Chương 5:Lý luận giáo dục | Lý thuyết môn Chủ nghĩa xã hội khoa học | trường Đại Học Huế
Quá trình giáo dục. Khái niệm, cấu trúc của quá trình giáo dục.Khái niệm quá trình giáo dục.Các thành tố cấu trúc của quá trình giáo dục.Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học (BLAW 1032)
Trường: Đại học Huế
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lO M oARcPS D| 45467232
CHƯƠNG 5. LÝ LUẬN GIÁO DỤC
Mục tiêu của chương 5
Sau khi học xong chương này, sinh viên có thể:
- Khái quát được những vấn đề lí luận cơ bản về quá trình giáo dục.
- Hiểu và trình bày được hệ thống các khái niệm của quá trình giáo dục: khái niệm
quátrình giáo dục, khái niệm nguyên tắc giáo dục, khái niệm logic của quá trình giáo dục, khái
niệm nội dung giáo dục, khái niệm phương pháp giáo dục.
- Hiểu và phân tích được những nội dung cơ bản về quá trình giáo dục: cấu trúc của
quátrình giáo dục; bản chất, đặc điểm của quá trình giáo dục; động lực, logic của quá trình giáo
dục; các nguyên tắc chỉ đão quá trình giáo dục; những nội dung cơ bản của quá trình giáo dục;
những ý nghĩa và yêu cầu sử dụng các phương pháp giáo dục...
- Vận dụng những kiến thức đã được học để nhận diện, đánh giá, đề xuất phương
hướnggiải quyết những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn có liên quan đến quá trình giáo dục.
- Hình thành, phát triển những kỹ năng cơ bản của người giáo viên: kỹ năng xác địnhmục
đích giáo dục, kỹ năng lựa chọn nội dung giáo dục, kỹ năng lựa chọn và vận dụng phối kết hợp
các phương pháp giáo dục, kỹ năng vận dụng linh hoạt các nguyên tắc giáo dục, kỹ năng làm
việc với các lực lượng giáo dục,... và các kỹ năng mềm: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hợp tác, kỹ
năng làm việc nhóm, kỹ năng quản lí thời gian...
- Xác định được vị trí, vai trò, trách nhiệm của bản thân trong công tác giáo dục học
sinh;hình thành tình cảm tích đối với quá trình giáo dục học sinh, có thái độ nghiêm túc, khoa
học và hứng thú với việc tổ chức các hoạt động giáo dục cho học sinh; có trách nhiệm, hợp tác
trong quá trình học tập; tích cực, chủ động, sáng tạo vận dụng tri thức, kỹ năng đã học vào việc
rèn luyện tay nghề người giáo viên.
5.1 Quá trình giáo dục
5.1.1 Khái niệm, cấu trúc của quá trình giáo dục
5.1.1.1 Khái niệm quá trình giáo dục
Quá trình giáo dục ở đây được hiểu theo nghĩa hẹp, là bộ phận của quá trình giáo dục tổng
thể. Quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp và quá trình dạy học đều hướng vào hình thành nhân
cách toàn vẹn cho người học theo mục tiêu giáo dục đã định. Trong đó, quá trình giáo dục với
chức năng trội là làm cho học sinh có nhận thức đúng đắn về các yêu cầu, chuẩn mực xã hội
và có hành vi, thói quan hành vi tương ứng. Quá trình dạy học có nhiệm vụ là truyền thụ tri
thức và rèn luyện các kỹ năng, kỹ xảo tương ứng, phát triển năng lực trí tuệ, trên cơ sở đó hình
thành những giá trị đạo đức phù hợp với các chuẩn mực đạo đức cho học sinh .
Quá trình giáo dục là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức của nhà giáo dục và đối
tượng giáo dục nhằm hình ở đối tượng giáo dục ý thức, thái độ, tình cảm, hành vi, thói quen
phù hợp với các chuẩn mực chính trị, đạo đức, pháp luật, thẩm mỹ và văn hoá, làm phát triển
nhân cách học sinh theo mục đích của nhà trường và xã hội. lO M oARcPS D| 45467232
Sự tác động của nhà giáo dục đến đối tượng giáo dục là sự tác động có nội dung, có chương
trình, kế hoạch, có phương pháp, có kiểm tra, đánh giá, có sự điều chỉnh, điều khiển cho phù hợp.
Quá trình giáo dục nhằm hình thành ở đối tượng giáo dục quan điểm, niềm tin, giá trị, động
cơ, thái độ, hành vi, thói quen,… phù hợp với các chuẩn mực xã hội, làm phát triển nhân cách
học sinh theo mục tiêu giáo dục của nhà trường và xã hội.
Quá trình giáo dục là quá trình tác động qua lại biện chứng giữa nhà giáo dục và đối tượng
giáo dục mà không phải là quá trình tác động một chiều từ phía nhà giáo dục đến đối tượng
giáo dục. Trong quá trình tác động này, nhà giáo dục giữ vai trò chủ đạo, đối tượng giáo dục
giữ vai trò tự giác, tích cực, chủ động. Giáo dục là quá trình thống nhất hữu cơ giữa ba quá
trình: giáo dục, tự giáo dục và giáo dục lại. Tuổi càng nhỏ, vai trò của giáo dục càng quan trọng.
Càng phát triển vai trò của tự giáo dục càng chiếm ưu thế. Giáo dục lại là quá trình nhằm uốn
nắn những sai sót, lệch lạc của hai quá trình trên.
Quá trình giáo dục bao giờ cũng xuất phát từ những yêu cầu của xã hội về con người lý
tưởng đặc trưng cho xã hội mình. Quá trình giáo dục cần phải căn cứ vào hình mẫu con người
lý tưởng đó để đào tạo. Vì vậy, nhà giáo dục cần nắm vững những yêu cầu của xã hội để tác
động đến nhân cách đối tượng giáo dục.
5.1.1.2 Các thành tố cấu trúc của quá trình giáo dục
Theo cách tiếp cận cấu trúc-hệ thống, quá trình giáo dục tồn tại như một hệ thống toàn vẹn
bao gồm các thành tố cơ bản sau:
- Mục đích, nhiệm vụ giáo dục - Nội dung giáo dục
- Phương pháp, phương tiện giáo dục - Nhà giáo dục
- Học sinh- Kết quả giáo dục
a) Mục đích, nhiệm vụ giáo dục
Mục đích giáo dục nhằm hình thành ở học sinh những phẩm chất nhân cách, có hành vi,
thói quen đáp ứng yêu cầu, chuẩn mực về đạo đức, lao động, thể chất và thẩm mĩ do xã hội quy
định, giúp học sinh có khả năng hòa nhập và thích ứng một cách năng động, sáng tạo với cuộc
sống đang đổi mới toàn diện và sâu sắc.
Để đạt được mục đích này, nhiệm vụ giáo dục được xác định có liên quan đến các mặt như:
đạo đức, lao động, thể chất, thẩm mỹ,… góp phần phát triển nhân cách toàn vẹn cho học sinh.
Bên cạnh đó, các nhiệm vụ giáo dục cũng liên quan đến các khía cạnh về ý thức, thái độ, tình
cảm, hành vi, thói quen phù hợp với chuẩn mực quy định của xã hội.
Để thực hiện được mục đích này, quá trình giáo dục cần hoàn thành ba nhiệm vụ:
+ Tổ chức hình thành và phát triển ở học sinh ý thức cá nhân về các chuẩn mực xã hội nói
chung và các chuẩn mực đạo đức, pháp luật nói riêng đã được quy định. Ý thức cá nhân là một
thể thống nhất giữa sự hiểu biết và niềm tin của cá nhân về các chuẩn mực xã hội. lO M oARcPS D| 45467232
- Tổ chức hình thành và phát triển ở học sinh thái độ (xúc cảm, tình cảm) tích cực đối
vớicác chuẩn mực xã hội có tác dụng như “chất men” đặc biệt thúc đẩy học sinh chuyển hóa
ý thức về các chuẩn mực xã hội thành hành vi và thói quen tương ứng.
- Tổ chức hình thành và phát triển ở học sinh hệ thống hành vi và những thói quen
hànhvi phù hợp với những chuẩn mực xã hội đã được quy định, mặt khác còn tổ chức rèn
luyện để các em có thể tự lặp lại hệ thống những hành vi này thành thói que bền vững gắn bó
mật thiết với nhu cầu hoạt động tích cực của cá nhân.
