hành chính ta
có ba loại quy phạm:
+ Quy phạm đặt nghĩa vụ: là quy phạm buộc các đối tượng có liên quan
phải thực hiện những hành vi nhất định.
+ Quy phạm trao quyền: là quy phạm trao quyền cho các đối tượng có
liên quan quyền thực hiện những hành vi nhất định. Qui phạm trao quyền được
thể hiện rõ trong quan hệ pháp luật hành chính công khi cấp trên ban hành qui
phạm trao quyền cho cấp dưới.
+ Quy phạm ngăn cấm: là quy phạm buộc các đối tượng có liên quan
tránh thực hiện những hành vi nhất định. 4
b) Căn cứ vào tính chất của những quan hệ được điều chỉnh ta có hai loại quy phạm:
+ Quy phạm nội dung: là quy phạm quy định quyền và nghĩa vụ của các
bên tham gia quan hệ quản lý hành chính nhà nước.
+ Quy phạm thủ tục: là quy phạm quy định trình tự thủ tục mà các bên
phải tuân theo trong khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
c) Căn cứ vào cơ quan ban hành ta có các quy phạm sau:
+ Những quy phạm do cơ quan quyền lực nhà nước ban hành.
+ Những quy phạm do Chủ tịch nước ban hành.
+ Những quy phạm do Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành.
+ Những quy phạm do cơ quan hành chính nhà nước ban hành.
+ Những quy phạm do các cơ quan nhà nước và tổ chức chính trị-xã hội phối hợp ban hành.
Lưu ý rằng qui phạm pháp luật hành chính không chỉ được ban hành bởi
cơ quan hành chính nhà nước, mà cả các cơ quan khác trong hệ thống cơ quan nhà nước.
Ví dụ: Quốc hội (hệ thống cơ quan dân cử), Hội đồng thẩm phán TAND
tối cao (hệ thống cơ quan tư pháp).
Tuy nhiên, tất cả các văn bản của các tổ chức xã hội với tư cách độc lập
của tổ chức xã hội đó, trong mọi trường hợp, không được xem là văn bản QPPL hành chính.
Ví dụ: Văn kiện của Ðảng Cộng sản Việt nam có tính chất chỉ đạo cho
hoạt động quản lý hành chính nhà nước, nhưng hoàn toàn không phải là văn bản QPPL hành chính.
d) Căn cứ vào thời gian áp dụng chúng ta có ba loại quy phạm, đó là: quy
phạm áp dụng lâu dài, quy phạm áp dụng có thời hạn và những quy phạm tạm thời.
+ Quy phạm áp dụng lâu dài: là quy phạm mà trong văn bản ban hành
chúng không ghi thời hạn áp dụng, do vậy, chúng chỉ hết hiệu lực khi cơ quan
có thẩm quyền tuyên bố bãi bỏ hay thay thế chúng bằng những quy phạm khác.
+ Quy phạm áp dụng có thời hạn: là những quy phạm mà trong văn bản
ban hành chúng có ghi thời hạn áp dụng. Thường là những quy phạm được ban 5
hành để điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong tình huống đặc biệt,
khi tình huống này không còn thì quy phạm cũng hết hiệu lực.
+ Quy phạm tạm thời: là những quy phạm được ban hành để áp
dụng thử. Nếu sau thời gian áp dụng thử mà xét thấy nó phù hợp thì sẽ
ban hành chính thức. Có những trường hợp được ban hành thí điểm, áp
dụng giới hạn ở một số địa phương nhất định. Sau một thời gian đánh
giá hiệu quả hoạt động trên thực tế, sẽ ban hành đồng loạt.
e) Căn cứ vào phạm vi hiệu lực pháp lý ta có hai loại sau:
+ Quy phạm pháp luật hành chính có hiệu lực trên phạm vi cả nước.
+ Quy phạm pháp luật hành chính có hiệu lực pháp lý ở từng địa phương.
Việc phân loại này sẽ được phân tích cụ thể trong phần sau về hiệu lực của QPPL hành chính.
4. Vấn đề thực hiện quy phạm pháp luật hành chính
a. Việc thực hiện quy phạm pháp luật hành chính
Thực hiện quy phạm pháp luật hành chính là việc dùng quy phạm pháp
luật hành chính để tác động vào hành vi của các bên tham gia quan hệ quản lý
nhà nước, được biểu hiện dưới hai hình thức là chấp hành và áp dụng quy
phạm pháp luật hành chính.
