lOMoARcPSD| 58794847
CHƯƠNG I
1. Chức năng TTHS là gì? Phân tích các chức năng TTHS cơ bản?
- Chức năng bản của tố tụng hình sự phương diện hoạt động chủ yếu của tố
tụng hình sự, mang tính định hướng cơ bản nhằm phân định các hoạt động trong
lĩnh vực tố tụng hình sự của các chủ thể (nhóm chủ thể) khác nhau, trong phạm
vi buộc tội, bào chữa xét xử, trên sở phù hợp với nội dung, mục đích, quyền
nghĩa vụ của các bên tham gia tố tụng hình sự để thực hiện nhiệm vụ chung
của Luật tố tụng hình sự.
Chức năng buộc tội
Chức năng bào chữa
Chức năng xét xử
Chủ thể được thực
hiện
các chủ thể thẩm
quyền như Viện kiểm
sát, quan thẩm
quyền điều tra… theo
quy định của pháp
luật
bên bị buộc tội gồm
người bị buộc tội,
người bào chữa…
theo quy định của
pháp luật
Tòa án nhân dân
Vai trò
đóng vai trò chủ đạo;
sở để hình thành
chức năng bào chữa
và xét xử
tồn tại song song
cùng chức năng
buộc tội
mang tính quyết
định
Mục đích
phát hiện, chứng
minh tội phạm, người
phạm tội lỗi của
họ, buộc họ phải chịu
chế tài
hình sự
bác bỏ một phần
hoặc toàn bộ sự buộc
tội cũng như đưa ra
các tình tiết giảm nhẹ
để bảo vệ cho người
bị buộc
tội
đưa ra phán quyết
cuối cùng của vụ án
(xem xét/xác định
những cáo buộc đối
với bị cáo căn
cứ hợp pháp hay
không, từ đó quyết
định bị cáo phải
chịu TNHS hay
không)
Thời điểm xuất
hiện
khi có người bị buộc
tội
khi có người bị buộc
tội
Tòa án thẩm
quyền nhận hồ sơ
bản cáo trạng do
Viện kiểm sát
chuyển sang vào
hồ thụ vụ án
của Tòa án
Thời điểm kết thúc
khi bản án, quyết
khi bản án, quyết
khi bản án, quyết
lOMoARcPSD| 58794847
định của Tòa án
hiệu lực pháp luật
định của Tòa án
hiệu lực pháp luật
định của Tòa án
hiệu lực pháp luật
2. Mô hình TTHS là gì? Có những mô hình TTHS nào đã và đang tồn tại trên
thế giới? Ưu điểm và hạn chế của từng mô hình TTHS.
- Mô hình TTHS là sự khái quát cao những đặc trưng cơ bản, phổ biến, phản ánh
cách thức tổ chức hoạt động tố tụng hình sự, cách thức tìm đến sự thật khách
quan của vụ án. Cách thức tổ chức này quyết định địa vị tố tụng của các chủ
thể trong quá trình thực hiện các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự (chức
năng buộc tội, bào chữa và xét xử).
- Trên thế giới có 3 loại mô hình tố tụng hình sự: mô hình tố tụng hình sự thẩm
vấn; mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và mô hình tố tụng hình sự pha trộn
.
Mô hình TTHS thẩm vấn
Mô hình TTHS tranh
tụng
Khái
niệm
Huy động các quan tố
tụng chuyên nghiệp của
Nhà nước (Cơ quan điều
tra, Viện kiểm t/Viện
công tố, Tòa án) vào quá
trình đi tìm sự thật của vụ
án, các quan này cùng
được giao trách nhiệm
chứng minh tội phạm
Bảo đảm sự bình đẳng
tuyệt đối giữa bên buộc
tội (cơ quan công tố)
bên bào chữa trong suốt
quá trình đi tìm sự thật vụ
án
Ưu
điểm
- Nhà ớc đóng vai
tròchủ đạo trong việc tìm
kiếm sự thật, nên trong
chừng mực nhất định,
quyền lợi ích của Nhà
nước hội luôn được
bảo vệ tốt n khi quyền
đó xâm phạm bởi cá nhân
người phạm tội.
- Do không đặt nặng
hìnhthức, những sai phạm
không đáng kể trong thủ
tục có thể được bỏ qua nếu
mục đích chứng minh tội
phạm vẫn được giải quyết.
- Thể hiện tính công bằng
cao, bên bị buộc tội
bên gỡ tội đều quyền
nghĩa vụ như nhau
trong suốt quá trình tố
tụng. tính công bằng
cao, người bào chữa
bị cáo cũng dễ cảm thấy
mình đã một hội tốt
công bằng để đi m
công lý. - Quyền được
suy đoán tội của
người dân được tôn trọng
hơn so với các hình
TTHS
lOMoARcPSD| 58794847
- Thủ tục phiên tòa đơn
giản nhanh chóng, sự thật
nhanh chóng được tìm
kiếm.
khác.
lOMoARcPSD| 58794847
Hạn
chế
- Quyền con người
trongtố tụng thẩm vấn bị
buộc tội bị ảnh hưởng
nghiêm trọng
(để đẩy mạnh
công cuộc phòng, chống
tội phạm dễ dàng dẫn đến
tình trạng bức cung, dùng
nhục hình).
- Chứng cứ do
thẩmphán điều tra tập hợp
nên việc thẩm vấn bị xem
đi ngược lại nguyên tắc
tư, khách quan việc
tranh luận tại phiên tòa trở
nên vô nghĩa.
- Quyền bào chữa
củangười bị buộc tội tố
tụng thẩm vấn thực chất chỉ
quyền mang tính hình
thức, vai trò của người bào
chữa bị coi nhẹ quyền
của người bị buộc tội
không được bảo đảm.
- Người nhiệm
vụ xétxử tham gia một
cách thụ động vào phiên
tòa người không
chuyên nghiệp, đó chính
thành viên đoàn bồi
thẩm.
- Việc quá đề cao
sự đốitụng giữa các lợi
ích nhân làm cho
hình tranh tụng không
phản ánh được hết tầm
quan trọng của việc bảo
vệ lợi ích công cộng
trong các vụ án hình sự,
dẫn đến việc áp dụng tràn
lan hình thức đàm phán
nhận tội dẫn tới khả năng
bỏ lọt tội phạm cao.
- Năng lực của luật
sưcó vai trò quyết định
tới phán quyết của đoàn
bồi thẩm. Điều này dẫn
đến tình trạng các luật sư
giỏi sẽ được nhiều người
muốn thuê gây nên bất
công cho những người
nghèo không điều
kiện thuê luật sư giỏi.
- Thẩm phán
đoànbồi thẩm không biết
về vụ án từ trước cũng
không kiểm soát một
cách toàn diện đối với
thời gian xét xử gây tốn
kém tiền bạc thời
gian.
- Việc quy định
mộtkhung pháp chặt
chẽ
lOMoARcPSD| 58794847
cho việc sử dụng chứng
cứ tại tòa nhằm đưa đến
cho đoàn bồi thẩm những
chứng cứ “sạch” nhất để
ra phán quyết đúng đắn
nhất. Chứng cứ tuy
giá trị sử dụng cao cho
việc xác định sự thật
khách quan nhưng lại
thể bị loại bỏ do vi phạm
thủ tục.
3. Nêu các đặc điểm để nhận diện mô hình TTHS Việt Nam hiện nay. Việt
Nam nên đổi mới mô hình TTHS theo hướng nào? Tại sao? (Bỏ)
4. Đánh giá quy định của BLTTHS 2015 về nguyên tắc “Suy đoán
vô tội”.
- Nguyên tắc suy đoán tội (Điều 13) một nguyên tắc đặc biệt quan trọng của
một nền pháp hình sự dân chủ văn minh, nguyên tắc nền tảng của Luật
TTHS.
CSPL: Điều 11 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của LHQ 1948 (gồm quyền
được xét xử công khai và quyền bào chữa); Khoản 2 Điều 14 Công ước quốc tế
về các quyền dân sự chính trị 1966; Điều 31 Hiến pháp 2013; Điều 13
BLTTHS 2015.
- Lý do hình thành:
+ Xuất phát từ tính đặc thù của hoạt động tố tụng hình sự. Tố tụng hình sự phải kết
thúc rõ ràng bằng việc xác định rõ ràng bị can là người có tội hoặc người vô tội.
+ Cần thiết để tạo ra cân bằng hợp lý giữa lợi ích chung của xã hội và quyền tự do
cá nhân của con người.
+ Cần thiết để bảo vệ người yếu thế trong tố tụng hình sự.
- So với hiến pháp 1992, hiến pháp 2013 có những điểm tiến bộ hơn bằng cách
giới hạn chủ thể bị buộc tội, giới hạn giai đoạn tố tụng lại và thêm điều kiện để
xác định một người không có tội.
Nội dung nguyên tắc:
- Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo
trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật.
- Người có thẩm quyền THTT không được có định kiến và đối xử với người bị
bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo như là người đã có tội.
- Việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử một người phải được tiến hành theo trình
tự, thủ tục do pháp luật quy định.
- Toà án là cơ quan duy nhất có quyền kết tội và quyết định hình phạt.
lOMoARcPSD| 58794847
- Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị bắt,
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không có tội khi không đủ và không thể làm
sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội
+ Không đủ chứng cứ: Điều 108 BLTTHS 2015 “chứng cứ thu thập được phải bảo
đảm đủ để giải quyết vụ án hình sự” → phải đủ về chất.
- Không đủ số lượng (mức) chứng cứ cần và đủ (giới hạn chứng minh) để buộc
tội, kết tội.
- Khi còn có sự nghi ngờ về độ tin cậy và giá trị chứng minh của chứng cứ buộc
tội, kết tội nhưng không thể làm sáng tỏ.
Điều kiện thực hiện nguyên tắc:
- Đổi mới nhân thức, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho người có
thẩm quyền THTT.
- Tăng cường các yếu tố tranh tụng (nâng cao vị thế của người bào chữa) trong
quá trình giải quyết vụ án.
Ý nghĩa:
- Phản ánh sự đổi mới trong tư duy pháp lý trên cơ sở khoa học, là một bước tiến
trong nhận thức của nhân loại theo hướng tôn trọng và bảo vệ quyền con người
trong TTHS, thể hiện tính nhân đạo trong TTHS.
- Đảm bảo quá trình giải quyết VAHS được tiến hành một cách khách quan, công
bằng.
5. Phân tích nguyên tắc “Không ai bị kết án hai lần vì một tội
phạm”
CSPL: Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966; Điều 31
Hiến pháp 2013; Điều 14 BLTTHS 2015.
Nội dung nguyên tắc:
- “Không được khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với người mà hành vi của họ
đã có bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp họ thực hiện
hành vi nguy hiểm khác cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm.”
- Một người thực hiện hành vi phạm tội thì họ chỉ bị xét xử bởi một Tòa án và
chỉ phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý bởi một bản án.
- Bản án đã tuyên (kết án) đã có hiệu lực pháp luật là sự thể hiện quan điểm của
Nhà nước đối với hành vi phạm tội.