Mục đích giáo dục và nhiệm vụ giáo dục là thành tố có vị trí hàng đầu trong quá trình giáo
dục. Đóng vai trò định hướng cho sự vận động, phát triển của các thành tố khác cũng như toàn bộ quá trình giáo dục. b) Nội dung giáo dục
Nội dung giáo dục là toàn bộ hệ thống kinh ngiệm xã hội-lịch sử của loài người được các
nhà giáo dục lựa chọn, chế biến để tổ chức hoạt động chiếm lĩnh nó, biến nó thành cái riêng
của mỗi người, nhằm thực hiện các mục tiêu của xã hội. Đó chính là hệ thống chuẩn mực trong
các mối quan hệ với bản thân, đối với xã hội và đối với thế giới tự nhiên cần giáo dục cho đối tượng giáo dục.
Nội dung giáo dục chịu sự chi phối, quy định, định hướng của mục đích, nhiệm vụ giáo
dục và được thể hiện cụ thể trong các chương trình, kế hoạch giáo dục, các hoạt động giáo dục
trong và ngoài nhà trường. Nội dung giáo dục luôn thay đổi, cải cách cho phù hợp với từng giai
đoạn lịch sử. Nội dung có những thành phần chung cho cả nhân loại, có những thành phần đặc
trưng cho từng dân tộc, từng nước và bị chi phối mạnh mẽ bởi các yếu tố chính trị, tôn giáo,
phong tục, tập quán, truyền thống,… Khi nội dung giáo dục thay đổi thì phương pháp, phương
tiện cũng thay đổi. Nội dung giáo dục quy định nội dung của nhà giáo dục và đối tượng giáo dục.
c) Phương pháp, phương tiện giáo dục
Phương pháp, phương tiện giáo dục là những thành tố quy định hệ thống những cách thức,
biện pháp, phương tiện để tổ chức cho đối tượng giáo dục tự chiếm lĩnh các yêu cầu, nội dung
giáo dục, làm hình thành và phát triển ở các em những phẩm chất và hành vi, thói quen hành
vi phù hợp với các chuẩn mực được xã hội quy định. Phương pháp, phương tiện giáo dục càng
khoa học, tiên tiến, hiện đại thì càng tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình giáo dục đạt kết quả
cao. Phương pháp, phương tiện giáo dục chịu sự chi phối của mục đích, nhiệm vụ và nội dung giáo dục đã đề ra. d) Nhà giáo dục
Nhà giáo dục tồn tại và hoạt động với tư cách là chủ thể của quá trình giáo dục và giữ vai
trò chủ đạo trong quá trình giáo dục.
Vai trò chủ đạo của giáo viên được thể hiện cụ thể như sau:
- Nhà giáo dục là người tổ chức, điều khiển quá trình giáo dục. Nhà giáo dục là người
lựachọn nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức quá trình giáo dục và hướng
dẫn, tổ chức quá trình giáo dục, đồng thời là người kiểm tra, đánh giá và hướng dẫn đối tượng
giáo dục tự kiểm tra, tự đánh giá. lO M oARcPS D| 45467232
- Là người quán triệt mục đích giáo dục và chuyển tải nó đến đối tượng giáo dục.
- Định hướng sự phát triển nhân cách đối tượng giáo dục theo đúng mục đích giáo dục đãđược xác định.
- Phát huy được ý thức tự giáo dục ở đối tượng giáo dục.
- Phối hợp thống nhất các tác động giáo dục từ phía môi trường nhà trường và môitrường
gia đình, môi trường xã hội.
Nhà giáo dục ở nhà trường là các thầy/cô giáo, là tập thể sư phạm, các tổ chức đoàn thể
trong nhà trường. Ở gia đình là ông, bà, bố, mẹ, người lớn và các mối quan hệ khác.
e) Học sinh (cá nhân, tập thể) trong quá trình giáo dục có hai tư cách:
- Là khách thể của quá trình giáo dục: tiếp nhận sự tác động có định hướng, có kế
hoạch,có phương pháp, có tổ chức, có hệ thống từ phía nhà giáo dục.
- Là chủ thể của quá trình tự giáo dục: tiếp nhận những tác động giáo dục một cách có
ýthức, có khả năng tự vận động, biên những tác động bên ngoài thành những tác động bên trong của bản thân.
Hai tư cách này thống nhất với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó, tư cách đối tượng
giáo dục là điều kiện, tư cách chủ thể giáo dục là cơ bản. g) Kết quả giáo dục
Kết quả giáo dục phản ánh kết quả vận động, phát triển của quá trình giáo dục. Kết quả
giáo dục phản ánh tập trung kết quả vận động của đối tượng giáo dục. Kết quả giáo dục thể
hiện ở chỗ: đối tượng giáo dục đã ý thức được các chuẩn mực xã hội như thế nào, có thái độ gì
đối với các chuẩn mực xã hội đó và các hành vi, thói quen của họ có phù hợp với các chuẩn
mực xã hội hay không? Kết quả đó được thể hiện trong toàn bộ cuộc sống của học sinh, thể
hiện trong các hoạt động và các mối quan hệ của HS với thế giới xung quanh các em.
Nếu như mục đích giáo dục xác định đầu ra mong muốn thì kết quả giáo dục là đầu ra thực
tế của quá trình giáo dục. Kết quả giáo dục tốt là khi kết quả đó trùng với mục đích, nhiệm vụ đã đặt ra trước đó.
Các thành tố của quá trình giáo dục: mục đích, nhiệm vụ giáo dục, nội dung giáo dục,
phương pháp, phương tiện giáo dục, nhà giáo dục, đối tượng giáo dục, kết quả giáo dục luôn
tồn tại và phát triển trong mối quan thống nhất, biện chứng với nhau. Các thành tố đó còn có
mối quan hệ mật thiệt với môi trường kinh tế-xã hội, môi trường chính trị-văn hóa,…Sự phát
triển không ngừng về mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, những đòi hỏi ngày càng cao của nền
kinh tế tri thức trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước luôn đặt ra yêu cầu cao và
tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình giáo dục. Và ngược lại, sự vận động, phát triển của quá
trình giáo dục lại chi phối, ảnh hưởng, tác động tích cực trở lại môi trường.
Như vậy, theo quan điểm hệ thống-cấu trúc quá trình giáo dục tồn tại như một hệ thống
bao gồm các thành tố cấu trúc có mối qua hệ mật thiết với nhau và có quan hệ tương tác với
môi trường. Sự vận động và phát triển của các thành tố được phản ánh trong kết quả giáo dục. lO M oARcPS D| 45467232
5.1.2. Bản chất của quá trình giáo dục
Quá trình giáo dục về bản chất là quá trình chuyển hoá tự giác, tích cực, độc lập những yêu
cầu về chuẩn mực hành vi đã được quy định thành hành vi,thói quen hành vi tương ứng ở học
sinh, dưới tác động chủ đạo của giáo viên, thông qua việc tổ chức các hoạt động và giao tiếp khác nhau.
Các chuẩn mực hành vi là nội dung cần giáo dục cho học sinh về các mặt đạo đức, pháp
luật, lao động, thẩm mỹ,…được đưa ra dưới dạng chuẩn mực cụ thể phản ánh các mối quan hệ
hàng ngày, những tình huống trong cuộc sống. Các chuẩn mực này tồn tại khách quan, độc lập với học sinh.
Hành vi, thói quen được thể hiện qua những hành động, việc làm cụ thể được học sinh thực
hiện dựa theo những chuẩn mực hành vi được quy định trong cuộc sống của mình.
Để chuyển hoá những chuẩn mực hành vi thành ý thức, tình cảm, niềm tin, hành vi, thói
quen ở học sinh nhà giáo dục phải tổ chức, hướng dẫn tổ chức các loại hình hoạt động, giao
tiếp phong phú, đa dạng để học sinh tham gia vào. Các hoạt động được tổ chức như hoạt động
dạy học, hoạt động lao động, hoat động vui chơi,…các mối quan hệ được xây dựng như quan
hệ với bạn bè, quan hệ với thầy/cô, quan hệ với cha mẹ,… Trong thực tế cho thấy:
Ở đâu (nhà trường, gia ñình, xã hội) nhà giáo dục quan tâm tổ chức tốt các hoạt động, các
mối quan hệ phong phú, đa dạng cho trẻ (cá nhân hay tập thể) thì ở đó sẽ có những tập thể vững
mạnh, những cá nhân có nhân cách tốt và ngược lại.
