



















Preview text:
  lOMoAR cPSD| 58794847 CHƯƠNG I 
1. Chức năng TTHS là gì? Phân tích các chức năng TTHS cơ bản? 
- Chức năng cơ bản của tố tụng hình sự là phương diện hoạt động chủ yếu của tố 
tụng hình sự, mang tính định hướng cơ bản nhằm phân định các hoạt động trong 
lĩnh vực tố tụng hình sự của các chủ thể (nhóm chủ thể) khác nhau, trong phạm 
vi buộc tội, bào chữa và xét xử, trên cơ sở phù hợp với nội dung, mục đích, quyền 
và nghĩa vụ của các bên tham gia tố tụng hình sự để thực hiện nhiệm vụ chung 
của Luật tố tụng hình sự.   
Chức năng buộc tội Chức năng bào chữa  Chức năng xét xử  Chủ thể được thực 
bên bị buộc tội gồm Tòa án nhân dân  các chủ thể có thẩm  hiện  người bị buộc tội, 
quyền như Viện kiểm người bào chữa… 
sát, cơ quan có thẩm theo quy định của 
quyền điều tra… theo pháp luật  quy định của pháp  luật  Vai trò 
tồn tại song song mang tính quyết 
đóng vai trò chủ đạo; cùng chức năng  định 
là cơ sở để hình thành buộc tội  chức năng bào chữa  và xét xử  Mục đích 
phát hiện, chứng bác bỏ một phần đưa ra phán quyết 
minh tội phạm, người hoặc toàn bộ sự buộc cuối cùng của vụ án 
phạm tội và lỗi của tội cũng như đưa ra (xem xét/xác định 
họ, buộc họ phải chịu các tình tiết giảm nhẹ những cáo buộc đối 
để bảo vệ cho người với bị cáo là có căn  chế tài  bị buộc  cứ và hợp pháp hay  hình sự  tội  không, từ đó quyết  định bị cáo có phải  chịu TNHS hay  không)  Thời điểm xuất 
khi có người bị buộc khi có người bị buộc Tòa án có thẩm  hiện  tội  tội  quyền nhận hồ sơ và  bản cáo trạng do  Viện  kiểm  sát  chuyển sang và vào  hồ sơ thụ lý vụ án  của Tòa án 
Thời điểm kết thúc khi bản án, quyết  khi bản án, quyết  khi bản án, quyết      lOMoAR cPSD| 58794847  
định của Tòa án có định của Tòa án có định của Tòa án có  hiệu lực pháp luật  hiệu lực pháp luật  hiệu lực pháp luật 
2. Mô hình TTHS là gì? Có những mô hình TTHS nào đã và đang tồn tại trên 
thế giới? Ưu điểm và hạn chế của từng mô hình TTHS. 
- Mô hình TTHS là sự khái quát cao những đặc trưng cơ bản, phổ biến, phản ánh 
cách thức tổ chức hoạt động tố tụng hình sự, cách thức tìm đến sự thật khách 
quan của vụ án. Cách thức tổ chức này quyết định địa vị tố tụng của các chủ 
thể trong quá trình thực hiện các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự (chức 
năng buộc tội, bào chữa và xét xử). 
- Trên thế giới có 3 loại mô hình tố tụng hình sự: mô hình tố tụng hình sự thẩm 
vấn; mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và mô hình tố tụng hình sự pha trộn.    Mô hình TTHS thẩm vấn  Mô hình TTHS tranh  Mô hình TTHS pha trộn  tụng  Khái 
Huy động các cơ quan tố Bảo đảm sự bình đẳng Mô hình tố tụng có sự đan  niệm 
tụng chuyên nghiệp của tuyệt đối giữa bên buộc xen, kết hợp của cả hai 
Nhà nước (Cơ quan điều tội (cơ quan công tố) và cách thức tổ chức hoạt 
tra, Viện kiểm sát/Viện bên bào chữa trong suốt động tố tụng hình sự thẩm 
công tố, Tòa án) vào quá quá trình đi tìm sự thật vụ vấn và tranh tụng. 
