lOMoARcPSD| 22014077
CHƯƠNG 4 NHÀ NƯỚC TƯ SẢN
NỘI DUNG
Nội dung của chương 4 cung cấp cho người học những kiến thức cơ bản nhất về nhà nước
Tư sản. Các kiến thức mà người tích lũy trong chương này là: Nguồn gốc của nhà nước. bản chất,
các đặc trưng cơ bản của nhà nước tư sản, vị trí, chức năng, hình thức và bộ máy nhà nước tư sản.
MỤC TIÊU
- Giúp sinh viên nắm được nguồn gốc, các đặc trưng cơ bản của Nhà nước sản; - Giúp
sinh viên hiểu được vị trí, chức năng của Nhà nước tư sản.
- Giúp sinh viên hiểu được các kiểu, hình thức và bộ máy nhà nước tư sản.
HƯỚNG DẪN HỌC
Để học tốt bài này, học viên cần tham khảo các phương pháp học sau:
- Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia thảo
luận trên diễn đàn.
- Đọc tài liệu: Trường Đại học Luật Nội, 2015. Giáo trình luận Nhà nước pháp
luật, NXB Công an nhân dân.
- Học viên làm việc theo nhóm trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc qua
email.
- Trang Web môn học.
Tình huống dẫn nhập 1:
Hãy cho biết cách gọi nào đúng: “nhà nước tư bản” hay “nhà nước tư sản” ?
Tình huống dẫn nhập 2:
Trong hình thức nhà nước tư sản, có tồn tại vua không ?
- Để giải quyết các tình huống trên, cần làm rõ: bản chất của nhà nước sản các hình
thức nhà nước tư sản.
- Tất cả những vấn đề này được nghiên cứu trong bài học này.
lOMoARcPSD| 22014077
4.1. Nguồn gốc, bản chất và các đặc trưng của nhà nước tư sản
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa được hình
thành, tạo nên những thay đổi về cơ cấu giai cấp trong xã hội. Giai cấp tư sản là một giai cấp mới
nổi lên trong xã hội nhưng lại bị vua, chúa phong kiến áp bức. Giai cấp tư sản đã tập hợp lực lượng
để tiến hành cuộc cách mạng chống lại vua, chúa phong kiến. Một số nơi. cuộc cách mạng sản
dành thắng lợi hoàn toàn, giai cấp tư sản thành lập một nhà nước kiểu mới, không còn sự hiện diện
của vua chúa, phong kiến. Một số nơi, thắng lợi không hoàn toàn, giai cấp sản đã yêu cầu tổ
chức một nhà nước kiểu mới, có vua bị hạn chế quyền lực. Một số nhà nước tư sản về sau này lại
xuất hiện từ sự tan rã của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu.
Kiểu nhà nước tư sản là kiểu nhà nước tồn tại trong hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ
nghĩa. Trong hình thái kinh tế - xã hội này, quan hệ sản xuất dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất và bóc lột giá trị thặng dư. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, người lao động phải làm thuê cho
các ông chủ và bị các ông chủ bóc lột giá trị thặng dư. Địa vị của người lao động trong xã hội tư
bản chủ nghĩa khá hơn so với người lao động trong xã hội phong kiến, bởi họ có quyền công dân.
Tuy nhiên, người lao động phải lệ thuộc vào các ông chủ tư sản. Họ không thể không làm thuê vì
cuộc sống của học phụ thuộc vào thu nhập do việc bán sức lao động. Trong xã hội tồn tại hai giai
cấp cơ bản là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, ngoài ra còn có các tầng lớp trí thức, tiểu thương,
thợ thủ công…
Nhà nước sản là công cụ chun chính tư sản để duy trì sự thống trị và bảo về lợi ích của
giai cấp tư sản, chống lại giai cấp vô sản và các tầng lớp nhân dân lao động khác.
4.2. Vị trí, chức năng của nhà nước tư sản
Nhà nước sản thuộc kiến trúc thượng tầng xã hội tư bản chủ nghĩa. Nhà nước sản chịu
sự chi phối của sở hạ tầng xã hội, có mối quan hệ chặt chvới các thiết chế khác thuộc kiến trúc
thượng tầng xã hội tư bản chủ nghĩa.
Nhà nước tư sản có chức năng đối nội:
(1) Củng cố và bảo vệ chế độ tư hữu tư sản;
(2) Đàn áp giai cấp công nhân và nhân dân lao động khác về chính trị, tư tưởng;
(3) thực hiện các hoạt động kinh tế - xã hội.
Chức năng đối ngoại của nhà nước tư sản, gồm có:
(1) y ảnh hưởng quốc tế, khẳng định vị trí của mình trên trường quốc tế;
(2) Tiến hành chiến tranh xâm lược khi có điều kiện, phát triển các liên minh quân sự,
kinh tế nhằm bảo vệ chủ nghĩa tư bản trên toàn cầu; (3) Phòng thủ đất nước và phát triển quan
hệ đối ngoại.
