Chương 3: Hiểu biết về các quân, binh chủng trong quân đội
Tài liệu học tập môn Quốc phòng và An ninh tại trường Học viện Báo chí và Tuyên truyền giúp bạn học tập, ôn luyện và đạt điểm cao! Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Đường lối quốc phòng và an ninh
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
HIỂU BIẾT CHUNG VỀ CÁC QUÂN, BINH CHỦNG TRONG QUÂN ĐỘI
3.1. Tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam
3.1.1. Khái quát chung về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam
Bộ Quốc phòng Quân đội nhân dân Việt Nam là một cơ quan trực thuộc Chính
phủ, quản lý và điều hành Quân đội nhân dân Việt Nam, thực hiện nhiệm vụ chiến đấu
chống giăc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, phòng thủ quốc gia. Bộ Quốc phòng đặ t dướị
sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hình 3.1. Sơ đồ khái quát chung tổ chức QĐNDVN
- Các cơ quan trực thuộc Bộ Quốc phòng: Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính
trị, Tổng cục 2, Tổng cục Kỹ thuật, Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng, Tổng cục Hậu cần.
- Các quân chủng: Quân chủng Hải quân, Quân chủng Phòng không - Không quân.
- Các binh chủng: Binh chủng Pháo binh; Binh chủng Tăng - thiết giáp; Binh
chủng đăc công; Binh chủng Hóa học; Binh chủng Thông tin liên lạc; Binh chủng ̣ Công
binh (3 binh chủng chiến đấu và 3 binh chủng bảo đảm).
- Các quân khu: Quân khu 1, Quân khu 2, Quân khu 3, Quân khu 4, Quân khu 5, Quân khu 7, Quân khu 9. lOMoAR cPSD| 36237285
- Các quân đoàn trực thuộc Bộ Quốc phòng: Quân đoàn 1, Quân đoàn 2, Quân đoàn 3, Quân đoàn 4.
- Các Bộ Tư lệnh trực thuộc Bộ Quốc phòng: Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng,
Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển.
Trong mỗi quân khu, quân đoàn có các đơn vị chiến đấu như sư đoàn, lữ đoàn,
trung đoàn, tiểu đoàn trực thuộc. Riêng các quân khu, ngoài các đơn vị chủ lực còn có
các đơn vị trực thuộc bộ chỉ huy quân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương...
ở từng lữ đoàn, trung đoàn có các tiểu đoàn (tiểu đoàn bộ binh, tiểu đoàn pháo binh, tiểu
đoàn công binh...); đại đội trực thuộc lữ đoàn, trung đoàn (đại đội sửa chữa, đại đội
xe...); tiểu đoàn có các đại đội bộ binh, hỏa lực, các trung đội trực thuộc tiểu đoàn và
tiểu đội trinh sát; đại đội có các trung đội bộ binh, tiểu đội hỏa lực; trung đội có các tiểu
đội bộ binh; tiểu đội là đơn vị biên chế nhỏ nhất trong hệ thống tổ chức của ?
- Hệ thống các học viện nhà trường trực thuộc Bộ Quốc phòng như: các học
viện, các trường đại học, trường sĩ quan, trường dạy nghề; các cơ quan và đơn vị khác
trực thuộc Bộ Quốc phòng.
Ví dụ: Tập đoàn CN viễn thông QĐ Viettel, Thanh tra BQP, Cục tài chính, Cục
đối ngoại quân sự, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển, Trung tâm nhiệt đới Việt Nga, Cục cứu hộ
cứu nạn, Cục Điều tra hình sự, Cục thi hành án, Binh đoàn 15...
3.1.2. Tổ chức, biên chế, trang bị các phân đội bộ binh từ tiểu đội đến tiểu đoàn
QĐND Việt Nam
3.1.2.1. Tổ chức, biên chế, vũ khí trang bị của tiểu đội bộ binh
- Tổ chức : Thành 3 tổ bộ binh at/TT tổ 1 TT tổ 2 aphó/TT tổ 3 1 2 3 4 5 6 7 8 9 AK Tr.L AK AK M79 AK AK B41 AK
Hình 3.2. Sơ đồ đội hình của aBB
+ Tổ bộ binh 1: gồm tiểu đội trưởng, Trung liên (số 2), AK (số 3);
+ Tổ bộ binh 2: gồm tổ trưởng (số 4), M79 (số 5), AK (số 6);
+ Tổ bộ binh 3: gồm tổ trưởng (số 7), B41 (số 8), AK (số 9);
- Biên chế quân số, vũ khí trang bị.
3.1.2.2. Tổ chức, biên chế, vũ khí, trang bị của trung đội bộ binh - Tổ chức Trung đội trưởng Phó trung đội trưởng aBB1 aBB2 aBB3
Hình 3.3. Sơ đồ tổ chức của bBB
(Nếu biên chế 01 quân nhân chuyên nghiệp làm phó trung đội trưởng thì HSQ, chiến sĩ có 27 đ/c).
3.1.2.3. Tổ chức, biên chế, vũ khí trang bị của đại đội bộ binh - Tổ chức lOMoAR cPSD| 36237285
Chỉ huy đại đội bBB a Đại liên a Cối 60 aBB KĐ1 KĐ1
Hình 3.4. Sơ đồ tổ chức của cBB
- Biên chế quân số, vũ khí trang bị
Sĩ quan 7 đồng chí (chỉ huy đại đội 4 đ/c, trung đội trưởng 3 đ/c)
+ Bộ phận chỉ huy đại đội 7 đồng chí (4 sĩ quan: 1đại đội trưởng, 1 phó đại
đội trưởng, 1 chính trị viên, 1 chính trị viên phó, 1 y tá, 2 chiến sĩ liên lạc).
+ 3 trung đội bộ binh, tổng quân số 87 đồng chí (3 sĩ quan, 84 HSQ và chiến sĩ)
+ Tiểu đội đại liên 08 đồng chí (gồm 2 khẩu đội; mỗi khẩu đội 4 đ/c)
+ Tiểu đội cối 60 mm quân số 9 đồng chí ( 1 at’, 2 khẩu đội; mỗi khẩu đội 4 đ/c)
3.1.2.4. Tổ chức, biên chế, vũ khí trang bị của tiểu đoàn bộ binh - Tổ chức
Hình 3.5. Sơ đồ tổ chức của dBB
- Biên chế quân số, vũ khí trang bị
+ Biên chế quân số: Quân số 542 đồng chí.
• Tiểu đoàn bộ quân số 13 đ/c, trong đó sĩ quan 6 đ/c (dt, ctv, phó dt, ctv phó,trợ
lý tham mưu, trợ lý hậu cần); QNCN 4 đ/c (nhân viên quân khí, nhân viên tài chính,
nhân viên quân lực, y sĩ); HSQ, CS 3 đ/c (2 liên lạc, 1 y tá)
• 3 Đại đội bộ binh: như nội dung điểm (c/1.1.2)
• Đại đội cối 82mm: Quân số 51đ/c; trong đó sĩ quan 6đ/c; HSQ, chiến sĩ
45đ/c;2 trung đội cối 82 mm.
Ban chỉ huy đại đội 7 đ/c, trong đó sĩ quan 4 đ/c (đại đội trưởng, chính trị viên,
phó đại đội trưởng, chính trị viên phó), 2 chiến sĩ liên lạc 1 y tá.
Trung đội cối 82mm gồm 22 đ/c (trong đó 1 sĩ quan là trung đội trưởng, 1 HSQ
là phó trung đội trưởng và 2 khẩu đội cối 82 mm).
1 Khẩu đội có 10 HSQ, CS (trong đó 1 khẩu đội trưởng, 1 khẩu đội phó, 8 pháo thủ cối 82. •
Trung đội SMPK 12,7mm: Quân số 35 đ/c (trong đó 1 sĩ quan là trung
độitrưởng, 1 quân nhân chuyên nghiệp hoăc HSQ là phó trung đội trưởng và 33 HSQ,̣
chiến sĩ). Gồm 3 khẩu đội SMPK 12,7mm (1 khẩu đội có 11 HSQ, chiến sĩ). •
Trung đội ĐKZ 82mm: Quân số 29 đ/c (trong đó 1 sĩ quan là trung đội trưởng,
1 phó trung đội trưởng là HSQ hoăc quân nhân chuyên nghiệp và 27 HSQ, chiến sĩ).̣
Gồm 3 khẩu đội ĐKZ (1 khẩu đội ĐKZ có 9 HSQ, chiến sĩ). lOMoAR cPSD| 36237285
• Trung đội thông tin: Quân số 24 đ/c (trong đó 1 sĩ quan là trung đội trưởng
và23 HSQ, chiến sĩ). Gồm 3 tiểu đội (1 tiểu đội VTĐ scn có 12 đ/c; 1 tiểu đội HTĐ có
6 đ/c; 1 tiểu đội thông tin quân bưu 4 đ/c.
• Trung đội phục vụ: Quân số 24 đ/c (trong đó 1 quân nhân chuyên nghiệp
làtrung đội trưởng, 1 nhân viên quản lí và 22 HSQ, chiến sĩ). Gồm 2 tiểu đội nấu ăn (1
tiểu đội nấu ăn có 11 đ/c).
• Trung đội vận tải bộ: Quân số 25 đ/c (trong đó 1 sĩ quan là trung đội trưởng
và23 HSQ, chiến sĩ). Gồm 3 tiểu đội vận tải (1 tiểu đội gồm có 8 HSQ, chiến sĩ).
• Tiểu đội trinh sát: Quân số 9 đ/c (trong đó 1 tiểu đội trưởng, 1 phó tiểu đội
trưởng, 7 chiến sĩ trinh sát). Chú ý:
Trên đây là mẫu biên chế trong thời bình của các đơn vị bộ binh để tổ chức huấn
luyện và sẵn sàng chiến đấu; từng Quân chủng, Binh chủng, chuyên môn kỹ thuật căn
cứ vào chức năng, nhiệm vụ để tổ chức biên chế phù hợp với đăc thù riêng.̣
Ở các học viện, nhà trường trong quân đội, căn cứ vào nhiệm vụ cụ thể để tổ chức
biên chế, vũ khí trang bị sao cho phù hợp với điều kiện hoạt động của từng trường (không
nhất thiết phải giống như các đơn vị huấn luyện).
Ví dụ: Ở các học viện thường tổ chức thành hệ, lớp, tổ; các trường sĩ quan tổ chức
các tiểu đoàn, đại đội, trung đội, tiểu đội học viên nhưng quân số có thể nhiều hoăc ít
hơn, tùy theo từng chuyên ngành đào tạo. Vũ khí, trang bị cấp đại đội, tiểụ đoàn biên
chế không đầy đủ như ở các đơn vị chiến đấu.
3.2. Hiểu biết chung về các quân, binh chủng
3.2.1. Quân chủng hải quân
3.2.1.1. Sự ra đời và phát triển
Ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền Việt Minh tại nhiều
tỉnh ven biển đã tổ chức các đội dân quân bảo vệ bờ biển. Nhiều chi đội Vệ quốc quân
được điều về chốt giữ trên những địa bàn xung yếu. Các đơn vị sự này, tùy theo địa phương,
mang tên gọi "Thủy quân" hoăc "Hải quân", với biên chế không đồng đều, trang ̣ bị cũng
không thống nhất, đều chịu sự chỉ huy trực tiếp của các chỉ huy quân sự địa phương. Như
tại Đà Nẵng, có tổ chức thủy quân miền Nam Trung Bộ, lực lượng gồm khoảng 400 người.
Tại Hải Phòng, Bộ Tư lệnh khu Duyên Hải tổ chức Ủy ban Hải quân Việt Nam, với lực
lượng chiến đấu được tổ chức thành Đại đội Ký Con với quân số gần 200 người, phương
tiện hoạt động gồm một tàu nhỏ mang tên Bạch Đằng và 3 ca nô có nhiệm vụ hoạt động ở
cửa biển Hải Phòng và vùng ven biển Đông Bắc. Từ đầu tháng 9 năm 1945 đến giữa tháng
5 năm 1946, các đơn vị thủy quân địa phương này tổ chức đánh nhiều trận gây thiệt hại
cho quân Pháp trong quá trình tìm cách tái chiếm Đông Dương.
Nhiều đơn vị đã hoạt động cho đến Chiến tranh Đông Dương kết thúc.
Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, ngày 22 tháng 5 năm
1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 71/SL về Quân đội Quốc gia Việt Nam,
chính thức thống nhất và chính quy hóa lực lượng quân sự quốc gia. Đến ngày
19 tháng 7 năm 1946, Quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Huỳnh Thúc
Kháng ra Quyết định số 125/QĐ thành lập trong Quân đội Quốc gia Việt Nam ngành
Hải quân Việt Nam, đăt dưới quyền Bộ Quốc phòng về phương diện quản trị và Quâṇ
sự Ủy viên hội về phương diện điều khiển. Ngày 10 tháng 9 năm 1946, Chủ tịch Quân
sự Ủy viên hội Võ Nguyên Giáp ra Nghị định số 103/NĐ thành lập "Cơ quan Hải quân"
(sau gọi là Hải đoàn bộ), do một Hải đoàn trưởng điều khiển trực thuộc Bộ Tổng Tham
mưu. Nhiệm vụ của Hải đoàn bộ là tổ chức thủy đội tuần liễu và phỏng thủ duyên hải,
tập trung các nhân viên, bộ đội thủy quân đã có trong Quân đội Quốc gia Việt Nam và
tuyển lựa cựu thủy binh để thành lập ngay một tổ chức Hải quân. Tuy nhiên, do tình
hình chiến sự lúc đó, các quyết định trên đều chưa có điều kiện thực hiện. [3 ] Đến đầu
năm 1947, xét thấy không thể duy trì lực lượng hải quân, Bộ Tổng Chỉ huy Quân đội
Quốc gia Việt Nam đã quyết định cho tháo gỡ máy móc, vũ khí, thiết bị và đánh đắm
tàu để không lọt vào tay quân Pháp.
Ngày 8 tháng 3 năm 1949, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia và Dân quân
Việt Nam ra Nghị định số 604/QĐ, do Đại tướng Võ Nguyên Giáp ký, thành lập Ban
Nghiên cứu Thủy quân thuộc Bộ Tổng tham mưu. Ông Nguyễn Văn Khương được cử
làm Trưởng ban, ông Nguyễn Việt làm Chính trị viên và ông Trần Đình Vọng làm Phó
ban. Cơ quan Ban nghiên cứu Thủy quân đóng tại phố Giàn, bên bờ sông Chảy thuộc
huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ.
Ban nghiên cứu Thủy quân có 3 ban chuyên môn là: Hàng hải, Thông tin Hàng
hải, Điện cơ máy nổ và các bộ phận hành chính, quân sự, hậu cần. Nhiệm vụ của Ban
nghiên cứu Thủy quân là nghiên cứu phương án xây dựng và chiến đấu của lực lượng
thủy quân, phù hợp với thực tiễn hiện tại (kháng chiến chống Pháp) và trong tương lai;
tập hợp đội ngũ cán bộ, công nhân viên hải quân cũ (từng phục vụ trong chính quyền
thuộc địa), tạo điều kiện xây dựng cơ sở ban đầu; tuyển mộ, huấn luyện đào tạo một đội lOMoAR cPSD| 36237285
ngũ thủy quân cách mạng, trẻ, có trình độ khoa học kỹ thuật hàng hải. Trước đó, khi
nghe báo cáo và đề nghị thành lập Ban Nghiên cứu Thủy quân và mở lớp thủy quân của
Bộ Tổng Tham mưu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị nhiệm vụ đầu tiên của Ban Nghiên
cứu Thủy quân là huấn luyện xây dựng một đội du kích có khả năng hoạt động trên sông,
rồi từ sông mới tiến ra biển khi có điều kiện.
Tháng 2 năm 1950, khóa học thủy quân đầu tiên được khai giảng, gồm 180 học
viên được tuyển chọn từ các đơn vị bộ binh, dân quân du kích vùng ven biển Đông Bắc,
một số là học sinh các trường trung học ở Bắc Ninh, Bắc Giang, Phú Thọ, Vĩnh Yên, tổ
chức thành một tiểu đoàn huấn luyện, do ông Trần Lưu Thông làm Tiểu đoàn trưởng.
Đội ngũ giáo viên khoảng 10 người, đều là các nhân sự từng là thủy binh trong Hải quân
Pháp hoăc trong ngành hàng hải Pháp. Cả Ban Nghiên cứu Thủy quân và ̣ tiểu đoàn huấn
luyện mang phiên hiệu chung là Đội sản xuất 71.
Chương trình huấn luyện thủy quân bấy giờ gồm quân sự, chính trị, chuyên môn,
trong đó tập trung huấn luyện một số nội dung kỹ thuật, chiến thuật của bộ binh chiến
đấu trong môi trường sông biển như bắn súng trên tàu thuyền, trên ca nô, tập bơi, lăn,
tập chèo thuyền, chèo xuồng, tập động tác đổ bộ (từ bờ lên thuyền và từ thuyềṇ nhảy
xuống tiếp cận bờ triển khai đội hình chiến đấu), tập sử dụng hải đồ, xác định vị trí tàu
trên biển bằng phương pháp quan sát, đo đạc các mục tiêu địa văn và theo kinh nghiệm
của nhân dân (nhìn trăng, sao, xem thủy triều, hướng gió…), học cách sử dụng các
phương tiện thông tin đơn giản (cờ, đèn…). Trong điều kiện chiến tranh, các học cụ đều
rất thô sơ và ít có điều kiện thực hành.
Khoảng vào tháng 5 năm 1950, Bộ Tổng Tham mưu ra chỉ thị chọn khoảng 100
học viên của Ban Nghiên cứu Thủy quân, đưa sang đảo Nào Cháu (Điều Thuận), một
hòn đảo nằm ở phía đông bán đảo Lôi Châu (Trung Quốc), bấy giờ dưới quyền quản lý
chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, đồng minh thân cận với chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, để học tập nâng cao trình độ. Bộ phận khung ở lại, chiêu sinh khoảng
100 học viên để đào tạo thủy quân khóa 2. Ngày 10 tháng 8 năm 1950, Đội Thủy binh
71 được thành lập dưới sự chỉ đạo của Ban Nghiên cứu Thủy quân, đóng quân tại làng
Cò, gần phố Giàn, huyện Đoan Hùng (Phú Thọ).
Đến giữa tháng 4 năm 1951, khi khóa II vừa kết thúc được ít ngày, và các học viên
học ở Trung Quốc trở về, do yêu cầu góp phần duy trì chiến tranh du kích ở vùng Đông
Bắc và châu thổ duyên hải Bắc Bộ, Bộ Quốc phòng quyết định giải thể Ban Nghiên cứu
Thủy quân và Đội Thủy binh 71. Phần lớn học viên khóa I và một số học viên khóa II được
chuyển ra các vùng Hòn Gai, Hải Ninh, Quảng Yên, góp phần đẩy mạnh chiến tranh du
kích ở các địa bàn ven biển. Một bộ phận học viên chuyển về Đại đoàn Công pháo 351 và
các đại đoàn bộ binh đang trong quá trình xây dựng. Bộ phận lực lượng còn lại về nhận
công tác ở các liên khu, Bộ Tổng tư lệnh, hoăc đi học ở Trường Lục quâṇ Trần Quốc Tuấn.
Hình thành lực lượng Hải quân: Sau thắng lợi quyết định tại trận Điện Biên Phủ
và Hiệp định Geneve, 1954 được ký kết, để chuẩn bị cho việc tiếp quản miền Bắc Việt
Nam, đầu tháng 8 năm 1954, Bộ Quốc phòng đã điều động 7 nhân sự trước đây từng ở
Ban nghiên cứu Thủy quân và Đội Thủy binh 71 về Cục tác chiến để thành lập bộ phận
nghiên cứu lực lượng bảo vệ vùng biển. Tháng 1 năm 1955, thêm 4 cán bộ được bổ sung.
Ông Nguyễn Bá Phát, nguyên Tham mưu trưởng Liên khu 5, Phó sư đoàn trưởng Sư
đoàn 308 được giao nhiệm vụ trực tiếp phụ trách bộ phận này. Bộ phận được giao 3
nhiệm vụ chính: Thăm dò cơ sở để tổ chức lực lượng tự sản xuất phương tiện tàu, thuyền;
Nghiên cứu địa hình và tình hình trên vùng ven biển miền Bắc để xác định kế hoạch bố
trí lực lượng bảo vệ bờ biển; Xây dựng đề án tổ chức, xây dựng lực lượng phòng thủ bờ biển.
Sau khi kiểm soát hoàn toàn miền Bắc Việt Nam, ngày 26 tháng 4 năm 1955, Bộ
Quốc phòng đã thành lập Trường Huấn luyện bờ biển để đào tạo nhân sự cho việc quản
lý trên 800 km dải bờ biển miền Bắc từ Móng Cái đến vĩ tuyến 17 (Quảng Trị). Chưa
đầy 2 tuần sau, ngày 7 tháng 5 năm 1955, Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh ra
Nghị định số 284/NĐ-A thành lập Cục Phòng thủ bờ biển. Nhiệm vụ của Cục là giúp Bộ
Tổng tư lệnh chỉ đạo bộ đội phòng thủ bờ biển; đào tạo cán bộ, nhân viên, thủy thủ; sản
xuất các dụng cụ, phương tiện về thủy quân; xây dựng các thủy đội phòng thủ bờ biển
rồi chuyển giao cho các liên khu (sau này là quân khu). Ông Nguyễn Bá Phát được cử
làm phụ trách Cục. Về sau, ngày 7 tháng 5 được chọn làm ngày thành lập của Hải quân nhân dân Việt Nam.
Sau khi thành lập, Cục Phòng thủ bờ biển quyết định tự đóng 20 tàu gỗ 20 tấn lắp
máy ô tô làm phương tiện hoạt động, bên cạnh 36 thuyền buồm và lực lượng gồm 6 tiểu
đoàn, xây dựng thành lực lượng tuần duyên. Ngày 24 tháng 8 năm 1955, Bộ Quốc phòng
đã thành lập hai thủy đội Sông Lô và Bạch Đằng. Đây được xem là những đơn vị chiến
đấu chính quy đầu tiên của Hải quân nhân dân Việt Nam.
Ngày 24 tháng 1 năm 1959, Cục Phòng thủ bờ biển chuyển đổi thành Cục Hải quân
trực thuộc Bộ Quốc phòng. Tổ chức biên chế của Cục Hải quân gồm 5 phòng (Tham mưu,
Chính trị, Hậu cần, công trình và Đo đạc biển); 5 đơn vị trực thuộc: Trường Huấn luyện bờ
biển (đổi thành Trường Huấn luyện hải quân), Đoàn 130, Đoàn 135, tiểu đoàn công binh
145 và Xưởng 46. Ngày 20 tháng 4 năm 1959, thành lập Đảng bộ Cục
Hải quân trực thuộc và đăt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tổng Quân ủy.̣
Các đơn vị chiến đấu lần lượt cũng được thành lập như ngày 18 tháng 5 năm
1959, thành lập Đoàn 135 (sau này đổi thành 140), đơn vị tàu tuần tiễu; ngày 3 tháng 8
năm 1961, thành lập căn cứ Hải quân I và căn cứ Hải quân II.
Đoàn tàu không số: Ngày 23 tháng 10 năm 1961, thành lập Đoàn 759 (Đoàn Vận
tải Quân sự đường biển nay là Lữ đoàn 125). Nhiệm vụ chính của đơn vị này khi mới
thành lập là bí mật vận tải vũ khí, cán bộ bằng đường biển (Đường Hồ Chí Minh trên lOMoAR cPSD| 36237285
biển) từ miền Bắc vào miền Nam chi viện cho Quân Giải phóng miền Nam chiến đấu
trong Chiến tranh Việt Nam. Thời kỳ đó, căn cứ của lữ đoàn là bến Bính (số hiệu là K20)
ở Hải Phòng. Đơn vị sử dụng các tàu vận tải cỡ nhỏ thâm nhập miền Nam tại các căn cứ
ở bến Sông Gianh (Quảng Bình), Sa Kỳ (Quảng Ngãi), Vũng Rô (Phú Yên), Lộc An (Bà
Rịa - Vũng Tàu), Thạnh Phong (Bến Tre) và Vàm Lũng (Cà Mau).