trình đi tìm sự thật của vụ án  án, các cơ quan này cùng  được giao trách nhiệm  chứng minh tội phạm  Ưu  - 
Nhà nước đóng vai - Thể hiện tính công bằng  điểm 
tròchủ đạo trong việc tìm cao, bên bị buộc tội và 
kiếm sự thật, nên trong bên gỡ tội đều có quyền 
chừng mực nhất định, và nghĩa vụ như nhau 
quyền và lợi ích của Nhà trong suốt quá trình tố 
nước và xã hội luôn được tụng. Có tính công bằng 
bảo vệ tốt hơn khi quyền cao, người bào chữa và 
đó xâm phạm bởi cá nhân bị cáo cũng dễ cảm thấy  người phạm tội. 
mình đã có một cơ hội tốt  - 
Do không đặt nặng và công bằng để đi tìm 
hìnhthức, những sai phạm công lý. - Quyền được 
không đáng kể trong thủ suy đoán vô tội của 
tục có thể được bỏ qua nếu người dân được tôn trọng 
mục đích chứng minh tội hơn so với các mô hình 
phạm vẫn được giải quyết. TTHS      lOMoAR cPSD| 58794847    
- Thủ tục phiên tòa đơn khác.   
giản nhanh chóng, sự thật  nhanh chóng được tìm  kiếm.      lOMoAR cPSD| 58794847 Hạn  -  Quyền con người    chế 
trongtố tụng thẩm vấn bị -  Người có nhiệm 
buộc tội bị ảnh hưởng vụ xétxử tham gia một 
nghiêm trọng (để đẩy mạnh cách thụ động vào phiên 
công cuộc phòng, chống tòa và là người không 
tội phạm dễ dàng dẫn đến chuyên nghiệp, đó chính 
tình trạng bức cung, dùng là thành viên đoàn bồi  nhục hình).  thẩm.  -  Chứng cứ là do -  Việc quá đề cao 
thẩmphán điều tra tập hợp sự đốitụng giữa các lợi 
nên việc thẩm vấn bị xem ích cá nhân làm cho mô 
là đi ngược lại nguyên tắc hình tranh tụng không 
vô tư, khách quan và việc phản ánh được hết tầm 
tranh luận tại phiên tòa trở quan trọng của việc bảo  nên vô nghĩa.  vệ lợi ích công cộng  - 
Quyền bào chữa trong các vụ án hình sự, 
củangười bị buộc tội ở tố dẫn đến việc áp dụng tràn 
tụng thẩm vấn thực chất chỉ lan hình thức đàm phán 
là quyền mang tính hình nhận tội dẫn tới khả năng 
thức, vai trò của người bào bỏ lọt tội phạm cao.  -  Năng lực của luật 
chữa bị coi nhẹ và quyền sưcó vai trò quyết định 
của người bị buộc tội tới phán quyết của đoàn  không được bảo đảm. 
bồi thẩm. Điều này dẫn 
đến tình trạng các luật sư 
giỏi sẽ được nhiều người 
muốn thuê và gây nên bất  công cho những người  nghèo không có điều 
kiện thuê luật sư giỏi.  -  Thẩm phán và 
đoànbồi thẩm không biết 
về vụ án từ trước và cũng  không kiểm soát một 
cách toàn diện đối với 
thời gian xét xử gây tốn  kém tiền bạc và thời  gian.  -  Việc quy định  mộtkhung pháp lý chặt  chẽ      lOMoAR cPSD| 58794847    
cho việc sử dụng chứng 
cứ tại tòa nhằm đưa đến 
cho đoàn bồi thẩm những 
chứng cứ “sạch” nhất để 
ra phán quyết đúng đắn  nhất. Chứng cứ tuy có 
giá trị sử dụng cao cho 
việc xác định sự thật  khách quan nhưng lại có 
thể bị loại bỏ do vi phạm  thủ tục. 
3. Nêu các đặc điểm để nhận diện mô hình TTHS Việt Nam hiện nay. Việt 
Nam nên đổi mới mô hình TTHS theo hướng nào? Tại sao? (Bỏ) 
4. Đánh giá quy định của BLTTHS 2015 về nguyên tắc “Suy đoán  vô tội”. 
- Nguyên tắc suy đoán vô tội (Điều 13) là một nguyên tắc đặc biệt quan trọng của 
một nền tư pháp hình sự dân chủ văn minh, là nguyên tắc nền tảng của Luật  TTHS. 
● CSPL: Điều 11 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của LHQ 1948 (gồm quyền 
được xét xử công khai và quyền bào chữa); Khoản 2 Điều 14 Công ước quốc tế 
về các quyền dân sự và chính trị 1966; Điều 31 Hiến pháp 2013; Điều 13  BLTTHS 2015.  - Lý do hình thành: 
+ Xuất phát từ tính đặc thù của hoạt động tố tụng hình sự. Tố tụng hình sự phải kết 
thúc rõ ràng bằng việc xác định rõ ràng bị can là người có tội hoặc người vô tội. 