1. Chấp hành quy phạm pháp luật hành chính: là việc các cơ quan, tổ
chức và cá nhân làm theo đúng những yêu cầu của quy phạm pháp luật hành
chính. Các chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính thưc hiện hành vi chấp
hành quy phạm pháp luật hành chính trong những trường hợp sau:
+ Khi thực hiện đúng các hành vi mà quy phạm pháp luật hành chính cho phép;
+ Khi thực hiện đúng các hành vi mà quy phạm pháp luật hành chính buộc phải thực hiện;
+ Khi không thực hiện những hành vi mà quy phạm pháp luật hành chính cấm thực hiện.
2. Áp dụng quy phạm pháp luật hành chính: là việc cơ quan có thẩm
quyền của nhà nước căn cứ vào pháp luật hiện hành để giải quyết các công
việc cụ thể phát sinh trong quá trình quản lý hành chính nhà nước. Việc áp
dụng quy phạm pháp luật hành chính trực tiếp làm phát sinh, thay đổi hay
chấm dứt các quan hệ pháp luật hành chính cụ thể- quan hệ pháp luật hành
chính tư. Chúng liên quan trực tiếp tới việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của 6
các bên tham gia vào quan hệ quản lý hành chính nhà nước, đặc biệt là đối với
tổ chức, công dân. Do vậy, việc áp dụng quy phạm pháp luật hành chính phải
tuân theo những yêu cầu sau:
+ Việc áp dụng quy phạm pháp luật hành chính phải tuân theo những
yêu cầu của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa và đảm bảo nhân dân lao
động có điều kiện tham gia vào quản lý nhà nước theo Ðiều 12 và Ðiều 53
Hiến pháp 1992. Vì áp dụng quy phạm pháp luật hành chính là hoạt động của
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết tất cả những vấn đề có liên
quan đến quyền lợi của các tổ chức, cá nhân.
+ Việc áp dụng quy phạm pháp luật hành chính trực tiếp làm phát sinh,
thay đổi hay chấm dứt các quan hệ pháp luật hành chính cụ thể, vì vậy phải
được thực hiện bởi cơ quan có thẩm quyền của nhà nước và phải được tiến
hành theo đúng trình tự, thủ tục, đúng thời hạn pháp luật quy định, phải xem
xét, giải quyết đúng hạn các yêu cầu nhận được, trả lời công khai, chính thức
về kết quả giải quyết cho các đối tượng có liên quan.
Ví dụ: Ðiều 67 Luật khiếu nại tố cáo 02/12/98 (sửa đổi bổ sung năm
2005), cơ quan, cá nhân có thẩm quyền phải giải quyết tố cáo trong thời hạn
60 ngày kể từ ngày thụ lý giải quyết, đối với vụ việc phức tạp thời hạn giải
quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 90 ngày kể từ ngày thụ lý để giải quyết.
+ Kết quả áp dụng quy phạm pháp luật hành chính phải được thể hiện
bằng văn bản của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và việc áp dụng chỉ
được coi là hoàn thành khi quyết định của cơ quan áp dụng pháp luật được
chấp hành trong thực tế.
b. Mối quan hệ giữa chấp hành và áp dụng quy phạm pháp luật hành chính
Chấp hành và áp dụng quy phạm pháp luật hành chính có mối quan hệ
hữu cơ với nhau, được tiến hành song song trong thực tiễn cuộc sống. Mối
quan hệ này được thể hiện:
1. Chấp hành - áp dụng: Chấp hành là tiền đề, là cơ sở của áp dụng quy
phạm pháp luật hành chính, từ việc chấp hành quy phạm pháp luật hành chính
dẫn đến áp dụng quy phạm pháp luật hành chính;
Ví dụ: công dân chấp hành các quy định về thuế của nhà nước, đã nộp
thuế đầy đủ dẫn đến áp dụng quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 7
2. Không chấp hành - áp dụng: Có trường hợp không chấp hành quy
phạm pháp luật hành chính dẫn đến việc áp dụng quy phạm pháp luật hành chính.
Ví dụ: không chấp hành luật lệ giao thông dẫn tới việc xử phạt vi phạm hành chính.