Cá nhân càng tích cực tham gia vào các hoạt động bao nhiêu thì nhân cách càng được hình
thành, phát triển tốt, toàn diện bấy nhiêu và ngược lại.
Do đó, trong giáo dục tập thể và cá nhân, cần quan tâm tổ chức và điều khiển tốt các hoạt
động, các mối quan hệ của cá nhân và tập thể. Mỗi cá nhân muốn rèn luyện để có nhân cách
tốt cần biết tự tổ chức hợp lý các hoạt động của bản thân và tham gia tích cực vào các hoạt
động, các mối quan hệ tiếp xúc, giao lưu trong cuộc sống.
5.1.3. Đặc điểm của quá trình giáo dục
5.1.3.1. Những đặc điểm cơ bản của quá trình giáo dục
5.1.3.1.1. Quá trình giáo dục là một quá trình có tính phức hợp
Tính phức hợp trước hết thể hiện ở đối tượng giáo dục. Đối tượng của quá trình giáo dục
là nhân cách. Cái mà không thể trực tiếp quan sát được. Quá trình giáo dục tạo ra sự chuyển
biến trong tâm hồn học sinh cũng không thể đo lường ngay được, khó định tính một cách rõ ràng.
Thứ hai, tính phức hợp thể hiện ở chỗ đối tượng giáo dục chịu những tác động phức hợp
từ phía nhà trường, gia đình, xã hội. Trong nhà trường, những tác động đó có thể là của giáo
viên, của tập thể lớp, của bạn bè, của nội quy nhà trường,…Trong gia đình, đó có thể là những
tác động của người lớn, của anh chị em, của nền nếp, gia phong,…Trong xã hội, có những tác
động từ phía phương tiện thông tin đại chúng, của người lớn, của những hiện tượng xảy ra
trong cuộc sống hành ngày mà các em được chứng kiến.
Những ảnh hưởng này, tác động rất phức tạp đến học sinh và đang diễn ra từng ngày, từng
giờ. Và chúng có những tính chất: Tính tích cực và tính tiêu cực, tính tự phát và tình tự giác, lO M oARcPS D| 45467232
tính trực tiếp và tính gián tiếp, tính đan kết vào nhau. Khi những tác động này là thống nhất với
nhau sẽ tạo tạo sức mạnh tổng hợp, tạo môi trường giáo dục thống nhất và tạo điều kiện thuận
lợi cho học sinh trong quá trình rèn luyện hình thành hành vi và thói quen tốt đẹp. Khi những
tác động này là tiêu cực, chúng sẽ cản trở, là suy yếu và triệt tiêu hoặc gây “nhiễu” ảnh hưởng
đến đối tượng giáo dục. Từ đó, gây khó khăn cho quá trình giáo dục.
Thứ ba, kết quả của quá trình giáo dục không nhìn thấy ngay được, không đánh giá ngay
được. Kết quả của quá trình giáo dục là sự phát triển nhân cách của đối tượng giáo dục, là
những cái rất khó để định tính, định lượng một cách hoàn toàn chính xác. Kết quả giáo dục cần
có thời gian, điều kiện, hoàn cảnh mới bộc lộ ra ngoài.
Vì vậy, trong quá trình giáo dục, cần lưu ý:
Xem xét những tác động thường gặp có thể ảnh hưởng đến học sinh của mình, từ đó xác
định những tác động tích cực và tiêu cực.
Khai thác và tận dụng những tác động tích cực từ phía môi trường
Phối hợp các lực lượng giáo dục nhằm tạo ra môi trường giáo dục thống nhất, lành mạnh,
góp phần loại trừ những tác động tiê cực.
Rèn luyện cho người học bản lĩnh để chống lại những cám dỗ tiêu cực từ phía môi trường.
5.1.1.1.2. Quá trình giáo dục có tính lâu dài, liên tục
Trong quá trình giáo dục, muốn đạt được kết quả giáo dục như mong muốn cần phải trải
qua một thời gian dài nhất định. Kết quả mong muốn của quá trình giáo dục thể hiện qua việc
học sinh đồng thời hình thành được cả ý thức, thái độ, tình cảm, niềm tin và hành vi, thói quen
liên quan đến các mặt đạo đức, thể chất, thẩm mỹ,…
Để đạt được mục đích đó, cần phải có một khoảng thời gian nhất định. Bởi để hình thành
tình cảm, niềm tin đòi hỏi học sinh phải có thời gian, có thể là vài ngày, vài tháng, vài năm,…
để trải nghiệm thực tiễn cuộc sống, để không những chứng kiến, đối chiếu với tri thức đã có,
mà còn thể nghiệm hành động của bản thân. Cũng như vậy, có có được thói quen, học sinh
cũng cần có thời gian để rèn luyện thường xuyên, liên tục trong mọi tình huống khác nhau của
đời sống ở gia đình, nhà trường, xã hội. Trong quá trình đó, học sinh cần phải tiến hành một
cuộc đấu tranh bản thân, nhiều khi gay gắt giữa động cơ đúng và chưa đúng; giữa những quan
niệm, niềm tin, thói quen mới-tiến bộ với quan niệm, niềm tin, thói quen cũ-lạc hậu để giành
được sự tiến bộ như mong muốn. Kinh nghiệm cho thấy, cuộc đấu tranh này không phải khi
nào cũng thành công, trái lại còn có lúc thất bại. Qua quá trình tiếp tục đấu tranh, các em mới
dần đi đến thành công, có được hành vi, thói quen mong muốn. bên cạnh đó, kết quả giáo dục
đạt được đòi hỏi phải luôn được củng cố, khắc sâu thì mới trở nên bền vững.
Trong quá trình giáo dục, tính lâu dài thường gắn liền với tính liên tục. Nếu trong một lúc
hay một giai đoạn nào đó người được giáo dục thiếu ý chí, nghị lực thì hiệu quả của quá trình
giáo dục sẽ mất đi, thậm chí học sinh có thể tiêm nhiễm những thói hư, tật xấu, dẫn đến thoái hoá, biến chất.
Vì vậy, trong quá trình gió dục cần:
- Giáo dục cho học sinh những chuẩn mực hành vi đã được quy định phải theo một
quátrình lâu dài, thường xuyên, liên tục, không được nóng vội cũng không được chậm chạp. lO M oARcPS D| 45467232
- Khởi dậy ý thức và năng lực tự đấu tranh bản thân một cách tự giác, tích cực, độc
lập;hình thành ở các em “sức đề kháng” trước những tác động xấu; hình thành ở các em năng
lực, ý thức và sự yêu mến cái hay, cái tốt.
- Giúp cho các em có những hành vi, thói quen xấu tự giác, tích cực và độc lập khắc
phụckhó khăn, vươn lên vững chắc, không áp đặt, nóng vội đối với quá trình sửa chữa ở các em.
- Xây dựng và thực hiện một cách có kế hoạch, có tổ chức, có phương pháp, có hệ
thốngnhững hoạt động giáo dục được thống nhất trong một quá trình giáo dục dài hạn và ngắn
hạn phù hợp với mục đích và nhiệm giáo dục.
- Tạo sự thống nhất trong môi trường giáo dục để học sinh được rèn luyện ở mọi lúc,
mọinơi, khép kín các tác động cả về không gian lẫn thời gian. lO M oARcPS D| 45467232
5.1.1.1.3. Quá trình giáo dục có tính cá biệt hoá cao.
Quá trình giáo dục được thực hiện trong cuộc sống, hoạt động và giao lưu của mỗi cá nhân
học sinh. Để đạt được hiệu quả, tác động giáo dục ngoài việc đảm bảo mang tính khái quát
chung cần đảm bảo chú ý đến những điểm riêng biệt, cụ thể của mỗi đối tượng giáo dục. Tính
cụ thể của quá trình giáo dục được thể hiện ở chỗ: Tác động giáo dục cần phù hợp với từng cá
nhân học sinh với những tình huống giáo dục cụ thể, riêng biệt.