+ Trong trường hợp tội, bản án đưa ra một hình phạt cụ thể trong hệ thống hình
phạt của Bộ luật hình sự để áp dụng đối với người phạm tội. Do vậy, người phạm
tội khi đã bị xét xử về tội phạm do mình thực hiện đã bản án có hiệu lực
pháp luật tkhông phải chịu thêm bất kỳ một sự kết án nào khác về tội phạm
đó.
+ Vì vậy, nếu bản án đó là bản án tuyên vô tội và có hiệu lực pháp luật thì theo lẽ
dĩ nhiên chúng ta vẫn phải áp dụng nguyên tắc này đối với người bị buộc tội.
lOMoARcPSD| 58794847
Bởi lẽ, dù bản án tuyên có tội hay vô tội thì người bị buộc cũng đã bị một lần xét
xử do hành vi mình thực hiện, cho nên không thể chịu thêm bất kỳ lần xét xử
nào khác đối với hành vi đó.
Ý nghĩa:
- Thể hiện sự nhân đạo, công bằng trong pháp luật hình sự.
- Đề cao nguyên tắc mà nước ta cũng như các nước khác trên thế giới hướng
đến: Một người phải chịu trách nhiệm hình sự và bị xét xử một lần đối với một
hành vi phạm tội.
- Bảo đảm tính ổn định và giá trị pháp lý của các bản án, quyết định của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật.
- Góp phần tích cực trong việc phòng chống oan sai, hạn chế việc cơ quan tiến
hành tố tụng quy kết người không phạm tội.
6. Phân tích những quy định của BLTTHS 2015 nhằm thực hiện
nguyên tắc “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội”.
CHƯƠNG 2
1. Phân tích và đánh giá quy định BLTTHS 2015 về các trường hợp phải từ chối
hoặc thay đổi người có thẩm quyền THTT.
- Bảo đảm tính của những người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố
tụnglà một trong những nguyên tắc bản của tố tụng hình sự. Nếu có lý do xác đáng
để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình thì họ không
được tiến hành tố tụng. Điều luật đang bình luận quy định cụ thể những trường hợp phải
thay đổi người tiến hành tố tụng. Việc thay đổi do người tiến hành tố tụng từ chối tiến
hành tố tụng hoặc do có đề nghị thay đổi của những người có thẩm quyền do Bộ luật tố
tụng hình sự quy định.
- Khoản 1 Điều 49 không cho phép một người cùng một lúc vừa thực hiện nhiệm
vụ,quyền hạn và trách nhiệm của người tiến hành tố tụng (Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tán), vừa tham gia tố tụng với tư cách là người bị hại,
nguyên đơn dân sự, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; hoặc là người đại
diện hợp pháp, người thân thích của những người đó hoặc của bị can, bị cáo. Những
người thân thích của những người tiến hành tố tụng hoặc của bị can, bị cáo những
người có quan hệ họ hàng gần với những người đó như: ông, bà nội, ngoại; cha mẹ đẻ,
cha mẹ nuôi; vợ, chồng; anh, chị em, ruột; anh, chị, em nuôi; anh chị em vợ hoặc chồng;
cô, dì, chú, bác, cậu; con, cháu của cô, dì, chú, bác, cậu.
- Theo khoản 2 Điều 49, những người tiến hành tố tụng phải từ chối hoặc bị thay
đổinếu họ đã tham gia trong tố tụng hình sự với cách người bào chữa, người làm
chứng, người giám định, người phiên dịch trong vụ án đó.
lOMoARcPSD| 58794847
- Khoản 3 Điều 49 quy định những trường hợp khác phải từ chối hoặc thay đổi
ngườitiến hành tố tụng. Đó căn cứ ràng khác để cho rằng những người tiến hành
tố tụng có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ. Những căn cứ rõ ràng đó có thể là:
người tiến hành tố tụng có mối quan hệ mật thiết về công vụ, về kinh tế, về gia đình với
người lợi ích được giải quyết trong vụ án hoặc có mâu thuẫn nghiêm trọng với người
đó…
- Những trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng được quy
địnhở Điều 49 những trường hợp chung. Việc thay đổi từng loại người tiến hành tố
tụng cụ thể (Điều tra viên. Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án).
2. Nêu ý kiến cá nhân về việc trực tiếp ghi nhận quyền im lặng của người bị buộc
tội trong BLTTHS 2015.
3 - Đề K36. Anh (chị) hãy phân biệt người bị hại và nguyên đơn dân sự trong vụ
án hình sự.
Bị hại
Điều 51 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: Người bị hại là người bị thiệt hại
về vật chất, tinh thần hoặc tài sản do tội phạm gây ra.
Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt
hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín
do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.
Như vậy, bị hại theo quy định của BLTTHS năm 2015 có các điểm mới so với
BLTTHS năm 2003 là:
+ Về chủ thể bao gồm không chỉ cá nhân mà còn là cơ quan, tổ chức.
+ Về thiệt hại do tội phạm gây ra: Cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần,
tài sản còn nếu là cơ quan, tổ chức thì bị thiệt hại về tài sản, uy tín.
Nguyên đơn dân sự
Điều 63 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Nguyên đơn dân sự là cá nhân,
cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt
hại.
Phân biệt bị hại và nguyên đơn dân sự
Bị hại nguyên đơn dân sự đều chủ thể nhân, quan, tổ chức một số
quyền như nhau theo quy định tại Điều 62, Điều 63 BLTTHS. Ngoài ra bị hại còn
thêm một số quyền mà nguyên đơn dân sự không có như: Được tham gia tố tụng hay cả
trong trường hợp không yêu cầu, quyền trình bày buộc tội tại phiên tòa, quyền đề
lOMoARcPSD| 58794847
nghị hình phạt, quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án (nguyên đơn dân sự chỉ
có quyền kháng cáo về phần bồi thường thiệt hại).
Tuy nhiên trên thực tiễn còn xảy ra xác định tư cách tham gia tố tụng không chính xác,
nhất là trường hợp đối tượng bị thiệt hại là cơ quan, tổ chức. Vì vậy, để phân biệt bị hại
và nguyên đơn dân sự thì căn cứ những điểm sau:
- Về thiệt hại xảy ra:
+ Bị hại: Là bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản, uy tín (nếu là cơ quan, tổ
chức).
+ Nguyên đơn dân sự: Chỉ bị thiệt hại về tài sản.
- Về quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại xảy ra:
+ Bị hại bị thiệt hại trực tiếp từ hành vi phạm tội, mục đích của người phạm tội
là trực tiếp gây ra thiệt hại cho chủ thể này.
Ví dụ: A trộm cắp tài sản của cơ quan X và bị khởi tố. Theo quy định của BLTTHS năm
2003 thì quan X nguyên đơn dân sự nhưng theo BLTTHS m 2015 thì bị hại
trong vụ án hình sự.
+ Nguyên đơn dân sự bị thiệt hại gián tiếp từ hành vi phạm tội, mục đích của
người phạm tội không nhằm trực tiếp gây ra thiệt hại cho chủ thể này.
Ví dụ: A đánh B gây thương tích tại trụ sở cơ quan X. Hậu quả làm B bị thương còn cơ
quan X cũng bị hư hỏng một số tài sản. A bị khởi tố về tội cố ý gây thương tích. Trong
trường hợp này quan X nguyên đơn dân sự trong vụ án hình snếu đơn yêu
cầu bồi thường thiệt hại./.
4. So sánh người đại diện của bị hại và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
phápcủa bị hại. (Hông biết làm)
5. Phân tích và đánh giá quy định về nghĩa vụ của bị hại
trongBLTTHS 2015.
- mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
trường hợp cố ý vắng mặt không do bất khả kháng hoặc không do trở ngại
khách quan thì có thể bị dẫn giải: Bị hại phải có mặt khi cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng triệu tập để thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình và tạo điều
kiện thuận lợi cho việc giải quyết vụ án. Việc bị hại vắng mặt có thể cản trở hoạt động
lOMoARcPSD| 58794847
tố tụng, vì vậy nếu họ cố ý vắng mặt không do bất khả kháng hoặc không do trở
ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải;
- Chấp hành quyết định, yêu cầu của quan, người thẩm quyền tiến nh
tố tụng: Bị hại có nghĩa vụ phải khai báo, cung cấp những thông tin cần thiết giúp cho
việc làm sáng tỏ sự thật của vụ án và chấp hành quyết định, yêu cầu khác của cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Việc giải quyết đúng đắn vụ án không chỉ bảo
vệ lợi ích Nớc mà còn bảo vệ lợi ích của bị hại nên bị hại thường chủ động tích
cực trong việc khai báo. Việc họ từ chối khai báo hoặc không chấp hành những quyết
định, yêu cầu khác của quan thẩm quyền tiến hành tố tụng không có do
chính đáng việc không bình thường, không phù hợp tâm của nạn nhân. Hành vi
không chấp hành quyết định, yêu cầu của quan, người thẩm quyền tiến hành tố
tụng đó gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, có thể bị coi tội phạm phải chịu
trách nhiệm hình sự theo Điều 383 BLHS.
6. Phân biệt người làm chứng với người chứng kiến trong tố tụng
hìnhsự.
Tiêu chí
Người làm chứng
(Điều 66 BLTTHS 2015)
Người chứng kiến
(Điều 67 BLTTHS 2015)
Khái niệm
Người làm chứng là người biết
Người chứng kiến là người được cơ
được những tình tiết liên quan đến
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
nguồn tin về tội phạm, về vụ án và
yêu cầu chứng kiến việc tiến hành hoạt
được cơ quan có thẩm quyền tiến
động tố tụng theo quy định của Bộ luật
hành tố tụng triệu tập đến làm
Tố tụng hình sự.
chứng.
Đối tượng
không được
làm người
làm chứng/
- Người bào chữa của người bị
- Người thân thích của người bị buộc
buộc tội;
tội, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng;
lOMoARcPSD| 58794847
người chứng
kiến
- Người do nhược điểm về tâm
thần hoặc thể chất mà không có
- Người do nhược điểm về tâm thần
khả năng nhận thức được những
hoặc thể chất mà không có khả năng
tình tiết liên quan nguồn tin về tội
nhận thức đúng sự việc;
phạm, về vụ án hoặc không có khả
- Người dưới 18 tuổi;
năng khai báo đúng đắn.
- Có lý do khác cho thấy người đó
không khách quan.
Quyền
- Được thông báo, giải thích quyền
- Được thông báo, giải thích quyền và
và nghĩa vụ quy định tại Điều 66
nghĩa vụ quy định tại Điều 67
BLTTHS 2015;
BLTTHS 2015;
- Yêu cầu cơ quan triệu tập bảo vệ
- Yêu cầu người có thẩm quyền tiến
tính mạng, sức khoẻ, danh dự,
hành tố tụng tuân thủ quy định của
nhân phẩm, tài sản và quyền, lợi
pháp luật, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ,
ích hợp pháp khác của mình,
danh dự, nhân phẩm, tài sản và quyền,
người thân thích của mình khi bị
lợi ích hợp pháp khác của mình, người
đe dọa;
thân thích của mình khi bị đe dọa;
- Khiếu nại quyết định, hành vi tố
- Xem biên bản tố tụng, đưa ra nhận xét
tụng của cơ quan, người có thẩm
về hoạt động tố tụng mà mình chứng
quyền tiến hành tố tụng liên quan
kiến;
đến việc mình tham gia làm
- Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng
chứng;
của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
- Được cơ quan triệu tập thanh
hành tố tụng liên quan đến việc mình
toán chi phí đi lại và những chi phí
tham gia chứng kiến;
lOMoARcPSD| 58794847
khác theo quy định của pháp luật.