3. Áp dụng - chấp hành: Trong nhiều trường hợp khác, áp dụng quy
phạm pháp luật hành chính lại là tiền đ.ề, cơ sở của việc chấp hành quy phạm pháp luật hành chính.
Ví dụ: Một cơ quan cấp giấy phép cho một đơn vị sản xuất thì việc cấp
giấy phép là hành động áp dụng quy phạm pháp luật hành chính, còn việc
không vi phạm những điều ghi trong giấy phép là hành động chấp hành quy
phạm pháp luật hành chính. Thế nhưng, nếu đơn vị đó không chấp hành thì tất
yếu sẽ dẫn đến việc áp dụng quy phạm pháp luật hành chính.
II. QUAN HỆ PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH.
1. Khái niệm và đặc điểm của quan hệ pháp luật hành chính a. Khái niệm
Quan hệ pháp luật hành chính là một dạng của quan hệ pháp luật. Ðó là
những quan hệ xã hội phát sinh chủ yếu trong lĩnh vực chấp hành điều hành
giữa một bên mang quyền lực nhà nước có chức năng quản lý hành chính nhà
nước và một bên là đối tượng quản lý. Các quan hệ này được điều chỉnh bởi
những quy phạm pháp luật hành chính. Trong một quan hệ pháp luật hành
chính thì quyền của bên này sẽ là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Chúng rất
phong phú và đa dạng, phát sinh trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Như vậy, quan hệ pháp luật hành chính là những quan hệ xã hội phát
sinh trong lĩnh vực chấp hành và điều hành của nhà nước được điều chỉnh bởi
quy phạm pháp luật hành chính giữa những chủ thể mang quyền và nghĩa vụ
đối với nhau theo quy định của pháp luật hành chính.
b. Ðặc điểm của quan hệ pháp luật hành chính.
Căn cứ vào những đặc trưng riêng của quan hệ pháp luật hành chính, ta
thấy quan hệ pháp luật hành chính có những đặc điểm sau:
- Quan hệ pháp luật hành chính chủ yếu chỉ phát sinh trong quá trình
quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội,
luôn gắn liền với hoạt động chấp hành và điều hành của nhà nước, chúng vừa
thể hiện lợi ích của các bên tham gia quan hệ vừa thể hiện những yêu cầu và
mục đích của hoạt động chấp hành - điều hành. 8
- Quan hệ pháp luật hành chính có thể phát sinh giữa tất cả các loại chủ
thể như cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, công dân, người nước ngoài...nhưng
ít nhất một bên trong quan hệ phải là cơ quan hành chính nhà nước hoặc cơ
quan nhà nước khác hoặc tổ chức, cá nhân được trao quyền quản lý. Ðiều này
có nghĩa là quan hệ giữa công dân với công dân, tổ chức với tổ chức hay tổ
chức với một công dân nào đó (không mang quyền lực hành chính nhà nước)
thì không thể hình thành quan hệ pháp luật hành chính.
- Quan hệ pháp luật hành chính có thể phát sinh do đề nghị hợp pháp
của bất kỳ bên nào, sự thỏa thuận của bên kia không phải là điều kiện bắt buộc
cho sự hình thành quan hệ .
- Các tranh chấp phát sinh trong quan hệ pháp luật hành chính phần lớn
được giải quyết theo trình tự, thủ tục hành chính và chủ yếu thuộc thẩm quyền
của cơ quan hành chính nhà nước.
- Trong quan hệ pháp luật hành chính, bên vi phạm phải chịu trách
nhiệm trước nhà nước chứ không phải chịu trách nhiệm trước chủ thể bên kia
của quan hệ pháp luật hành chính.
2. Cấu thành của quan hệ pháp luật hành chính
a. Chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính
Chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính là những bên tham gia vào quan hệ
pháp luật hành chính, có năng lực chủ thê,ứ có quyền và nghĩa vụ tương ứng
đối với nhau theo quy định của pháp luật hành chính.
Chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính bao gồm: cơ quan nhà nước, cán bộ
nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị kinh tế, công dân Việt Nam, người nước
ngoài và người không quốc tịch. Trong đó, có một loại chủ thể luôn luôn hiện
diện trong mọi quan hệ pháp luật hành chính: chủ thể quản lý - bên có thẩm
quyền hành chính nhà nước.