4.3. Hình thức nhà nước tư sản
Hình thức chính thể của nhà nước tư sản rất đa dạng, bao gồm chính thể quân chủ lập hiến
và chính thể cộng hòa.
lOMoARcPSD| 22014077
Chính thể quân chủ lập hiến tồn tại ở nhiều quốc gia như Vương quốc Anh, Nhật, Hà Lan…
kết qucủa các cuộc cách mạng sản không triệt để. Giai cấp sản không thxóa bỏ ngay
được chế độ phong kiến nên đành phải thỏa hiệp với giai cấp quý tộc phong kiến. Trong hình thức
chính thể quân chủ lập hiến, quyền lực của vua bị hạn chế bởi hiến pháp. Vua (Hoàng đế, nữ hoàng)
nguyên thủ quốc gia, được hình thành bằng con đường thế tập. Vua chỉ mang tính chất tượng
trưng, không có thực quyền theo nguyên tắc “nhà vua trị nhưng không cai trị”. Mọi quyết định
của hoàng đế chỉ hiệu lực khi chữ ký kèm theo của thủ tướng. Hoạt động của hoàng đế chỉ
nhằm mục đích chính thức hóa về mặt nhà nước các hoạt động của Nghị viện, Chính phủ. Nghị
viện quan có quyền lực rất lớn, theo nguyên tắc “nghị viện có thể làm được tất cả, chỉ trừ việc
biến đàn ông thành đàn bà”. Nghị viện có quyền lập pháp, quyết định ngân sách và thuế; giám sát
hoạt động của Chính phủ, bầu miễn nhiệm các thành viên của Chính phủ. Nghị viện bao gồm hai
viện: thượng nghị viện (viện nguyên lão) và hạ nghị viện. Thượng nghị viện đại diện cho tầng lớp
quý tộc, không phải qua bầu cử. Hạ nghị viện bao gồm các thành viên đại diện cho các tầng lớp
dân cư. Chính phủ là quan tính thực quyền, nắm quyn hành pháp do Nghị viện lập ra phải
chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Thủ tướng do Hoàng đế bổ nhiệm, những không được bổ nhiệm
ai khác ngoài người đứng đầu đảng cầm quyền là đảng chiếm đa số ghế trong hạ nghị viện. Các Bộ
trưởng nhất thiết phải đại biểu của thượng viện hoặc hạ viện. Các bộ trưởng phải chịu trách
nhiệm trước Nghị viện, không chịu trách nhiệm trước nhà vua.
Chính thể cộng hòa là hình thức phổ biến được áp dụng tại các nhà nước tư sản hiện nay.
Chính thể cộng hoà trong các nhà nước tư sản có hai biến dạng điển hình là: Cộng hoà đại nghị và
cộng hoà tổng thống.
Trong chính thể cộng hoà đại nghị, nghị viện một thiết chế quyền lực trung tâm. Nghị
viện có vị trí, vai trò rất lớn trong cơ chế thực thi quyền lực nhà nước. Ở đây, nguyên thủ quốc gia
(tổng thống) không hình thành bằng con đường thế tập do nghị viện bầu ra, chịu trách nhiệm
trước nghị viện. Chính không phải do nhân dân trực tiếp bầu ra nên nguyên thủ quốc gia trong
hình thức chính thể cộng hòa đại nghị không có thực quyền, hầu như không trực tiếp tham gia giải
quyết các công việc của đất nước. Chính phủ là cơ quan hành pháp do các đảng chính trị chiếm đa
số ghế trong nghị viện thành lập và chịu trách nhiệm trước nghị viện, nghị viện có thể bỏ phiếu bất
tín nhiệm Chính phủ. vậy, trong các nước này, nghị viện có khả năng kiểm tra, giám sát các hoạt
động của Chính phủ. Hiện nay, Cộng hoà liên bang Đức, Cộng hoà Áo, Cộng hoà Italia.v.v...
những nước tổ chức theo chính thể cộng hoà đại nghị.
Trong chính thể cộng hoà tổng thống, nguyên thủ quốc gia (Tổng thống) có vị trí và vai trò
rất quan trọng. Tổng thống do nhân dân trực tiếp (hoặc gián tiếp thông qua đại cử tri) bầu ra. Tổng
thống vừa nguyên thủ quốc gia, vừa người đứng đầu chính phủ (cơ quan hành pháp). Chính
phủ không phải do nghị viện thành lập. Các thành viên chính phủ do Tổng thống bổ nhiệm, chịu
trách nhiệm trước Tổng thống. Ở các nước theo chính thể cộng hoà tổng thống, sự phân định giữa
các quyền lập pháp hành pháp rất rõ ràng: Tổng thống các bộ trưởng toàn quyền trong lĩnh
vực hành pháp, nghị viện quyền lập pháp; Nghị viện không quyền lật đổ chính phủ, Tổng
thống không có quyền giải tán Nghị viện trước thời hạn. Hợp chủng quốc Hoa K và một số nước
Châu Mỹ la tinh là những quốc gia tổ chức nhà nước theo chính thể cộng hoà tổng thống.
