-
Thông tin
-
Quiz
CHƯƠNG 6 - tài liệu tham khảo - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen
CHƯƠNG 6 - tài liệu tham khảo - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả
Kinh tế chính trị Mác-Lênin (DC102EL01) 134 tài liệu
Đại học Hoa Sen 4.8 K tài liệu
CHƯƠNG 6 - tài liệu tham khảo - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen
CHƯƠNG 6 - tài liệu tham khảo - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả
Môn: Kinh tế chính trị Mác-Lênin (DC102EL01) 134 tài liệu
Trường: Đại học Hoa Sen 4.8 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:








Tài liệu khác của Đại học Hoa Sen
Preview text:
CH NG 6 : H ƯƠ I NH Ộ
P KINH TẾẾ QUỐẾC TẾẾ Ậ
1. Khái niệm và tính tất yếu khách quan hội nhập kinh tế quốc tế a. Khái niệm
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn kết, giao lưu, hợp tác giữa nền kinh tế quốc gia vào
nền kinh tế quốc gia khác hay tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu. Hội nhập kinh tế quốc tế là
một trong những xu thế lớn và tất yếu trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia cũng như toàn thế giới.
b. Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ nhất, do xu thế khách quan trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế.
Toàn cầu hóa là quá trình tạo ra liên kết và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các
quốc gia trên quy mô toàn cầu.
Toàn cầu quá diễn ra trên nhiều phương diện: kinh tế, chính trị, văn học, xã hội,… trong
đó, toàn cầu hóa kinh tế là xu thế nổi trội nhất khi vừa là trung tâm vừa là cơ sở, là động lực thúc
đẩy toàn cầu hóa các lĩnh vực khác
Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế hội nhập kinh tế quốc tế trở thành tất yếu khách quan:
- Lôi cuốn tất cả các nước vào hệ thống phân công lao động quốc tế, các mối liên hệ quốc
tế của sản xuất và trao đổi ngày càng gia tăng, khiến cho nền kinh tế của các nước trở thành trở
thành một bộ phận hữu cơ và không thể tách rời nền kinh tế toàn cầu.
- Các yếu tố sản xuất được lưu thông trên phâm vị toàn cầu. Nếu không hội nhập kinh tế
quốc tế, các nước không thể tự đảm bảo được các điều kiện cần thiết cho sản xuất trong nước
- Tạo ra cơ hội để các quốc gia giải quyết những vấn đề toàn cầu đã và đang xuất hiện ngày cành nhiều.
- Tận dụng được các thành tựu của cách mạng công nghiệp, biến nó thành động lực cho sựphát triển.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức phát triển phổ biến của các nước, nhất là
các nước đang và kém phát triển trong điều kiện hiện nay.Đối với các nước đang và kém phát
triển => Hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để tiếp cận và sử dụng được các nguồn lực bên ngoài
như tài chính, khoa học công nghệ, kinh nghiệm của các nước cho phát triểncủa mình.
Khi mà các nước tư bản giàu có nhất, các công ty xuyên quốc gia đang nắm trong tay
nhữngnguồn lực vật chất và phương tiện hùng mạnh nhất => Để tác động lên toàn thế giới thì chỉ
có phát triển kinh tế mở và hội nhập quốc tế, các nước đang và kém phát triển mới có thể tiếp cận
được những năng lực này cho phát triển của mình.
Hội nhập kinh tế quốc tế là còn là con đường có thể giúp cho các nước đang và kém phát
triển tận dụng thời cơ phát triển rút ngắn, thu hẹp khoảng cách với các nước tiên tiến, khắc phục
nguy cơ tụt hậu ngày càng rõ rệt.
Hội nhập kinh tế quốc tế giúp mở cửa thi trường, thu hút vốn, thúc đẩy công nghiệp hóa,
tăng tích lũy; tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới và nâng cao mức thu nhập tương đối của các tầng lớp dân cư.
Tuy nhiên, điều cần chú ý ở đây là chủ nghĩa tư bản hiện đại với ưu thế về vốn và công
nghệ đang ráo riết thực hiện ý đồ chiến lược biến quá trình toàn cầu hóa thành quá trình tự do hóa
kinh tế và áp đặt chính trị theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. => Khiến cho các nước đang và kém
phát triển phải dối mặt với không ít rủi ro, thách thức:
- Gia tăng sự phụ thuộc do nợ nước ngoài.
- Tình trạng bất bình đẳng trong trao đổi mậu dịch - thương mai giữa các nước đang phát
triển và phát triển. => Các nước đang và kém phát triển phát triển cần phải có chiến lược hợp lý,
tìm kiếm các đối sách phù hợp để thích ứng với quá trình toàn cầu hóa đa bình diện và đầy nghịch cảnh.
2. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập quốc tế có thể diễn ra trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội (chính trị, kinh tế, văn
hóa, giáo dục, an ninh - quốc phòng...) hoặc diễn ra trên cùng nhiều lĩnh vực với tính chất, phạm
vi, hình thức khác nhau. Chủ thể chính của hội nhập quốc tế là các quốc gia có đủ năng lực và
thẩm quyền đàm phán, ký kết và thực hiện các cam kết quốc tế khi đã ký tham gia. Hội nhập
quốc tế là một xu thế lớn, tất yếu và là đặc trưng quan trọng của thế giới hiện nay. Hội nhập quốc
tế đem tới cho các quốc gia không chỉ những lợi ích về mọi mặt, mà còn đặt các quốc gia trước
những thách thức, bất lợi. Song, con đường phát triển không thể nào khác đối với các nước trong
thời đại toàn cầu hóa là tham gia hội nhập quốc tế.
Nội dung của hội nhập là mở rộng thị trường cho nhau, vì vậy khi Việt nam gia nhập các
tổ chức quốc tế sẽ mở rộng quan hệ bạn hàng. Cùng với việc được hưởng nhiều ưu đãi về thuế
qua, xóa bỏ hàng rào phi thuế quan và các chế độ đãi ngộ khác đã tạo điều kiện cho hàng hóa Việt
Nam thâm nhập thị trường thế giới. Chỉ tính trong khu vực mậu dịch tự do ASEAN kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam sang các nước thành viên tăng đáng kể. Kim ngạch xuất nhập khẩu VN-
ASEAN tăng trung bình 15,3% hàng năm. Khi xuất khẩu tăng kéo theo số lượng việc làm được
tạo ra sẽ nhiều hơn. Như vậy sẽ có tác động tốt, tạo ra nhiều việc làm cũng như tăng thu nhập của người lao động.
3. Ý nghĩa hội nhập
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần tăng thu hút đầu tư nước ngoài, viện trợ phát triển
chính thức và giải quyết vấn đề nợ quốc tế.
Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho chúng ta tiếp thu khoa học công
nghệ tiên tiến, đào tạo cán bộ quản lý. Việt Nam gia nhập kinh tế quốc tế sẽ tranh thủ được kỹ
thuật công nghệ tiên tiến của các nước đi trước để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hội nhập
kinh tế quốc tế là con đường khai thông thị trường nước ta với khu vực và thế giới, tạo ra môi
trường đầu tư hấp dẫn và có hiệu quả.
Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần duy trì ổn định hòa bình, tạo dựng môi trường thuận
lợi để phát triển kinh tế, các chính sách kinh tế, cơ chế quản lý ngày càng minh bạch hơn, nâng
cao vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế.
Như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện cho nguồn lực nước ta được khai
thông, tăng cường giao lưu với các nước, đúng theo đường lối đối ngoại của Đảng đã xác định:
“Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế”.
4. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế a. Tác động tích cực
Dựa trên cơ sở các hiệp định đã được các bên thực hiện việc kí kết, các chương trình phát
triển kinh tế, khoa học kĩ thuật, văn hóa, xã hội hay một số các chương trình cụ thể khác được
phối hợp thực hiện giữa các nước thành viên; từng quốc gia thành viên có cơ hội và điều kiện
thuận lợi để nhằm mục đích có thể khai thác tối ưu lợi thế quốc gia trong phân công lao động
quốc tế, từng bước chuyển dịch cơ cấu sản xuất và cơ cấu xuất nhập khẩu theo hướng hiệu quả
hơn; từ đó cũng sẽ tạo điều kiện và tăng cường phát triển các quan hệ thương mại và thu hút đầu
tư nước ngoài, mở rộng thị trường xuất khẩu và nhập khẩu.
- Góp phần quan trọng tạo nên sự ổn định tương đối để nhằm mục đích giúp các quốc gia
cùng phát triển và sự phản ứng linh hoạt trong việc phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế giữa
các quốc gia thành viên, thúc đẩy việc tạo dựng cơ sở lâu dài cho việc thiết lập và phát triển các
quan hệ song phương, khu vực, và đa phương.
- Giúp hình thành cơ cấu kinh tế quốc tế mới với những ưu thế về quy mô, nguồn lực phát
triển, tạo việc làm, cải thiện thu nhập cho nhiều dân cư và gia tăng phúc lợi xã hội.
- Giúp hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật quốc gia về kinh tế phù hợp với luật
pháp, thông lệ quốc tế; từ đó tăng tính chủ động, tích cực trong hội nhập kinh tế quốc tế.
- Góp phần tạo động lực cạnh tranh, kích thích ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ,
đổi mới cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý kinh tế; học hỏi kinh nghiệm quản lý từ các nước tiên tiến.