- Được cơ quan triệu tập thanh toán chi
phí theo quy định của pháp luật.
Nghĩa vụ
- Có mặt theo giấy triệu tập của cơ
- Có mặt theo yêu cầu của cơ quan có
quan có thẩm quyền tiến hành tố
thẩm quyền tiến hành tố tụng;
tụng. Tờng hợp cố ý vắng mặt
- Chứng kiến đầy đủ hoạt động tố tụng
mà không vì lý do bất khả kháng
được yêu cầu;
hoặc không do trở ngại khách
quan và việc vắng mặt của họ gây
- Ký biên bản về hoạt động mà mình
trở ngại cho việc giải quyết nguồn
chứng kiến;
tin về tội phạm, khởi tố, điều tra,
- Giữ bí mật về hoạt động điều tra mà
truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn
mình chứng kiến;
giải;
- Trình bày trung thực những tình tiết
- Trình bày trung thực những tình
mà mình chứng kiến theo yêu cầu của
tiết mà mình biết liên quan đến
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
nguồn tin về tội phạm, về vụ án và
lOMoARcPSD| 58794847
tụng.
lý do biết được những tình tiết đó.
7. Phân tích và đánh giá những điểm mới trong quy định của
BLTTHS2015 về địa vị pháp lý của người bào chữa.
- Thứ nhất, quy định về khái niệm người bào chữa và diện người bào chữa
Mặc dù người bào chữa là một trong những người tham gia Tố tụng Hình sự, có vai trò
không nhỏ đối với việc giải quyết vụ án hình sự một cách khách quan, toàn diện, bảo
vệ công lý, nhưng BLTTHS năm 2003 không quy phạm định nghĩa về khái niệm
người bào chữa. Khắc phục sự bất cập y, BLTTHS năm 2015 quy định: “Người bào
chữa người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc quan thẩm quyền tiến
hành tố tụng chỉ định và được quan, người thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận
việc đăng bào chữa” (Điều 72, khoản 1). Từ quy định này thấy rằng, để được coi là
người bào chữa trong Tố tụng Hình sự phải đáp ứng hai điều kiện:
(1) Được người buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành Tố
tụngHình sự chỉ định (bào chữa bắt buộc).
(2) Được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng chấp nhận việc đăng ký
bàochữa.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 72 BLTTHS năm 2015, những người thể tham gia
tố tụng với cách người bào chữa đã được mở rộng hơn so với quy định của BLTTHS
năm 2003. Theo đó, n cạnh Luật , bào chữa viên nhân dân, người đại diện hợp pháp
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thì trợ giúp viên pháp cũng thtrở thành người
bào chữa miễn phí cho các đối tượng chính sách được trợ giúp pháp lý.
Tuy nhiên, không phải bất cứ ai thuộc diện các đối tượng nêu trên đều có thể trở thành
người bào chữa. Để phù hợp với quy định của Luật Luật sư, cũng như bảo đảm tính
khách quan, tính chặt chẽ của hoạt động tố tụng, khoản 4 Điều 72 BLTTHS năm 2015
quy định những người sau đây không được bào chữa cho người bị buộc tội:
(1) Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó, người thân thích của người đã
hoặcđang tiến hành tố tụng trong vụ án đó.
(2) Người tham gia vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định,
ngườiđịnh giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật.
lOMoARcPSD| 58794847
(3) Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người bị kết án mà chưa được xóa
ántích, người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc.
Trong số những đối tượng không được làm người bào chữa nêu trên, những đối tượng
đã được BLTTHS năm 2003 quy định, nhưng cũng đối tượng mới được BLTTHS
năm 2015 bổ sung, đó là người đã tham gia vụ án đó với tư cách là người dịch thuật và
người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đã bị kết án chưa được xóa án tích,
người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc,
cơ sở giáo dục bắt buộc.
Để bảo đảm tốt nhất quyền bào chữa của người bị buộc tội, pháp luật cho phép một
người bào chữa có thể bào chữa cho nhiều người bị buộc tội trong cùng một vụ án nếu
quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau. Đồng thời, pháp luật cũng cho phép nhiều
người bào chữa có thể bào chữa cho một người bị buộc tội.
- Thứ hai, quy định về thủ tục đăng ký bào chữa
Theo quy định của BLTTHS năm 2003, để tham gia bào chữa trong vụ án, người bào
chữa phải được cấp giấy chứng nhận người bào chữa. Hiện nay, BLTTHS năm 2015 đã
thay thủ tục “cấp giấy chứng nhận bào chữa” bằng thủ tục “đăng ký bào chữa”, theo đó
trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ mà người bào chữa phải xuất trình theo
quy định tại khoản 2 khoản 3 Điều 78 BLTTHS năm 2015, quan thẩm quyền
tiến hành tố tụng có trách nhiệm kiểm tra giấy tờ do người bào chữa cung cấp, nếu thấy
đủ điều kiện luật định tvào sổ đăng ký o chữa gửi ngay văn bản thông báo người
bào chữa cho người đăng ký và cơ sở giam giữ, đồng thời lưu các giấy tờ liên quan đến
đăng ký bào chữa trong hồ vụ án. Ngược lại, nếu xét thấy không đủ điều kiện đăng
ký bào chữa thì từ chối việc đăng ký bào chữa và phải có văn bản nêu rõ lý do từ chối.
Từ quy định trên thấy rằng, thời hạn chấp nhận đăng bào chữa được rút ngắn từ 03
ngày theo quy định của BLTTHS năm 2003 xuống còn 01 ngày (24 giờ) kể từ khi nhận
đủ các giấy tluật định. Để khắc phục tình trạng “đẻ” thêm thủ tục, giấy tờ liên quan
đến bào chữa, BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể các loại giấy tờ cần phải xuất trình
tương ứng với từng diện người bào chữa trong trường hợp bào chữa thông thường
bào chữa chỉ định. Ngoài ra, để xóa bỏ việc người bào chữa phải thực hiện thủ tục xin
cấp giấy chứng nhận người bào chữa riêng cho từng giai đoạn tố tụng như trước đây,
BLTTHS năm 2015 quy định văn bản thông o người bào chữa có giá trị sử dụng trong
suốt quá trình tham gia tố tụng. Những quy định trên đây đã tạo thuận lợi hơn cho những
đối tượng muốn trở thành người bào chữa, bảo đảm sự minh bạch, ràng, cũng như
bảo đảm tính kịp thời và hiệu quả của hoạt động bào chữa trong Tố tụng Hình sự.
- Thứ ba, quy định về lựa chọn, chỉ định người bào chữa
lOMoARcPSD| 58794847
Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 đã sự sửa đổi, bổ sung đáng kể về lựa chọn, chỉ
định người bào chữa, theo đó người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích
của họ quyền lựa chọn người bào chữa (khoản 1 Điều 75). So với quy định của
BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã mở rộng chủ thể có quyền lựa chọn người
bào chữa bằng việc quy định bổ sung người thân thích của người bị buộc tội có quyền
mời người bào chữa. Đồng thời, còn quy định cụ thể thủ tục và trách nhiệm của quan
thẩm quyền tiến hành tố tụng, quan quản lý người bị tạm giữ, tạm giam khi tiếp
nhận được yêu cầu nhờ người bào chữa từ người bị buộc tội phải chuyển yêu cầu này
hoặc thông báo cho người bào chữa được họ nhờ biết; có trách nhiệm tạo điều kiện cho
người bào chữa liên hệ với người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam để thỏa thuận về việc nhờ
bào chữa.
Sự sửa đổi, bổ sung này của BLTTHS năm 2015 ý nghĩa cùng quan trọng.
không chỉ giải quyết những vướng mắc trong chế bảo đảm cho người bị buộc tội
đang bị tạm giữ, tạm giam hội tiếp cận với người bào chữa để bảo vệ quyền
lợi ích hợp pháp của mình, mà còn ngăn ngừa các biểu hiện ngăn cản, gây khó khăn cho
người bào chữa khi tham gia tố tụng, qua đó bảo đảm tốt hơn quyền bào chữa của người
bị buộc tội, nhất người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam. Đặc biệt, để tháo gỡ những
vướng mắc liên quan đến việc bào chữa cho người bị tạm giữ, tạm giam, đồng thời
nhằm bảo đảm tính minh bạch của hoạt động Tố tụng Hình sự, BLTTHS năm 2015 đã
bổ sung quy định: “Trong trường hợp người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam
trong giai đoạn điều tra đề nghị từ chối người bào chữa do người thân thích của họ
nhờ thì điều tra viên phải cùng người bào chữa đó trực tiếp gặp người bị bắt, người bị
tạm giữ, người bị tạm giam để xác nhận việc từ chối” (khoản 2 Điều 77).
Bên cạnh đó, để bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội theo khung hình phạt
có quy định các loại, mức hình phạt nghiêm khắc, BLTTHS năm 2015 đã mở rộng các
trường hợp bắt buộc phải người bào chữa (trường hợp người bị buộc tội được chỉ
định người bào chữa), đối với bị can, bị cáo về tội Bộ luật nh sự quy định mức
cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS năm 2003, chỉ bị can, bị cáo về tội theo
khung hình phạt mức cao nhất tử hình mới được chỉ định người bào chữa. Trong
khi đó, Điều 76 BLTTHS năm 2015 thì bị can, bị cáo về tội Bộ luật Hình sự quy
định mức cao nhất của khung hình phạt 20 năm tù, chung thân hoặc tử hình phải
được chỉ định người bào chữa. Thêm vào đó, việc chỉ định người bào chữa cho đối
tượng có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần theo quy định của BLTTHS năm 2003
chỉ áp dụng đối với bị can, bị cáo, BLTTHS năm 2015 đã mở rộng đối với cả người bị
bắt, người bị tạm giữ.
- Thứ tư, quy định về thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng
lOMoARcPSD| 58794847
Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định thời điểm tham gia tố tụng của người bào
chữa sớm hơn, theo đó người bào chữa có quyền tham gia tố tụng kể từ khi người bị bắt
mặt tại trụ sở của quan điều tra, quan được giao nhiệm vụ tiến hành một s
hoạt động điều tra (Điều 74) thay vì tham gia từ khi có quyết định tạm giữ như quy định
của BLTTHS năm 2003.
Sự sửa đổi này xuất phát từ việc BLTTHS năm 2015 coi người bị bắt là người bbuộc
tội (khoản 1 Điều 4) và người bị buộc tội quyền tự bào chữa, nhngười bào chữa.
Với quy định này, người bào chữa được quyền tham gia tố tụng rất sớm, từ trước khi có
quyết định khởi tố bị can, qua đó góp phần bảo vệ kịp thời quyền lợi ích hợp pháp
của người bị buộc tội ngay từ những hoạt động đầu tiên của quá trình tố tụng.
- Thứ năm, quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa
Trong BLTTHS năm 2003, quyền và nghĩa vụ của người bào chữa tuy đã được quy định
nhưng chưa thật sự đầy đủ. Để người bào chữa thực hiện tốt việc bào chữa, đồng thời
tăng cường trách nhiệm của người bào chữa khi tham gia tố tụng, BLTTHS năm 2015
đã bổ sung quyền của người bào chữa, gồm:
(1) Quyền gặp, hỏi người bị buộc tội.