* Chủ thể quản lý hành chính nhà nước: là các cá nhân hay tổ chức của
con người mang quyền lực hành chính nhà nước, nhân danh nhà nước và thực
hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước. "Mang quyền lực nhà nước" ở
đây cần hội đủ 2 yếu tố sau:
- Có thẩm quyền hành chính nhà nước do pháp luật qui định;
- Tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính với tư cách của chủ thể có
thẩm quyền hành chính nhà nước, không vượt ra khỏi thẩm quyền đã được luật định; 9
Nói lên điều này để phân biệt rạch ròi "vai trò" của một chủ thể nhất
định trong những trường hợp cụ thể nhất định. Trường hợp chủ thể A là chủ
thể có thẩm quyền hành chính nhà nước, nhưng tham gia vào quan hệ không
với tư cách thẩm quyền ấy, thì không thể hình thành quan hệ pháp luật hành
chính với A là chủ thể quản lý
Ví dụ: Nguyễn Văn A là chủ tịch UBND huyện B, có hành vi vi phạm
trật tự an toàn giao thông trong khi điều khiển phương tiên xe 2 bánh. Trường
hợp này, A phải chịu xử lý theo pháp luật hành chính như tất cả các cá nhân
khác vi phạm trật tư an toàn giao thông.
Chủ thể bắt buộc trong quan hệ pháp luật hành chính có quyền nhân
danh Nhà nước để đơn phương ra những mệnh lệnh (thể hiện dưới dạng các
quy phạm pháp luật hoặc các mệnh lệnh cụ thể để giải quyết công việc cụ thể)
buộc phía bên kia phải thực hiện. Ðây là một đặc trưng cơ bản của quan hệ
pháp luật hành chính so với các quan hệ pháp luật khác. Ðiều kiện để trở thành
chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính là phải có năng lực pháp luật hành
chính và năng lực hành vi hành chính. Chủ thể này có thể là:
- Cơ quan hành chính nhà nước, cán bộ hành chính nhà nước. Tuy
nhiên, cần phân biệt quan hệ pháp luật hành chính với quan hệ chỉ đạo công
tác trong nội bộ một cơ quan.
Ví dụ: Quan hệ pháp luật giữa UBND Tỉnh A với UBND Huyện B
tương ứng trực thuộc là quan hệ pháp luật hành chính. Tuy nhiên, quan hệ giữa
thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước với thư ký của cơ quan đó trong việc
"nhờ" cô thư ký đánh máy một công văn thì không phái là quan hệ pháp luật
hành chính. Nó dựa trên quan hệ pháp luật hành chính, nhưng là quan hệ công
tác nội bộ của cơ quan.
- Cơ quan nhà nước khác, cá nhân, tổ chức xã hội tham gia vào một
quan hệ pháp luật cụ thể với tư cách là bên có thẩm quyền hành chính nhà
nước được qui định trong pháp luật hành chính.
* Chủ thể của quản lý hành chính nhà nước:
Là một bên trong quan hệ pháp luật hành chính, chịu sự quản lý, chấp
hành mệnh lệnh của chủ thể quản lý. Trong quan hệ pháp luật hành chính, đây
có thể là cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia không với tư cách có quyền lực
hành chính nhà nước; hoặc cá nhân công dân, các tổ chức kinh tế ngoài quốc
doanh, các tổ chức xã hội không mang quyền lực hành chính nhà nước. Theo pháp luật Việt nam: 10
- "Nhà nước CH XHCN Việt nam là nhà nước của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân". (Ðiều 2 Hiến pháp 1992)
- "Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi
mặt của nhân dân". (Ðiều 3 Hiến pháp 1992)
- "Công dân có quyền tham gia vào quản lý nhà nước..." (Ðiều 53 Hiến pháp 1992).