Mỗi học sinh đều là một cá nhân có tình độc lập tương đối về trình độ giáo dục, về kinh
nghiệm sống,…nên quá trình tác động giáo dục cần phải phù hợp với cái riêng, cái cụ thể đó.
Kết quả giáo dục cũng mang tính cụ thể đối với từng đối tượng giáo dục, đối với từng mặt,
từng yêu cầu giáo dục của từng quá trình giáo dục cụ thể.
Trong quá trình giáo dục cần:
- Quan tâm, tính đén những đặc điểm riêng của đối tượng giáo dục: đặc điểm tâm lý
lứatuổi, điều kiện hoàn cảnh sống,…để nhà giáo dục có thể nhìn thấy hoặc dự đoán được
nguyên nhân của những thái độ, hành vi, thói quen…để có cách thức tác động phù hợp.
- Đa dạng hoá các loại hình hoạt động giáo dục để phù hợp với nhịp điệu phát triển củatất cả học sinh.
- Phát huy vai trò tự giác, chủ động của người được giáo dục.
- Nhà giáo dục cần phải thực sự yêu thương, quan tâm đến từng học sinh để hiểu tườngtận
về các em. Có hiểu học sinh thì mới có thể cá biệt hoá tác động đến các em và đạt mục đích giáo dục.
5.1.1.1.4. Quá trình giáo dục thống nhất biện chứng với quá trình dạy học.
Quá trình giáo dục và quá trình dạy học là hai quá trình bộ phận của của một quá trình giáo
dục tổng thể. Vì vậy, hai quá trình này không tách rời nhau mà thống nhất biện chứng với nhau.
Sự thống nhất này được thể hiện ở chỗ: cả hai đều hướng đến hình thành và phát triển nhân
cách toàn vẹn cho người được giáo dục đáp ứng yêu cầu của phát triển của cá nhân và xã hội.
Đều có sự tham gia của cả giáo viên và học sinh, trong đó vai trò của giáo viên và học sinh là như nhau
Tính biện chứng của chúng được thể hiện qua sự tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau. Cụ thể:
Dạy học là một con đường cơ bản để thực hiện quá trình giáo dục: trên cơ sở tiếp thu được
hệ thống tri thức khoa học về tự nhiên, xã hội, tư duy mà hình thành ở học sinh thế giới quan
khoa học, quan điểm, tư tưởng chính trị, đạo đức, tình cảm, hành vi đúng đắn.
Quá trình dạy phải dẫn đến quá trình giáo dục, là một trong những kết quả, mục đích quan
trọng nhất của các hoạt động giáo dục trong nhà trường. Mục đích cuối cùng của dạy học là
nhằm vào giáo dục nhân cach cho học sinh. Kết quả của quá trình thông qua “dạy chữ” để “dạy người”.
Kết quả của quá trình giáo dục ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình dạy học. Đồng thời, việc
tổ chức các hoạt động giáo dục nhằm củng cố, khắc sâu, mở rộng kết quả dạy học nhiều môn học. lO M oARcPS D| 45467232
Mặc dù tồn tại độc lập tương đối với nhau nhưng hai quá trình dạy học và giáo dục thống
nhất với nhau, tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau, hỗ trợ cho nhau nhằm đạt được mục đích chung của giáo dục.
5.1.4 Động lực của quá trình giáo dục
Quá trình giáo dục là quá trình luôn luôn vận động và phát triển không ngừng từ đơn giản
đến phức tạp, từ thấp đến cao nhằm đạt được kết quả mong muốn và đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao của xã hội. Kết quả này là kết quả của sự vận động, phát triển đồng bộ tất các các
thành tố của quá trình giáo dục: mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện, nhà giáo dục
và đối tượng giáo dục. Tuy nhiên có thể nói rằng nó tập trung chủ yếu ở kết quả vận động và
phát triển của thành tố đối tượng giáo dục-học sinh.
Kết quả vận động, phát triển của đối tượng giáo dục thể hiện ở chỗ:
Từ chỗ các em chưa nắm được những tri thức về chuẩn mực đến chỗ các em đã có những
hiểu biết đầy đủ, sâu sắc về những tri thức đó.
Từ chỗ các en chưa có được niềm tin, tình cảm tốt đẹp với tri thức của chuẩn mực đến chỗ
các em đã có niềm tin và tình cảm tốt đẹp với tri thức đó.
Từ chỗ các em chưa có hành vi, thói quen phù hợp với chuẩn mực đến chỗ các em có được
những hành vi và thói quen tốt đẹp…
Như vậy, sự vận động và phát triển của quá trình giáo dục liên quan đến cả ba mặt: ý thức,
thái độ và hành vi, thói quen.
Nguyên nhân của sự vận động và phát triển của quá trình giáo dục chính là nhờ có sự xuất
hiện và giải quyết có hiệu quả những mâu thuẫn của quá trình giáo dục.
Các mâu thuẫn của quá trình giáo dục có thể được phân biệt ở hai loại cơ bản là mâu thuẫn
bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa quá trình giáo dục với môi trường xã hội. Ví dụ
mâu thuẫn giữa yêu cầu cao của giáo dục trong nhà trường với yêu cầu thấp trong giáo dục gia
đình; giữa yêu cầu cao của xã hội đối với người công dân, người lao động với kết quả thấp của
quá trình giáo dục; giữa sự thay đổi của những chuẩn mực xã hội với sự chậm đổi mới của nội
dung giáo dục;…Những mâu thuẫn bên ngoài nếu được giải quyết có hiệu quả sẽ tạo điều kiện
cho sự vận động và phát triển của quá trình giáo dục. Tuy nhiên, trong những hoàn cảnh, tình
huống đặc biệt thì mâu thuẫn bên ngoài lại có vai trò quyết định.
Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn nảy sinh và tồn tại trong quá trình giáo dục. Chúng bao
gồm mâu thuẫn giữa các thành tố và yếu tố của quá trình dạy học với nhau. Ví dụ như mâu
thuẫn giữa mục đích, nhiệm vụ giáo dục được hoàn thiện, đổi mới với nội dung giáo dục còn
lạc hậu; mâu thuẫn giữa tính toàn diện của nhiệm vụ giáo dục với tính đơn điệu của phương
pháp giáo dục; mâu thuẫn giữa ý thức đúng đắn ở học sinh với hành vi chưa đúng đắn ở các
em; mâu thuẫn giữ lời nói và việc làm của nhà giáo dục;…Mâu thuẫn bên trong khi được giải
quyết hiệu quả sẽ tạo động lực cho sự vận động và phát triển của quá trình giáo dục.
Trong các mâu thuẫn bên trong có một mâu thuẫn cơ bản. Mâu thuẫn cơ bản có hai đặc
điểm: Tồn tại trong suốt quá trình giáo dục, khi nó xuất hiện nếu được giải quyết hiệu quả sẽ
thì nó sẽ xuất hiện trở lại ở trình độ cao hơn. Và khi nó được giải quyết hiệu quả sẽ tạo sự phát lO M oARcPS D| 45467232
triển chủ yếu cho quá trình giáo dục. Đó chính là mâu thuẫn giữa một bên là yêu cầu về chuẩn
mực hành vi được đề ra trong quá trình giáo dục cao với một bên là trình độ được giáo dục của học sinh còn hạn chế.
Về mặt lý luận và thực tiến, người ta nhận ra rằng khi mâu thuẫn cơ bản được giải quyết
sẽ tạo ra động lực chủ yếu của quá trình giáo dục. Do đó, để vận động và phát triển không
ngừng, quá trình giáo dục tiểu học trước hết cần dựa vào động lực chủ yếu trên cơ sở giải quyết mâu thuẫn cơ bản.
Để mâu thuẫn cơ bản trở thành động lực chủ yếu tạo nên sự phát triển, mâu thuẫn cơ bản
phải đảm bảo ba điều kiện sau:
Thứ nhất, yêu cầu đặt ra phải vừa sức với học sinh, có nghĩa là yêu cầu đó cao hơn trình
độ hiện có của học sinh, và phù hợp với khả năng của các em tức là học sinh có thể thực hiện
được yêu cầu với sự nỗ lực cao nhất.