- Tạo điều kiện cho mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích hợp trong trật tự thế giới
mới, giúp tăng uy tín và vị thế; tăng khả năng duy trì an ninh, hoà bình, ổn định và phát triển ở
phạm vi khu vực và thế giới. b. Tác động tiêu cực
- Tạo ra sức ép cạnh tranh giữa các thành viên khi tham gia hội nhập, khiến nhiều doanh
nghiệp, ngành nghề có thể lâm vào tình trạng khó khăn, thậm chí là còn có thể dẫn đến việc phá sản.
- Làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị trường khu vực và thế giới. Điều
này cũng sẽ khiến một quốc gia dễ bị sa lầy vào các cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hay khu vực.
- Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế có thể đặt các nước trước nguy cơ gia tăng tình trạng
khủng bố quốc tế, buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, di dân, nhập cư bất hợp pháp.
- Các nước đang và kém phát triển phải đối mặt với nguy cơ trở thành bãi rác công nghiệp
của các nước công nghiệp phát triển trên thế giới.
- Tạo ra một số thách thức đối với quyền lực Nhà nước theo quan niệm truyền thống.
- Làm tăng nguy cơ bản sắc dân tộc, văn hóa truyền thống bị xói mòn, lấn át bởi văn hóa nước ngoài.
- Hội nhập sẽ không phân phối công bằng lợi ích và rủi ro cho các nước và nhóm nước
khác nhau trong xã hội. Cũng chính vì thế mà sẽ dễ làm tăng khoảng cách giàu nghèo, tụt hậu
giữa các quốc gia hay tầng lớp dân cư trong xã hội.
5. Các loại hình hội nhập kinh tế quốc tế
a. Hội nhập kinh tế song phương
Là loại hình đầu tiên cần nhắc tới khi nền kinh tế một quốc gia hội nhập cùng các nền kinh tế
quốc gia khác là hợp tác kinh tế song phương.
Có thể tồn tại dưới dạng một thoả thuận, một hiệp định kinh tế, thương mại, đầu tư hay
hiệp định tránh đánh thuế hai lần, các thoả thuận thương mại tự do (FTAs) song phương...
Loại hình hội nhập này thường hình thành rất sớm từ khi mỗi quốc gia có chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã nhấn mạnh đến việc mở rộng giao lưu quốc
tế để thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhằm phát triển kinh tế đất nước. Tính đến ngày 30/12/2018,
Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 185 nước (so với 11 nước năm 1954); có 16 đối tác chiến
lược, 14 đối tác toàn diện. Việt Nam đã kí kết được trên 90 hiệp định thương mại song phương;
gần 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư; 75 hiệp định tránh đánh thuế hai lần và ngăn
ngừa việc trốn lậu thuế thu nhập với các nước/vùng lãnh thổ trên thế giới. Có thể kể đến một số
hiệp định kinh tế song phương của Việt Nam với các đối tác quan trọng.
b. Hội nhập kinh tế khu vực
Xu hướng khu vực hóa xuất hiện từ khoảng những năm 50 của thế kỉ XX và phát triển cho
đến ngày nay. Sự phân loại và khái niệm về các loại hình hội nhập kinh tế khu vực có sự thay đổi
theo sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Theo kinh nghiệm hội nhập kinh tế khu vực của Tây
Âu, các học giả phân loại hội nhập kinh tế khu vực thành các cấp độ từ thấp đến cao:
* Khu vực Mậu dịch tự do (FTA – quan niệm truyền thống)
Là liên kết kinh tế giữa hai hoặc nhiều nước nhằm mục đích tự do hóa buôn bán một số
mặt hàng nào đó, từ đó thành lập thị trường thống nhất giữa các nước, nhưng mỗi nước
thành viên vẫn thi hành chính sách thuế quan độc lập với các nước ngoài khu vực mậu dịch tự do.
Yếu tố tự do di chuyển trong các FTA theo quan niệm truyền thống chỉ là hàng hóa, mỗi
nước thành viên trong quan hệ đối ngoại với các nước ngoài FTA vẫn thi hành chính sách
thuế quan độc lập. Với lý do này, các học giả cho rằng đây là cấp độ thấp nhất của hội nhập kinh tế khu vực.
Theo Walter Goode, FTA được hiểu là “Một nhóm gồm hai hay nhiều nước cùng
xóa bỏ thuế quan và tất cả hoặc phần lớn các biện pháp phi thuế quan ảnh hưởng đến
thương mại giữa các nước này. Các nước tham gia FTA có thể tiếp tục áp dụng thuế quan
của nước mình đối với hàng hóa bên ngoài, hoặc nhất trí xây dựng một biểu thuế quan đối ngoại chung”.
Quan niệm truyền thống trên về FTA hiện không còn phù hợp. Đặc biệt từ những
năm 90 của thế kỉ XX đến nay đã xuất hiện trào lưu FTA thế hệ mới, theo đó, khái niệm
FTA không chỉ tạo ra sự tự do dịch chuyển hàng hóa, mà còn bao hàm sự tự do dịch
chuyển của nhiều yếu tố khác như: dịch vụ, vốn, lao động...