Trong Chiến tranh Việt Nam, đơn vị đã sử dụng các tàu vận tải cỡ nhỏ để thâm
nhập vào miền Nam. Măc dù có số hiệu đầy đủ, song để giữ bí mật, các tàu này không ̣
sơn số hiệu lên thân tàu. Vì thế, những con tàu này được biết đến với tên gọi chung là Đoàn tàu Không số.
3.2.1.2. Vị trí, nhiệm vụ * Vị trí:
Quân chủng Hải quân là lực lượng tác chiến chủ yếu trên chiến trường biển và
đại dương. Làm nòng cốt trong việc tiêu diệt kẻ địch ở hải phận và thềm lục địa, bảo vệ
các đảo, lãnh thổ Việt Nam. * Nhiệm vụ:
Quân chủng Hải quân của Quân đội nhân dân Việt Nam còn gọi là Hải quân nhân
dân Việt Nam, là một quân chủng thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam. Quân chủng Hải
quân là lực lượng nòng cốt bảo vệ chủ quyền quốc gia của Việt Nam trên biển. Hải quân
nhân dân Việt Nam có nhiệm vụ quản lý và kiểm soát chăt chẽ các vùng biển, hảị đảo
chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông; giữ gìn an ninh, chống lại mọi hành vi vi phạm
chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia của Việt Nam trên biển;
bảo vệ các hoạt động bình thường của Việt Nam trên các vùng biển đảo, theo quy định
của luật pháp quốc tế và pháp luật Việt Nam; bảo đảm an toàn hàng hải và tham gia tìm
kiếm cứu nạn theo pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc
tế mà Việt Nam tham gia, sẵn sàng hiệp đồng chiến đấu với các lực lượng khác nhằm
đánh bại mọi cuộc tiến công xâm lược trên hướng biển.
3.2.1.3. Tổ chức, biên chế: * Bộ Tư lệnh:
- Tư lệnh; các Phó tư lệnh
Đảm nhận chức vụ Tư lệnh Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam thường là
một sĩ quan cao cấp mang hàm từ Chuẩn Đô đốc, Phó đô đốc đến Đô đốc. (tương đương
quân hàm từ Thiếu tướng, Trung tướng, Thượng tướng); đồng thời kiêm chức vụ Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
- Chính ủy; Phó chính ủy.
* Cơ quan đơn vị trực thuộc: - Văn phòng Quân chủng; - Thanh tra Quân chủng;
- Ủy ban kiểm tra Đảng; - Phòng Tài chính;
- Tòa án Quân sự Quân chủng Hải quân; - Bộ Tham mưu; - Cục Chính trị; - Cục Hậu cần; - Cục Kỹ thuật; - Bộ Tư lệnh Vùng 1; - Bộ Tư lệnh Vùng 2; - Bộ Tư lệnh Vùng 3; - Bộ Tư lệnh Vùng 4; - Bộ Tư lệnh Vùng 5; - Học viện Hải quân;
- Lữ đoàn Không quân 954;- Lữ đoàn Đăc công Hải quân 126̣ ;
- Lữ đoàn Tàu ngầm 189;
- Trung đoàn đăc công tàu ngầm 196; ̣
- Trường Cao đẳng Kỹ thuật Hải quân;
- Viện Kỹ thuật Hải quân; - Viện Y học Hải quân;
- Tổng Công ty Tân cảng Sài Gòn.
3.2.2. Quân chủng Phòng không - Không quân
3.2.2.1. Sự ra đời và phát triển
- Ngày thành lập bộ đội Phòng không nhân dân Việt Nam.
Ngày 1 tháng 4 năm 1953 Đại tướng Võ Nguyên Giáp Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng, Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam ký quyết định số 06/QĐ thành lập
trung đoàn pháo phòng không 367. Với quyết định thành lập này lực lượng nòng cốt của
một binh chủng chiến đấu mới, binh chủng pháo cao xạ của Quân đội nhân dân Việt
Nam chính thức ra đời. Sự ra đời của bộ đội pháo phòng không đánh dấu một bước
trưởng thành của Quân đội ta trên con đường tiến lên chính quy, hiện đại. Từ đây trở
thành ngày truyền thống vẻ vang của bộ đội Phòng không nhân dân Việt Nam.
- Ngày truyền thống Không quân nhân dân Việt Nam.
Căn cứ vào nhiệm vụ chiến lược của cách mạng từ đầu năm 1955, Tổng Quân uỷ
và Bộ Quốc phòng xác định nhiệm vụ của quân đội ta trong bước đi đầu tiên của công
cuộc xây dựng chính quy, hiện đại về tổ chức, xây dựng lực lượng không quân phù hợp
với kế hoạch xây dựng quân đội trong giai đoạn mới. Ngày 3 tháng 3 năm 1955 Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng ra quyết định số 15/QĐA, từ đó đánh dấu sự ra đời và được xác
định là ngày truyền thống hàng năm của Không quân nhân dân Việt Nam.
- Ngày truyền thống Binh chủng Rađar. lOMoAR cPSD| 36237285
Ngày 1 tháng 3 năm 1959 tất cả các đài Rađar trên toàn mạng chính thức phát
sóng, các bộ dây trời quay những vòng đầu tiên, mở đầu giai đoạn mới trong lịch sử bộ
đội phòng không nói riêng và lịch sử chiến đấu bảo vệ tổ quốc nói chung, giai đoạn quân
và dân tacó khả năng quan sát phát hiện địch xâm phạm vùng trời Tổ quốc từ xa bằng
khí tài. Một lực lượng chiến đấu mới sử dụng kỹ thuật trinh sát hiện đại, luôn luôn đứng
ở tuyến đầu của cuộc chiến đấu đối không đã ra đời. Ngày 1 tháng 3 hàng năm trở thành
ngày truyền thống vẻ vang của bộ đội Rađar Quân đội nhân dân Việt Nam.
- Ngày thành lập Quân chủng Phòng không - Không quân nhân dân Việt Nam.
Quân chủng Phòng không - Không quân nhân dân Việt Nam được thành lập ngày
22/10/1963 trên cơ sơ sát nhập Bộ tư lệnh Phòng không và Cục Không quân. Trước đó,
Bộ tư lệnh Phòng không được thành lập theo quyết định số 047/ND 2/3/1958 và Cục
Không quân thuộc Bộ tổng Tham mưu được thành lập 24/01/1959.
- Thời gian từ ngày 16 tháng 5 năm 1977 Chủ tịch nước cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt nam Tôn Đức Thắng kí sắc lệnh (số 34/1 CT) tách Quân chủng
Phòng không - Không quân thành Quân chủng Phòng không và Quân chủng
Không quân. Đến ngày 3 tháng 3 năm 1999 hai Quân chủng Phòng không và
Quân chủng Không quân lại sát nhập thành Quân chủng Phòng không - Không quân như hiện nay.
3.2.2.2. Vị trí, nhiệm vụ * Vị trí:
Có chức năng cơ bản là quản lý chăt chẽ vùng trời quốc gia, thông báo tình hìnḥ
địch trên không cho các lực lượng vũ trang và nhân dân, đánh trả các cuộc tiến công
đường không của đối phương, bảo vệ các trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá. Làm
nòng cốt cho các lực lượng khác trong việc tiêu diệt các loại máy bay địch. * Nhiệm vụ:
Quân chủng Phòng không - Không quân Nhân dân Việt Nam là một trong ba quân
chủng của Quân đội nhân dân Việt Nam trực thuộc Bộ Quốc phòng, có nhiệm vụ chiến
đấu bảo vệ không phận, măt đất và biển đảo Việt Nam; cứu trợ, tìm kiếm cứụ nạn và các
nhiệm vụ khác. Quân chủng Phòng không – Không quân đảm nhiệm cả nhiệm vụ của
bộ đội phòng không quốc gia và của không quân. Đây là lực lượng nòng cốt quản lý,
bảo vệ vùng trời, bảo vệ các mục tiêu trọng điểm quốc gia, bảo vệ nhân dân đồng thời
tham gia bảo vệ các vùng biển đảo của Tổ quốc. Lực lượng Phòng không - Không quân
có thể độc lập thực hiện nhiệm vụ hoăc tham gia tác chiến trong ̣ đội hình quân binh
chủng hợp thành. Quân chủng làm tham mưu cho Bộ Quốc phòng chỉ đạo xây dựng lực
lượng phòng không lục quân và không quân thuộc các quân chủng, binh chủng, ngành
khác. Lực lượng không quân vận tải ngoài nhiệm vụ vận chuyển phục vụ chiến đấu và
sẵn sàng chiến đấu còn tham gia các hoạt động cứu trợ thiên tai và phát triển kinh tế.
3.2.2.3. Tổ chức, biên chế: * Bộ Tư lệnh:
- Tư lệnh; Các phó tư lệnh; -
Chính ủy; Phó chính ủy. *
Cơ quan trực thuộc: Văn phòng Quân chủng; Thanh tra Quân chủng;
Ủy ban kiểm tra Đảng; Phòng Tài chính; Viện Kiểm sát Quân sự Quân chủng Phòng
không Không quân; Bộ Tham mưu; Cục Chính trị; Cục Hậu cần; Cục Kỹ thuật ;
Cục Phòng không Lục quân. *
Đơn vị trực thuộc:
- Sư đoàn Phòng không 361 (Đoàn phòng không Hà Nội);
- Sư đoàn Phòng không 363 (Đoàn phòng không Hải Phòng);
- Sư đoàn Phòng không 365 (Đoàn phòng không Bắc Thái);
- Sư đoàn Phòng không 367 (Đoàn phòng không thành phố Hồ Chí Minh);
- Sư đoàn Phòng không 375 (Đoàn phòng không Đà Nẵng);
- Sư đoàn Phòng không 377 (Đoàn phòng không Khánh Hòa);
- Sư đoàn Không quân 371 (Đoàn Không quân Thăng Long);
- Sư đoàn Không quân 372 (Đoàn Không quân Hải Vân);
- Sư đoàn Không quân 370 (Đoàn Không quân Biên Hòa);
- Lữ đoàn Không quân 918 (Đoàn Không quân Hồng Hà);
- Lữ đoàn Công binh 28 (Đoàn Công binh 19/5); - Lữ đoàn thông tin 26;
- Học viện Phòng không - Không quân;
- Trường Sĩ quan Không quân;
- Viện Kỹ thuật Phòng không- Không quân;
- Viện Y học Phòng không - Không quân;
- Tổng công ty Xây dựng Công trình Hàng không ACC;
- Công ty Thiết kế và Tư vấn xây dựng công trình hàng không (ADCC).
Ngoài ra lực lượng Bộ đội Phòng không được tổ chức biên chế ở các quân khu,
quân đoàn thành các đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn pháo cao xạ các loại cỡ nòng
súng khác nhau. Có các tiểu đoàn, trung đoàn tên lửa ở các tầm bắn khác nhau.
Ngoài ra còn có các đại đội, tiểu đoàn phục vụ như: ra đa, vận tải…
Lực lượng Bộ đội Không quân được tổ chức biên chế ra các trung đoàn, sư đoàn
của các loại máy bay tiêm kích, trực thăng v.v….
3.2.3. Binh chủng Pháo Binh
3.2.3.1. Sự ra đời và phát triển
- Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, ngày 29/6/1946 tại sân Vệ quốc đoàn
Trung ương (40 Hàng Bài, Hà Nội) đồng chí Hoàng Văn Thái Tổng Tham mưu trưởng
Quân đội nhân dân Việt Nam đọc quyết định thành lập Đoàn pháo binh Thủ đô gồm 3 lOMoAR cPSD| 36237285
trung đội: Trung đội Pháo đài Láng gồm 44 người, chia làm 3 khẩu đội, trang bị 4 khẩu
pháo cao xạ 75mm của Đức là loại pháo hiện đại nhất lúc bấy giờ được đăt trên bệ bệ
tông và có 500 viên đạn. Trung đội Pháo đài Xuân Canh, trang bị 1 khẩu pháo cao xạ
75mm và 200 viên đạn. Trung đội Pháo đài Xuân Tảo, trang bị 2 khẩu pháo cao xạ 75mm và 400 viên đạn.