+ Cần thiết để tạo ra cân bằng hợp lý giữa lợi ích chung của xã hội và quyền tự do  cá nhân của con người.   
+ Cần thiết để bảo vệ người yếu thế trong tố tụng hình sự. 
- So với hiến pháp 1992, hiến pháp 2013 có những điểm tiến bộ hơn bằng cách 
giới hạn chủ thể bị buộc tội, giới hạn giai đoạn tố tụng lại và thêm điều kiện để 
xác định một người không có tội.    ● Nội dung nguyên tắc: 
- Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo 
trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có 
hiệu lực pháp luật. 
- Người có thẩm quyền THTT không được có định kiến và đối xử với người bị 
bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo như là người đã có tội. 
- Việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử một người phải được tiến hành theo trình 
tự, thủ tục do pháp luật quy định. 
- Toà án là cơ quan duy nhất có quyền kết tội và quyết định hình phạt.      lOMoAR cPSD| 58794847
- Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị bắt, 
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không có tội khi không đủ và không thể làm 
sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội 
+ Không đủ chứng cứ: Điều 108 BLTTHS 2015 “chứng cứ thu thập được phải bảo 
đảm đủ để giải quyết vụ án hình sự” → phải đủ về chất. 
- Không đủ số lượng (mức) chứng cứ cần và đủ (giới hạn chứng minh) để buộc  tội, kết tội. 
- Khi còn có sự nghi ngờ về độ tin cậy và giá trị chứng minh của chứng cứ buộc 
tội, kết tội nhưng không thể làm sáng tỏ.   
● Điều kiện thực hiện nguyên tắc: 
- Đổi mới nhân thức, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho người có  thẩm quyền THTT. 
- Tăng cường các yếu tố tranh tụng (nâng cao vị thế của người bào chữa) trong 
quá trình giải quyết vụ án.    ● Ý nghĩa: 
- Phản ánh sự đổi mới trong tư duy pháp lý trên cơ sở khoa học, là một bước tiến 
trong nhận thức của nhân loại theo hướng tôn trọng và bảo vệ quyền con người 
trong TTHS, thể hiện tính nhân đạo trong TTHS. 
- Đảm bảo quá trình giải quyết VAHS được tiến hành một cách khách quan, công  bằng. 
5. Phân tích nguyên tắc “Không ai bị kết án hai lần vì một tội  phạm” 
● CSPL: Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966; Điều 31 
Hiến pháp 2013; Điều 14 BLTTHS 2015.  ● Nội dung nguyên tắc: 
- “Không được khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với người mà hành vi của họ 
đã có bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp họ thực hiện 
hành vi nguy hiểm khác cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm.” 
- Một người thực hiện hành vi phạm tội thì họ chỉ bị xét xử bởi một Tòa án và 
chỉ phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý bởi một bản án. 
- Bản án đã tuyên (kết án) đã có hiệu lực pháp luật là sự thể hiện quan điểm của 
Nhà nước đối với hành vi phạm tội. 
+ Trong trường hợp có tội, bản án đưa ra một hình phạt cụ thể trong hệ thống hình 
phạt của Bộ luật hình sự để áp dụng đối với người phạm tội. Do vậy, người phạm 
tội khi đã bị xét xử về tội phạm do mình thực hiện và đã có bản án có hiệu lực 
pháp luật thì không phải chịu thêm bất kỳ một sự kết án nào khác về tội phạm  đó. 
+ Vì vậy, nếu bản án đó là bản án tuyên vô tội và có hiệu lực pháp luật thì theo lẽ 
dĩ nhiên chúng ta vẫn phải áp dụng nguyên tắc này đối với người bị buộc tội.      lOMoAR cPSD| 58794847
Bởi lẽ, dù bản án tuyên có tội hay vô tội thì người bị buộc cũng đã bị một lần xét 
xử do hành vi mình thực hiện, cho nên không thể chịu thêm bất kỳ lần xét xử 
nào khác đối với hành vi đó.    ● Ý nghĩa: 
- Thể hiện sự nhân đạo, công bằng trong pháp luật hình sự. 