VD: Khu vực Mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA); Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA);…
* Liên minh hải quan (Customs Union – CU)
Liên minh hải quan là liên kết kinh tế trong đó các nước thành viên thỏa thuận loại
bỏ thuế quan trong quan hệ thương mại nội bộ, đồng thời thiết lập một biểu thuế quan
chung của các nước thành viên đối với phần còn lại của thế giới.
Theo Walter Goode: “Liên minh hải quan là một khu vực gồm có hai hay nhiều
nền kinh tế hoặc lãnh thổ hải quan riêng biệt, có quy định loại bỏ mọi loại thuế và đôi khi
cả những rào càn đối với việc mở rộng thương mại giữa chúng. Các thành viên lập nên
khu vực sau đó sẽ áp dụng một loại thuế đối ngoại chung”.
Có thể nhận thấy, CU là hình thức liên kết có tính thống nhất, tổ chức cao hơn so
với FTA. Cả hai loại hình hội nhập kinh tế khu vực này đều là sự thỏa thuận giữa hai hoặc
nhiều quốc gia về việc loại bỏ thuế quan và các hàng rào phi thuế quan khác đối với toàn
bộ hoặc một phần hoạt động mậu dịch của họ. Nhưng trong chính sách thuế quan với các
nước ngoài khối thì FTA và CU có sự khác biệt.
Sự ưu đãi nội bộ đã tạo ra sự phân biệt đối xử đối với các nước ngoài FTA và CU.
Tuy nhiên, sự phân biệt đối xử này được chấp nhận như một ngoại lệ của nguyên tắc
không phân biệt đối xử - Điều XXIV GATT.
VD: Liên minh hải quan Nam Phi (SACU); Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC);…
* Thị trường chung (Common Market – CM)
Là liên kết kinh tế được đánh giá có mức độ hội nhập cao hơn so với CU. Theo đó,
ở mức độ liên kết này, các nước thành viên ngoài việc cho phép tự do di chuyển hàng hóa,
còn thoả thuận cho phép tự do di chuyển tư bản và sức lao động giữa các nước thành viên với nhau.
VD: Thị trường chung châu Âu (ECM); Thị trường chung Nam Mỹ
(MERCOSUR); Thị trường chung Caribe (CARICOM);…
* Liên minh kinh tế và tiền tệ (Economic and Monetary Union – EMU)
Là một loại khối thương mại bao gồm một liên minh kinh tế (thị trường
chung và liên minh hải quan) và một liên minh tiền tệ được thành lập thông qua hiệp ước thương mại hội nhập kinh tế
và giai đoạn thứ sáu của .
Muốn đạt đến cấp độ liên minh kinh tế và tiền tệ, cần có hai giai đoạn phát triển là
Liên minh kinh tế (Economic Union) và Liên minh tiền tệ (Monetary Union):
- Liên minh kinh tế: là hình thức hợp tác giữa các nước, không chỉ giới hạn ở
những đặc điểm của thị trường chung như thương mại và sự di chuyển nhân tố sản xuất
một cách tự do, mà còn thống nhất mục tiêu kinh tế chung của các nước thành viên về
tăng trưởng kinh tế, việc làm ... và phối hợp chặt chẽ với nhau trong quá trình hoạch định
và thực thì chính sách tiền tệ, tài chính và các chính sách khác. Được đánh giá là cấp độ
liên kết cao hơn thị trường chung, thể hiện ở việc: Ngoài yếu tố tự do di chuyển là hàng
hóa, tư bản, sức lao động còn mở rộng thêm yếu tố tự do dịch chuyển cho dịch vụ giữa
các nước thành viên. Bên cạnh đó, các nước thành viên cùng nhau thiết lập một bộ máy tổ
chức điều hành sự phối hợp kinh tế giữa các nước nhằm tạo ra một không gian kinh tế
thống nhất, cơ cấu kinh tế tối ưu, xóa bỏ dần sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế
giữa các nước thành viên.
- Liên minh tiền tệ: là liên kết kinh tế trong đó các nước thành viên phải phối hợp
chính sách tiền tệ với nhau, cùng thực hiện một chính sách tiền tệ thống nhất và cuối cùng
là sử dụng chung một đồng tiền. là hình thức rất khó thực hiện trong các liên kết kinh tế,
nó có những đặc trưng riêng có sau: Hình thành đồng tiền chung thống nhất thay thế cho
các đồng tiền riêng của các nước thành viên; Thống nhất chính sách lưu thông tiền tệ; xây
dựng hệ thống ngân hàng chung thay cho các ngân hàng Trung ương của các nước thành
viên; Xây dựng chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng chung đối với các nước đồng minh
và các tổ chức tiền tệ quốc tế.