Ngày 19/12/1946 từ pháo đài Láng trung đội pháo binh đầu tiên đã bắn những phát
đạn đầu tiên vào vị trí đóng quân của Pháp, mở đầu cho cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp ở Hà Nội. Chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947 bộ đội pháo binh phối hợp cùng lực
lượng vũ trang địa phương lập chiến công oanh liệt trên măt trận sông Lô, bắn chìm, bắṇ
cháy nhiều ca nô, tàu chiến ở vùng Khoan Bộ - Đoan Hùng - Khe Lau, góp phần bẻ gãy
gọng kìm quan trọng của quân Pháp tiến công lên chiến khu Việt Bắc. Chiến thắng sông Lô
đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của bộ đội pháo binh, sáng tạo ra cách đánh độc lập
với lối đánh "Đăt gần, bắn thẳng" đạt hiệu suất chiến đấu cao.̣
Ngày 31/7/1949 Bộ quốc phòng quyết định thành lập Cục Pháo binh, có nhiệm
vụ nghiên cứu, chế tạo, sửa chữa các loại pháo, đạn và mở các lớp đào tạo cán bộ chỉ
huy pháo binh và thợ pháo. Lần đầu tiên chế tạo được súng và đạn không giật SKZ cỡ
nòng 60mm, phá hủy tường gạch dày 1m.
Chiến dịch Biên giới 1950, bộ đội pháo binh phát triển cả về tổ chức, biên chế
trang bị và quy mô tác chiến. Lần đầu ta sử dụng 3 tiểu đoàn sơn pháo 75mm gồm: Tiểu
đoàn pháo binh 40 (Đại đoàn 308), Tiểu đoàn 178 (Trung đoàn 209), Tiểu đoàn 253
(Trung đoàn 174) vào trận. Sử dụng cách đánh hiệp đồng binh chủng chi viện hỏa lực
cho bộ binh tiêu diệt địch ở cứ điểm Đông Khê, 2 binh đoàn Lơ -Pa-giơ (Le Page) và
Sác-Tông (Charton) của Pháp. Góp phần giải phóng tuyến biên giới rộng, dài khoảng
200km thuộc 2 tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn. Sau chiến dịch, bộ đội pháo binh có bước
phát triển mới về tổ chức. Tháng 9 năm 1950 Bộ Tổng tư lệnh quyết định thành lập trung
đoàn pháo chủ lực đầu tiên trực thuộc Bộ lấy tên là Trung đoàn 95. Nòng cốt chính là 3
tiểu đoàn sơn pháo 40, 178, 253.
Ngày 20/11/1950 thành lập Trung đoàn pháo 675 gồm 6 liên đội sơn pháo 75mm
và Trung đoàn pháo 45 (tiền thân là Trung đoàn 34) được chuyển trang bị xây dựng
thành trung đoàn pháo cơ giới đầu tiên của Quân đội ta. Với trang bị 20 pháo lựu 105mm
và 40 ô tô các loại. Đến tháng 3/1951 Đại đoàn công pháo 351 được thành lập, biên chế
gồm 3 trung đoàn (2 trung đoàn pháo 675, 45 và Trung đoàn công binh 151), là cơ sở để
thành lập Bộ tư lệnh Pháo binh sau này.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ 1954 lần đầu tiên ta sử dụng trung đoàn pháo xe
kéo (trung đoàn pháo 45 gồm có 24 pháo lựu 105mm) kết hợp với 2 trung đoàn pháo
hỗn hợp; 4 tiểu đoàn pháo phản lực thuộc pháo binh dự bị của Bộ và 6 tiểu đoàn pháo
binh thuộc biên chế của các đại đoàn bộ binh. Tạo sự phát triển về quy mô lực lượng;
hình thành các lực lượng với nhiệm vụ khác nhau, pháo binh trong biên chế, pháo binh
tác chiến cùng bộ binh và pháo binh dự bị của Bộ. Suốt quá trình chiến dịch, bộ đội pháo
binh đã hiệp đồng chăt chẽ với các lực lượng khác bí mật dùng sức ngườị kéo pháo vào
chiếm lĩnh trận địa ở địa hình hiểm trở, bố trí hiểm hóc, hình thành thế trận pháo binh
trên cả 4 hướng đồng loạt nổ súng mãnh liệt trong đợt tập kích "Sấm rền" cũng như trong
suốt quá trình chiến dịch đã chi viện kịp thời, hiệu quả cho các đại đoàn chủ lực tiến
công địch trong từng trận, từng đợt, tiến tới tổng công kích giành thắng lợi, hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ của chiến dịch giao cho.
Để đáp ứng với nhiệm vụ ngày 7/9/1954 Bộ Quốc phòng quyết định thành lập
Bộ chỉ huy Pháo binh, sau đó đến 28/5/1956 đổi tên thành Bộ Tư lệnh Pháo binh, có
nhiệm vụ chỉ huy lực lượng pháo binh dự bị và làm tham mưu giúp Bộ chỉ đạo lực lượng
pháo binh toàn quân. Lực lượng pháo binh từ đó đã chuyển sang giai đoạn thống nhất
về biên chế, trang bị, huấn luyện, đào tạo và tác chiến trong cơ cấu của một binh chủng chiến đấu.
- Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Binh chủng Pháo binh cùng với
lực lượng vũ trang cả nước tích cực chi viện sức người, sức của cho cách mạng miền
Nam, kịp thời đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chiến đấu. Pháo binh Quân giải phóng phát
triển nhanh chóng cả về số lượng, chất lượng; đã kết hợp chăt chẽ giữa lối đánh hiệp ̣
đồng và đánh độc lập chi viện kịp thời, hiệu quả cho bộ binh đánh địch. Kết hợp đánh
nhỏ, đánh vừa, đánh lớn, thực sự là hoả lực măt đất chủ yếu của các lực lượng vũ trang ̣
miền Nam Việt Nam, góp phần đánh bại (Chiến tranh cục bộ; Chiến tranh đăc biệt và ̣
Việt Nam hoá chiến tranh) của đế quốc Mỹ.
Giai đoạn từ 1965 1968 lực lượng pháo binh chủ yếu tác chiến quy mô trung, đại
đội với các loại pháo mang vác như cối 82mm và ĐKZ. Cuộc Tổng tiến công Tết mậu
thân 1968 quy mô trên 30 tiểu đoàn pháo (ĐKB, H12, A12) và hàng trăm phân đội pháo
binh, súng cối của bộ đội địa phương, dân quân du kích gây cho địch thiệt hại năng nề.̣
Giai đoạn 1969 1973 pháo xe kéo phát triển ngày càng lớn mạnh trên chiến
trường, đã tiến hành nhiều đợt hỏa lực mãnh liệt đánh vào căn cứ đầu não của địch ở
Quảng Trị, Đường 9 Nam Lào; Tây Nguyên, Miền Đông Nam Bộ…chi viện hỏa lực kịp
thời cho bộ binh, xe tăng, xe thiết giáp đánh thắng địch từ chiến dịch này đến chiến dịch khác.
Trong cuộc chống chiến tranh phá hoại của Hải quân Mỹ ở miền Bắc, bộ đội pháo
binh của 3 thứ quân là hoả lực chủ yếu, bắn cháy, bắn chìm 276 tàu chiến các loại của
Mỹ, lập chiến công vang dội, góp phần cùng các lực lượng khác đánh bại chiến tranh
phá hoại của đế quốc Mỹ.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dạy mùa xuân 1975, lực lượng pháo binh của 3 thứ
quân đã triển khai trong thế chiến tranh nhân dân rộng khắp, kết hợp với lực lượng tại
chỗ và lực lượng cơ động tổ chức sử dụng hợp lý, chi viện kịp thời có hiệu quả cho binh
chủng hợp thành tiến công, bao vây tiêu diệt quân địch, đập tan mọi khả năng phản kích lOMoAR cPSD| 36237285
hoăc tháo chạy của địch. Góp phần giành thắng lợi trong các chiến dịch Tâỵ Nguyên,
Huế, Đà Nẵng...tạo điều kiện mới cho chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử thắng lợi. Trong
giai đoạn này ta sử dụng hơn 90% lực lượng của Binh chủng Pháo binh có măt trên chiến
trường với 5 lữ, 23 trung đoàn, 20 tiểu đoàn, 88 đại đội độc lập với trêṇ 1330 pháo các
loại (trong đó có trên 500 pháo xe kéo cỡ lớn) dội đòn hoả lực sấm sét xuống quân địch.
Với lực lượng pháo binh hùng mạnh tham gia chiến dịch, pháo binh tạo ra lưới lửa dày
đăc áp đảo quân địch; chi viện chính xác, kịp thời cho bộ binh, xẹ tăng, xe thiết giáp tiến
công giải phóng Sài Gòn kết thúc thắng lợi chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng
hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.
Giai đoạn cuối chiến tranh lực lượng pháo binh của ta đã phát triển quy mô nhiều
trung, lữ đoàn pháo binh. Từ chỗ trong các chiến dịch chỉ tổ chức các phân đội nhỏ đã
phát triển thành các cụm pháo binh 1 cấp, 2 cấp, 3 cấp.
- Những năm gần đây, trong công cuộc đổi mới của đất nước, trước yêu cầu,
nhiệm vụ của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, cùng với lực lượng vũ trang nhân dân, bộ đội
pháo binh đã có những bước phát triển mới cảc về tổ chức, biên chế trang bị. Nhiều đơn
vị pháo binh mới được thành lập với trang bị hiện đại, tăng sức mạnh và khả năng sẵn
sàng chiến đấu của bộ đội pháo binh.
Trải qua lịch sử hơn 60 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành pháo binh đã
phát triển không ngừng, từ không đến có, từ ít đến nhiều, từ đơn giản thô sơ đến hiện
đại, ngày càng hoàn thiện cả về số lượng, chất lượng, đăc biệt về quy mô, lực lượng ̣ đáp
ứng yêu cầu tác chiến của Quân đội ta.
3.2.3.2. Vị trí, nhiệm vụ * Vị trí:
Binh chủng Pháo binh của Quân đội nhân dân Việt Nam là binh chủng chiến đấu;
là hoả lực măt đất chủ yếu của lục quân; có thể tác chiến hiệp đồng quân, binḥ chủng
hoăc độc lập tác chiến.̣ * Nhiệm vụ:
- Chi viện hoả lực cho các lực lượng trong tác chiến hiệp đồng quân binh chủng.
Kiềm chế, chế áp các trận địa pháo binh, súng cối, tên lửa, sở chỉ huy (vị trí chỉ huy) của
địch. Tiêu diệt xe tăng, xe thiết giáp, ụ súng, lô cốt và hỏa điểm của địch. Chế áp, phá
hoại, khống chế các mục tiêu quan trọng trong chiều sâu đội hình địch như sở chỉ huy
(vị trí chỉ huy), trung tâm thông tin, sân bay, kho tàng, bến cảng...và hậu phương của
địch. Chi viện hoả lực cho các lực lượng đánh nhỏ lẻ, phân tán, rộng khắp trong địa bàn tác chiến.
- Dùng hỏa lực pháo binh bắn tiêu diệt gây tổn thất tới mức làm cho mục tiêu
của địch hoàn toàn mất sức chiến đấu. Bắn phá hoại các mục tiêu như công sự, công
trình phòng ngự của địch…gây hư hỏng tới mức mục tiêu không còn tác dụng. Bắn chế
áp gây tổn thất cho các mục tiêu của địch tạm thời mất sức chiến đấu, cơ động bị hạn
chế, chỉ huy bị rối loạn. Bắn kiềm chế gây tổn thất và tác động về tinh thần, tâm lý để
ngăn chăn và hạn chế hoạt động của mục tiêu của địch trong một ̣ định. thời gian nhất
3.2.3.3. Tổ chức, biên chế * Bộ Tư lệnh:
- Tư lệnh; Các phó tư lệnh.
- Chính ủy; Phó chính ủy.* Cơ quan:
Văn phòng; Thanh tra; Phòng Tài chính; Bộ Tham mưu; Cục Chính trị ; Cục
Hậu cần; Cục Kỹ thuật .
* Đơn vị trực thuộc:
- Trường Sĩ quan Pháo binh . - Lữ đoàn 45. - Lữ đoàn 204. - Lữ đoàn 490. - Lữ đoàn 675. - Lữ đoàn 96.
- Trung tâm Huấn luyện - Đào tạo. - Kho 380. - Kho K86. - Tiểu đoàn 371. - Tiểu đoàn 97.
- Tiểu đoàn 10 vận tải - Cục HC.