Thứ hai, yêu cầu đặt ra phải được học sinh ý thức đầy đủ, tức là biết có yêu cầu đặt ra cho
bản thân, hiểu được sự cần thiết phải thực hiện yêu cầu đó và có mong muốn, sẵn sàng thực hiện yêu cầu đề ra.
Thứ ba, mâu thuẫn nảy sinh một cách tự nhiên trong tiến trình giáo dục. Trong quá trình
giáo dục, trên con đường phát triển của nó, mâu thuẫn phải xuất hiện và tồn tại một cách tự
nhiên, khách quan, do tiến trình giáo dục đòi hỏi. Tức là mâu thuẫn mới nảy sinh trên cơ sở kết
quả giáo dục có được nhờ giải quyết mâu thuẫn trước.
5.1.5 Logic của quá trình giáo dục
Logic của quá trình giáo dục là trình tự thực hiện hợp lý các khâu trong quá trình giáo dục
nhằm thực hiện các nhiệm vụ giáo dục, đạt mục đích giá dục đã đề ra.
Quá trình giáo dục trải qua các khâu sau:
a) Tổ chức, điều khiển học sinh hình thành nhận thức đúng đắn, sâu sắc về các chuẩn
mực xã hội đã quy định.
Tổ chức cho học sinh nhận thức về các chuẩn mực xã hội bao gồm nhận thức về: nội dung
của chuẩn mực, sự cần thiết phải thực hiện chuẩn mực đó (bao gồm ý nghĩa đối với bản thân
học sinh, đối với xã hội của việc thực hiện chuẩn mực, tác hại của việc làm trái chuẩn mực),
cách thực hiện chuẩn mực (những việc cần làm, việc cần tránh).
Dựa vào những tri thức trên hình thành cho các em niềm tin tương ứng - tin tưởng vào tính
đúng đắn, sự cần thiết thực hiện chuẩn mực hành vi. Học sinh có niềm tin sẽ tự giác biết bày
tỏ thái độ hài lòng khi chuẩn mực hành vi được thực hiện và bất bình, khó chịu khi chuẩn mực
hành vi bị vi phạm. Hơn thế nữa, học sinh đó luôn mong muốn, sẵn sàng thực hiện những hành
vi theo chuẩn mực quy định.
Khi học sinh đã có được tri thức và niềm tin trên thì có nghĩa là các em đã hình thành được
ý thức tự giác về chuẩn mực hành vi. Ý thức sâu sắc về những yêu cầu và chuẩn mực xã hội
quy định là cơ sở để nảy sinh hoàng loạt những cảm xúc và dần hình thành những tình cảm tốt
đẹp, bền vững về chuẩn mực đó, có tác dụng định hướng cho học sinh thực hiện hành vi một cách tự giác. lO M oARcPS D| 45467232
b) Tổ chức hình thành ở học sinh những niềm tin và tình cảm đúng đắn đối với các
chuẩn mực đã quy định.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn và hiểu biết sâu sắc về các chuẩn mực xã hội, ở mỗi học
sinh cần được hình thành dần dần thái độ, niềm tin và tình cảm đạo đức trong sáng, đúng đắn
đối với các chuẩn mực đó. Thái độ này bao hàm: thái độ thực hiện hành vi, thái độ đối với hành
vi và thái độ đối với đối tượng thực hiện hành vi.
Niềm tin của học sinh được hình thành trên cở sở nắm vững tri thức về chuẩn mực xã hội,
niềm tin được thể hiện ở chỗ:
+ Học sinh nắm được tri thức về các chuẩn mực xã hội;
+ Tin và tính chân lý và tính đúng đắn của các chuẩn mực xã hội;
+ Mong muốn làm theo những yêu cầu được phản ánh trong các chuẩn mực xã hội;
+ Có hành vi phù hợp với các chuẩn mực xã hội;
+ Hài lòng với những hành vi phù hợp với các chuẩn mực xã hội của mình và người khác;
+ Tỏ thái độ không khoan nhượng đối với những hành vi mâu thuẫn với những chuẩn mực xã hội.
Tri thức và niềm tin về các chuẩn mực xã hội quy định được hình thành ở mỗi cá nhân học
sinh tạo nên ý thức của các em về các chuẩn mực xã hội. Trong việc chuyển hóa tri thức thành
niềm tin, xúc cảm, tình cảm (được hình thành trong quá trình đó) đóng một vai trò quan trọng.
Tình cảm đúng đắn này trở thành động cơ, là “chất men” thôi thúc cho hành động, ý chí tự giáo
dục, tự tu dưỡng, tự rèn luyện và hoàn thiện bản thân, tránh xa những tác động xấu trong cuộc sống của học sinh.
c) Tổ chức, điều khiển học sinh thực hiện những hành vi phù hợp với những chuẩn mực
xã hội đã quy định ở mọi nơi, mọi lúc trong cuộc sống của mình, từ đó rèn luyện thói quen hành vi tích cực.
Trên cơ sở ý thức cá nhân về chuẩn mực xã hội, cần tổ chức cho học sinh thực hiện những
yêu cầu của chuẩn mực xã hội quy định và dần hình thành những hành vi cá nhân, những hành
vi này được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ thành thói quen hành vi. Hành vi, thói quen hành vi có
tác dụng củng cố, khắc sâu ý thức, thái độ và tình cảm đã được hình thành ở học sinh. Giáo dục
cho học sinh hình thành hành vi và thói quen hành vi rất quan trọng bởi hành vi và thói quen
hành vi là biểu hiện của bộ mặt đạo đức của con người. Những hành vi mà học sinh rèn luyện
cần thỏa mãn các tiêu chí sau:
+ Nội dung các chuẩn mực được thể hiện trong hành vi;
+ Sự thể hiện hành vi có tính phổ biến;
+ Sự thể hiện hành vi có tính bền vững;
+ Hành vi có động cơ đúng đắn.
Để chuyển hóa được chuẩn mực hành vi thành hành vi, thói quen hành vi ở học sinh, cần
tổ chức các loại hình hoạt động và giao tiếp một cách đa dạng, có hệ thống thống, qua đó, đồng
thời hình thành cho học sinh cả ba mặt là ý thức, thái độ, tình cảm, hành vi thói quen.
Bên cạnh đó cần bồi dưỡng cho các em ý thức và năng lực tự kiểm tra, tự đánh giá thường xuyên. lO M oARcPS D| 45467232
Các khâu trên của quá trình giáo dục có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau
thậm chí thâm nhập vào nhau. Diễn biến của các khâu trong quá trình giáo dục có tính động,
tùy thuộc vào đối tượng giáo dục và tình huống giáo dục cụ thể. lO M oARcPS D| 45467232
5.1.6. Quy luật của quá trình giáo dục
Quá trình giáo dục luôn vận động và phát triển không ngừng theo những quy luật phổ biến
và đặc thù vốn có của nó. Quy luật này phản ánh những mối quan hệ, liên hệ tương tác và bền
vững giữa các thành tố trong quá trình giáo dục với nhau hoặc mối quan hệ chi phối của môi
trường đối với từng thành tố của quá trình giáo dục. Các quy luật của quá trình giáo dục bao gồm:
+ Qui luật về mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa quá trình giáo dục với môi trường kinh tế-xã hội.
+ Qui luật về mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa hiệu quả của quá trình giáo dục với
việc tổ chức hợp lý các hoạt động và các mối quan hệ giao lưu của người được giáo dục.
+ Qui luật về mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa những tác động sư phạm của nhà
giáo dục với hoạt động chủ động, tích cực của đối tượng giáo dục.
+ Qui luật về mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa các tác động giáo dục có tính toàn
vẹn đối với các mặt nhận thức - lý trí, tình cảm - động cơ và kỹ năng hành động - hành vi của
người được giáo dục.
+ Qui luật về mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa mục đích giáo dục - nội dung giáo
dục - phương pháp giáo dục.
+ Qui luật về mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa quá trình giáo dục với quá trình dạy học...
Trong đó, quy luật về mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa những tác động sư phạm
của nhà giáo dục với hoạt động chủ động, tích cực của đối tượng giáo dục đượ xem là quy luật
cơ bản của quá trình giáo dục.