lOMoARcPSD| 22014077
Ngoài chính thể cộng hoà đại nghị cộng hoà tổng thống, hiện nay còn tồn tại một hình
thức cộng hoà "lưỡng tính” nghĩa vừa mang tính chất cộng hoà đại nghị, vừa mang tính chất
cộng hoà tổng thống. Chính thể cộng hoà “lưỡng tính” những đặc điểm bản sau: Nghị viện
do nhân dân bầu ra; Trung tâm bộ y quyền lực tổng thống. Tổng thống cũng do dân bầu,
quyền hạn rất lớn kể cả quyền giải tán Nghị viện, quyền thành lập chính phủ, hoạch định chính
sách quốc gia; Chính phủ thủ tướng đứng đầu, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tổng thống,
chịu trách nhiệm trước Tổng thống Nghị viện. Cộng hoà Pháp một số nước Châu Âu những
nước tổ chức theo chính thể cộng hoà “lưỡng tính”.
Hình thức cấu trúc của nhà nước tư sản hai loại: nhà nước hình thức cấu trúc đơn nhất
nhà nước cấu trúc liên bang. Trong đó, hình thức cấu trúc đơn nhất hình thức phổ biến
được áp dụng tại các nước sản, như: Pháp, Ý, Thụy Điển, Phần Lan, Nhật… Trong hình thức
cấu trúc đơn nhất, nhà nước chủ quyền chung, một hệ thống pháp luật thống nhất, một
quốc hội và một hệ thống cơ quan nhà nước thống nhất từ trung ương đến địa phương. Các đơn vị
hành chính - lãnh thổ thường bao gồm tỉnh (thành phố), huyện (quận), xã (phường) hoạt động trên
sở các quy định của chính quyền trung ương. Hình thức cấu trúc liên bang được áp dụng tại một
số quốc gia như: Hoa Kỳ, Cộng hòa liên bang Đức, Canada, Úc… Trong hình cấu trúc liên bang,
nhà nước được hình thành từ hai hay nhiều nhà nước thành viên (hoặc nhiều bang) hợp lại. Trong
nhà nước liên bang, ngoài các cơ quan quyền lực nhà nước và cơ quan quản lý nhà nước chung cho
toàn liên bang, hệ thống pháp luật chung của liên bang, thì mỗi nhà nước thành viên còn hệ
thống quan nhà nước hệ thống pháp luật riêng của mỗi nhà nước thành viên. Nói một cách
khác, trong nhà nước liên bang, không chỉ liên bang có dấu hiệu nhà nước mà mỗi nhà nước thành
viên những mức độ nhất định, cũng dấu hiệu nhà nước, tuy dấu hiệu đó không đầy đủ theo
khái niệm nhà nước như nguyên nghĩa của nó.
Chế độ chính trị được các nhà nước sản áp dụng để thực hiện quyền lực bằng phương
thức bạo lực và phương thức “tự do chủ nghĩa” (mở rộng các quyền chính trị, theo hướng thi hành
những cuộc cải cách, những nhượng bộ).
4.4. Bộ máy nhà nước tư sản
Các nhà nước sản với các hình thức nhà nước khác nhau đều dựa trên học thuyết phân
quyền để tổ chức y nhà nước. Theo học thuyết này, quyền lực nhà nước được phân chia thành
các nhánh quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; các nhánh quyền lực này phải được trao cho các
quan khác nhau thực hiện; sự kiềm chế đối trọng giữa các nhánh quyền lực để bảo đảm không
có sự lạm quyền. Về cơ bản, bộ máy nhà nước tư sản gồm các bộ phận sau:
- Nghị viện cơ quan quyền lực cao nhất, nắm quyền lập pháp. Quyền lực của nghị viện
các giai đoạn phát triển khác nhau của nhà nước tư sản cũng hết sức khác nhau. Về cơ cấu tổ chức
phần lớn các nước có cấu 2 viện: thượng nghị viện và hạ nghị viện. Với nghị viện cơ cấu 2
viện về nguyên tắc thượng nghị viện có ít quyền hơn so với hạ nghị viện và được hình thành bằng
nhiều hình thức khác nhau: bầu, bổ nhiệm, thừa kế... Hạ nghị viện được hình thành bằng hình thức
bầu cử.