Ngoài ra lực lượng pháo binh còn được biên chế ở các quân khu, quân đoàn…
3.2.4. Binh chủng Tăng thiết giáp
3.2.4.1. Sự ra đời và phát triển
Tăng thiết giáp là một binh chủng kỹ thuật, chiến đấu và là lực lượng đột kích
quan trọng của Lục quân Việt Nam. Từ giữa năm 1955, Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân
dân Việt Nam đã tuyển chọn nhiều cán bộ chiến sĩ tập trung để đưa đi học bổ túc văn
hóa tại Trường Văn hóa Quân đội, với mục đích tạo nguồn để đào tạo cán bộ sĩ quan cả
về chỉ huy, tham mưu và các quân binh chủng kỹ thuật, trong đó có binh chủng thiết giáp.
Tháng 8 năm 1956, 2 đoàn cán bộ, chiến sĩ được tuyển chọn cử đi Trung Quốc
để đào tạo về tăng thiết giáp. Tháng 8 năm 1959, Bộ Quốc phòng quyết định xây dựng
một căn cứ huấn luyện xe tăng, lấy mật danh là Công trường 92, tại khu vực núi Đanh lOMoAR cPSD| 36237285
thuộc xã Kim Long, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phú (nay thuộc huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc).
Ngày 5/10/1959, Bộ Quốc phòng ra quyết định số 449/NĐ về việc thành lập
Trung đoàn xe tăng 202 với biên chế 3 tiểu đoàn tăng, 5 đại đội trực thuộc (Sửa chữa,
Công binh, Thông tin, Huấn luyện, Vệ binh) và 4 phòng (Tham mưu, Chính trị, Hậu
cần, Kỹ thuật). Sự ra đời của Trung đoàn xe tăng 202 đánh dấu bước phát triển tất yếu
của Quân đội ta trên con đường tiến lên chính qui, hiện đại, là cơ sở quan trọng cho sự
ra đời của Binh chủng Thiết giáp sau này.
Ngày 29 tháng 2 năm 1962, Việt Nam tiếp nhận thêm một số trang bị mới bao
gồm 19 xe PT-76, 11 xe T-54, 1 xe MTY-10, 4 xe dắt T-34 do Liên Xô viện trợ. Cuối
năm 1963, Việt Nam tiếp nhận thêm 72 xe T-34, 11 xe T-54, 31 xe PT-76. Lúc này, tổng
số xe tăng thiết giáp và các xe hỗ trợ của Việt Nam đã có là 164 chiếc các loại.
Ngày 22/6/1965, Bộ Quốc phòng chính thức ra quyết định số 100/QĐ-QP thành
lập Trung đoàn 203 và quyết định số 101/QĐ-QP thành lập Bộ tư lệnh Thiết giáp (đến
năm 1994 đổi tên là Bộ tư lệnh Binh chủng Tăng thiết giáp) với 3 cơ quan Tham mưu,
Chính trị, Hậu cần - Kỹ thuật.
Bộ tư lệnh Thiết giáp được thành lập đánh dấu giai đoạn phát triển mới của bộ
đội TTG. Đó là bước phát triển tất yếu của Quân đội ta trên con đường tiến lên chính
quy, hiện đại, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, bảo vệ vững chắc miền Bắc, giải phóng
miền Nam thống nhất Tổ quốc
Ngày 01/10/1966, Bộ tư lệnh Thiết giáp được lệnh của Bộ tổng Tham mưu tổ
chức 11 đại đội cao xạ 37 ly tăng cường cho Bộ tư lệnh Phòng không - Không quân tham
gia chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, bảo vệ các mục tiêu trọng điểm của miền Bắc
(sân bay Thủ đô Hà Nội, Hoà Lạc, cầu Việt Trì). Ngày 5/8/1967, 0Bộ tư lệnh Thiết giáp
được Bộ Quốc phòng thông báo, chuẩn bị 2 đại đội xe tăng vào chiến trường miền Nam
chiến đấu. Sau thời gian gấp rút chuẩn bị chiến đấu, ngày 01/10/1967, Tiểu đoàn
198 (được thành lập từ Đại đội tăng 3 và Đại đội tăng 9 thuộc Tiểu đoàn 3, Trung đoàn
203) bắt đầu hành quân từ Lương Sơn – Hòa Bình vào chiến trường. Sau hơn 50 ngày
đêm hành quân vượt hơn 1000km đường Trường Sơn với nhiều địa hình phức tạp, trong
điều kiện địch đánh phá ác liệt, toàn Tiểu đoàn đã đến vị trí tập kết bảo đảm an toàn về
người và trang bị chiến đấu.
Đại đội tăng 3 hành quân 931 km, ngày 21/12/1967 tới vị trí tập kết ở Nậm Khang
trên đường số 9. Đại đội tăng 9 vượt qua chăng đường dài gần 1500km tập kếṭ tại Ha
Xinh-Ta xinh ở Nam đường 9; (đồng hồ hành trình trên các xe của Đại đội tăng 9 đã báo
1438,8 km với 171,36 giờ máy nổ).
Đây là cuộc hành quân lịch sử bằng xích của xe tăng ta từ hậu phương vào chiến
trường, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng không chỉ đối với Binh chủng mà còn có ý nghĩa
chiến lược quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta.
Cuộc hành quân thắng lợi đã khẳng định: Trong điều kiện địa hình hiểm trở của tuyến
đường chiến lược, không quân địch đánh phá ác liệt suốt ngày đêm, nhưng với khả năng
thực tế, ý chí quyết tâm cao và phương pháp tổ chức, bảo đảm hành quân phù hợp ta vẫn
có thể đưa được một lực lượng lớn xe tăng vào chiến trường (gồm cả con người và đầy
đủ vũ khí, trang bị) để tham gia chiến đấu. Đây là mốc mở đầu cho quá trình triển khai
lực lượng Tăng thiết giáp ở các địa bàn chiến lược trên chiến trường, đáp ứng yêu cầu
phát triển của cuộc chiến tranh giải phóng. Ta đưa được xe tăng vào chiến trường là một
bất ngờ lớn đối với bộ máy chiến tranh xâm lược Mỹ và bè lũ tay sai của chúng.
Tháng 2 năm 1968, lực lượng tăng thiết giáp Quân đội Nhân dân Việt Nam tham
chiến lần đầu tiên tại Tà Mây - Làng Vây (Đường 9 - Khe Sanh). Chiến thắng Tà Mây,
Làng Vây đã góp phần phá vỡ một mảng tuyến phòng thủ chiến lược của địch trên
Đường 9, dồn địch vào thế phòng thủ, bị động đối phó; đồng thời phối hợp kịp thời với
các chiến trường, góp phần vào chiến công vang dội của quân và dân cả nước trong cuộc
tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968.
Trận đánh Tà Mây - Làng Vây là chiến công đầu tiên của bộ đội Tăng thiết giáp,
khẳng định sức mạnh của xe tăng trong chiến đấu hợp đồng binh chủng, góp phần làm rạng
rỡ lịch sử truyền thống của Quân đội ta, cổ vũ tinh thần quyết chiến, quyết thắng của cán
bộ, chiến sĩ Tăng thiết giáp trong suốt quá trình chiến đấu và xây dựng sau này.
Trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972, Bộ đội Tăng thiết giáp đã cùng với
các Quân, Binh chủng bạn tiến công trên khắp các chiến trường miền Nam, đánh bại
địch ở nhiều vùng rộng lớn như Trị Thiên, Tây Nguyên, Đông Nam bộ... ta thu và phá
huỷ một khối lượng lớn vũ khí trang bị chiến tranh của địch, giải phóng nhiều vùng đất
rộng lớn, làm chuyển biến cục diện chiến tranh.
Một trong những trận đánh tiêu biểu, đạt hiệu suất chiến đấu cao trong giai đoạn
này là trận tiến công căn cứ Đắc Tô - Tân Cảnh của đại đội 7 thuộc Tiểu đoàn 297 phối
thuộc cho Trung đoàn bộ binh 66 ngày 24/4/1972. Đây là một căn cứ then chốt nằm trên
tuyến phòng thủ phía Bắc tỉnh Công Tum. Địch dựa vào thế núi hiểm trở, sông suối bao
quanh để tổ chức thành căn cứ phòng ngự mạnh, có quân số đông, nhiều hỏa khí, hệ
thống công sự, lô cốt vững chắc, vật cản dày, được hỏa lực pháo binh, không quân chi
viện. Từ năm 1968 cho đến hết năm 1975, tăng thiết giáp đã tham gia chiến đấu hơn 200
trận, đăc biệt đã dẫn đầu 5 cánh quân giải phóng Sài Gòn trong chiến dịcḥ Hồ Chí Minh.
Ngày 20 tháng 10 năm 1976, Binh chủng Tăng thiết giáp được Quốc hội và Chính
phủ Việt Nam tuyên dương danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
3.2.4.2. Vị trí, nhiệm vụ * Vị trí:
Tăng thiết giáp là loại trang bị kỹ thuật hiện đại, có vỏ thép dày, hỏa lực mạnh và
sức cơ động cao, là lực lượng đột kích quan trọng của Quân đội nhân dân Việt Nam
trong chiến đấu hiệp đồng binh chủng cùng với bộ binh là lực lượng đột kích chủ yếu lOMoAR cPSD| 36237285
của chiến đấu chiến dịch; hiệp đồng với các binh chủng tạo nên sức mạnh chiến đấu Binh chủng hợp thành.
Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc tương lai (nếu xảy ra) để đánh bại tiến công
quy mô lớn của địch trên nhiều hướng: trên bộ kết hợp với đổ bộ đường không, đường
biển với cường độ cao, nhịp độ lớn, liên tục bằng nhiều thê đội. Bộ đội TTG là một trong
những thành phần lực lượng rất quan trọng của Lục quân có thể được sử dụng ngay từ
đầu với quy mô lực lượng thích hợp cùng các lực lượng khác tiêu diệt lớn quân địch,
đảm nhiệm nhiệm vụ đột kích quan trọng (có trường hợp là chủ yếu trong chiến dịch
hiệp đồng quân, binh chủng)
Trong chiến đấu phòng ngự tích cực tiêu diệt địch nhất là TTG, ngăn chăn đánḥ
bại tiến công của chúng, cùng các lực lượng khác giữ vững khu vực được giao. * Nhiệm vụ:
Trong chiến đấu bộ đội tăng thiết giáp thường cùng với bộ binh và các quân, binh
chủng khác chiến đấu hiệp đồng quân, binh chủng hoăc đảm nhiệm một nhiệm vụ ̣ độc
lập, thường đảm nhiệm các nhiệm vụ sau: - Trong tiến công:
Đột phá trận địa phòng ngự của địch, thọc sâu, vu hồi đánh vào mục tiêu chủ yếu
bên trong như sở chỉ huy, trận địa hỏa lực, khu vực tập trung cơ giới, trung tâm thông
tin, sân bay, địa hình quan trọng để tạo điều kiện chiến đấu, chiến dịch phát triển thuận
lợi, nhanh chóng tiêu diệt toàn bộ quân địch. Tiêu diệt địch cơ động ứng cứu giải tỏa
đường bộ, ĐBĐK; tiêu diệt địch rút chạy; có thể được sử dụng làm lực lượng dự bị để
sẵn sàng xử trí các tình huống quan trọng. - Trong phòng ngự:
Có thể thực hiện nhiệm vụ cùng bộ binh và các lực lượng khác phòng ngự điểm
tựa quan trọng, cố thủ mục tiêu chủ yếu, cùng các lực lượng khác giữ vững khu vực phòng thủ then chốt.
Làm lực lượng cơ động tiến công thực hiện hành động tiến công trong phòng ngự
cùng các lực lượng khác thực hiện các lực lượng khác thực hiện các trận đánh quan trọng
then chốt tạo nên sự thay đổi đột biến thế lực và thời cơ cho trận chiến đấu chiến dịch
có lợi cho ta, cùng các lực lượng khác đánh bại tiến công của địch giữ vững khu vực
phòng ngự được giao. Đây là nhiệm vụ quan trọng nhất của TTG. Thực hiện được mục
đích bản chất của phòng ngự đồng thời phát huy được toàn bộ các yếu tố tạo nên sức mạnh của TTG.
- Trong thực hiện nhiệm vụ A2.