Do đó, công dân Việt nam không chỉ là chủ thể của quản lý mà còn có
quyền và nghĩa vụ tham gia vào quản lý nhà nước, làm cho mục đích của quản
lý hành chính ngày càng thể hiện rõ hơn lợi ích và nguyện vọng của nhân dân.
b. Khách thể của quan hệ pháp luật hành chính
Là trật tự quản lý hành chính nhà nước. Trật tự này được quy định trong
từng lĩnh vực cụ thể và khi tham gia vào quan hệ này, đối tượng mà các chủ
thể mong muốn hướng tới là những lợi ích về vật chất hoặc những lợi ích phi
vật chất, nó đóng vai trò là yếu tố định hướng cho sự hình thành và vận động
của một quan hệ pháp luật hành chính. ở đây có sự khác nhau về khách thể của
quan hệ pháp luật hành chính công và tư.
c. Cơ sở của sự phát sinh, thay đổi và chấm dứt quan hệ pháp luật hành chính
- Quan hệ pháp luật hành chính chỉ phát sinh, thay đổi hay chấm dứt khi có đủ ba điều kiện:
- Quy phạm pháp luật hành chính;
- Năng lực chủ thể hành chính;
- Sự kiện pháp lý hành chính.
* Quy phạm pháp luật hành chính: Là cơ sở ban đầu cho sự phát sinh,
thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật hành chính, bởi vì quan hệ pháp luật hành chính quy định:
- Ðiều kiện và hoàn cảnh phát sinh quan hệ pháp luật hành chính;
- Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể;
- Các biện pháp xử lý những trường hợp vi phạm.
Như vậy, quy phạm pháp luật hành chính quy định các quyền và nghĩa
vụ của các bên trong quản lý hành chính nhà nước, quy định nội dung những
quy tắc xử sự của các bên tham gia quan hệ, do đó nếu không có các chủ thể
thì quan hệ pháp luật hành chính không thể phát sinh, thay đổi hay chấm dứt,
bản thân nó không tạo ra được quan hệ pháp luật hành chính mà phải có những
tình huống, những điều kiện cụ thể khác như chủ thể, sự kiện pháp lý ... 11
* Sự kiện pháp lý hành chính: là những sự kiện thực tế mà khi xảy ra
làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý hành chính. Hay nói cách khác, sự
kiện pháp lý hành chính là những sự kiện xảy ra trong thực tế phù hợp với
những điều kiện mà quy phạm pháp luật hành chính dự liệu trước.
Sự kiện pháp lý có hai loại: sự kiện pháp lý ý chí và sự kiện pháp lý phi ý chí.
*Sự kiện pháp lý ý chí là những sự kiện xảy ra tùy thuộc vào ý chí của con người.
Ví dụ: cố ý chạy xe vượt tuyến, cố ý làm sai lệch hồ sơ...
* Sự kiện pháp lý phi ý chí (còn gọi là sự biến) là những sự kiện xảy ra
không phụ thuộc vào ý chí con người, nó mang yếu tố khách quan.
Ví dụ: lũ lụt, bão, cái chết tự nhiên của con người...
3. Phân loại quan hệ pháp luật hành chính
Căn cứ chủ yếu vào yếu tố chủ thể và một phần khách thể của quan hệ
pháp luật hành chính, quan hệ pháp luật hành chính được phân thành 2 loại chính yếu:
a) Quan hệ pháp luật hành chính công
Chủ thể quản lý và chủ thể của quản lý:
Ðối với chủ thể là cơ quan nhà nước thì năng lực chủ thể xuất hiện từ
khi cơ quan đó được chính thức thành lập và ấn định thẩm quyền, đồng thời
chấm dứt khi cơ quan đó bị giải thểx.
Ðối với chủ thể là cán bộ có thẩm quyền thì
* năng lực pháp luật xuất hiện từ khi cán bộ đó được chính thức bổ
nhiệm hay Nhà nước giao cho một chức vụ nhất định trong bộ máy Nhà nước.
* năng lực hành vi là khả năng thực hiện những hành vi trong phạm vi
năng lực pháp luật của quyền hạn, chức vụ được bổ nhiệm.
Ðối với chủ thể là tổ chức xã hội được giao thẩm quyền hành chính nhà
nước, thì năng lực chủ thể xuất hiện từ khi tổ chức đó được chính thức thành
lập và ấn định thẩm quyền theo nội dung công việc cố định, chu kì hoặc theo
tình huống cụ thể; thẩm quyền này chấm dứt khi tổ chức đó không còn được
ấn định thẩm quyền hành chính nhà nước
b) Quan hệ pháp luật hành chính tư
- Chủ thể quản lý: giống như chủ thể quản lý của quan hệ pháp luật hành chính công
- Chủ thể của quản lý: 12
Ðối với chủ thể là tổ chức xã hội, đơn vị kinh tế thì năng lực chủ thể
xuất hiện khi Nhà nước quy định quyền và nghĩa vụ của các tổ chức xã hội, đơn vị kinh tế đó.