(2) Quyền mặt khi lấy lời khai của người bị bắt. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cungcủa
người có thẩm quyền kết thúc, người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm
giữ, bị can.
(3) Được quan thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm
lấylời khai, hỏi cung thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra theo quy
định của BLTTHS.
(4) Thu thập chứng cứ; kiểm tra, đánh giá trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu,
đồvật liên quan yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng
cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản.
(5) Đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế.
Cùng với việc mở rộng quyền, BLTTHS năm 2015 còn bổ sung nghĩa vụ của người bào
chữa phải có mặt theo yêu cầu của cơ quan điều tra, viện kiểm sát; không được tiết l
thông tin mình biết được khi tham gia các hoạt động tố tụng liên quan đến vụ án
hoặc liên quan đến người mình bào chữa cho những người không trách nhiệm
giải quyết vụ án.
Ngoài ra, BLTTHS năm 2015 còn bổ sung cơ chế để người bào chữa thực hiện tốt việc
bào chữa như: Quy định trách nhiệm của các quan thẩm quyền tiến hành tố tụng
phải thông báo trước cho người bào chữa thời gian, địa điểm tiến hành các hoạt động tố
lOMoARcPSD| 58794847
tụng họ quyền tham gia; quy định cụ thể thủ tục gặp người bị buộc tội đang bị
bắt, tạm giữ, tạm giam, thủ tục giao nộp chứng cứ, thủ tục đọc, ghi chép, sao chụp tài
liệu trong hồ sơ vụ án.
8. Phân tích và đánh giá quy định của BLTTHS 2015 về vấn đề từ
chốingười bào chữa chỉ định của người bị buộc tội là người dưới 18
tuổi.
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 76 Điều 422 BLTTHS 2015 thì người bị
buộc tội người ới 18 tuổi sẽ được chỉ định người bào chữa. Sau khi quan
thẩm quyền chỉ định NBC cho bị cáo người dưới 18 tuổi, bị cáo vẫn quyền yêu
cầu thay đổi hoặc từ chối NBC được chỉ định cho họ. Tuy nhiên quyền này không
tính tuyệt đối. Theo quy định tại khoản 3 Điều 77 BLTTHS năm 2015, trong trường hợp
chỉ có bị o dưới 18 tuổi từ chối NBC còn người đại diện hợp pháp của bị cáo không
từ chối thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử với sự tham gia của NBC đã được cử. Quy
định này nhằm bảo đảm lợi ích của chính các bị cáo là người dưới 18 tuổi, đồng thời nó
thể hiện sự tiến bộ của pháp luật. Thông thường quyền o chữa quyền của bị cáo,
họ có quyền quyết định, lựa chọn NBC tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình, các quan THTT nghĩa vụ tôn trọng quyết định đó của bị cáo.
Nhưng trong các trường hợp quy định tại Điều 76 BLTTHS năm 2015 thì quyền quyết
định của các chủ thể này không có tính tuyệt đối. Sở dĩ, pháp luật hạn chế quyền của bị
cáo trong trường hợp này để bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của bị cáo. Bị cáo
người dưới 18 tuổi là những người còn nhiều hạn chế về hiểu biết pháp luật cũng như
kiến thức xã hội do đó họ có thể gặp khó khăn trong việc thực hiện quyền bào chữa của
mình nên cần có sự can thiệp từ phía các cơ quan, người THTT.
9. Có nên quy định thủ tục đăng ký bào chữa không? Tại sao?
- Quy định thủ tục đăngbào chữa tại Điều 78 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 trực
tiếp tháo gỡ rào cản thtục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho Luật sư, bào chữa
viên nhân dân, trợ giúp viên pháp lý, người đại diện của người bị buộc tội tiếp cận sớm
với người bị buộc tội. Nhìn chung, quy định về thủ tục đăng o chữa các đặc
điểm sau đây:
+ Thứ nhất, về chủ thể đăng bào chữa: người được người bị buộc tội, người
đại diện hoặc người thân thích của họ nhờ thực hiện việc bào chữa hoặc người được cơ
quan thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định bào chữa cho người bị buộc tội, bao
gồm: Luật sư, người đại diện của người bị buộc tội, bào chữa viên nhân dân, trợ giúp
viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý
(khoản 1, 2 BLTTHS 2015).
+ Thứ hai, về giai đoạn tố tụng thể thực hiện việc đăng bào chữa: Việc đăng
bào chữa thể được thực hiện sớm nhất giai đoạn khởi tố khi người bị bắt,
người bị tạm giữ hoặc được thực hiện trong giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. + Thứ
ba, về hoạt động đặc trưng: Người muốn trở thành người bào chữa cho người bị buộc
lOMoARcPSD| 58794847
tội thực hiện việc nộp các giấy tờ theo nội dung yêu cầu của điều luật; cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng xem xét chấp thuận hoặc không chấp thuận việc đăng bào
chữa, vào sổ đăng ký bào chữa hoặc từ chối đăng ký bào chữa.
+ Thứ tư, về giá trị của văn bản thông báo người bào chữa: Văn bản thông báo người
bào chữa giá trị sử dụng trong suốt quá trình tham gia tố tụng, trừ các trường hợp
người bị buộc tội từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa hoặc người đại diện
hoăc người thân thích của người bị buộ c tộ i có nhược điểm về thể chất mà không
thể
tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi từ chối hoặc
đề nghị thay đổi người bào chữa (khoản 6 Điều 78 BLTTHS 2015).
+ Thứ năm, về hủy bỏ đăng ký bào chữa: Cơ quan thẩm quyền tiến hành tố tụng
thực hiện hủy bỏ việc đăng ký bào chữa, làm chấm dứt cách người bào chữa khi phát
hiện người bào chữa thuộc những trường hợp không được bào chữa theo khoản 4 Điều
72 BLTTHS 2015 hoặc khi người bào chữa vi phạm pháp luật khi tiến hành bào chữa
theo khoản 7 Điều 78 BLTTHS 2015.
- Nhìn chung, quy định thủ tục đăng bào chữa tại Điều 78 Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015 là một trong những nội dung cải cách tư pháp mang tính đột phá, xóa bỏ hẳn
thủ tục cấp giấy nhận người bào chữa của cơ quan tiến hành tố tụng theo quy định B
luật tố tụng hình sự trước đây. Tuy nhiên, do lần đầu tiên được ghi nhận nên quy định
này không thể tránh khỏi những tồn tại, hạn chế cần được nghiên cứu, thảo luận nghiêm
túc, làm cơ sở để cơ quan có thẩm quyền xem xét thay đổi hoặc hướng dẫn kịp thời.
10. So sánh người bào chữa với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bịhại, đương sự.
11. Vì sao người làm chứng không thể trở thành người bào chữa và ngược
lại?- Người làm chứng không thể trở thành người bào chữa bởi vì người bào chữa chỉ
được phép đưa ra những chứng cứ có lợi cho người bị buộc tội. Họ không thể làm
chứng vì nghĩa vụ của người làm chứng là phải khai báo trung thực những gì họ biết
về vụ án, nghĩa vụ đó mâu thuẫn với nghĩa vụ của người bào chữa.
12. Vì sao người dưới 18 tuổi không được làm người chứng kiến trong tố
tụnghình sự?
- Người chứng kiến người được quan thẩm quyền tiến hành ttụng yêu
cầuchứng kiến việc tiến hành hoạt động tố tụng.
- Người chứng kiến trách nhiệm xác nhận nội dung, kết quả công việc người
cóthẩm quyền tiến hành tố tụng đã tiến hành trong khi mình mặt và có thể nêu ý kiến
cá nhân. Ý kiến này được ghi vào biên bản.
- Người dưới 18 tuổi là người có năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ. Họ là chủ
thể không đảm bảo có đầy đủ nhận thức, sự vô tư, khách quan trong quá trình thực hiện
nghĩa vụ của mình thì không được làm người chứng kiến.
13. Đánh giá quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thời điểm tham gia tố
tụng của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự.
Theo Thông tư 46/2019/TT-BCA quy định:
lOMoARcPSD| 58794847
“Điều 7. Thời điểm người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự,
người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố tham gia tố tụng
1. Thời điểm người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị hại, người bị tố
giác,người bị kiến nghị khởi tố tham gia tố tụng kể từ khi có Quyết định phân công giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố căn cứ xác định tư cách tham
gia tố tụng của bị hại, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố.
2. Thời điểm người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn dân sự, bị
đơndân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự kể từ khi có quyết
định khởi tố vụ án hình sự và có căn cứ xác định cách tham gia tố tụng của nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự.
CHƯƠNG 2
I. CÂU HỎI LÝ THUYẾT
1. Phân tích và đánh giá quy định của BLTTHS 2015 về các trường hợp
phải từ chối hoặc thay đổi người có thẩm quyền THTT?
Được quy định tại Điều 49 BLTTHS 2015 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2018)
“Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi
khi thuộc một trong các trường hợp:
1. Đồng thời bị hại, đương sự; người đại diện, người thân thích của bị hại,
đương sự hoặc của bị can, bị cáo;
2. Đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám định,
người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật trong vụ án đó;
3. Có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm
vụ.”
Các trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 theo khoản 1 Điều 49
Khoản 1 Điều 49 không cho phép một người cùng một lúc vừa thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người tiến hành tố tụng (Cán bộ điều tra, Điều tra
viên, Kiểm tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án), vừa tham
gia tố tụng với tư cách là bị hại, đương sự; là người đại, diện, người thân thích của bị
hại, đương sự hoặc của bị can, bị cáo.
lOMoARcPSD| 58794847
Những người thân thích của những người tiến hành tố tụng hoặc của bị can, bị
cáo là những người có quan hệ họ hàng gần với những người đó như: ông, bà nội,
ngoại; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi; vợ, chông; anh, chị em, ruột; anh, chị, em nuôi; anh
chị em vợ hoặc chồng; cô, dì, chú, bác, cậu; con, cháu của cô, dì, chú, bác, cậu.
Các trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 theo khoản 2 Điều 49
Theo khoản 2 Điều 49, những người tiến hành tố tụng phải từ chối hoặc bị thay
đổi nếu họ đã tham gia trong tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa, người làm
chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật
trong vụ án đó.
Các trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 theo khoản 3 Điều 49
Khoản 3 Điều 49 quy định những trường hợp khác phải từ chối hoặc thay đổi
người tiến hành tố tụng. Đó là có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng những người tiến
hành tố tụng có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ. Những căn cứ rõ ràng đó có
thể là: người tiến hành tố tụng có mối quan hệ mật thiết về công vụ, về kinh tế, về gia
đình với người có lợi ích được giải quyết trong vụ án hoặc cố mâu thuẫn nghiêm trọng
với người đó
Kết luận: Những trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng
được quy định ở Điều 49 là những trường hợp chung. Việc thay đổi từng loại người
tiến hành tố tụng cụ thể (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký
Tòa án) được cụ thể hóa ở các Điều 51,52, 53, 54 Bộ luật này.