lOMoARcPSD| 22014077
- Nguyên thủ quốc gia người người đớng đầu nnước, đại diện cho các quốc gia trong
các quan hệ đối nội và đối ngoại. Chức vụ này trong các nhà nước có các hình thức chính thể khác
nhau, sự hình thành thẩm quyền cũng hết sức khác nhau. Trong các nhà nước hình thức chính
thể quân chủ lập hiến nguyên thủ được hình thành bằng con đường thế tập, và được nhìn nhận như
biểu tượng cho truyền thống sự thống nhất dân tộc. Ở các nước có chính thể cộng hoà, nguyên
thủ quốc gia được hình thành thông qua con đường bầu cử. Tuy nhiên quyền lực của họ cũng hết
sức khác nhau ở các loại hình chính thể khác nhau. Nếu như trong chính thể cộng hoà tổng thống
quyền lực của nguyên thủ là hết sức lớn, vừa là người đứng đầu nhà nước, vừa là người đứng đầu
quan hành pháp, thì trái lại những nước chính thể cộng hoà đại nghị cũng giống như các
nước chính thể quân chủ lập hiến, nguyên thủ quốc gia phần lớn mang tính chất đại diện hình
thức. - Chính phủ là cơ quan nắm quyền hành pháp. Chính phủ đóng một vai trò quan trọng và giữ
vị trí trung tâm trong bộ máy nhà nước. Trên thực tế, chính phủ sản quyết định phần lớn các
chính sách đối nội và đối ngoại của nhà nước tư sản. Tùy thuộc vào hình thức chính thể khác nhau,
cách thành lập chính phủ trong các nhà nước tư sản cũng hết sức khác nhau. Đối với những nước
chính thể cộng hoà tổng thống, tổng thống người đứng đầu Chính phủ, các thành viên nội các
chính phủ do tổng thống lựa chọn và bổ nhiệm. Đối với các nước chính thể cộng hoà đại nghị
hoặc quân chủ đại nghị, chính phủ được thành lập trên cơ sở của đảng chính trị nắm đại đa số ghế
trong nghị viện. Thủ tướng chính phủ và các thành viên chính phủ có thể do tổng thống bổ nhiệm
(Italia, Pháp, Nhật), có thể do tổng thống kết hợp với nghị viện bầu (Đức).
- Toà án nắm quyền pháp. Toà án vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện
quyền lực của giai cấp tư sản. Các thẩm phán của nhà nước sản thường tính chuyên nghiệp
cao, chủ yếu được bổ nhiệm với nhiệm kỳ dài, thậm chí ở một số nước là nhiệm kỳ suốt đời, nếu
bảo đảm sức khỏe và không phạm tội. Tuy nhiên ở các hệ thống pháp luật khác nhau, thẩm quyền
phương thức hoạt động của toà án cũng khác nhau, đặc biệt giữa hthống pháp luật Anh
Mỹ và Hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa.
TÓM LƯỢC CUỐI BÀI
1. Kiểu nhà nước sản kiểu nhà nước tồn tại trong hình thái kinh tế - hội bản chủ
nghĩa. Nhà nước tư sản là công cụ chuyên chính sản để duy trì sự thống trị và bảo về lợi ích của
giai cấp tư sản, chống lại giai cấp vô sản và các tầng lớp nhân dân lao động khác.
2. Nhà nước sản có chức năng đối nội: (1) Củng cố và bảo vệ chế độ tư hữu tư sản; (2) Đàn
áp giai cấp công nhân và nhân dân lao động khác vchính trị, tư tưởng; (3) thực hiện các hoạt động
kinh tế - xã hội. Chức năng đối ngoại của nhà ớc sản, gồm có: (1) Gây ảnh hưởng quốc tế,
khẳng định vị trí của nh trên trường quốc tế; (2) Tiến hành chiến tranh xâm lược khi điều
kiện, phát triển các liên minh quân sự, kinh tế nhằm bảo vchủ nghĩa bản trên toàn cầu; (3)
Phòng thủ đất nước và phát triển quan hệ đối ngoại.
3. Hình thức chính thể của nhà nước tư sản rất đa dạng, bao gồm chính thể quân chủ lập hiến
và chính thể cộng hòa. Hình thức cấu trúc của nhà nước tư sản có hai loại: nhà nước có hình thức
lOMoARcPSD| 22014077
cấu trúc đơn nhất và nhà nước có cấu trúc liên bang. Chế độ chính trị được các nhà nước tư sản áp
dụng để thực hiện quyền lực bằng phương thức bạo lực và phương thức “tự do chủ nghĩa”.
4. Các nhà nước sản với các hình thức nhà nước khác nhau đều dựa trên học thuyết phân
quyền để tổ chức bộ y nhà nước. Theo học thuyết này, quyền lực nhà nước được phân chia thành
các nhánh quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; các nhánh quyền lực này phải được trao cho các
quan khác nhau thực hiện; sự kiềm chế đối trọng giữa các nhánh quyền lực để bảo đảm không
có sự lạm quyền. Về cơ bản, bộ máy nhà nước tư sản gồm: Nghị viện, Chính phủ, Tòa án.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Phân tích quá trình hình thành của các nhà nước tư sản.
2. Phân tích đặc điểm của nhà nước tư sản.
3. Phân tích chức năng của nhà nước tư sản.
4. Trình bày các hình thức chính thể của các nhà nước tư sản.
5. Trình bày khái quát về bộ máy nhà nước tư sản.
CÂU HỎI TÌNH HUỐNG
1. Hãy cho biết cách gọi nào đúng: “nhà nước tư bản” hay “nhà nước tư sản” ?
2. Trong hình thức nhà nước tư sản, có tồn tại vua không ?

Preview text:

lOMoAR cPSD| 22014077
CHƯƠNG 4 NHÀ NƯỚC TƯ SẢN NỘI DUNG
Nội dung của chương 4 cung cấp cho người học những kiến thức cơ bản nhất về nhà nước
Tư sản. Các kiến thức mà người tích lũy trong chương này là: Nguồn gốc của nhà nước. bản chất,
các đặc trưng cơ bản của nhà nước tư sản, vị trí, chức năng, hình thức và bộ máy nhà nước tư sản. MỤC TIÊU
- Giúp sinh viên nắm được nguồn gốc, các đặc trưng cơ bản của Nhà nước tư sản; - Giúp
sinh viên hiểu được vị trí, chức năng của Nhà nước tư sản.