Ðối với chủ thể là công dân Việt Nam thì thời điểm xuất hiện năng lực
pháp luật và năng lực hành vi khác nhau.
- Năng lực pháp luật hành chính của công dân xuất hiện khi công dân đó
sinh ra và chấm dứt khi công dân đó chết đi. Ðó làỡ khả năng hưởng các
quyền và nghĩa vụ nhất định do luật hành chính quy định cho cá nhân. Ví dụ:
quyền bầu cử, ứng cử, quyền học tập...
- Còn năng lực hành vi hành chính của công dân là năng lực của công
dân thực hiện được các quyền và nghĩa vụ của mình trên thực tế . Năng lực
đóù xuất hiện khi công dân đạt một độ tuổi nhất định hay có sức khỏe, trình
độ, chuyên môn nghiệp vụ, lí lịch cá nhân...Nói cách khác, đó là khả năng
bằng hành vi cá nhân của mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong quản lý
hành chính Nhà nước và được Nhà nước thừa nhận.
Ðối với các chủ thể cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, hoặc cá nhân có
thẩm quyền hành chính nhà nước nhưng tham gia vào quan hệ pháp luật hành
chính cụ thể không với tư cách ấy thì vẫn là chủ thể của quản lý và có năng lực
pháp luật hành chính tương ứng như các chủ thể của quản lý trong quan hệ pháp luật hành chính tư.
c) Mục đích của việc phân chia quan hệ pháp luật hành chính "công" và "tư"
- Nhận ra được sự khác nhau của chủ thể và khách thể của quan hệ pháp
luật hành chính, từ đó có phương pháp điều chỉnh hợp lý hơn.
+ Hành chính công: mệnh lệnh phục tùng theo thể thức quản lý hành chính.
+ Hành chính tư: quyết định của cơ quan hành chính nhà nước phải bảo
đảm hợp pháp và hợp lý, thực sự đáp ứng nhu cầu của người dân.
- Thấy rõ được phạm vi điều chỉnh của luật hành chính ở tầm rộng, nhận
ra bản chất các mối quan hệ pháp luật có nguồn gốc hoặc có khả năng được
điều chỉnh, hoặc quan hệ trực tiếp với quan hệ pháp luật hành chính.
Ví dụ: Luật đất đai là "ngành luật quản lý nhà nước về đất đai", tức là
quan hệ pháp luật hành chính ở phương diện quản lý nhà nước.
- Tăng cường sự tham gia của nhân dân vào hoạt động quản lý nhà nước
phù hợp theo từng lĩnh vực. Ðặc biệt là sự tham gia trực tiếp vào việc xây 13
dựng những qui định trong quan hệ pháp luật hành chính tư ở địa phương mình.
Ví dụ: Ðồ án qui hoạch
+ Trước khi qui hoạch (dự thảo đồ án)
+ Sau khi qui hoạch (khiếu nại, khiếu kiện nếu ảnh hưởng đến quyền lợi)
- Khẳng định mục đích chính của quản lý nhà nước là hướng tới nhân
dân, với vai trò là "công bộc" của nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước có
trách nhiệm phải phục vụ, đáp ứng những nhu cầu và quyền lợi hợp pháp của công dân.
- Cải cách hành chính: "cắt khúc" quan hệ pháp luật hành chính theo
từng đoạn, xem thủ tục nào còn rườm rà, khâu nào còn chưa hợp lý để có sự
cải cách thích hợp, góp phần vào việc cải cách chung "toàn khâu" thể chế hành chính:
+ Thủ tục quan hệ pháp luật hành chính công: Trước hết phải gọn, đồng bộ.
+ Thủ tục của quan hệ pháp luật hành chính tư: Trước hết phải nhanh
chóng, "phục vụ" và không gây phiền hà cho nhân dân. Thực hiện "một cửa
một dấu" là một ví dụ.
Tuy nhiên, mọi sự phân chia đều là tương đối bởi vì 2 loại quan hệ pháp
luật này đều gắn bó và hỗ trợ cho nhau: không chú ý quan hệ pháp luật hành
chính công thì bộ máy hành chính không thực hiện tốt, không chú ý quan hệ
pháp luật hành chính tư thì mất đi mục đích cao nhất của quan hệ pháp luật
hành chính là phục vụ cho nhân dân. Nói tóm tại, chúng có mối liên hệ không
thể tách rời bởi vì cùng là quan hệ pháp luật hành chính, chúng thể hiện và
phục vụ cho quan hệ chấp hành điều hành.