5.2 Nguyên tắc giáo dục
Nguyên tắc giáo dục là những luận điểm cơ bản, có tính quy luật của lí luận giáo dục, có
vai trò định hướng, chỉ đạo toàn bộ quá trình giáo dục nhằm đảm bảo chất lượng và hiệu quả
giáo dục và từ đó, đạt được mục đích đã định.
Nguyên tắc giáo dục có những đặc điểm: -
Nguyên tắc giáo dục có tính khái quát cao, chung cho mọi trường hợp mà không
phải là“đơn thuốc” cho từng trường hợp cụ thể. Do đó, khi tổ chức từng hoạt động giáo
dục, xử lý từng tình huống giáo dục, giáo viên cần có sự vận dụng các nguyên tắc một cách sáng tạo. -
Nguyên tắc giáo dục có tính quy luật. Bởi nó phản ánh những mối liên hệ, quan
hệ tấtyếu giữa các thành tố, yếu tố của quá trình giáo dục với nhau và giữa quá trình giáo
dục với môi trường. Nếu quá trình giáo dục tuân thủ các nguyên tắc giáo dục sẽ đạt được
mục đích giáo dục và ngược lại. -
Nguyên tắc giáo dục có vai trò định hướng, chỉ đạo toàn bộ quá trình giáo dục.
Nguyêntắc giáo dục để ra những yêu cầu cơ bản đối với việc lựa chọn nội dung, phương
pháp và hình thức tổ chức giáo dục thích hợp dựa trên những cơ sở khoa học nhất định.
Với tư cách là những luận điểm khoa học, các nguyên tắc giáo dục được xây dựng dựa trên những cơ sở sau: lO M oARcPS D| 45467232 -
Triết học duy vật biện chứng -
Bản chất và đặc điểm của quá trình giáo dục - Mục đích giáo dục
Hệ thống các nguyên tắc của quá trình giáo dục bao gồm:
5.2.1 Nguyên tắc đảm bảo tính mục đích của quá trình giáo dục
Tính mục đích của quá trình giáo dục có nghĩa là hoạt động giáo dục trong nhà trường phải
quán triệt được mục đích giáo dục, nhà giáo dục và đối tượng giáo dục phải nhận thức được
mục đích giáo dục trong mọi hoạt động giáo dục. Mục đích giáo phải trở thành kim chỉ nam
cho hoạt động giáo dục, mọi hoạt động giáo dục phải xuất phát từ mục đích giáo dục để từ đó
vận dụng một cách sáng tạo các nội dung, tìm tòi những phương pháp và hình thức tổ chức
giáo dục phù hợp nhằm thực hiện tốt nhất mục đích giáo dục đã đề ra.
Tính mục đích của quá trình giáo dục giúp cho các nhà giáo dục có phương hướng suy
nghĩ và hành động đúng đắn. Nó nâng cao tính tư tưởng chỉ đạo trong hoạt động giáo dục, tránh
được những hoạt động tự phát, tuỳ tiện hay lệch chiều, lệch hướng.
Nguyên tắc này đỏi hỏi trong quá trình giáo dục cần: -
Xác định mục đích và mục tiêu giáo dục của mọi hoạt động giáo dục.
Mục đích giáo dục được xác định phải đảm bảo phù hợp với mục tiêu của cấp học, ngành
học; phù hợp với những đặc điểm, tính chất, loại hình và hình thức hoạt động giáo dục cụ thể
được tổ chức; phải rõ ràng, chính xác, có tính khả thi và có thể đánh giá được.
Mục đích giáo dục phải được cụ thể hoá bởi các mục tiêu giáo dục của hoạt động. Mục
tiêu được xác định cần phải đảm bảo: phù hợp và phụ vụ cho việc đạt mục đích đã định; rõ
ràng, chính xác; có tính khả thi; có thể kiểm soát và đánh giá được với những chuẩn đánh giá,
thang đánh giá và cách thức đánh giá thích hợp.
Cần tránh những hiện tượng như: không xác định hay xác định mục đích, mục tiêu không
rõ ràng, không cụ thể, không có tính khả thi,..; xác định mục đích một đằng, mục tiêu một nẻo;… -
Xác định hình thức, phương pháp, phương tiện tổ chức hoạt động giáo dục phù
hợp đểhiện thực hoá mục đích giáo dục.
5.2.2 Nguyên tắc đảm bảo giáo dục gắn với cuộc sống của học sinh, với thực tiễn của đất nước.
Quá trình giáo dục học sinh là quá trình hình thành ở các em các phẩm chất, năng lực đáp
ứng yêu cầu của xã hội đặt ra. Vì vậy, quá trình giáo dục cần gắn với cuộc sống của học sinh,
với thực tiễn của đất nước trên hai phương diện cơ bản: Thứ nhất, là sự chuyển hoá các chuẩn
mực xã hội đã quy định thành ý nghĩa, giá trị đối với mỗi cá nhân học sinh, và được thể hiện
trong những hành động tương ứng của cá nhân trong cuộc sống thực tiễn. Thứ hai, quá trình
giáo dục cần tạo điều kiện để mỗi học sinh có khả năng thích ứng cao với đời sống xã hội và
những biến động không ngừng của nó. Quá trình giáo dục phải tận dụng, phát huy những ảnh
hưởng, tác động giáo dục của môi trường xã hội, làm cho học sinh không bị xa rời với đời sống xã hội. lO M oARcPS D| 45467232
Nguyên tắc này đảm bảo cho quá trình giáo dục góp phần xứng đáng vào việc nâng cao
đời sống, xây dựng đất nước, phát triển xã hội. Mặt khác, cuộc sống, thực tiễn đất nước lại góp
phần thuận lợi cho quá trình giáo dục. Bởi cuộc sống, thực tiễn đất nước với những hoạt động
phong phú và đa dạng là môi trường, là phương tiện hỗ trợ cho quá trình giáo dục. lO M oARcPS D| 45467232
Nguyên tắc này đỏi hỏi trong quá trình giáo dục cần:
- Giúp cho học sinh có những hiểu biết cần thiết về cuộc sống, về thực tiễn đất
nước.Trong quá trình giáo dục cần tạo cơ hội và điều kiện cho học sinh có những hiểu biết cần
thiết về cuộc sống, về thực tiễn đất nước, trước hết là thực tiễn, cuộc sống địa phương nới các
em sống và học tập. Những hiểu biết này có thể là những sự vật, hiện tượng, danh lam, thắng
cảnh, con người tiêu biểu của địa phương, sự đổi mới của địa phương, những truyền thống của địa phương,…
- Tổ chức và thu hút toàn bộ học sinh vào các hoạt động xã hội một cách vừa sức. cáchoạt
động xã hội được tổ chức cho học sinh là những hoạt động mang lại lợi ích cho xã hội, cộng
đồng, địa phương trước hết là nơi các em sinh sống, học tập.
- Làm cho học sinh có ý thức quan tâm đến các sự kiện trong đời sống chính trị, kinh
tế,văn hoá – xã hội của đất nước; làm cho các em biết được những thuận lợi, khó khăn và những
vấn đề mà địa phương, xã hội, đất nước cần phải giải quyết trong thực tiễn, từ đó nảy sinh tình
cảm, thái độ, suy nghĩ đúng đắn đối với quê hương, Tổ quốc.
- Phê phán, khắc phục những biểu hiện của việc tách rời nhà trường với đời sống xã
hội.Mặt khác, cũng cần khắc phục hiện tượng giáo dục chỉ chú trọng vào kiến thức văn hoá –
khoa học – kỹ thuật mà ít chú trọng dến giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống, lẽ sống cho học sinh.
5.2.3 Nguyên tắc giáo dục trong tập thể và bằng tập thể.
Trong quá trình giáo dục cần giáo dục học sinh trong tập thể và bằng tập thể. Bởi, tập thể
vừa là môi trường giáo dục vừa là phương tiện giáo dục.
Tập thể học sinh là môi trường giáo dục, vì;
- Nó là tập hợp có tổ chức chặt chẽ của học sinh với bộ máy tự quản riêng, với mục
đíchthống nhất, với những hoạt động chung.