Có thể thực hiện chốt giữ mục tiêu, tiến công giành lại các mục tiêu đã bị đánh chiếm
(các mục tiêu quan trọng như trụ sở Đảng, chính quyền các cấp), ngăn chăn, chiạ cắt, giải
tán, trấn áp tiêu diệt các lực lượng bạo loạn lật đổ; cùng các lực lượng khác tiến
công tiêu diệt địch ĐBĐK vào các sân bay, bến cảng, hoăc khống chế các mục tiêu trên ̣
không cho địch đổ bộ hỗ trợ các lực lượng bạo loạn lật đổ nội địa.
3.2.4.3. Tổ chức, biên chế: * Bộ Tư lệnh:
- Tư lệnh; Các phó tư lệnh.
- Chính ủy; Phó chính ủy. * Cơ quan:
Văn phòng; Thanh tra; Phòng Tài chính; Phòng Khoa học Quân sự; Ban Tổng
kết; Phòng Điều tra hình sự; Cơ quan Ủy ban kiểm tra; Ban Kinh tế; Bộ Tham mưu;
Cục Chính trị; Cục Hậu cần; Cục Kỹ thuật.
* Đơn vị trực thuộc:
- Trường Sĩ quan Tăng - Thiết giáp .
- Trường Hạ sĩ quan xe tăng 1.
- Trường Trung cấp Kỹ thuật Tăng thiết giáp. - Lữ đoàn xe tăng 201. - Lữ đoàn xe tăng 215.
Ngoài ra lực lượng Tăng - thiết giáp còn được biên chế ở các quân khu, quân đoàn…
3.2.5. Binh chủng Đăc công ̣
3.2.5.1. Sự ra đời và phát triển
Ngày thành lập (Ngày truyền thống binh chủng): 19 tháng 3 năm 1967. Tổ chức
lực lượng lúc mới thành lập: 9 tiểu đoàn đăc công; Trường bổ túc cán bộ và 3 cơ quan.̣
Tuy ngày thành lập chính thức là năm 1967, nhưng từ những năm kháng chiến chống
Pháp, cách đánh "công đồn đăc biệt" ở chiến trường Nam Bộ, cách đánh và tổ chức ̣ đăc
công đã phát triển nhanh chóng, hình thành ba loại lực lượng: Đặ c công bộ; Đặ c ̣ công
nước; Đăc công biệt động.̣ * Đặc công bộ:
Trong kháng chiến chống Pháp, từ sau cuộc tiến công lên Việt Bắc bị thất bại,
Pháp xây dựng hàng loạt đồn bót. Trước tình hình mới, bộ đội không thể dừng lại ở
những trận tập kích, phục kích tiêu hao, quấy rối, mà phải tiến lên tiêu diệt các cứ điểm nhỏ
này. Nhưng để đánh được cứ điểm thì phải dùng cách đánh bất ngờ (kỳ tập). Nếu Pháp
phòng thủ mạnh phải có pháo hạng năng (cường tập), mà bộ đội thì pháọ quá ít, đạn pháo
khan hiếm. Cuối cùng một cách đánh mới được đề xuất: tranh thủ đánh bất ngờ, nếu bị lộ
thì chuyển sang đánh bằng hỏa lực mạnh. Với cách đánh kỳ tập kết hợp với cường tập, từ
Thu Đông 1948 đến đầu 1950, trên chiến trường Bắc Bộ, bộ đội đã tiêu diệt hàng loạt đồn bốt, cứ điểm Pháp.
Ở chiến trường Nam Bộ, Pháp tăng quân, xây dựng hệ thống bót Delatour là sản
phẩm của tướng Delatour Desmer, tư lệnh quân viễn chinh Pháp ở Nam Bộ. Hàng loạt đồn
bót dựng lên xung quanh thị xã, thành phố và trên các đường giao thông quan trọng, nhằm lOMoAR cPSD| 36237285
bao vây, chia cắt, ngăn chăn lực lượng vũ trang ̣ Việt Minh. Phong trào du kích phát triển
khắp nông thôn, thành thị, nhưng Việt Minh găp khó khăn do chưa có chiến thuậṭ hữu hiệu
và loại vũ khí có đủ sức công phá tường dày của tháp canh. Qua nhiều lần thử nghiệm
thắng lợi, đăc biệt là trận đánh đêm 18 rạng 19 tháng 3 năm 1948 tiêu diệt đồṇ cầu Bà Kiên,
đã mở ra một khả năng mới đánh địch trong vị trí cố thủ vũng chắc. Từ thực tế đánh tháp
canh, Việt Minh đúc kết được kinh nghiệm thực tiễn, làm tiền đề cho chiến thuật đăc công ra đời.̣
Đăc công bộ hiện nay có ̣ Lữ đoàn Đăc công 113̣ (3 lần được phong anh hùng lực
lượng vũ trang các năm 1975, 1979, 2000), Lữ đoàn Đăc công 198̣ (thành lập năm
1974, anh hùng lực lượng vũ trang năm 1976), Lữ đoàn Đăc công 429.̣ * Đặc công nước:
Đăc công nước là lực lượng đặ c biệt tinh nhuệ, được huấn luyện để tiến công ̣ các
mục tiêu thủy của đối phương như: bến cảng, tàu thủy,... và các mục tiêu chỉ có thể
xâm nhập qua đường thủy: căn cứ biệt lập, căn cứ thủy quân... Nếu đăc công bộ có lốị
đánh đăc biệt thì đặ c công nước càng đặ c biệt, vì đánh dưới nước khó khăn hơn nhiềụ
so với trên bộ, trang bị vũ khí cũng khác biệt hơn. Đăc công nước (còn gọi là đặ c công ̣
thủy) ra đời do yêu cầu đánh vào đối tượng hải quân của Pháp và những mục tiêu vùng
sông nước, do đó xuất hiện gần như song song với đăc công bộ. Trong cuộc ̣ Chiến tranh
Đông Dương, các hoạt động trên sông nước của Pháp chiếm một phần quan trọng trên
chiến trường. Lợi dụng lãnh thổ Việt Nam có bờ biển dài, nhiều sông ngòi, có vùng sông
ngòi chằng chịt như miền Tây Nam Bộ, quân Pháp đã bố trí một lực lượng hải quân khá
mạnh. Hải quân Pháp tập trung vào 3 hoạt động chủ yếu:
- Dùng tàu thuyền chiến đấu hỗ trợ cho bộ binh đi càn quét;
- Đánh phá căn cứ, ngăn chăn tiếp tế, vận chuyển của Việt Minh; - ̣ Dùng đường
thủy để tiếp hậu cần cho quân Pháp trên đất liền.
Vì thế việc đánh Pháp trên măt trận sông biển có ý nghĩa chiến lược quan trọng.̣
Ở miền Bắc, các vùng ven sông, ven biển khẩn trương xây dựng các đội săn tàu Pháp, sẵn
sàng đánh Pháp trên măt trận sông nước. Trong ̣ chiến dịch Hà – Nam - Ninh (tháng 6
năm 1951), tổ đăc công nước do Nguyễn Quang Vinh (thuộc Trung đoàn 36, Đạị đoàn
308) chỉ huy dùng thuyền nan chở 300 kg thuốc nổ đánh chìm tàu LCD chở vũ khí của
quân Pháp. Đây là trận mở đầu cho cách đánh tàu chiến trên chiến trường Bắc
Bộ, tạo tiền đề cho việc nghiện cứu sử dụng đăc công đánh các mục tiêụ
tên sông, biển. Ở miền Nam, đầu năm 1949, đội săn tàu Long Châu Sa dùng thủy lôi tự
tạo đánh chìm tàu Glyxin trên sông Sài Thượng, diệt hàng trăm quân đối phương.
Ở vùng Rừng Sác, vào tháng 9 năm 1950, các đội đăc công được hình thành tự̀
Trung đoàn 300, hoạt động ở vùng Nhà Bè, Thủ Thiêm xuống Cần Giờ, Soài Rạp.
Lực lượng này chiến đấu rất dũng cảm, táo bạo, được gọi là "quân cảm tử", diệt nhiều
chỉ huy Pháp và tay sai. Như vậy trong giai đoạn đầu kháng chiến, cùng với cách đánh
của đăc công bộ, cách đánh của đặ c công thủy cũng bắt đầu phát triển. Dựa trên những
tiếṇ bộ của quá trình nghiên cứu cải tiến vũ khí, các địa phương ở Bắc Bộ và Nam Bộ
đã tổ chức được một lực lượng chuyên, tinh để đánh tàu, thuyền bằng cách đánh đăc công.̣
Ngày 13/4/1966, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Đoàn huấn luyện trinh
sát đăc công mang phiên hiệu Đoàn 126 trực thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân. Đoàn trưởng ̣
được giao cho Hoàng Đắc Cót và Phạm Điệng là Chính ủy. Tháng 5/1966 Bộ Tư lệnh
Hải quân tổ chức Đoàn 126 thành cơ quan đoàn bộ và 12 đội chiến đấu, lực lượng Đăc ̣
công hải quân Việt Nam đã hình thành. Cuối 1966, một lực lượng lớn của Đoàn 126
được đưa vào chiến trường Quảng Trị, Đà Nẵng, Qui Nhơn và Nam Bộ thâm nhập thực
tế chiến đấu. Ngày 10/3/1967, Bộ Tư lệnh Măt trận B5 (Mặ t trận Trị - Thiên) giaọ nhiệm
vụ cho Đoàn 126 tiêu diệt tàu địch ở cảng và sông từ Cửa Việt tới Đông Hà. Tàu cuốc
70 tấn của Hàn Quốc bị ốp mìn nổ tung. Ngày 9/5/1967, tàu cuốc Hayda dài 71m, rộng
12m bị đánh chìm xuống sông Cửa Việt, tàu LST trọng tải lớn 5.000 tấn chở xe thiết
giáp và vũ khí hạng năng cũng bị đánh chìm xuống sông. Ngày 15/5/1967,̣ 1 tàu LCU
bị đánh chìm tại chỗ nằm vắt ngang sông Cửa Việt. Chỉ trong vòng 5 tháng chiến đấu,
từ tháng 4 đến 9/1967, riêng Đội 1 của Đoàn 126 đã tham chiến 6 trận, đánh chìm 10
tàu địch, làm hư hỏng 2 tàu khác, phá hủy nhiều phương tiện vũ khí.
Trong 10 ngày hoạt động ở Cửa Việt (19 đến 29/01/1968), Đoàn 126 đã thả được
13 quả thủy lôi xuống dòng sông Cửa Việt, đánh chìm 8 tàu, phá hủy hàng nghìn tấn
hàng hóa và phương tiện chiến tranh của địch, làm gián đoạn giao thông của địch ở cảng
Cửa Việt nhiều ngày liền. Tối ngày 6/9/1969, tại điểm xuất phát ở Cửa Tùng (thị trấn
Cửa Tùng, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị), Đoàn 126 cử tổ chiến đấu 3 người lăn tới
đánh mìn tàu địch. Mỗi người mang theo ống thở, khí tài lặ n, hai thủ pháo, haị
lựu đạn, dao găm… riêng 2 người nhận thêm hai quả mìn rùa năng 6,8 kg do Liên Xộ
sản xuất. Đây là loại vũ khí lợi hại của đăc công nước, có ghép 48 mảnh nam châṃ hình
móng ngựa, có sức hút 100 kg. Khi mìn đã áp vào sườn tàu, rút chốt an toàn, đúng giờ
sẽ nổ, nếu chưa đến giờ nổ mà bị tháo gỡ mìn cũng sẽ tự phát nổ bởi nó có ngòi chống
tháo. Sau 2 ngày ẩn nấp, tổ chiến đấu đã tiếp cận tàu Mỹ, gắn mìn rùa rồi rút lui. Vài giờ
sau mìn nổ, chiếc tàu vận tải USS Noxubee trọng tải 4.000 tấn bị hư hại năng.̣
Tiểu đoàn Đăc công nước 471 - Quân khu 5 được thành lập ngày 25/2/1971 tại Trà ̣
Bồng (Quảng Ngãi); sau đó tiểu đoàn được chuyển ra hoạt động ở cánh Bắc Hòa Vang,
thuộc Măt trận 4 Quảng Đà, làm nhiệm vụ tác chiến các mục tiêu cố định của quân Mỹ -̣
ngụy. Trong vòng 5 năm (4/1971 - 4/1975), Tiểu đoàn Đăc công nước 471 đã đánh 41̣ trận
(29 trận đánh dưới nước, 12 trận đánh trên cạn), tiêu diệt 800 tên địch (trong đó có một số
lính Mỹ), đánh chìm 10 tàu vận tải quân sự (bao gồm 1 tàu chở dầu, 1 pháo hạm) trọng tải
8-10 nghìn tấn, 1 hải thuyền, 1 cầu cảng Tiên Sa. lOMoAR cPSD| 36237285
Trong chiến tranh chống Mỹ, Hải quân Việt Nam đã huấn luyện, đào tạo, bổ sung
cho các chiến trường miền Nam hơn 5.000 cán bộ, chiến sĩ đăc công. Trong 7̣ năm chiến
đấu trên chiến trường Cửa Việt – Đông Hà, đăc công Hải quân đã đánh 300̣ trận; đánh
chìm, đánh hỏng 336 tàu xuồng chiến đấu, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, tiêu
diệt nhiều sinh lực địch. Góp phần cùng các lực lượng trên khắp chiến trường miền Nam
đánh chìm, đánh hỏng 4.473 tàu thuyền, đánh sập hàng trăm cầu cống, vật chất phục vụ
chiến tranh, góp phần cùng quân dân miền Nam đánh bại kẻ thù.