III. NGUỒN CỦA LUẬT HÀNH CHÍNH. 1.Khái niệm
Nguồn của luật Hành chính là những văn bản quy phạm pháp luật do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục và dưới những hình thức
nhất định, có nội dung là các quy phạm pháp luật hành chính có hiệu lực bắt
buộc thi hành đối với các đối tượng có liên quan và được thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước.
2. Hệ thống nguồn của luật hành chính:
a. Văn bản qppl của cơ quan quyền lực nhà nước bao gồm: 14
Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nhà nước ta, hiến pháp chứa đựng
những qui định cơ bản về chế độ văn hóa giâo dục...nội dung của hiến pháp có
chứa đựng những quy phạm pháp luật hành chính do đó hiến pháp là nguồn của luật hành chính.
Luật là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực sau hiến pháp, quy định
những vấn đề quan trọng quan hệ xã hội mang tính ổn định. Có nhiều văn bản
luật chứa đựng quy phạm pháp luật hành chính. Ví dụ: Luật tổ chức chính phủ,
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Luật khiếu nại tố cáo, luật giáo dục...
Nghị quyết của Quốc hội: Đây là loại văn bản qppl pháp luật để giải
quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của quốc hội. Các nghị quyết có chứa
đựng các quy phạm pháp luật hành chính là nguồn của luật hành chính.
Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ quốc hội Là văn bản quy phạm pháp
luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội chưa được luật quy định. Các pháp lệnh
có chứa đựng các quy phạm pháp luật Hành chính là nguồn của luật hành chính.
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp: -Đây là hình thức văn bản
pháp luật duy nhất mà hội đồng nhân dân các cấp ban hành. Nghị quyết của
hội đồng nhân dân là cơ sở pháp lý quan trọng để cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương tiến hành hoạt động chấp hành điều hành. Nếu trong nghị
quyết có chứa quy phạm pháp luật hành chính thì là nguồn của luật hành chính.
b. Văn bản qui phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước:
- Nghị định của chính phủ
- Quyết định của Thủ tướng chính phủ
c. Văn bản qui phạm pháp luật liên tịch:
Nghị quyết liên tịch: Được sử dụng khi cơ quan hành chính nhà nước
phối hợp với lãnh đạo một số tổ chức xã hội cùnh cấp phối hợp ban hành qui
định hoặc để giải quyết đến những vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các tổ chức đó.
Thông tư liên tịch: Thông tư liên tịch dùng để ban hành hoặc để hướng
dẫn thực hiện một chính sách chế độ của nhà nước do nhiều bộ hoặc một bộ và
lãnh đạo tổ chức xã hội phối hợp ban hành (những vấn đề liên quan đến quyền
và nghĩa vụ của các thành viên trong tổ chức xã hội đó(. Thông tư liên tịch còn
được dùng để ban hành hoặc hướng dẫn thực hiện một chính sách chế độ của 15
nhà nước do Bộ phối hợp với viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc tòa án nhân
dân tối cao cùng ban hành.
Văn bản pháp luât của cơ quan Toà án: Là nguồn của luật hành chính
khí có chứa đựng qui phạm pháp luật hành chính
Văn bản quy phạm pháp luật của Viện Kiểm Sát: Là nguồn của luật
hành chính khí có chứa đựng qui phạm pháp luật hành chính.
IV. CÁC HÌNH THỨC THÔNG TIN VÀ NHIỆM VỤ HỆ THỐNG
HÓA NGUỒN CỦA LUẬT HÀNH CHÍNH
1 - Các hình thức thông tin
Khi ban hành các văn bản quy phạm pháp luật cơ quan ban hành cần
công bố chính thức văn bản để các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi
công dân biết để thi hành.
Hiện nay ở nước ta việc công bố các văn bản quy phạm pháp luật chủ
yếu được tiến hành theo hai cách.
a - Cách thứ nhất : Cơ quan ban hành văn bản gửi văn bản qua đường công
văn cho các cơ quan trực thuộc, cơ quan trực thuộc sao văn bản gửi cấp dưới.
b - Cách thứ hai : Công bố qua phương tiện đại chúng: Báo, công báo, đài, niêm yết.