- Trong môi trường tập thể, học sinh hành ngày tiếp xúc với nhau, không chỉ là với tưcách
là thành viên của tập thể, mà còn với tư cách là thành viên của xã hội, qua đó, các em học được
cách cư xử, biết sống theo quy tắc “mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Tập thể học sinh
có khả năng tạo nên được một phong độ tập thể: phấn khởi, hoạt bát, hăng hái, tích cực, sẵng
sàng hoạt động, có khôg khí đoàn kết, thân ái giữ mọi thành viên,…
-Tập thể luôn tồn tại nhờ có các hoạt động của mình. Và do được tham gia vào các hoạt
động tập thể đa dạng, được giao lưu, tiếp xúc với nhiều người, học sinh có điều kiện, cơ hội
bày tỏ thái độ, tình cảm đúng đắn và đặc biệt hình thành được những hành vi, thói quen tích cực.
- Tập thể học sinh đề ra những nội quy nhất định, cho nên, nhờ việc thực hiện những
nộiquy này, các em rèn luyện được những nét tính cách tích cực như tính kỷ luật, tinh thần đồng đội,…
Tập thể học sinh mặt khác còn là phương tiện giáo dục vì nó tạo ra được những tác động
giáo dục tích cực đối với các thành viên trong tập thể. Cụ thể là: lO M oARcPS D| 45467232
- Nó giúp cho các thành viên biến yêu cầu giáo dục khách quan từ phía nhà trường, từphía
giáo viên thành yêu cầu giáo dục chủ quan của tập thể và của mỗi thành viên. Bên cạnh đó, nó
còn tự đề ra những yêu cầu giáo dục cho các thành viên của mình.
- Nó có khả năng kích thích, điều chỉnh, định hướng hành vi, thói quen hành vi của
cácthành viên sao cho phù hợp với những yêu cầu giáo dục bằng sức mạnh của dư luận xã hội lành mạnh.
- Nó đánh giá và tạo điều kiện cho cá nhân tự đánh giá kết quả giáo dục của mình.
Chính vì vậy quá trình giáo dục cần tận dụng tập thể học sinh với tư cách vừa là môi trường,
vừa là phương tiện giáo dục.
Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình giáo dục cần:
- Xây dựng tập thể thành một tập thể vững mạnh. Muốn vậy cần:
+ Tạo ra sự đồng lòng, nhất trí giữa các học sinh trong lớp về việc tham gia, thực hiện các
hoạt động khác nhau nhằm đạt mục tiêu giáo dục.
+ Bảo đảm sự thống nhất lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể; lấy lợi ích cá nhân là tác nhân
kích thích, thúc đẩy trực tiếp sự phát triển của mỗi thành viên.
+ Khuyến khích học sinh thể hiện sự đoàn kết, thân ái giữa các thành viên trong tập thể,
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, tạo dư luận tập thể lành mạnh.
- Tổ chức các hoạt động tập thể mang lại tác dụng giáo dục. Trong đó, hoạt động tập
thểlà hoạt động do tập thể khởi xướng, phù hợp với mục đích tập thể, có sự tham gia của tất cả
hai đa số các thành viên, được tập thể đánh giá trên cơ sở lợi ích tập thể, lợi ích xã hội. Để hoạt
động tập thể mang tác dụng giáo dục, hoạt động phải:
+ Có mục đích, mục tiêu giáo dục rõ ràng, cụ thể, chính xác và khả thi.
+ Có nội dung phong phú liên quan đến nhiều lĩnh vực.
+ Có hình thức hấp dẫn, mang lại nhiều điều mới mẻ, bổ ích cho các thành viên.
+ Thu hút mọi thành viên tham gia và có sự phân công cho từng thành viên một cách vừa
sức, đảm bảo cho mọi thành viên hoàn thành nhiệm vụ của mình và chịu trách nhiệm trước tập
thể về kết quả thực hiện nhiệm vụ được phân công.
+ Có vai trò tự quản của học sinh, đặc biệt là những bậc học cao hơn, trong đó học sinh
cùng nhau bàn bạc để tự đề xuất, xây dựng và thực hiện kế hoạch cũng như tự đánh giá quá
trình, kết quả thực hiện kế hoạch.
- Tổ chức giao lưu không những trong phạm vi toàn lớp mà con trong phạm vi toàntrường.
Trong tập thể lớp, cần có sự giao lưu mật thiết và thường xuyên giữa các cá nhân với nhau,
giữa các nhóm, tổ,…với nhau. Từ đó xây dựng mối quan hệ ngày càng mật thiết, cùng phấn
đấu vì mục đích chung, nguyện vọng chung. Sự giao lưu trong một lớp được thực hiện khá đa
dạng: cùng nhau dự kiến, xây dựng kế hoạch tổ chức hoạt động, phân công nhiệm vụ cho nhau;
cùng nhau thực hiện, tham gia các công việc tập thể, cùng nhau đánh giá việc mình làm,…
Ngoài giao lưu giữa các thành viên trong lớp, nhà trường cần phải thiết lập và đẩy mạnh
giao lưu giữa các tập thể trong cùng một khối lớp, giữa các tập thể của khối lớp này với các tập lO M oARcPS D| 45467232
thể của khối lớp khác. Đó là vì tất cả các tập thể khối lớp họp lại thành một tập thể lớn của toàn
trường. Sự giao lưu giữa các tập thể này có được nhờ những hoạt động được tổ chức chung cho
các tập thể lớp với nhau. Nhờ sự giao lưu này, các tập thể học sinh có cơ hội hiểu biết lẫn nhau,
học tập lẫn nhau, đoàn kết với nhau,…Qua đó, giáo dục cho các em ý thực tập thể, tinh thần
trách nhiệm rộng rãi và sâu sắc hơn.
Sự giao lưu của các tập thể học sinh trong trường có nhiều biểu hiện khác nhau: cùng nhau
bàn bạc về việc thự hiện các công việc nhà trường giao, cùng phối hợp với nhau để tham gia,
thực hiện các công việc nhà trường cho có hiệu quả, trao đổi kinh nghiệm với nhau; cùng hoạt động chung với nhau,…
5.2.4 Nguyên tắc giáo dục trong lao động và bằng lao động
Trong quá trình giáo dục, lao động là phương tiện giáo dục hữu hiệu cho học sinh. Nhờ có
lao động giúp các em hình thành ý thức lao động đúng đắn, tình yêu đối với lao động, yêu sản
phẩm lao động, yêu người lao động, lòng tin vào năng lực sáng tạo của mình cũng như ý thức
tiết kiệm thời gian và nguyên vật liệu. Lao động giúp học sinh hình thành những kỹ năng lao
động cơ bản. Lao động còn giúp học sinh hình thành những thói quen tốt như: làm việc có kế
hoạch, có kỹ thuật, đảm bảo an toàn lao độn…
Lao động có khả năng to lớn trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh, bởi thông qua lao
động có thể rèn luyện hình thành ở học sinh nhiều hành vi, thói quen đạo đức như: làm việc
nhà để giúp đỡ người thana, tự làm lấy công việc của mình, giữ gìn trường lớn,…
Lao động còn giúp giáo dục thể chất cho học sinh, bởi qua lao động học sinh được vận
động, kích thích sự phát triển của các cơ quan trong cơ thể, các em tự biết bảo vệ mình trong lao động.
Lao động góp phần giáo dục thẩm mỹ cho học sinh qua việc giúp các em làm ra sản phẩm,
kết quả lao động có hình thức đẹp, biết tổ chức công việc hợp lý, biết thể hiện lòng cao thượng trong lao động,…
Chính vì thế quá trình giáo dục cần tận dụng các cơ hội khác nhau, để tiến hành giáo dục
học sinh trong lao động và bằng lao động. Có nghĩa là, trong quá trình giáo dục một mặt phải
đưa học sinh vào lao động với tư cách là người thực sự tham gia lao động. Mặt khác, khi học
sinh tham lao động thì phải sử dụng lao động như là một phương tiện giáo dục. Lao động sẽ
thực sự tác động vào nhân cách của học sinh, làm nhân cách của các em được phát triển ở mức
độ phù hợp với mức độ tham gia lao động có ý thức ở các em.
Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình giao dục cần:
-Thường xuyên tổ chức cho các em tự giác, tích cực tham gia nhiều loại hình lao động. -
Kích thích tính tích cực sáng tạo của các em qua lao động -
Đảm bảo mang lại hiệu quả lao động cụ thể
5.2.5 Nguyên tắc thống nhất giữa ý thức và hành vi.
Trong quá trình giáo dục, để chuyển hoá chuẩn mực hành vi thành hành vi, thói quen tích
cực ở học sinh cần đồng thời hình thành ở học sinh cả ba mặt: ý thức; thái độ, tình cảm và hành vi, thói quen tương ứng.
Ba mặt này có mối quan hệ biện chứng với nhau: lO M oARcPS D| 45467232 -
Ý thức bao gồm tri thức về chuẩn mực hành vi, về hoạt động và niềm tin tương
ứng.Khi có ý thức đúng, con người nhận thức rõ hành động của mình, hiểu được vì sao
mình thực hiện điều đó và biết cách thực hiện sao cho hiệu quả. Ý thức có tác dụng định
hướng lí trí cho việc bày tỏ thái độ, tình cảm và thực hiện hành vi, rèn luyện thói quen tích cực một cách tự giác.
Thái độ, tình cảm thể hiện thái độ cảm xúc của con người đối với thế giới xung quanh và
bản thân nên thái độ và tình cảm được xem là “chất men” có tác dụng kích thích, thúc đẩy con
người hành động. Đặc biệt với thái độ đúng đắn, tình cảm trong sáng, học sinh có thể vượt qua
mọi cám dỗ, trở ngãi để làm bằng được được điều chính nghĩa, bảo vệ lẽ phải.
Hành vi, thói quen là những hành động, việc làm được con người thực hiện trong cuộc
sống của mình. Hành vi, thói quen được hình thành có tác dụng củng cố, khắc sâu, mở rộng,
phát triển tri thức, niềm tin và thái độ, tình cảm tương ứng. Chính hành vi, thói quen mới làm
nên bộ mặt nhân cách của học sinh. Những hành vi, thói quen tốt sẽ được xã hội khen ngợi,
đồng tình và ngược lại, những hành vi, thói quen sai trái thì bị lên án, phê phán.
Chính vì vậy, quá trình giáo dục cần thống nhất được ý thức với hành vi theo những yêu cầu sau đây: -
Giúp học sinh nắm được những tri thức cần thiết về chuẩn mực hành vi. -
Hình thành ở học sinh niềm tin đối với các chuẩn mực hành vi. -
Tổ chức cho học sinh rèn luyện hành vi và thói quen tích cực. -
Đánh giá kết quả nhận thức và rèn luyện của học sinh một cách khách quan, công bằng.
5.2.6 Nguyên tắc thống nhất giữa tôn trọng nhân cách học sinh và yêu cầu cao hợp lí đối với các em
Tôn trọng nhân cách của học sinh là đánh giá đúng ưu nhược điểm của các em, đối xử dân
chủ, bình đẳng, lắng nghe ý kiến và tiếp thu ý kiến các em, trân trọng từng cố gắng và tiến bộ
của các em, tin vào sự thắng lợi và tiến bộ, tin tưởng vào sức lực, tài năng và chí hướng của
các em, tỏ thái độ tín nhiệm hợp lý, đánh giá cao nhân phẩm và luôn luôn có thái độ lạc quan đối với học sinh.
Yêu cầu cao hợp lý đối với học sinh là luôn luôn đề ra những tiêu chuẩn, những công việc
hợp lý, vừa sức ngày càng nâng cao dần và khi đã có yêu cầu hợp lý, yêu cầu học sinh nhất
thiết phải thực hiện, nếu học sinh không thực hiện nhà giáo dục phải kiên quyết buộc học sinh phải tuân theo.
Tôn trọng nhân cách và yêu cầu cao hợp lý có mối quan hệ mật thiệt với nhau. Tôn trọng
và yêu cầu cao hợp lý là hai mặt của một vấn đề, trong khi yêu cầu ở học sinh thật nhiều thì
bản thân sự yêu cầu chứa đựng sự tôn trọng của nhà giáo dục.
Thống nhất giữa tôn trọng nhân cách và yêu cầu cao hợp lý đối với học sinh là quán triệt
quan điểm cơ bản về lòng nhân đạo của con người với con người, lòng thương yêu, tin tưởng
vào bản chất tốt đẹp của con người trong quá trình giao dục. Khi nhà giáo dục càng tôn trọng
và yêu cầu cao đối với học sinh bao nhiêu thì học sinh càng quý trọng và tin tưởng nhà giáo dục bấy nhiêu. lO M oARcPS D| 45467232
Để thực hiện nguyên tắc này, nhà giáo dục cần: -
Có lòng thương yêu học sinh trong mọi hoạt động giáo dục. -
Tôn trọng nhân phẩm, danh dự, thân thể của học sinh, đồng thời kích thích lòng
tựtrọng ở các em, không định kiến, đố kị, bi quan, thiếu tin tưởng vào khả năng của các
em, cũng không nuông chiều, buông thả, tự do vô kỷ luật đối với các em. -
Là người đề xuất những yêu cầu và tổ chức cho học sinh thực hiện những yêu
cầu đó.Hệ thống yêu cầu do nhà giáo dục phải thoả mãn những tiêu chí sau:
+ Đáp ứng, phù hợp với mục đích và mục tiêu giáo dục.
+ Ngày càng cao và vừa sức với học sinh.
+ Có tác dụng khuyến khích học sinh tự giác, tích cực và chủ động thực hiện. + Có tính khả thi.
+ Có khả năng mang lại hiệu quả mong muốn -
Luôn tin tưởng và lạc quan đối với sự tiến bộ của học sinh.
5.2.7 Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa vai trò tổ chức, điều khiển, hướng dẫn của
nhà giáo viên và vai trò chủ thể tích cực của học sinh.
Trong quá trình giáo dục sự hoạt động độc lập, tích cực, sáng tạo của học sinh đóng vai trò
quyết định đối với việc hình thành nhân cách học sinh. Phát huy được tính tự giác, tự nguyện,
năng động của tập thể học sinh cũng như từng cá nhân học sinh là tiền đề thiết đảm bảo thành
công của quá trình giáo dục.
Nguyên tắc giáo dục này đòi hỏi nhà giáo dục trong việc thực hiện mọi nhiệm vụ giáo dục,
đối với mọi lứa tuổi học sinh, trên cơ sở tin tưởng và tôn trọng nhân cách của các em, luôn đề
cao vai trò làm chủ tập thể của học sinh và các tổ chức thành thiếu niên trong quá trình giáo
dục, trao đổi, bàn bạc dân chủ với học sinh về mọi tình huống giáo dục, lắng nghe và ủng hộ
những giải pháp tích cực và những sáng kiến đúng đắn của các em, từng bước xây dựng chế độ
tự quản của học sinh trong lớp cũng như toàn trường. Đồng thời nâng cao hơn nữa trách nhiệm
và vai trò sư phạm của nhà giáo dục, bằng cách theo dõi khéo léo và chặt chẽ quá trình và kết
quả của hoạt động tập thể học sinh và mỗi học sinh, ủng hộ các sáng kiến và biện pháp hay của
học sinh, động viên và cổ vũ ý chí phấn đấu để đạt mục đích mà các em đã đề ra.
Khi thực hiện nguyên tắc này cần chú ý:
- Giúp đỡ học sinh tự xây dựng kế hoạch học tập và phấn đấu vươn lên theo từng nămhọc,
xác định đúng mục đích, nội dung và phương pháp học tập, rèn luyện phù hợp với hoàn cảnh cụ thể.
- Thu hút sự tham gia tích cực của học sinh vào các hoat động chung, thường xuyên
theodõi, động viên, uốn nắn những sai lệch một cách kịp thời.
- Phát huy vai trò từ quản của học sinh, biến những yêu cầu giáo dục thành yêu cầu tựgiáo
dục của tập thể và của từng cá nhân.
- Tôn trọng, khuyến khích những ý tưởng tốt, những sáng kiến hay của tập thể học
sinh,tin tưởng, động viên để phát huy nhiều hơn nữa tính tích cực, sáng tạo của các em.