- Giúp sinh viên hiểu được các kiểu, hình thức và bộ máy nhà nước tư sản. HƯỚNG DẪN HỌC
Để học tốt bài này, học viên cần tham khảo các phương pháp học sau: -
Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia thảo luận trên diễn đàn. -
Đọc tài liệu: Trường Đại học Luật Hà Nội, 2015. Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp
luật, NXB Công an nhân dân. -
Học viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc qua email. - Trang Web môn học.
Tình huống dẫn nhập 1:
Hãy cho biết cách gọi nào đúng: “nhà nước tư bản” hay “nhà nước tư sản” ?
Tình huống dẫn nhập 2:
Trong hình thức nhà nước tư sản, có tồn tại vua không ? -
Để giải quyết các tình huống trên, cần làm rõ: bản chất của nhà nước tư sản và các hình
thức nhà nước tư sản. -
Tất cả những vấn đề này được nghiên cứu trong bài học này. lOMoAR cPSD| 22014077 4.1.
Nguồn gốc, bản chất và các đặc trưng của nhà nước tư sản
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa được hình
thành, tạo nên những thay đổi về cơ cấu giai cấp trong xã hội. Giai cấp tư sản là một giai cấp mới
nổi lên trong xã hội nhưng lại bị vua, chúa phong kiến áp bức. Giai cấp tư sản đã tập hợp lực lượng
để tiến hành cuộc cách mạng chống lại vua, chúa phong kiến. Một số nơi. cuộc cách mạng tư sản
dành thắng lợi hoàn toàn, giai cấp tư sản thành lập một nhà nước kiểu mới, không còn sự hiện diện
của vua chúa, phong kiến. Một số nơi, thắng lợi không hoàn toàn, giai cấp tư sản đã yêu cầu tổ
chức một nhà nước kiểu mới, có vua bị hạn chế quyền lực. Một số nhà nước tư sản về sau này lại
xuất hiện từ sự tan rã của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu.
Kiểu nhà nước tư sản là kiểu nhà nước tồn tại trong hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ
nghĩa. Trong hình thái kinh tế - xã hội này, quan hệ sản xuất dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất và bóc lột giá trị thặng dư. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, người lao động phải làm thuê cho
các ông chủ và bị các ông chủ bóc lột giá trị thặng dư. Địa vị của người lao động trong xã hội tư
bản chủ nghĩa khá hơn so với người lao động trong xã hội phong kiến, bởi họ có quyền công dân.
Tuy nhiên, người lao động phải lệ thuộc vào các ông chủ tư sản. Họ không thể không làm thuê vì
cuộc sống của học phụ thuộc vào thu nhập do việc bán sức lao động. Trong xã hội tồn tại hai giai
cấp cơ bản là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, ngoài ra còn có các tầng lớp trí thức, tiểu thương, thợ thủ công…
Nhà nước tư sản là công cụ chuyên chính tư sản để duy trì sự thống trị và bảo về lợi ích của
giai cấp tư sản, chống lại giai cấp vô sản và các tầng lớp nhân dân lao động khác. 4.2.
Vị trí, chức năng của nhà nước tư sản
Nhà nước tư sản thuộc kiến trúc thượng tầng xã hội tư bản chủ nghĩa. Nhà nước tư sản chịu
sự chi phối của cơ sở hạ tầng xã hội, có mối quan hệ chặt chẽ với các thiết chế khác thuộc kiến trúc
thượng tầng xã hội tư bản chủ nghĩa.
Nhà nước tư sản có chức năng đối nội:
(1) Củng cố và bảo vệ chế độ tư hữu tư sản;
(2) Đàn áp giai cấp công nhân và nhân dân lao động khác về chính trị, tư tưởng;
(3) thực hiện các hoạt động kinh tế - xã hội.
Chức năng đối ngoại của nhà nước tư sản, gồm có:
(1) Gây ảnh hưởng quốc tế, khẳng định vị trí của mình trên trường quốc tế;
(2) Tiến hành chiến tranh xâm lược khi có điều kiện, phát triển các liên minh quân sự,
kinh tế nhằm bảo vệ chủ nghĩa tư bản trên toàn cầu; (3) Phòng thủ đất nước và phát triển quan hệ đối ngoại. 4.3.