2. Hệ thống hóa nguồn của luật hành chính
Do văn bản pháp luật hành chính do nhiều cơ quan ban hành nên không
tránh khỏi sự trùng lặp chồng chéo mâu thuẩn với nhau dẫn đến việc tìm hiểu,
nghiên cứu và thực hiện pháp luật gặp khó khăn. Để khăïc phục tình trạng này
cần phải hệ thống hóa pháp luật
Hệ thống hóa nguồn của luật hành chính được tiến hành theo hai cách chủ yếu sau:
a/ Tập hợp hóa: có hai hình thức tập hợp hoá:
* Tập hợp hóa chính thức: Là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền nhằm tập hợp các vi phạm pháp luật hoặc một phần của văn bản pháp
luật hiện hành theo một trật tự nhất định. Kết quả của hoạt động này là tập luật
lệ hiện hành ra đời. Trong đó các văn bản được in toàn văn hay trích đoạn;
Được sắp xếp theo một thứ tự nhất định: Thời gian ban hành, hiệu lực pháp lý,
theo vần chữ cái hoặc theo lĩnh vực chuyên môn.
Đặc điểm của hình thức tập hợp hoá này là trong quá trình tập hợp hóa
các qui phạm pháp luật không bị thay đổi về nội dung. Người tập hợp hóa chỉ
loại bỏ những qui phạm pháp luật đã hết hiệu lực hoặc chồng chéo nhau. Tuy
nhiên người tập hợp có thể hợp nhất những qui phạm pháp luật phân tán để tạo
nên một qui phạm pháp luật mới tập trung, thống nhất. 16
* Tập hợp hóa không chính thức: Bên cạnh việc tập hợp hóa chính thức
còn có hình thức tập hợp hóa không chính thức được thực hiện bởi bất kì cá
nhân hay tổ chức nào. Đặc điểm của hình thức tập hợp hoá này là trong quá
trình tập hợp hóa các quy phạm pháp luật không bị thay đổi về nội dung.
Người tập hợp hóa chỉ loại bỏ những quy phạm pháp luật đã hết hiệu lực hay
chồng chéo nhau. Thông qua hoạt động hay người tập hợp hóa chỉ sưu tầm sắp
xếp các văn bản pháp luật hiện hành theo một trật tự nhất định. Người tập hợp
hóa không có quyền hợp nhất các quy phạm phân tán. b/ Pháp điển hóa
Là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành là một văn
bản quy pham pháp luật mới có hiệu lực pháp lý cao hơn thay thế cho nhiều
văn bản quy phạm pháp luật hiện hành cùng điều chỉnh một lĩnh vực. Ví dụ:
Bộ luật dân sự được ban hành để thay thế Pháp lệnh thừa kế, pháp lệnh hợp
đồng dân sự. Ban hành bộ luật là hình thức pháp điển hóa cao nhất.
------------------------------------------------------------------------ CÂU HỎI
Câu 1. Tại sao các bên vi phạm trong quan hệ pháp luật hành chính chỉ
chịu trách nhiệm trước nhà nước? Cho ví dụ
Câu 2. Tại sao trong quan hệ pháp luật hành chính các chủ thể có thể
đơn phương thiết lập quan hệ khi có yêu cầu hợp pháp?
Câu 3. Cho biết sự khác nhau của việc chấp hành qui phạm pháp luật
hành chính và áp dụng qui phạm pháp luật hành chính.
Câu 4. Tại sao các tranh chấp trong quan hệ pháp luật hành chính được
giải quyết bằng thủ tục hành chính và do cơ quan hành chính có thẩm quyền giải quyết?
Câu 5. Qui phạm pháp luật hành chính và hương ước trong thôn bản,
làng xã có giống nhau hay không? Hãy so sánh chúng?
Câu 6. Nói "Qui phạm pháp luật hành chính chỉ được ban hành bởi cơ
quan hành chính nhà nước" là đúng hay sai? Tại sao?
Câu 7. Hãy nêu mục đích, ý nghĩa của việc phân chia quan hệ pháp luật
hành chính công và quan hệ pháp luật hành chính tư?
Câu 8. Hệ thống hóa nguồn của luật hành chính là gì? Pháp điển hóa
khác tập hợp hóa như thế nào? 17