- Đề cao nguyên tắc mà nước ta cũng như các nước khác trên thế giới hướng 
đến: Một người phải chịu trách nhiệm hình sự và bị xét xử một lần đối với một  hành vi phạm tội. 
- Bảo đảm tính ổn định và giá trị pháp lý của các bản án, quyết định của Tòa án 
đã có hiệu lực pháp luật. 
- Góp phần tích cực trong việc phòng chống oan sai, hạn chế việc cơ quan tiến 
hành tố tụng quy kết người không phạm tội. 
6. Phân tích những quy định của BLTTHS 2015 nhằm thực hiện 
nguyên tắc “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội”.  CHƯƠNG 2 
1. Phân tích và đánh giá quy định BLTTHS 2015 về các trường hợp phải từ chối 
hoặc thay đổi người có thẩm quyền THTT.   - 
Bảo đảm tính vô tư của những người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố 
tụnglà một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự. Nếu có lý do xác đáng 
để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình thì họ không 
được tiến hành tố tụng. Điều luật đang bình luận quy định cụ thể những trường hợp phải 
thay đổi người tiến hành tố tụng. Việc thay đổi do người tiến hành tố tụng từ chối tiến 
hành tố tụng hoặc do có đề nghị thay đổi của những người có thẩm quyền do Bộ luật tố 
tụng hình sự quy định.  - 
Khoản 1 Điều 49 không cho phép một người cùng một lúc vừa thực hiện nhiệm 
vụ,quyền hạn và trách nhiệm của người tiến hành tố tụng (Điều tra viên, Kiểm sát viên, 
Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án), vừa tham gia tố tụng với tư cách là người bị hại, 
nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; hoặc là người đại 
diện hợp pháp, người thân thích của những người đó hoặc của bị can, bị cáo. Những 
người thân thích của những người tiến hành tố tụng hoặc của bị can, bị cáo là những 
người có quan hệ họ hàng gần với những người đó như: ông, bà nội, ngoại; cha mẹ đẻ, 
cha mẹ nuôi; vợ, chồng; anh, chị em, ruột; anh, chị, em nuôi; anh chị em vợ hoặc chồng; 
cô, dì, chú, bác, cậu; con, cháu của cô, dì, chú, bác, cậu.  - 
Theo khoản 2 Điều 49, những người tiến hành tố tụng phải từ chối hoặc bị thay 
đổinếu họ đã tham gia trong tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa, người làm 
chứng, người giám định, người phiên dịch trong vụ án đó.      lOMoAR cPSD| 58794847 - 
Khoản 3 Điều 49 quy định những trường hợp khác phải từ chối hoặc thay đổi 
ngườitiến hành tố tụng. Đó là có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng những người tiến hành 
tố tụng có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ. Những căn cứ rõ ràng đó có thể là: 
người tiến hành tố tụng có mối quan hệ mật thiết về công vụ, về kinh tế, về gia đình với 
người có lợi ích được giải quyết trong vụ án hoặc có mâu thuẫn nghiêm trọng với người  đó…  - 
Những trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng được quy 
địnhở Điều 49 là những trường hợp chung. Việc thay đổi từng loại người tiến hành tố 
tụng cụ thể (Điều tra viên. Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án). 
2. Nêu ý kiến cá nhân về việc trực tiếp ghi nhận quyền im lặng của người bị buộc 
tội trong BLTTHS 2015.  
3 - Đề K36. Anh (chị) hãy phân biệt người bị hại và nguyên đơn dân sự trong vụ  án hình sự.  ● Bị hại 
Điều 51 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: Người bị hại là người bị thiệt hại 
về vật chất, tinh thần hoặc tài sản do tội phạm gây ra. 
Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt 
hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín 
do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra. 
Như vậy, bị hại theo quy định của BLTTHS năm 2015 có các điểm mới so với  BLTTHS năm 2003 là: 
+ Về chủ thể bao gồm không chỉ cá nhân mà còn là cơ quan, tổ chức. 
+ Về thiệt hại do tội phạm gây ra: Cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, 
tài sản còn nếu là cơ quan, tổ chức thì bị thiệt hại về tài sản, uy tín.  ● Nguyên đơn dân sự 
Điều 63 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Nguyên đơn dân sự là cá nhân, 
cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt  hại. 