Hình thức nhà nước tư sản
Hình thức chính thể của nhà nước tư sản rất đa dạng, bao gồm chính thể quân chủ lập hiến và chính thể cộng hòa. lOMoAR cPSD| 22014077
Chính thể quân chủ lập hiến tồn tại ở nhiều quốc gia như Vương quốc Anh, Nhật, Hà Lan…
là kết quả của các cuộc cách mạng tư sản không triệt để. Giai cấp tư sản không thể xóa bỏ ngay
được chế độ phong kiến nên đành phải thỏa hiệp với giai cấp quý tộc phong kiến. Trong hình thức
chính thể quân chủ lập hiến, quyền lực của vua bị hạn chế bởi hiến pháp. Vua (Hoàng đế, nữ hoàng)
là nguyên thủ quốc gia, được hình thành bằng con đường thế tập. Vua chỉ mang tính chất tượng
trưng, không có thực quyền theo nguyên tắc “nhà vua trị vì nhưng không cai trị”. Mọi quyết định
của hoàng đế chỉ có hiệu lực khi có chữ ký kèm theo của thủ tướng. Hoạt động của hoàng đế chỉ
nhằm mục đích chính thức hóa về mặt nhà nước các hoạt động của Nghị viện, Chính phủ. Nghị
viện là cơ quan có quyền lực rất lớn, theo nguyên tắc “nghị viện có thể làm được tất cả, chỉ trừ việc
biến đàn ông thành đàn bà”. Nghị viện có quyền lập pháp, quyết định ngân sách và thuế; giám sát
hoạt động của Chính phủ, bầu miễn nhiệm các thành viên của Chính phủ. Nghị viện bao gồm hai
viện: thượng nghị viện (viện nguyên lão) và hạ nghị viện. Thượng nghị viện đại diện cho tầng lớp
quý tộc, không phải qua bầu cử. Hạ nghị viện bao gồm các thành viên đại diện cho các tầng lớp
dân cư. Chính phủ là cơ quan có tính thực quyền, nắm quyền hành pháp do Nghị viện lập ra và phải
chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Thủ tướng do Hoàng đế bổ nhiệm, những không được bổ nhiệm
ai khác ngoài người đứng đầu đảng cầm quyền là đảng chiếm đa số ghế trong hạ nghị viện. Các Bộ
trưởng nhất thiết phải là đại biểu của thượng viện hoặc hạ viện. Các bộ trưởng phải chịu trách
nhiệm trước Nghị viện, không chịu trách nhiệm trước nhà vua.
Chính thể cộng hòa là hình thức phổ biến được áp dụng tại các nhà nước tư sản hiện nay.
Chính thể cộng hoà trong các nhà nước tư sản có hai biến dạng điển hình là: Cộng hoà đại nghị và cộng hoà tổng thống.
Trong chính thể cộng hoà đại nghị, nghị viện là một thiết chế quyền lực trung tâm. Nghị
viện có vị trí, vai trò rất lớn trong cơ chế thực thi quyền lực nhà nước. Ở đây, nguyên thủ quốc gia
(tổng thống) không hình thành bằng con đường thế tập mà do nghị viện bầu ra, chịu trách nhiệm
trước nghị viện. Chính vì không phải do nhân dân trực tiếp bầu ra nên nguyên thủ quốc gia trong
hình thức chính thể cộng hòa đại nghị không có thực quyền, hầu như không trực tiếp tham gia giải
quyết các công việc của đất nước. Chính phủ là cơ quan hành pháp do các đảng chính trị chiếm đa
số ghế trong nghị viện thành lập và chịu trách nhiệm trước nghị viện, nghị viện có thể bỏ phiếu bất
tín nhiệm Chính phủ. Vì vậy, trong các nước này, nghị viện có khả năng kiểm tra, giám sát các hoạt
động của Chính phủ. Hiện nay, Cộng hoà liên bang Đức, Cộng hoà Áo, Cộng hoà Italia.v.v... là
những nước tổ chức theo chính thể cộng hoà đại nghị.
Trong chính thể cộng hoà tổng thống, nguyên thủ quốc gia (Tổng thống) có vị trí và vai trò
rất quan trọng. Tổng thống do nhân dân trực tiếp (hoặc gián tiếp thông qua đại cử tri) bầu ra. Tổng
thống vừa là nguyên thủ quốc gia, vừa là người đứng đầu chính phủ (cơ quan hành pháp). Chính
phủ không phải do nghị viện thành lập. Các thành viên chính phủ do Tổng thống bổ nhiệm, chịu
trách nhiệm trước Tổng thống. Ở các nước theo chính thể cộng hoà tổng thống, sự phân định giữa
các quyền lập pháp và hành pháp rất rõ ràng: Tổng thống và các bộ trưởng có toàn quyền trong lĩnh
vực hành pháp, nghị viện có quyền lập pháp; Nghị viện không có quyền lật đổ chính phủ, Tổng
thống không có quyền giải tán Nghị viện trước thời hạn. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và một số nước
Châu Mỹ la tinh là những quốc gia tổ chức nhà nước theo chính thể cộng hoà tổng thống. lOMoAR cPSD| 22014077
Ngoài chính thể cộng hoà đại nghị và cộng hoà tổng thống, hiện nay còn tồn tại một hình
thức cộng hoà "lưỡng tính” nghĩa là vừa mang tính chất cộng hoà đại nghị, vừa mang tính chất
cộng hoà tổng thống. Chính thể cộng hoà “lưỡng tính” có những đặc điểm cơ bản sau: Nghị viện
do nhân dân bầu ra; Trung tâm bộ máy quyền lực là tổng thống. Tổng thống cũng do dân bầu, có
quyền hạn rất lớn kể cả quyền giải tán Nghị viện, quyền thành lập chính phủ, hoạch định chính
sách quốc gia; Chính phủ có thủ tướng đứng đầu, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tổng thống,
chịu trách nhiệm trước Tổng thống và Nghị viện. Cộng hoà Pháp và một số nước Châu Âu là những
nước tổ chức theo chính thể cộng hoà “lưỡng tính”.