Từ việc phân tích khoản 1 2 3 Điều 49 ta thấy Điều luật hiện đang có những
ưu điểm và hạn chế sau:
Ưu điểm từ điều luật này: Bảo đảm tính vô tư của những người tiến hành tố tụng
hoặc người tham gia tố tụng là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình
sự. Nếu có lý do xác đáng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện
nhiệm vụ của mình thì họ không được tiên hành tô tụng.
Nhược điểm: tại khoản 3 cần có hướng dẫn cụ thể các căn cứ thay đổi người tiến
hành tố tụng, đảm bảo cho việc kiểm sát hoạt động của các cơ quan, người tiến hành
tố tụng dễ dàng hơn.
2. Nêu ý kiến cá nhân về việc trực tiếp ghi nhận quyền im lặng của người bị
buộc tội trong BLTTHS 2015?

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58794847 CHƯƠNG I
1. Chức năng TTHS là gì? Phân tích các chức năng TTHS cơ bản?
- Chức năng cơ bản của tố tụng hình sự là phương diện hoạt động chủ yếu của tố
tụng hình sự, mang tính định hướng cơ bản nhằm phân định các hoạt động trong
lĩnh vực tố tụng hình sự của các chủ thể (nhóm chủ thể) khác nhau, trong phạm
vi buộc tội, bào chữa và xét xử, trên cơ sở phù hợp với nội dung, mục đích, quyền
và nghĩa vụ của các bên tham gia tố tụng hình sự để thực hiện nhiệm vụ chung
của Luật tố tụng hình sự.
Chức năng buộc tội Chức năng bào chữa Chức năng xét xử Chủ thể được thực
bên bị buộc tội gồm Tòa án nhân dân các chủ thể có thẩm hiện người bị buộc tội,
quyền như Viện kiểm người bào chữa…
sát, cơ quan có thẩm theo quy định của
quyền điều tra… theo pháp luật quy định của pháp luật Vai trò
tồn tại song song mang tính quyết
đóng vai trò chủ đạo; cùng chức năng định
là cơ sở để hình thành buộc tội chức năng bào chữa và xét xử Mục đích
phát hiện, chứng bác bỏ một phần đưa ra phán quyết
minh tội phạm, người hoặc toàn bộ sự buộc cuối cùng của vụ án
phạm tội và lỗi của tội cũng như đưa ra (xem xét/xác định
họ, buộc họ phải chịu các tình tiết giảm nhẹ những cáo buộc đối
để bảo vệ cho người với bị cáo là có căn chế tài bị buộc cứ và hợp pháp hay hình sự tội không, từ đó quyết định bị cáo có phải chịu TNHS hay không) Thời điểm xuất
khi có người bị buộc khi có người bị buộc Tòa án có thẩm hiện tội tội quyền nhận hồ sơ và bản cáo trạng do Viện kiểm sát chuyển sang và vào hồ sơ thụ lý vụ án của Tòa án
Thời điểm kết thúc khi bản án, quyết khi bản án, quyết khi bản án, quyết lOMoAR cPSD| 58794847
định của Tòa án có định của Tòa án có định của Tòa án có hiệu lực pháp luật hiệu lực pháp luật hiệu lực pháp luật
2. Mô hình TTHS là gì? Có những mô hình TTHS nào đã và đang tồn tại trên
thế giới? Ưu điểm và hạn chế của từng mô hình TTHS.
- Mô hình TTHS là sự khái quát cao những đặc trưng cơ bản, phổ biến, phản ánh
cách thức tổ chức hoạt động tố tụng hình sự, cách thức tìm đến sự thật khách
quan của vụ án. Cách thức tổ chức này quyết định địa vị tố tụng của các chủ
thể trong quá trình thực hiện các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự (chức
năng buộc tội, bào chữa và xét xử).
- Trên thế giới có 3 loại mô hình tố tụng hình sự: mô hình tố tụng hình sự thẩm
vấn; mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và mô hình tố tụng hình sự pha trộn. Mô hình TTHS thẩm vấn Mô hình TTHS tranh Mô hình TTHS pha trộn tụng Khái
Huy động các cơ quan tố Bảo đảm sự bình đẳng Mô hình tố tụng có sự đan niệm
tụng chuyên nghiệp của tuyệt đối giữa bên buộc xen, kết hợp của cả hai
Nhà nước (Cơ quan điều tội (cơ quan công tố) và cách thức tổ chức hoạt
tra, Viện kiểm sát/Viện bên bào chữa trong suốt động tố tụng hình sự thẩm
công tố, Tòa án) vào quá quá trình đi tìm sự thật vụ vấn và tranh tụng.
trình đi tìm sự thật của vụ án án, các cơ quan này cùng được giao trách nhiệm chứng minh tội phạm Ưu -
Nhà nước đóng vai - Thể hiện tính công bằng điểm
tròchủ đạo trong việc tìm cao, bên bị buộc tội và
kiếm sự thật, nên trong bên gỡ tội đều có quyền
chừng mực nhất định, và nghĩa vụ như nhau
quyền và lợi ích của Nhà trong suốt quá trình tố
nước và xã hội luôn được tụng. Có tính công bằng
bảo vệ tốt hơn khi quyền cao, người bào chữa và
đó xâm phạm bởi cá nhân bị cáo cũng dễ cảm thấy người phạm tội.
mình đã có một cơ hội tốt -
Do không đặt nặng và công bằng để đi tìm
hìnhthức, những sai phạm công lý. - Quyền được
không đáng kể trong thủ suy đoán vô tội của
tục có thể được bỏ qua nếu người dân được tôn trọng
mục đích chứng minh tội hơn so với các mô hình
phạm vẫn được giải quyết. TTHS lOMoAR cPSD| 58794847
- Thủ tục phiên tòa đơn khác.
giản nhanh chóng, sự thật nhanh chóng được tìm kiếm. lOMoAR cPSD| 58794847 Hạn - Quyền con người chế
trongtố tụng thẩm vấn bị - Người có nhiệm
buộc tội bị ảnh hưởng vụ xétxử tham gia một
nghiêm trọng (để đẩy mạnh cách thụ động vào phiên
công cuộc phòng, chống tòa và là người không
tội phạm dễ dàng dẫn đến chuyên nghiệp, đó chính
tình trạng bức cung, dùng là thành viên đoàn bồi nhục hình). thẩm. - Chứng cứ là do - Việc quá đề cao
thẩmphán điều tra tập hợp sự đốitụng giữa các lợi
nên việc thẩm vấn bị xem ích cá nhân làm cho mô
là đi ngược lại nguyên tắc hình tranh tụng không
vô tư, khách quan và việc phản ánh được hết tầm
tranh luận tại phiên tòa trở quan trọng của việc bảo nên vô nghĩa. vệ lợi ích công cộng -
Quyền bào chữa trong các vụ án hình sự,
củangười bị buộc tội ở tố dẫn đến việc áp dụng tràn
tụng thẩm vấn thực chất chỉ lan hình thức đàm phán
là quyền mang tính hình nhận tội dẫn tới khả năng
thức, vai trò của người bào bỏ lọt tội phạm cao. - Năng lực của luật
chữa bị coi nhẹ và quyền sưcó vai trò quyết định
của người bị buộc tội tới phán quyết của đoàn không được bảo đảm.
bồi thẩm. Điều này dẫn
đến tình trạng các luật sư
giỏi sẽ được nhiều người
muốn thuê và gây nên bất công cho những người nghèo không có điều
kiện thuê luật sư giỏi. - Thẩm phán và
đoànbồi thẩm không biết
về vụ án từ trước và cũng không kiểm soát một
cách toàn diện đối với
thời gian xét xử gây tốn kém tiền bạc và thời gian. - Việc quy định mộtkhung pháp lý chặt chẽ lOMoAR cPSD| 58794847
cho việc sử dụng chứng
cứ tại tòa nhằm đưa đến
cho đoàn bồi thẩm những
chứng cứ “sạch” nhất để
ra phán quyết đúng đắn nhất. Chứng cứ tuy có
giá trị sử dụng cao cho
việc xác định sự thật khách quan nhưng lại có
thể bị loại bỏ do vi phạm thủ tục.
3. Nêu các đặc điểm để nhận diện mô hình TTHS Việt Nam hiện nay. Việt
Nam nên đổi mới mô hình TTHS theo hướng nào? Tại sao? (Bỏ)
4. Đánh giá quy định của BLTTHS 2015 về nguyên tắc “Suy đoán vô tội”.
- Nguyên tắc suy đoán vô tội (Điều 13) là một nguyên tắc đặc biệt quan trọng của
một nền tư pháp hình sự dân chủ văn minh, là nguyên tắc nền tảng của Luật TTHS.
● CSPL: Điều 11 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của LHQ 1948 (gồm quyền
được xét xử công khai và quyền bào chữa); Khoản 2 Điều 14 Công ước quốc tế
về các quyền dân sự và chính trị 1966; Điều 31 Hiến pháp 2013; Điều 13 BLTTHS 2015. - Lý do hình thành:
+ Xuất phát từ tính đặc thù của hoạt động tố tụng hình sự. Tố tụng hình sự phải kết
thúc rõ ràng bằng việc xác định rõ ràng bị can là người có tội hoặc người vô tội.
+ Cần thiết để tạo ra cân bằng hợp lý giữa lợi ích chung của xã hội và quyền tự do cá nhân của con người.
+ Cần thiết để bảo vệ người yếu thế trong tố tụng hình sự.
- So với hiến pháp 1992, hiến pháp 2013 có những điểm tiến bộ hơn bằng cách
giới hạn chủ thể bị buộc tội, giới hạn giai đoạn tố tụng lại và thêm điều kiện để
xác định một người không có tội.
● Nội dung nguyên tắc:
- Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo
trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật.

- Người có thẩm quyền THTT không được có định kiến và đối xử với người bị
bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo như là người đã có tội.
- Việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử một người phải được tiến hành theo trình
tự, thủ tục do pháp luật quy định.
- Toà án là cơ quan duy nhất có quyền kết tội và quyết định hình phạt. lOMoAR cPSD| 58794847
- Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị bắt,
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không có tội khi không đủ và không thể làm
sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội

+ Không đủ chứng cứ: Điều 108 BLTTHS 2015 “chứng cứ thu thập được phải bảo
đảm đủ để giải quyết vụ án hình sự” → phải đủ về chất.
- Không đủ số lượng (mức) chứng cứ cần và đủ (giới hạn chứng minh) để buộc tội, kết tội.
- Khi còn có sự nghi ngờ về độ tin cậy và giá trị chứng minh của chứng cứ buộc
tội, kết tội nhưng không thể làm sáng tỏ.
● Điều kiện thực hiện nguyên tắc:
- Đổi mới nhân thức, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho người có thẩm quyền THTT.
- Tăng cường các yếu tố tranh tụng (nâng cao vị thế của người bào chữa) trong
quá trình giải quyết vụ án. ● Ý nghĩa:
- Phản ánh sự đổi mới trong tư duy pháp lý trên cơ sở khoa học, là một bước tiến
trong nhận thức của nhân loại theo hướng tôn trọng và bảo vệ quyền con người
trong TTHS, thể hiện tính nhân đạo trong TTHS.
- Đảm bảo quá trình giải quyết VAHS được tiến hành một cách khách quan, công bằng.