● Phân biệt bị hại và nguyên đơn dân sự 
Bị hại và nguyên đơn dân sự đều có chủ thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức và có một số 
quyền như nhau theo quy định tại Điều 62, Điều 63 BLTTHS. Ngoài ra bị hại còn có 
thêm một số quyền mà nguyên đơn dân sự không có như: Được tham gia tố tụng hay cả 
trong trường hợp không có yêu cầu, quyền trình bày buộc tội tại phiên tòa, quyền đề      lOMoAR cPSD| 58794847
nghị hình phạt, quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án (nguyên đơn dân sự chỉ 
có quyền kháng cáo về phần bồi thường thiệt hại). 
Tuy nhiên trên thực tiễn còn xảy ra xác định tư cách tham gia tố tụng không chính xác, 
nhất là trường hợp đối tượng bị thiệt hại là cơ quan, tổ chức. Vì vậy, để phân biệt bị hại 
và nguyên đơn dân sự thì căn cứ những điểm sau: 
- Về thiệt hại xảy ra: 
+ Bị hại: Là bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản, uy tín (nếu là cơ quan, tổ  chức). 
+ Nguyên đơn dân sự: Chỉ bị thiệt hại về tài sản. 
- Về quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại xảy ra: 
+ Bị hại bị thiệt hại trực tiếp từ hành vi phạm tội, mục đích của người phạm tội 
là trực tiếp gây ra thiệt hại cho chủ thể này. 
Ví dụ: A trộm cắp tài sản của cơ quan X và bị khởi tố. Theo quy định của BLTTHS năm 
2003 thì cơ quan X là nguyên đơn dân sự nhưng theo BLTTHS năm 2015 thì là bị hại  trong vụ án hình sự. 
+ Nguyên đơn dân sự bị thiệt hại gián tiếp từ hành vi phạm tội, mục đích của 
người phạm tội không nhằm trực tiếp gây ra thiệt hại cho chủ thể này. 
Ví dụ: A đánh B gây thương tích tại trụ sở cơ quan X. Hậu quả làm B bị thương còn cơ 
quan X cũng bị hư hỏng một số tài sản. A bị khởi tố về tội cố ý gây thương tích. Trong 
trường hợp này cơ quan X là nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự nếu có đơn yêu 
cầu bồi thường thiệt hại./.  4. 
So sánh người đại diện của bị hại và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp 
phápcủa bị hại. (Hông biết làm)  5. 
Phân tích và đánh giá quy định về nghĩa vụ của bị hại  trongBLTTHS 2015.  - 
Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; 
trường hợp cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại 
khách quan thì có thể bị dẫn giải: Bị hại phải có mặt khi cơ quan có thẩm quyền tiến 
hành tố tụng triệu tập để thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình và tạo điều 
kiện thuận lợi cho việc giải quyết vụ án. Việc bị hại vắng mặt có thể cản trở hoạt động      lOMoAR cPSD| 58794847
tố tụng, vì vậy nếu họ cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở 
ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải;  - 
Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành 
tố tụng: Bị hại có nghĩa vụ phải khai báo, cung cấp những thông tin cần thiết giúp cho 
việc làm sáng tỏ sự thật của vụ án và chấp hành quyết định, yêu cầu khác của cơ quan, 
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Việc giải quyết đúng đắn vụ án không chỉ bảo 
vệ lợi ích Nhà nước mà còn bảo vệ lợi ích của bị hại nên bị hại thường chủ động tích 
cực trong việc khai báo. Việc họ từ chối khai báo hoặc không chấp hành những quyết 
định, yêu cầu khác của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không có lí do 
chính đáng là việc không bình thường, không phù hợp tâm lí của nạn nhân. Hành vi 
không chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố 
tụng đó gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, có thể bị coi là tội phạm và phải chịu 
trách nhiệm hình sự theo Điều 383 BLHS.  6. 
Phân biệt người làm chứng với người chứng kiến trong tố tụng  hìnhsự.  Tiêu chí  Người làm chứng 
Người chứng kiến  (Điều 66 BLTTHS 2015)  (Điều 67 BLTTHS 2015)      Khái niệm   
Người làm chứng là người biết 
Người chứng kiến là người được cơ 
được những tình tiết liên quan đến quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng 
nguồn tin về tội phạm, về vụ án và yêu cầu chứng kiến việc tiến hành hoạt 
được cơ quan có thẩm quyền tiến động tố tụng theo quy định của Bộ luật 
hành tố tụng triệu tập đến làm  Tố tụng hình sự.  chứng.        Đối tượng    
không được - Người bào chữa của người bị - Người thân thích của người bị buộc 
làm người buộc tội; 
tội, người có thẩm quyền tiến hành tố  làm chứng/  tụng;      lOMoAR cPSD| 58794847
người chứng - Người do nhược điểm về tâm    kiến 
thần hoặc thể chất mà không có 
- Người do nhược điểm về tâm thần 
khả năng nhận thức được những hoặc thể chất mà không có khả năng 
tình tiết liên quan nguồn tin về tội nhận thức đúng sự việc; 
phạm, về vụ án hoặc không có khả    - Người dưới 18 tuổi; 
năng khai báo đúng đắn.     