Đăc công nước hiện nay gồm ̣ Lữ đoàn Đăc công 5̣ trực thuộc Bộ Tư lệnh Đăc ̣
công, Lữ đoàn 126 Đăc công Hải quân, quân chủng Hải quân và một số đơn vị thuộc ̣
các quân khu và quân đoàn. * Đặc công biệt động:
Do tính chất của cuộc kháng chiến lâu dài và để phù hợp với phương châm, phương
thức hoạt động tác chiến ở thành phố, bên cạnh các lực lượng vũ trang đô thị như Tự vệ
thành, Thanh niên xung phong, Quốc gia tự vệ cuộc, Công đoàn xung phong... các tổ
chức quân sự chuyên trách lần lượt ra đời. Lực lượng này hơi khác với đăc công bộ
thông thường mặ c dù trong tổ chức có rất nhiều điểm tương đồng. Biệṭ động hầu như
chỉ hoạt động vào ban ngày và rút lui về đêm.
Ở Sài Gòn, 10 ban công tác thành hoạt động mạnh dưới sự chỉ đạo trực tiếp của
Khu trưởng Nguyễn Bình. Ở nhiều thành phố khác như Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Đà
Nẵng, các đội công tác đăc biệt và biệt động cũng khẩn trương thành lập làm nhiệm vụ ̣
tiêu diệt những phần tử đối phương nguy hiểm và phá hoại cơ sở kinh tế của đối phương.
Các tổ, đội vũ trang biệt động hoạt động ngay trong lòng đối phương, từ đánh nhỏ, lẻ,
tiến lên đánh biệt động đăc công táo bạo, linh hoạt. Nổi lên trong các hoạṭ động tại Sài
Gòn là nữ sinh trường Quân chính Nguyễn Thị Lan (Lan Mê Linh) 17 tuổi đã dùng súng
ngắn ám sát chủ bút báo "Phục Hưng" là Hiền Sỹ tháng 3 năm 1946.
Đăc biệt ngày 8 tháng 6 năm 1946 ban công tác thanh đánh kho đạn của Pháp,̣
thiêu hủy 400 tấn đạn dược, thuốc nổ, làm chết 40 lính Pháp. Đạn nổ liên lục 3 ngày
đêm. Đầu năm 1947, lực lượng biệt động Hải Phòng phối hợp với bộ đội địa phương tập
kích sân bay Cát Bi, diệt một trung đội lính Âu Phi. Năm 1948 biệt động Đà Nẵng cùng
với bộ đội địa phương, công an xung phong đột nhập, tiêu diệt, trấn áp tay sai của Pháp.
Tại Hà Nội, đêm 18 tháng 1 năm 1950, Tiểu đoàn 108 tập kích sân bay Bạch
Mai, phá hủy 20 máy bay, 32 tấn vũ khí, 600.000 lít xăng dầu... [1 ] Không chỉ ở những
thành phố lớn, đăc công biệt động phát triển ở hầu hết thành phố, thị xã, vùng Pháp ̣ kiểm
soát, trở thành một lực lượng thường xuyên đe doạ trực tiếp ngay tại cơ sở đối phương,
đồng thời phối hợp với hoạt động chính trị gây cho đối phương nhiều hoang mang.
Đăc công biệt động trong các đô thị tại miền nam trước 1975 là lực lượng gầṇ
giống với “bộ đội địa phương” tại thành phố, nhưng có trình độ tác chiến đô thị tốt hơn.
Đăc công biệt động tác chiến độc lập vì thiếu phối hợp từ các đơn vị bạn, nhưng ̣ luôn
luôn nhờ vào sự hỗ trợ của người dân trong thành phố, nếu không có dân hỗ trợ thì mạng lưới sẽ bị phá.
Chiến công nổi bật của đăc công biệt động là việc ̣ đánh chìm tàu USNS Card
(vốn là tàu sân bay hộ tống choán nước 15.000 tấn) vào ngày 2 tháng 5 năm 1964.
Chiến sĩ đăc ̣ công của Quân Giải phóng Miền Nam là Lâm Sơn
Náo thuộc lực lượng đăc công Sài Gòn-Gia Định đã bí mật lặ n tới tàu, đặ t 2 khối chấṭ
nổ, mỗi khối gồm 40 kg TNT và 2 kg C4. Hai khối thuốc nổ được đăt cách nhau 10m,̣
áp chăt lườn tàu làm nổ tung hông tàu. ̣ USS Card bị đắm ở độ sâu 15 m nước (độ sâu
sông Sài Gòn tại cầu cảng).
Về cuối cuộc chiến, đăc công biệt động tách hẳn làm 2 thành phần: những tâṇ binh
thiếu kinh nghiệm (chiếm quá nửa là nữ) tham gia dẫn đường cho bộ đội chủ lực chiếm
giữ nội đô; còn những người dày dạn kinh nghiệm được huy động về căn cứ để huấn
luyện bộ binh trở thành đăc công. Trong ̣ Chiến dịch Mùa Xuân 1975, đăc công ̣ biệt
động đã đánh chiếm, giữ vững nhiều cầu và căn cứ quan trọng, bảo đảm cho các binh
đoàn chủ lực tiến công, giành thắng lợi nhanh chóng và trọn vẹn. Đăc công biệṭ động
hiện nay có Lữ đoàn Đăc công Biệt động 1,̣ trước đóng ở Gia Lâm.
3.2.5.2. Vị trí, nhiệm vụ *
Vị trí: Là một binh chủng chiến đấu, binh chủng trong Quân đội nhân
dân Việt Nam được tổ chức trang bị và huấn luyện đăc biệt, trở thành lực lượng đặ c
biệṭ tinh nhuệ của Lục quân. Có 2 loại đăc công: đặ c công và đặ c công nước.̣ * Nhiệm vụ:
Binh chủng đăc công sử dụng các phương pháp tác chiến đặ c biệt, để tiến
công ̣ những mục tiêu hiểm yếu, sâu trong hậu phương và trong đội hình đối phương.
3.2.5.3. Tổ chức, biên chế * Bộ Tư lệnh:
- Tư lệnh; Các phó tư lệnh.
- Chính ủy; Phó chính ủy. * Cơ quan:
Văn phòng; Thanh tra; Phòng Tài chính; Phòng Khoa học Quân sự; Phòng Thông
tin KHQS; Phòng Điều tra hình sự; Phòng Cứu hộ cứu nạn; Phòng Kinh tế; Bộ
Tham mưu; Cục Chính trị; Cục Hậu cần; Cục Kỹ
thuật; * Đơn vị trực thuộc:
- Trường Sĩ quan Đăc công ̣ . - Lữ đoàn 1 . - Lữ đoàn 5 . - Lữ đoàn 113 .
- Lữ đoàn 198 . - Lữ đoàn 429 .
Ngoài ra lực lượng đăc công còn được biên chế ở các quân khu, quân đoàn…̣ lOMoAR cPSD| 36237285
3.2.6. Binh chủng Công binh
3.2.6.1. Sự ra đời và phát triển
Binh chủng Công binh hình thành tháng 9 năm 1945 từ các tổ, đội phá hoại đường
sá, ngăn chăn bước tiến của quân ̣ Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam. Ngày truyền
thống của Binh chủng Công binh là ngày 25 tháng 3 năm 1946, ngày Chủ tịch Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 34-SL về việc thành lập
Công chính Giao thông Cục thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam. Đến ngày 2 tháng 12 năm
1946, Công chính Giao thông Cục đổi tên thành Giao thông Công binh Cục và ngày 5
tháng 2 năm 1949 mang tên mới là Cục Công binh. Ngày 1 tháng 1 năm 1951, thành lập
Trung đoàn Công binh 151 trên cơ sở Cục Công binh và một số đơn vị công binh trực
thuộc Bộ Quốc phòng. Ngày 17 tháng 8 năm 1951, thành lập Phòng Công binh Bộ Tổng
Tham mưu, đến ngày 3 tháng 11 năm 1955 phát triển thành Cục Công binh (tái lập).
Năm 1952 được Chủ tịch Hồ Chí Minh tăng cờ "Mở đường thắng ̣ lợi". Bộ Tư lệnh Công
binh được thành lập ngày 28 tháng 6 năm 1965 theo Quyết định 102/QP của Bộ Quốc phòng.
3.2.6.2. Vị trí, nhiệm vụ *
Vị trí: Là binh chủng bảo đảm chiến đấu trong tiến công và trong
phòng ngự, binh chủng chuyên môn của Quân đội nhân dân Việt Nam được trang bị
phương tiện công binh, có thể trực tiếp chiến đấu. * Nhiệm vụ:
Binh chủng Công binh là một binh chủng chuyên môn kỹ thuật của Quân đội nhân
dân Việt Nam, thuộc Quân chủng Lục quân Bộ Quốc phòng Việt Nam, có chức năng bảo
đảm các công trình trong tác chiến, xây dựng các công trình quốc phòng và đảm bảo cầu
đường cho bộ đội vận động tác chiến.
- Nhiệm vụ chung: Bảo đảm công trình trong các tác chiến và xây dựng công trình quốc phòng
- Nhiệm vụ chủ yếu: Bảo đảm chiến đấu cho các binh chủng khác như: binh
chủng tăng - thiết giáp, binh chủng pháo binh,….kết hợp cùng với lực lượng địa phương
làm kho, đường, sở chỉ huy phục vụ chiến đấu. Trước, trong và sau trận đánh phải khắc
phục hậu quả chiến đấu. Khi tham gia chiến đấu, lực lượng công binh dùng thuốc nổ
đánh phá một số mục tiêu được phân công, phá bom nổ chậm. Các công trình đảm bảo
trong chiến dấu là: hầm hào các loại, trận địa pháo, nguỵ trang, nghi binh trong trận đánh.
Trong chiến đấu hiệp đồng binh chung, các lực lượng công binh dùng thuốc nổ
phá mục tiêu, mở cửa mở làm đường xuất kích, bảo đảm cho bộ đội cơ động.
3.2.6.3. Tổ chức, biên chế: * Bộ Tư lệnh:
- Tư lệnh; Các phó tư lệnh; - Chính ủy; Phó chính ủy. *
Cơ quan: Văn phòng; Thanh tra; Phòng Tài chính; Phòng Khoa học
Quân sự; Phòng Thông tin KHQS; Phòng Điều tra hình sự; Phòng Cứu hộ cứu nạn;
Phòng Kinh tế; Bộ Tham mưu; Cục Chính trị; Cục Hậu cần; Cục Kỹ thuật; Cục Công trình Quốc phòng. *
Đơn vị trực thuộc:
- Trường Đại học Ngô Quyền.
- Viện Kỹ thuật Công binh.
- Ban quản lý dự án các công trình DKI (Nhà giàn trên biển).
- Ban quản lý dự án 756.
- Trung tâm tư vấn khảo sát thiết kế công trình Quốc phòng.
- Trung tâm Công nghệ Xử lý Bom mìn (BOMICEN). Thành lập tháng 9 năm
1996. Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (2005).
- Trường Trung cấp kỹ thuật Công binh .
- Lữ đoàn Công Binh Công Trình 229.
- Lữ đoàn CB Vượt Sông 239.