5. Phân tích nguyên tắc “Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm”
● CSPL: Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966; Điều 31
Hiến pháp 2013; Điều 14 BLTTHS 2015. ● Nội dung nguyên tắc:
- “Không được khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với người mà hành vi của họ
đã có bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp họ thực hiện
hành vi nguy hiểm khác cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm.”

- Một người thực hiện hành vi phạm tội thì họ chỉ bị xét xử bởi một Tòa án và
chỉ phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý bởi một bản án.
- Bản án đã tuyên (kết án) đã có hiệu lực pháp luật là sự thể hiện quan điểm của
Nhà nước đối với hành vi phạm tội.
+ Trong trường hợp có tội, bản án đưa ra một hình phạt cụ thể trong hệ thống hình
phạt của Bộ luật hình sự để áp dụng đối với người phạm tội. Do vậy, người phạm
tội khi đã bị xét xử về tội phạm do mình thực hiện và đã có bản án có hiệu lực
pháp luật thì không phải chịu thêm bất kỳ một sự kết án nào khác về tội phạm đó.
+ Vì vậy, nếu bản án đó là bản án tuyên vô tội và có hiệu lực pháp luật thì theo lẽ
dĩ nhiên chúng ta vẫn phải áp dụng nguyên tắc này đối với người bị buộc tội. lOMoAR cPSD| 58794847
Bởi lẽ, dù bản án tuyên có tội hay vô tội thì người bị buộc cũng đã bị một lần xét
xử do hành vi mình thực hiện, cho nên không thể chịu thêm bất kỳ lần xét xử
nào khác đối với hành vi đó. ● Ý nghĩa:
- Thể hiện sự nhân đạo, công bằng trong pháp luật hình sự.
- Đề cao nguyên tắc mà nước ta cũng như các nước khác trên thế giới hướng
đến: Một người phải chịu trách nhiệm hình sự và bị xét xử một lần đối với một hành vi phạm tội.
- Bảo đảm tính ổn định và giá trị pháp lý của các bản án, quyết định của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật.
- Góp phần tích cực trong việc phòng chống oan sai, hạn chế việc cơ quan tiến
hành tố tụng quy kết người không phạm tội.
6. Phân tích những quy định của BLTTHS 2015 nhằm thực hiện
nguyên tắc “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội”. CHƯƠNG 2
1. Phân tích và đánh giá quy định BLTTHS 2015 về các trường hợp phải từ chối
hoặc thay đổi người có thẩm quyền THTT. -
Bảo đảm tính vô tư của những người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố
tụnglà một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự. Nếu có lý do xác đáng
để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình thì họ không
được tiến hành tố tụng. Điều luật đang bình luận quy định cụ thể những trường hợp phải
thay đổi người tiến hành tố tụng. Việc thay đổi do người tiến hành tố tụng từ chối tiến
hành tố tụng hoặc do có đề nghị thay đổi của những người có thẩm quyền do Bộ luật tố
tụng hình sự quy định. -
Khoản 1 Điều 49 không cho phép một người cùng một lúc vừa thực hiện nhiệm
vụ,quyền hạn và trách nhiệm của người tiến hành tố tụng (Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án), vừa tham gia tố tụng với tư cách là người bị hại,
nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; hoặc là người đại
diện hợp pháp, người thân thích của những người đó hoặc của bị can, bị cáo. Những
người thân thích của những người tiến hành tố tụng hoặc của bị can, bị cáo là những
người có quan hệ họ hàng gần với những người đó như: ông, bà nội, ngoại; cha mẹ đẻ,
cha mẹ nuôi; vợ, chồng; anh, chị em, ruột; anh, chị, em nuôi; anh chị em vợ hoặc chồng;
cô, dì, chú, bác, cậu; con, cháu của cô, dì, chú, bác, cậu. -
Theo khoản 2 Điều 49, những người tiến hành tố tụng phải từ chối hoặc bị thay
đổinếu họ đã tham gia trong tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa, người làm
chứng, người giám định, người phiên dịch trong vụ án đó. lOMoAR cPSD| 58794847 -
Khoản 3 Điều 49 quy định những trường hợp khác phải từ chối hoặc thay đổi
ngườitiến hành tố tụng. Đó là có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng những người tiến hành
tố tụng có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ. Những căn cứ rõ ràng đó có thể là:
người tiến hành tố tụng có mối quan hệ mật thiết về công vụ, về kinh tế, về gia đình với
người có lợi ích được giải quyết trong vụ án hoặc có mâu thuẫn nghiêm trọng với người đó… -
Những trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng được quy
địnhở Điều 49 là những trường hợp chung. Việc thay đổi từng loại người tiến hành tố
tụng cụ thể (Điều tra viên. Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án).
2. Nêu ý kiến cá nhân về việc trực tiếp ghi nhận quyền im lặng của người bị buộc
tội trong BLTTHS 2015.
3 - Đề K36. Anh (chị) hãy phân biệt người bị hại và nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự. ● Bị hại
Điều 51 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: Người bị hại là người bị thiệt hại
về vật chất, tinh thần hoặc tài sản do tội phạm gây ra.
Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt
hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín
do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.

Như vậy, bị hại theo quy định của BLTTHS năm 2015 có các điểm mới so với BLTTHS năm 2003 là:
+ Về chủ thể bao gồm không chỉ cá nhân mà còn là cơ quan, tổ chức.
+ Về thiệt hại do tội phạm gây ra: Cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần,
tài sản còn nếu là cơ quan, tổ chức thì bị thiệt hại về tài sản, uy tín. ● Nguyên đơn dân sự
Điều 63 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Nguyên đơn dân sự là cá nhân,
cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại.

● Phân biệt bị hại và nguyên đơn dân sự
Bị hại và nguyên đơn dân sự đều có chủ thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức và có một số
quyền như nhau theo quy định tại Điều 62, Điều 63 BLTTHS. Ngoài ra bị hại còn có
thêm một số quyền mà nguyên đơn dân sự không có như: Được tham gia tố tụng hay cả
trong trường hợp không có yêu cầu, quyền trình bày buộc tội tại phiên tòa, quyền đề lOMoAR cPSD| 58794847
nghị hình phạt, quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án (nguyên đơn dân sự chỉ
có quyền kháng cáo về phần bồi thường thiệt hại).
Tuy nhiên trên thực tiễn còn xảy ra xác định tư cách tham gia tố tụng không chính xác,
nhất là trường hợp đối tượng bị thiệt hại là cơ quan, tổ chức. Vì vậy, để phân biệt bị hại
và nguyên đơn dân sự thì căn cứ những điểm sau:
- Về thiệt hại xảy ra:
+ Bị hại: Là bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản, uy tín (nếu là cơ quan, tổ chức).
+ Nguyên đơn dân sự: Chỉ bị thiệt hại về tài sản.
- Về quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại xảy ra:
+ Bị hại bị thiệt hại trực tiếp từ hành vi phạm tội, mục đích của người phạm tội
là trực tiếp gây ra thiệt hại cho chủ thể này.
Ví dụ: A trộm cắp tài sản của cơ quan X và bị khởi tố. Theo quy định của BLTTHS năm
2003 thì cơ quan X là nguyên đơn dân sự nhưng theo BLTTHS năm 2015 thì là bị hại trong vụ án hình sự.
+ Nguyên đơn dân sự bị thiệt hại gián tiếp từ hành vi phạm tội, mục đích của
người phạm tội không nhằm trực tiếp gây ra thiệt hại cho chủ thể này.
Ví dụ: A đánh B gây thương tích tại trụ sở cơ quan X. Hậu quả làm B bị thương còn cơ
quan X cũng bị hư hỏng một số tài sản. A bị khởi tố về tội cố ý gây thương tích. Trong
trường hợp này cơ quan X là nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự nếu có đơn yêu
cầu bồi thường thiệt hại./. 4.
So sánh người đại diện của bị hại và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
phápcủa bị hại. (Hông biết làm) 5.
Phân tích và đánh giá quy định về nghĩa vụ của bị hại trongBLTTHS 2015. -
Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
trường hợp cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại
khách quan thì có thể bị dẫn giải: Bị hại phải có mặt khi cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng triệu tập để thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình và tạo điều
kiện thuận lợi cho việc giải quyết vụ án. Việc bị hại vắng mặt có thể cản trở hoạt động lOMoAR cPSD| 58794847
tố tụng, vì vậy nếu họ cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở
ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải; -
Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng: Bị hại có nghĩa vụ phải khai báo, cung cấp những thông tin cần thiết giúp cho
việc làm sáng tỏ sự thật của vụ án và chấp hành quyết định, yêu cầu khác của cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Việc giải quyết đúng đắn vụ án không chỉ bảo
vệ lợi ích Nhà nước mà còn bảo vệ lợi ích của bị hại nên bị hại thường chủ động tích
cực trong việc khai báo. Việc họ từ chối khai báo hoặc không chấp hành những quyết
định, yêu cầu khác của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không có lí do
chính đáng là việc không bình thường, không phù hợp tâm lí của nạn nhân. Hành vi
không chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng đó gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, có thể bị coi là tội phạm và phải chịu
trách nhiệm hình sự theo Điều 383 BLHS. 6.
Phân biệt người làm chứng với người chứng kiến trong tố tụng hìnhsự. Tiêu chí Người làm chứng
Người chứng kiến (Điều 66 BLTTHS 2015) (Điều 67 BLTTHS 2015) Khái niệm
Người làm chứng là người biết
Người chứng kiến là người được cơ
được những tình tiết liên quan đến quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
nguồn tin về tội phạm, về vụ án và yêu cầu chứng kiến việc tiến hành hoạt
được cơ quan có thẩm quyền tiến động tố tụng theo quy định của Bộ luật
hành tố tụng triệu tập đến làm Tố tụng hình sự. chứng. Đối tượng
không được - Người bào chữa của người bị - Người thân thích của người bị buộc
làm người buộc tội;
tội, người có thẩm quyền tiến hành tố làm chứng/ tụng; lOMoAR cPSD| 58794847
người chứng - Người do nhược điểm về tâm kiến
thần hoặc thể chất mà không có
- Người do nhược điểm về tâm thần
khả năng nhận thức được những hoặc thể chất mà không có khả năng
tình tiết liên quan nguồn tin về tội nhận thức đúng sự việc;
phạm, về vụ án hoặc không có khả - Người dưới 18 tuổi;
năng khai báo đúng đắn.
- Có lý do khác cho thấy người đó không khách quan. Quyền
- Được thông báo, giải thích quyền - Được thông báo, giải thích quyền và
và nghĩa vụ quy định tại Điều 66 nghĩa vụ quy định tại Điều 67 BLTTHS 2015; BLTTHS 2015;
- Yêu cầu cơ quan triệu tập bảo vệ - Yêu cầu người có thẩm quyền tiến
tính mạng, sức khoẻ, danh dự,
hành tố tụng tuân thủ quy định của
nhân phẩm, tài sản và quyền, lợi pháp luật, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ,
ích hợp pháp khác của mình,
danh dự, nhân phẩm, tài sản và quyền,
người thân thích của mình khi bị lợi ích hợp pháp khác của mình, người đe dọa;
thân thích của mình khi bị đe dọa;
- Khiếu nại quyết định, hành vi tố - Xem biên bản tố tụng, đưa ra nhận xét
tụng của cơ quan, người có thẩm về hoạt động tố tụng mà mình chứng
quyền tiến hành tố tụng liên quan kiến;
đến việc mình tham gia làm
- Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng chứng;
của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
- Được cơ quan triệu tập thanh
hành tố tụng liên quan đến việc mình
toán chi phí đi lại và những chi phí tham gia chứng kiến; lOMoAR cPSD| 58794847
khác theo quy định của pháp luật.