Hình thức cấu trúc của nhà nước tư sản có hai loại: nhà nước có hình thức cấu trúc đơn nhất
và nhà nước có cấu trúc liên bang. Trong đó, hình thức cấu trúc đơn nhất là hình thức phổ biến
được áp dụng tại các nước tư sản, như: Pháp, Ý, Thụy Điển, Phần Lan, Nhật… Trong hình thức
cấu trúc đơn nhất, nhà nước có chủ quyền chung, có một hệ thống pháp luật thống nhất, có một
quốc hội và một hệ thống cơ quan nhà nước thống nhất từ trung ương đến địa phương. Các đơn vị
hành chính - lãnh thổ thường bao gồm tỉnh (thành phố), huyện (quận), xã (phường) hoạt động trên
cơ sở các quy định của chính quyền trung ương. Hình thức cấu trúc liên bang được áp dụng tại một
số quốc gia như: Hoa Kỳ, Cộng hòa liên bang Đức, Canada, Úc… Trong hình cấu trúc liên bang,
nhà nước được hình thành từ hai hay nhiều nhà nước thành viên (hoặc nhiều bang) hợp lại. Trong
nhà nước liên bang, ngoài các cơ quan quyền lực nhà nước và cơ quan quản lý nhà nước chung cho
toàn liên bang, hệ thống pháp luật chung của liên bang, thì mỗi nhà nước thành viên còn có hệ
thống cơ quan nhà nước và hệ thống pháp luật riêng của mỗi nhà nước thành viên. Nói một cách
khác, trong nhà nước liên bang, không chỉ liên bang có dấu hiệu nhà nước mà mỗi nhà nước thành
viên ở những mức độ nhất định, cũng có dấu hiệu nhà nước, tuy dấu hiệu đó không đầy đủ theo
khái niệm nhà nước như nguyên nghĩa của nó.
Chế độ chính trị được các nhà nước tư sản áp dụng để thực hiện quyền lực bằng phương
thức bạo lực và phương thức “tự do chủ nghĩa” (mở rộng các quyền chính trị, theo hướng thi hành
những cuộc cải cách, những nhượng bộ). 4.4.
Bộ máy nhà nước tư sản
Các nhà nước tư sản với các hình thức nhà nước khác nhau đều dựa trên học thuyết phân
quyền để tổ chức bô máy nhà nước. Theo học thuyết này, quyền lực nhà nước được phân chia thành
các nhánh quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; các nhánh quyền lực này phải được trao cho các
cơ quan khác nhau thực hiện; có sự kiềm chế đối trọng giữa các nhánh quyền lực để bảo đảm không
có sự lạm quyền. Về cơ bản, bộ máy nhà nước tư sản gồm các bộ phận sau: -
Nghị viện là cơ quan quyền lực cao nhất, nắm quyền lập pháp. Quyền lực của nghị viện ở
các giai đoạn phát triển khác nhau của nhà nước tư sản cũng hết sức khác nhau. Về cơ cấu tổ chức
phần lớn các nước có cơ cấu 2 viện: thượng nghị viện và hạ nghị viện. Với nghị viện có cơ cấu 2
viện về nguyên tắc thượng nghị viện có ít quyền hơn so với hạ nghị viện và được hình thành bằng
nhiều hình thức khác nhau: bầu, bổ nhiệm, thừa kế... Hạ nghị viện được hình thành bằng hình thức bầu cử. lOMoAR cPSD| 22014077 -
Nguyên thủ quốc gia là người người đớng đầu nhà nước, đại diện cho các quốc gia trong
các quan hệ đối nội và đối ngoại. Chức vụ này trong các nhà nước có các hình thức chính thể khác
nhau, sự hình thành và thẩm quyền cũng hết sức khác nhau. Trong các nhà nước có hình thức chính
thể quân chủ lập hiến nguyên thủ được hình thành bằng con đường thế tập, và được nhìn nhận như
là biểu tượng cho truyền thống và sự thống nhất dân tộc. Ở các nước có chính thể cộng hoà, nguyên
thủ quốc gia được hình thành thông qua con đường bầu cử. Tuy nhiên quyền lực của họ cũng hết
sức khác nhau ở các loại hình chính thể khác nhau. Nếu như trong chính thể cộng hoà tổng thống
quyền lực của nguyên thủ là hết sức lớn, vừa là người đứng đầu nhà nước, vừa là người đứng đầu
cơ quan hành pháp, thì trái lại ở những nước có chính thể cộng hoà đại nghị cũng giống như các
nước có chính thể quân chủ lập hiến, nguyên thủ quốc gia phần lớn mang tính chất đại diện hình