- Lữ đoàn CBVS 249. - Lữ đoàn CBCT 279. - Lữ đoàn CBCT 72. - Lữ đoàn CBCT 293.
- Công ty 756. - Công ty 49.
- Tiểu đoàn VC 93, tiểu đoàn vận tải…
Ngoài ra lực lượng công binh còn được biên chế ở các quân khu, quân đoàn…
3.2.7. Binh chủng Hóa học
3.2.7.1. Sự ra đời và phát triển
Binh chủng Hóa học có ngày truyền thống là ngày 19 tháng 4 năm 1958 . Vào
ngày này năm 1958, Tiểu đoàn hóa học đầu tiên được thành lập, mang tên Tiểu đoàn hóa
học 6, trực thuộc Trường Sĩ quan Lục quân (đến 30 tháng 1 năm 1962 đổi phiên hiệu
thành Tiểu đoàn hóa học 901). Ngoài ra còn có 2 đại đội hóa học thuộc các Sư đoàn 308 và 320.
Trước đó không lâu, ngày 13 tháng 3 năm 1958, Bộ Tổng Tham mưu đã ban hành
Công văn 173/BTM về việc thành lập Phòng Hóa học-Nguyên tử thuộc Cục Huấn luyện
chiến đấu, Tổng cục Quân huấn (sau này khi giải thể Tổng cục Quân huấn thì chuyển
sang thuộc Bộ Tổng Tham mưu). Tháng 6 năm 1961, thành lập Ban hóa học của các sư
đoàn và Phòng hóa học của các Quân khu.
Theo Quyết định số 34/QĐ-QP ngày 9 tháng 5 năm 1966, Phòng Hóa họcNguyên
tử chuyển thành Cục Hóa học thuộc Bộ Tổng Tham mưu.
Bộ Tư lệnh Hóa học được thành lập theo Quyết định số 224/QĐ-QP ngày 17
tháng 7 năm 1976 trên cơ sở Cục Hóa học. Đồng thời, Trường Sĩ quan Phòng hóa, Viện
Hóa học quân sự, Trung đoàn hóa học 86, Trường Hạ sĩ quan Hóa học cũng ra đời. Hiện lOMoAR cPSD| 36237285
nay Viện Hóa học quân sự chính là Phân viện phòng chống vũ khí NBC thuộc Viện Hóa
học-vật liệu, Trung tâm Khoa học và Công nghệ Quân sự.
Khu vực miền Nam Bộ Tổng Tham mưu ra quyết định số 130/QĐ-TM ngày 13
tháng 5 năm 1978 thành lập Kho khí tài 62. Ngày 20 tháng 8 năm 2008 Bộ Quốc phòng
ra Quyết định 2469/QĐ-BQP thành lập Trung đoàn Phòng hóa 87, Đến tháng 5 năm
2013 thì 2 trung đoàn 86, 87 được tổ chức lại thành Lữ đoàn.
3.2.7.2. Vị trí, nhiệm vụ
* Vị trí: Binh chủng hoá học là binh chủng bảo đảm chiến đấu, binh chủng
chuyên môn của Quân đội nhân dân Việt Nam, có thể trực tiếp chiến đấu
* Nhiệm vụ: Binh chủng Hóa học là một binh chủng chuyên môn kỹ thuật của
Quân đội nhân dân Việt Nam, có chức năng bảo đảm hóa học cho tác chiến, làm nòng
cốt trong việc phòng chống vũ khí hủy diệt lớn, ngụy trang bảo vệ các mục tiêu quan
trọng của Quân đội, nghi binh đánh lừa địch bằng màn khói. Bộ đội Hóa học còn có thể
trực tiếp chiến đấu bằng vũ khí bộ binh và súng phun lửa.
3.2.7.3. Tổ chức, biên chế: * Bộ Tư lệnh:
- Tư lệnh; Các phó tư lệnh
- Chính ủy; Phó chính ủy *
Cơ quan trực thuộc: Văn phòng; Thanh tra; Phòng Tài chính; Phòng
Kinh tế; Phòng Khoa học quân sự; Ủy ban kiểm tra; Bộ Tham mưu; Cục Chính trị;
Cục Hậu cần; Cục Kỹ thuật . *
Các đơn vị trực thuộc:
- Trường Sĩ quan Phòng hóa; - Lữ đoàn Phòng hóa 86; - Lữ đoàn Phòng hóa 87; - Tiểu đoàn 905; - Kho K61; - Kho K62; - Kho K63; - Kho 64; - Nhà máy X61;
- Các lữ đoàn phòng hóa;
- Bảo tàng Binh chủng Hóa học;
- Viện Hóa học Môi trường Quân sự;
Ngoài ra lực lượng hóa học còn được biên chế ở các quân khu, quân đoàn…
3.2.8. Binh chủng thông tin liên lạc
3.2.8.1. Sự ra đời và phát triển
Binh chủng Thông tin Liên lạc có ngày truyền thống là ngày 9 tháng 9 năm 1945.
Vào ngày 7 tháng 9, Phòng Thông tin Liên lạc quân sự được thành lập, do Hoàng Đạo
Thúy làm Trưởng phòng. Cục Thông tin Liên lạc được thành lập ngày 31 tháng 7 năm
1949 trên cơ sở Phòng Thông tin Liên lạc quân sự.
Bộ Tư lệnh Thông tin Liên lạc được thành lập ngày 31 tháng 1 năm 1968 trên cơ
sở Cục Thông tin Liên lạc.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi. Ngày 2 tháng 9, nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á ra đời. Trong
muôn vàn khó khăn, phức tạp, hiểm nghèo của dân tộc, một yêu cầu rất lớn, rất cấp thiết
phải làm sao để Ban Thường vụ Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy kịp thời chỉ đạo
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đấu tranh trên các măt trận chính trị, kinh tế,̣ ngoại giao,
nhất là về quân sự đăt ra không chỉ từng ngày mà cả từng giờ, từng phút.̣ Chiều ngày 2
tháng 9 năm 1945, được sự ủy nhiệm của Ban Thường vụ Trung ương Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh, đồng chí Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng Nội vụ Chính phủ cách mạng lâm
thời kiêm Tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang cách mạng mời đồng chí Hoàng Đạo
Thúy, một trí thức yêu nước, giàu nhiệt tình cách mạng có hiểu biết về thông tin liên lạc
tới Bắc Bộ phủ (nay là nhà khách chính phủ) bàn nhiệm vụ xây dựng hệ thống thông tin
liên lạc quân sự trong cả nước.
Ngày 7 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ cho đồng chí
Hoàng Văn Thái thành lập cơ quan Bộ Tổng Tham mưu. Cùng ngày, đồng chí Hoàng
Văn Thái cùng cơ quan Bộ Tổng Tham mưu đến đăt trụ sở tại số nhà 16 phố Ri-ki-ệ (nay
là số nhà 18, phố Nguyễn Du, Hà Nội). Hai ngày sau, ngày 9 tháng 9 năm 1945, Phòng
thông tin liên lạc quân đội được thành lập.
Đây là ngày hình thành tổ chức đầu tiên của Binh chủng Thông tin Liên lạc trong
quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 9 tháng 9 được xác định là ngày ra đời, ngày truyền
thống vẻ vang của bộ đội thông tin liên lạc.
Trải qua chiến đấu, xây dựng và trưởng thành, Bộ đội Thông tin - Liên lạc từ một
lực lượng nhỏ trong đội vũ trang tuyên truyền, đến nay đã phát triển rộng khắp trong các quân chủng, binh chủng.
Binh chủng luôn đảm bảo thông tin liên lạc, thông suốt trên mọi phạm vi, đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ thường xuyên cũng như đột xuất trên khắp mọi miền của đất nước,
phục vụ đắc lực cho Trung ương Đảng, Bộ Quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Thời gian tới, Binh chủng tiếp tục thực hiện chủ trương đi tắt đón đầu,
ứng dụng kỹ thuật hiện đại, tiếp cận với công nghệ tiên tiến của khu vực và quốc tế vào
hệ thống thông tin, liên lạc quân sự. Bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi măṭ cho đội ngũ
cán bộ về quản lý, điều hành, xử lí các sự cố thông tin trong hệ thống thông tin liên lạc
quân sự; đổi mới quy trình, chương trình, nội dung đào tạo cho các đối tượng góp phần lOMoAR cPSD| 36237285
nâng cao chất lượng đội ngũ, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ mới. 3.2.8.2. Vị trí, nhiệm vụ * Vị trí:
Binh chủng thông tin liên lạc là Binh chủng bảo đảm chiến đấu, binh chủng
chuyên môn của Quân đội nhân dân Việt Nam , được trang bị các phương tiện liên lạc,
đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ. * Nhiệm vụ: -
Nhiệm vụ chung: Binh chủng TTLL có chức năng bảo đảm TTLL cho
chỉ huy quân đội trong mọi tình huống. -
Nhiệm vụ cụ thể: TTLL bảo đảm chỉ huy tác chiến và hợp đồng tác chiến,
TTLL bảo đảm hiệp đồng quân binh chủng. TTLL bảo đảm hậu cần và kỹ thuật. Bảo
đảm thông báo, báo động. Bảo đảm quân bưu và dẫn đường. Bảo đảm đối phó thông tin
với thông tin địch (chống các thủ đoạn phá hoại của địch, phá rối không cho địch làm việc).
3.2.8.3. Tổ chức, biên chế: * Bộ Tư lệnh: -
Tư lệnh; Các phó tư lệnh. -
Chính ủy; Phó chính ủy. * Cơ quan:
Văn phòng; Thanh tra; Phòng Tài chính; Ban Tổng kết; Ban Kinh tế; Ban Quản
lý dự án Tổng trạm thông tin cơ động; Ban Quản lý dự án VINASAT. Ban Quản lý dự
án DT92; Phòng Điều tra hình sự; Trung tâm điều hành thông tin cấp 1; Bộ Tham mưu;
Cục Chính trị; Cục Hậu cần; Cục Kỹ thuật.
* Đơn vị trực thuộc:
- Trường Sĩ quan Thông tin;
- Trường Cao đẳng Kỹ thuật Thông tin; - Lữ đoàn 132; - Lữ đoàn 134; - Lữ đoàn 139; - Lữ đoàn 205; - Lữ đoàn 596;
- Trung tâm Kỹ thuật Thông tin công nghệ cao;
- Trung tâm Kiểm soát Vô tuyến điện;
- Đội bóng chuyền nữ BTL Thông tin;
- Nhà khách Số 2 Láng Hạ;
- Bảo tàng Binh chủng Thông tin;
- Trung tâm Công nghệ thông tin và Ngoại ngữ;
- Sở chỉ huy khu vực phía Nam;
- Nhà máy Z755, Cục Kỹ thuật;
- Kho K91, K92, K95, K97, K99;
- Đại đội Vận tải 8;
Ngoài ra lực lượng thông tin còn được biên chế ở các quân khu, quân đoàn… CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Trình bày khái quát chung về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam.
2. Cho biết tổ chức, biên chế, trang bị các phân đội bộ binh từ tiểu đội đến
tiểu đoàn QĐND Việt Nam.
3. Sự ra đời và phát triển, vị trí, nhiệm vụ, tổ chức biên chế của Quân chủng Hải quân.
4. Trình bày khái quát sự ra đời và phát triển, vị trí, nhiệm vụ, tổ chức biên
chế của Quân chủng Phòng không - Không quân.
5. Trình bày khái quát sự ra đời và phát triển, vị trí, nhiệm vụ, tổ chức biên
chế của Binh chủng Pháo binh
6. Trình bày khái quát sự ra đời và phát triển, vị trí, nhiệm vụ, tổ chức biên
chế của Binh chủng Tăng thiết giáp.
7. Trình bày khái quát về sự ra đời và phát triển, vị trí, nhiệm vụ, tổ chức biên
chế của Binh chủng Đăc công.̣
8. Trình bày khái quát sự ra đời và phát triển, vị trí, nhiệm vụ, tổ chức biên
chế của Binh chủng Công binh.
9. Trình bày khái quát sự ra đời và phát triển, vị trí, nhiệm vụ, tổ chức biên
chế của Binh chủng Hóa học.
10.Trình bày khái quát sự ra đời và phát triển, vị trí, nhiệm vụ, tổ chức biên
chế của Binh chủng Thông tin liên lạc.