- Được cơ quan triệu tập thanh toán chi
phí theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ
- Có mặt theo giấy triệu tập của cơ - Có mặt theo yêu cầu của cơ quan có
quan có thẩm quyền tiến hành tố thẩm quyền tiến hành tố tụng;
tụng. Trường hợp cố ý vắng mặt
- Chứng kiến đầy đủ hoạt động tố tụng
mà không vì lý do bất khả kháng được yêu cầu;
hoặc không do trở ngại khách
quan và việc vắng mặt của họ gây - Ký biên bản về hoạt động mà mình
trở ngại cho việc giải quyết nguồn chứng kiến;
tin về tội phạm, khởi tố, điều tra,
- Giữ bí mật về hoạt động điều tra mà
truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn mình chứng kiến; giải;
- Trình bày trung thực những tình tiết
- Trình bày trung thực những tình
mà mình chứng kiến theo yêu cầu của
tiết mà mình biết liên quan đến
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
nguồn tin về tội phạm, về vụ án và lOMoAR cPSD| 58794847 tụng.
lý do biết được những tình tiết đó. 7.
Phân tích và đánh giá những điểm mới trong quy định của
BLTTHS2015 về địa vị pháp lý của người bào chữa.
- Thứ nhất, quy định về khái niệm người bào chữa và diện người bào chữa
Mặc dù người bào chữa là một trong những người tham gia Tố tụng Hình sự, có vai trò
không nhỏ đối với việc giải quyết vụ án hình sự một cách khách quan, toàn diện, bảo
vệ công lý, nhưng BLTTHS năm 2003 không có quy phạm định nghĩa về khái niệm
người bào chữa. Khắc phục sự bất cập này, BLTTHS năm 2015 quy định: “Người bào
chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận
việc đăng ký bào chữa” (Điều 72, khoản 1). Từ quy định này thấy rằng, để được coi là
người bào chữa trong Tố tụng Hình sự phải đáp ứng hai điều kiện: (1)
Được người buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành Tố
tụngHình sự chỉ định (bào chữa bắt buộc). (2)
Được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng chấp nhận việc đăng ký bàochữa.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 72 BLTTHS năm 2015, những người có thể tham gia
tố tụng với tư cách là người bào chữa đã được mở rộng hơn so với quy định của BLTTHS
năm 2003. Theo đó, bên cạnh Luật sư, bào chữa viên nhân dân, người đại diện hợp pháp
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thì trợ giúp viên pháp lý cũng có thể trở thành người
bào chữa miễn phí cho các đối tượng chính sách được trợ giúp pháp lý.
Tuy nhiên, không phải bất cứ ai thuộc diện các đối tượng nêu trên đều có thể trở thành
người bào chữa. Để phù hợp với quy định của Luật Luật sư, cũng như bảo đảm tính
khách quan, tính chặt chẽ của hoạt động tố tụng, khoản 4 Điều 72 BLTTHS năm 2015
quy định những người sau đây không được bào chữa cho người bị buộc tội: (1)
Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó, người thân thích của người đã
hoặcđang tiến hành tố tụng trong vụ án đó. (2)
Người tham gia vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định,
ngườiđịnh giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật. lOMoAR cPSD| 58794847 (3)
Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người bị kết án mà chưa được xóa
ántích, người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc.
Trong số những đối tượng không được làm người bào chữa nêu trên, có những đối tượng
đã được BLTTHS năm 2003 quy định, nhưng cũng có đối tượng mới được BLTTHS
năm 2015 bổ sung, đó là người đã tham gia vụ án đó với tư cách là người dịch thuật và
người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đã bị kết án mà chưa được xóa án tích,
người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc,
cơ sở giáo dục bắt buộc.
Để bảo đảm tốt nhất quyền bào chữa của người bị buộc tội, pháp luật cho phép một
người bào chữa có thể bào chữa cho nhiều người bị buộc tội trong cùng một vụ án nếu
quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau. Đồng thời, pháp luật cũng cho phép nhiều
người bào chữa có thể bào chữa cho một người bị buộc tội.
- Thứ hai, quy định về thủ tục đăng ký bào chữa
Theo quy định của BLTTHS năm 2003, để tham gia bào chữa trong vụ án, người bào
chữa phải được cấp giấy chứng nhận người bào chữa. Hiện nay, BLTTHS năm 2015 đã
thay thủ tục “cấp giấy chứng nhận bào chữa” bằng thủ tục “đăng ký bào chữa”, theo đó
trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ mà người bào chữa phải xuất trình theo
quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 78 BLTTHS năm 2015, cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng có trách nhiệm kiểm tra giấy tờ do người bào chữa cung cấp, nếu thấy
đủ điều kiện luật định thì vào sổ đăng ký bào chữa và gửi ngay văn bản thông báo người
bào chữa cho người đăng ký và cơ sở giam giữ, đồng thời lưu các giấy tờ liên quan đến
đăng ký bào chữa trong hồ sơ vụ án. Ngược lại, nếu xét thấy không đủ điều kiện đăng
ký bào chữa thì từ chối việc đăng ký bào chữa và phải có văn bản nêu rõ lý do từ chối.
Từ quy định trên thấy rằng, thời hạn chấp nhận đăng ký bào chữa được rút ngắn từ 03
ngày theo quy định của BLTTHS năm 2003 xuống còn 01 ngày (24 giờ) kể từ khi nhận
đủ các giấy tờ luật định. Để khắc phục tình trạng “đẻ” thêm thủ tục, giấy tờ liên quan
đến bào chữa, BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể các loại giấy tờ cần phải xuất trình
tương ứng với từng diện người bào chữa trong trường hợp bào chữa thông thường và
bào chữa chỉ định. Ngoài ra, để xóa bỏ việc người bào chữa phải thực hiện thủ tục xin
cấp giấy chứng nhận người bào chữa riêng cho từng giai đoạn tố tụng như trước đây,
BLTTHS năm 2015 quy định văn bản thông báo người bào chữa có giá trị sử dụng trong
suốt quá trình tham gia tố tụng. Những quy định trên đây đã tạo thuận lợi hơn cho những
đối tượng muốn trở thành người bào chữa, bảo đảm sự minh bạch, rõ ràng, cũng như
bảo đảm tính kịp thời và hiệu quả của hoạt động bào chữa trong Tố tụng Hình sự.
- Thứ ba, quy định về lựa chọn, chỉ định người bào chữa lOMoAR cPSD| 58794847
Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 đã có sự sửa đổi, bổ sung đáng kể về lựa chọn, chỉ
định người bào chữa, theo đó người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích
của họ có quyền lựa chọn người bào chữa (khoản 1 Điều 75). So với quy định của
BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã mở rộng chủ thể có quyền lựa chọn người
bào chữa bằng việc quy định bổ sung người thân thích của người bị buộc tội có quyền
mời người bào chữa. Đồng thời, còn quy định cụ thể thủ tục và trách nhiệm của cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cơ quan quản lý người bị tạm giữ, tạm giam khi tiếp
nhận được yêu cầu nhờ người bào chữa từ người bị buộc tội phải chuyển yêu cầu này
hoặc thông báo cho người bào chữa được họ nhờ biết; có trách nhiệm tạo điều kiện cho
người bào chữa liên hệ với người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam để thỏa thuận về việc nhờ bào chữa.
Sự sửa đổi, bổ sung này của BLTTHS năm 2015 có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó
không chỉ giải quyết những vướng mắc trong cơ chế bảo đảm cho người bị buộc tội
đang bị tạm giữ, tạm giam có cơ hội tiếp cận với người bào chữa để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình, mà còn ngăn ngừa các biểu hiện ngăn cản, gây khó khăn cho
người bào chữa khi tham gia tố tụng, qua đó bảo đảm tốt hơn quyền bào chữa của người
bị buộc tội, nhất là người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam. Đặc biệt, để tháo gỡ những
vướng mắc liên quan đến việc bào chữa cho người bị tạm giữ, tạm giam, đồng thời
nhằm bảo đảm tính minh bạch của hoạt động Tố tụng Hình sự, BLTTHS năm 2015 đã
bổ sung quy định: “Trong trường hợp người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam
trong giai đoạn điều tra có đề nghị từ chối người bào chữa do người thân thích của họ
nhờ thì điều tra viên phải cùng người bào chữa đó trực tiếp gặp người bị bắt, người bị
tạm giữ, người bị tạm giam để xác nhận việc từ chối” (khoản 2 Điều 77).
Bên cạnh đó, để bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội theo khung hình phạt
có quy định các loại, mức hình phạt nghiêm khắc, BLTTHS năm 2015 đã mở rộng các
trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa (trường hợp người bị buộc tội được chỉ
định người bào chữa), đối với bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật Hình sự quy định mức
cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS năm 2003, chỉ bị can, bị cáo về tội theo
khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình mới được chỉ định người bào chữa. Trong
khi đó, Điều 76 BLTTHS năm 2015 thì bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật Hình sự quy
định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình phải
được chỉ định người bào chữa. Thêm vào đó, việc chỉ định người bào chữa cho đối
tượng có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần theo quy định của BLTTHS năm 2003
chỉ áp dụng đối với bị can, bị cáo, BLTTHS năm 2015 đã mở rộng đối với cả người bị
bắt, người bị tạm giữ.
- Thứ tư, quy định về thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng lOMoAR cPSD| 58794847
Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định thời điểm tham gia tố tụng của người bào
chữa sớm hơn, theo đó người bào chữa có quyền tham gia tố tụng kể từ khi người bị bắt
có mặt tại trụ sở của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra (Điều 74) thay vì tham gia từ khi có quyết định tạm giữ như quy định của BLTTHS năm 2003.
Sự sửa đổi này xuất phát từ việc BLTTHS năm 2015 coi người bị bắt là người bị buộc
tội (khoản 1 Điều 4) và người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa.
Với quy định này, người bào chữa được quyền tham gia tố tụng rất sớm, từ trước khi có
quyết định khởi tố bị can, qua đó góp phần bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị buộc tội ngay từ những hoạt động đầu tiên của quá trình tố tụng.
- Thứ năm, quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa
Trong BLTTHS năm 2003, quyền và nghĩa vụ của người bào chữa tuy đã được quy định
nhưng chưa thật sự đầy đủ. Để người bào chữa thực hiện tốt việc bào chữa, đồng thời
tăng cường trách nhiệm của người bào chữa khi tham gia tố tụng, BLTTHS năm 2015
đã bổ sung quyền của người bào chữa, gồm:
(1) Quyền gặp, hỏi người bị buộc tội.
(2) Quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cungcủa
người có thẩm quyền kết thúc, người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can.
(3) Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm
lấylời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra theo quy định của BLTTHS.
(4) Thu thập chứng cứ; kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu,
đồvật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng
cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản.
(5) Đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế.