thức. - Chính phủ là cơ quan nắm quyền hành pháp. Chính phủ đóng một vai trò quan trọng và giữ
vị trí trung tâm trong bộ máy nhà nước. Trên thực tế, chính phủ tư sản quyết định phần lớn các
chính sách đối nội và đối ngoại của nhà nước tư sản. Tùy thuộc vào hình thức chính thể khác nhau,
cách thành lập chính phủ trong các nhà nước tư sản cũng hết sức khác nhau. Đối với những nước
có chính thể cộng hoà tổng thống, tổng thống là người đứng đầu Chính phủ, các thành viên nội các
chính phủ do tổng thống lựa chọn và bổ nhiệm. Đối với các nước có chính thể cộng hoà đại nghị
hoặc quân chủ đại nghị, chính phủ được thành lập trên cơ sở của đảng chính trị nắm đại đa số ghế
trong nghị viện. Thủ tướng chính phủ và các thành viên chính phủ có thể do tổng thống bổ nhiệm
(Italia, Pháp, Nhật), có thể do tổng thống kết hợp với nghị viện bầu (Đức). -
Toà án nắm quyền tư pháp. Toà án có vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện
quyền lực của giai cấp tư sản. Các thẩm phán của nhà nước tư sản thường có tính chuyên nghiệp
cao, chủ yếu được bổ nhiệm với nhiệm kỳ dài, thậm chí ở một số nước là nhiệm kỳ suốt đời, nếu
bảo đảm sức khỏe và không phạm tội. Tuy nhiên ở các hệ thống pháp luật khác nhau, thẩm quyền
và phương thức hoạt động của toà án cũng khác nhau, đặc biệt là giữa hệ thống pháp luật Anh –
Mỹ và Hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa.
TÓM LƯỢC CUỐI BÀI 1.
Kiểu nhà nước tư sản là kiểu nhà nước tồn tại trong hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ
nghĩa. Nhà nước tư sản là công cụ chuyên chính tư sản để duy trì sự thống trị và bảo về lợi ích của
giai cấp tư sản, chống lại giai cấp vô sản và các tầng lớp nhân dân lao động khác. 2.
Nhà nước tư sản có chức năng đối nội: (1) Củng cố và bảo vệ chế độ tư hữu tư sản; (2) Đàn
áp giai cấp công nhân và nhân dân lao động khác về chính trị, tư tưởng; (3) thực hiện các hoạt động
kinh tế - xã hội. Chức năng đối ngoại của nhà nước tư sản, gồm có: (1) Gây ảnh hưởng quốc tế,
khẳng định vị trí của mình trên trường quốc tế; (2) Tiến hành chiến tranh xâm lược khi có điều
kiện, phát triển các liên minh quân sự, kinh tế nhằm bảo vệ chủ nghĩa tư bản trên toàn cầu; (3)
Phòng thủ đất nước và phát triển quan hệ đối ngoại. 3.
Hình thức chính thể của nhà nước tư sản rất đa dạng, bao gồm chính thể quân chủ lập hiến
và chính thể cộng hòa. Hình thức cấu trúc của nhà nước tư sản có hai loại: nhà nước có hình thức lOMoAR cPSD| 22014077
cấu trúc đơn nhất và nhà nước có cấu trúc liên bang. Chế độ chính trị được các nhà nước tư sản áp
dụng để thực hiện quyền lực bằng phương thức bạo lực và phương thức “tự do chủ nghĩa”. 4.
Các nhà nước tư sản với các hình thức nhà nước khác nhau đều dựa trên học thuyết phân
quyền để tổ chức bộ máy nhà nước. Theo học thuyết này, quyền lực nhà nước được phân chia thành
các nhánh quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; các nhánh quyền lực này phải được trao cho các
cơ quan khác nhau thực hiện; có sự kiềm chế đối trọng giữa các nhánh quyền lực để bảo đảm không
có sự lạm quyền. Về cơ bản, bộ máy nhà nước tư sản gồm: Nghị viện, Chính phủ, Tòa án. CÂU HỎI ÔN TẬP 1.
Phân tích quá trình hình thành của các nhà nước tư sản. 2.
Phân tích đặc điểm của nhà nước tư sản. 3.
Phân tích chức năng của nhà nước tư sản. 4.
Trình bày các hình thức chính thể của các nhà nước tư sản. 5.
Trình bày khái quát về bộ máy nhà nước tư sản.
CÂU HỎI TÌNH HUỐNG 1.
Hãy cho biết cách gọi nào đúng: “nhà nước tư bản” hay “nhà nước tư sản” ? 2.
Trong hình thức nhà nước tư sản, có tồn tại vua không ?