Cùng với việc mở rộng quyền, BLTTHS năm 2015 còn bổ sung nghĩa vụ của người bào
chữa phải có mặt theo yêu cầu của cơ quan điều tra, viện kiểm sát; không được tiết lộ
thông tin mà mình biết được khi tham gia các hoạt động tố tụng liên quan đến vụ án
hoặc liên quan đến người mà mình bào chữa cho những người không có trách nhiệm giải quyết vụ án.
Ngoài ra, BLTTHS năm 2015 còn bổ sung cơ chế để người bào chữa thực hiện tốt việc
bào chữa như: Quy định trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
phải thông báo trước cho người bào chữa thời gian, địa điểm tiến hành các hoạt động tố lOMoAR cPSD| 58794847
tụng mà họ có quyền tham gia; quy định cụ thể thủ tục gặp người bị buộc tội đang bị
bắt, tạm giữ, tạm giam, thủ tục giao nộp chứng cứ, thủ tục đọc, ghi chép, sao chụp tài
liệu trong hồ sơ vụ án. 8.
Phân tích và đánh giá quy định của BLTTHS 2015 về vấn đề từ
chốingười bào chữa chỉ định của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi.
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 76 và Điều 422 BLTTHS 2015 thì người bị
buộc tội là người dưới 18 tuổi sẽ được chỉ định người bào chữa. Sau khi cơ quan có
thẩm quyền chỉ định NBC cho bị cáo là người dưới 18 tuổi, bị cáo vẫn có quyền yêu
cầu thay đổi hoặc từ chối NBC được chỉ định cho họ. Tuy nhiên quyền này không có
tính tuyệt đối. Theo quy định tại khoản 3 Điều 77 BLTTHS năm 2015, trong trường hợp
chỉ có bị cáo dưới 18 tuổi từ chối NBC còn người đại diện hợp pháp của bị cáo không
từ chối thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử với sự tham gia của NBC đã được cử. Quy
định này nhằm bảo đảm lợi ích của chính các bị cáo là người dưới 18 tuổi, đồng thời nó
thể hiện sự tiến bộ của pháp luật. Thông thường quyền bào chữa là quyền của bị cáo,
họ có quyền quyết định, lựa chọn NBC tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình, các cơ quan THTT có nghĩa vụ tôn trọng quyết định đó của bị cáo.
Nhưng trong các trường hợp quy định tại Điều 76 BLTTHS năm 2015 thì quyền quyết
định của các chủ thể này không có tính tuyệt đối. Sở dĩ, pháp luật hạn chế quyền của bị
cáo trong trường hợp này để bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của bị cáo. Bị cáo là
người dưới 18 tuổi là những người còn nhiều hạn chế về hiểu biết pháp luật cũng như
kiến thức xã hội do đó họ có thể gặp khó khăn trong việc thực hiện quyền bào chữa của
mình nên cần có sự can thiệp từ phía các cơ quan, người THTT. 9.
Có nên quy định thủ tục đăng ký bào chữa không? Tại sao?
- Quy định thủ tục đăng ký bào chữa tại Điều 78 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 trực
tiếp tháo gỡ rào cản thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho Luật sư, bào chữa
viên nhân dân, trợ giúp viên pháp lý, người đại diện của người bị buộc tội tiếp cận sớm
với người bị buộc tội. Nhìn chung, quy định về thủ tục đăng ký bào chữa có các đặc điểm sau đây:
+ Thứ nhất, về chủ thể đăng ký bào chữa: Là người được người bị buộc tội, người
đại diện hoặc người thân thích của họ nhờ thực hiện việc bào chữa hoặc người được cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định bào chữa cho người bị buộc tội, bao
gồm: Luật sư, người đại diện của người bị buộc tội, bào chữa viên nhân dân, trợ giúp
viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý
(khoản 1, 2 BLTTHS 2015).
+ Thứ hai, về giai đoạn tố tụng có thể thực hiện việc đăng ký bào chữa: Việc đăng
ký bào chữa có thể được thực hiện sớm nhất ở giai đoạn khởi tố khi có người bị bắt,
người bị tạm giữ hoặc được thực hiện trong giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. + Thứ
ba, về hoạt động đặc trưng
: Người muốn trở thành người bào chữa cho người bị buộc lOMoAR cPSD| 58794847
tội thực hiện việc nộp các giấy tờ theo nội dung yêu cầu của điều luật; cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng xem xét chấp thuận hoặc không chấp thuận việc đăng ký bào
chữa, vào sổ đăng ký bào chữa hoặc từ chối đăng ký bào chữa.
+ Thứ tư, về giá trị của văn bản thông báo người bào chữa: Văn bản thông báo người
bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tham gia tố tụng, trừ các trường hợp
người bị buộc tội từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa hoặc người đại diện
hoăc người thân thích của người bị buộ c tộ i có nhược điểm về thể chất mà không ̣ thể
tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi từ chối hoặc
đề nghị thay đổi người bào chữa (khoản 6 Điều 78 BLTTHS 2015).
+ Thứ năm, về hủy bỏ đăng ký bào chữa: Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
thực hiện hủy bỏ việc đăng ký bào chữa, làm chấm dứt tư cách người bào chữa khi phát
hiện người bào chữa thuộc những trường hợp không được bào chữa theo khoản 4 Điều
72 BLTTHS 2015
hoặc khi người bào chữa vi phạm pháp luật khi tiến hành bào chữa
theo khoản 7 Điều 78 BLTTHS 2015.
- Nhìn chung, quy định thủ tục đăng ký bào chữa tại Điều 78 Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015 là một trong những nội dung cải cách tư pháp mang tính đột phá, xóa bỏ hẳn
thủ tục cấp giấy nhận người bào chữa của cơ quan tiến hành tố tụng theo quy định Bộ
luật tố tụng hình sự trước đây. Tuy nhiên, do lần đầu tiên được ghi nhận nên quy định
này không thể tránh khỏi những tồn tại, hạn chế cần được nghiên cứu, thảo luận nghiêm
túc, làm cơ sở để cơ quan có thẩm quyền xem xét thay đổi hoặc hướng dẫn kịp thời. 10.
So sánh người bào chữa với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bịhại, đương sự. 11.
Vì sao người làm chứng không thể trở thành người bào chữa và ngược
lại?- Người làm chứng không thể trở thành người bào chữa bởi vì người bào chữa chỉ
được phép đưa ra những chứng cứ có lợi cho người bị buộc tội. Họ không thể làm
chứng vì nghĩa vụ của người làm chứng là phải khai báo trung thực những gì họ biết
về vụ án, nghĩa vụ đó mâu thuẫn với nghĩa vụ của người bào chữa. 12.
Vì sao người dưới 18 tuổi không được làm người chứng kiến trong tố tụnghình sự? -
Người chứng kiến là người được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu
cầuchứng kiến việc tiến hành hoạt động tố tụng. -
Người chứng kiến có trách nhiệm xác nhận nội dung, kết quả công việc mà người
cóthẩm quyền tiến hành tố tụng đã tiến hành trong khi mình có mặt và có thể nêu ý kiến
cá nhân. Ý kiến này được ghi vào biên bản. -
Người dưới 18 tuổi là người có năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ. Họ là chủ
thể không đảm bảo có đầy đủ nhận thức, sự vô tư, khách quan trong quá trình thực hiện
nghĩa vụ của mình thì không được làm người chứng kiến.
13. Đánh giá quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thời điểm tham gia tố
tụng của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự.
Theo Thông tư 46/2019/TT-BCA quy định: lOMoAR cPSD| 58794847
“Điều 7. Thời điểm người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự,
người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố tham gia tố tụng 1.
Thời điểm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, người bị tố
giác,người bị kiến nghị khởi tố tham gia tố tụng kể từ khi có Quyết định phân công giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và có căn cứ xác định tư cách tham
gia tố tụng của bị hại, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố.
2.
Thời điểm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn dân sự, bị
đơndân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự kể từ khi có quyết
định khởi tố vụ án hình sự và có căn cứ xác định tư cách tham gia tố tụng của nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự.”
CHƯƠNG 2
I. CÂU HỎI LÝ THUYẾT
1. Phân tích và đánh giá quy định của BLTTHS 2015 về các trường hợp
phải từ chối hoặc thay đổi người có thẩm quyền THTT?
Được quy định tại Điều 49 BLTTHS 2015 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2018)
“Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi
khi thuộc một trong các trường hợp: 1.
Đồng thời là bị hại, đương sự; là người đại diện, người thân thích của bị hại,
đương sự hoặc của bị can, bị cáo; 2.
Đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám định,
người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật trong vụ án đó; 3.
Có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ.”
Các trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 theo khoản 1 Điều 49
Khoản 1 Điều 49 không cho phép một người cùng một lúc vừa thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người tiến hành tố tụng (Cán bộ điều tra, Điều tra
viên, Kiểm tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án), vừa tham
gia tố tụng với tư cách là bị hại, đương sự; là người đại, diện, người thân thích của bị
hại, đương sự hoặc của bị can, bị cáo. lOMoAR cPSD| 58794847
Những người thân thích của những người tiến hành tố tụng hoặc của bị can, bị
cáo là những người có quan hệ họ hàng gần với những người đó như: ông, bà nội,
ngoại; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi; vợ, chông; anh, chị em, ruột; anh, chị, em nuôi; anh
chị em vợ hoặc chồng; cô, dì, chú, bác, cậu; con, cháu của cô, dì, chú, bác, cậu.
Các trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 theo khoản 2 Điều 49
Theo khoản 2 Điều 49, những người tiến hành tố tụng phải từ chối hoặc bị thay
đổi nếu họ đã tham gia trong tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa, người làm
chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật trong vụ án đó.
Các trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 theo khoản 3 Điều 49
Khoản 3 Điều 49 quy định những trường hợp khác phải từ chối hoặc thay đổi
người tiến hành tố tụng. Đó là có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng những người tiến
hành tố tụng có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ. Những căn cứ rõ ràng đó có
thể là: người tiến hành tố tụng có mối quan hệ mật thiết về công vụ, về kinh tế, về gia
đình với người có lợi ích được giải quyết trong vụ án hoặc cố mâu thuẫn nghiêm trọng với người đó
Kết luận: Những trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng
được quy định ở Điều 49 là những trường hợp chung. Việc thay đổi từng loại người
tiến hành tố tụng cụ thể (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký
Tòa án) được cụ thể hóa ở các Điều 51,52, 53, 54 Bộ luật này.
Từ việc phân tích khoản 1 2 3 Điều 49 ta thấy Điều luật hiện đang có những
ưu điểm và hạn chế sau:
Ưu điểm từ điều luật này: Bảo đảm tính vô tư của những người tiến hành tố tụng
hoặc người tham gia tố tụng là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình
sự. Nếu có lý do xác đáng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện
nhiệm vụ của mình thì họ không được tiên hành tô tụng.
Nhược điểm: tại khoản 3 cần có hướng dẫn cụ thể các căn cứ thay đổi người tiến
hành tố tụng, đảm bảo cho việc kiểm sát hoạt động của các cơ quan, người tiến hành tố tụng dễ dàng hơn.
2. Nêu ý kiến cá nhân về việc trực tiếp ghi nhận quyền im lặng của người bị
buộc tội trong BLTTHS 2015?