- Có lý do khác cho thấy người đó  không khách quan.    Quyền   
- Được thông báo, giải thích quyền - Được thông báo, giải thích quyền và 
và nghĩa vụ quy định tại Điều 66 nghĩa vụ quy định tại Điều 67  BLTTHS 2015;  BLTTHS 2015;     
- Yêu cầu cơ quan triệu tập bảo vệ - Yêu cầu người có thẩm quyền tiến 
tính mạng, sức khoẻ, danh dự, 
hành tố tụng tuân thủ quy định của 
nhân phẩm, tài sản và quyền, lợi pháp luật, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, 
ích hợp pháp khác của mình, 
danh dự, nhân phẩm, tài sản và quyền, 
người thân thích của mình khi bị lợi ích hợp pháp khác của mình, người  đe dọa; 
thân thích của mình khi bị đe dọa;     
- Khiếu nại quyết định, hành vi tố - Xem biên bản tố tụng, đưa ra nhận xét 
tụng của cơ quan, người có thẩm về hoạt động tố tụng mà mình chứng 
quyền tiến hành tố tụng liên quan kiến; 
đến việc mình tham gia làm     
- Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng  chứng; 
của cơ quan, người có thẩm quyền tiến   
- Được cơ quan triệu tập thanh 
hành tố tụng liên quan đến việc mình 
toán chi phí đi lại và những chi phí tham gia chứng kiến;      lOMoAR cPSD| 58794847
khác theo quy định của pháp luật.   
- Được cơ quan triệu tập thanh toán chi   
phí theo quy định của pháp luật.    Nghĩa vụ   
- Có mặt theo giấy triệu tập của cơ - Có mặt theo yêu cầu của cơ quan có 
quan có thẩm quyền tiến hành tố thẩm quyền tiến hành tố tụng; 
tụng. Trường hợp cố ý vắng mặt   
- Chứng kiến đầy đủ hoạt động tố tụng 
mà không vì lý do bất khả kháng  được yêu cầu; 
hoặc không do trở ngại khách           
quan và việc vắng mặt của họ gây - Ký biên bản về hoạt động mà mình 
trở ngại cho việc giải quyết nguồn chứng kiến; 
tin về tội phạm, khởi tố, điều tra,   
- Giữ bí mật về hoạt động điều tra mà 
truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn  mình chứng kiến;  giải;     
- Trình bày trung thực những tình tiết 
- Trình bày trung thực những tình 
mà mình chứng kiến theo yêu cầu của 
tiết mà mình biết liên quan đến 
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố 
nguồn tin về tội phạm, về vụ án và      lOMoAR cPSD| 58794847 tụng. 
lý do biết được những tình tiết đó.      7. 
Phân tích và đánh giá những điểm mới trong quy định của 
BLTTHS2015 về địa vị pháp lý của người bào chữa. 
- Thứ nhất, quy định về khái niệm người bào chữa và diện người bào chữa 
Mặc dù người bào chữa là một trong những người tham gia Tố tụng Hình sự, có vai trò 
không nhỏ đối với việc giải quyết vụ án hình sự một cách khách quan, toàn diện, bảo 
vệ công lý, nhưng BLTTHS năm 2003 không có quy phạm định nghĩa về khái niệm 
người bào chữa. Khắc phục sự bất cập này, BLTTHS năm 2015 quy định: “Người bào 
chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến 
hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận 
việc đăng ký bào chữa” (Điều 72, khoản 1). Từ quy định này thấy rằng, để được coi là 
người bào chữa trong Tố tụng Hình sự phải đáp ứng hai điều kiện:  (1) 
Được người buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành Tố 
tụngHình sự chỉ định (bào chữa bắt buộc).  (2) 
Được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng chấp nhận việc đăng ký  bàochữa. 
Theo quy định tại khoản 2 Điều 72 BLTTHS năm 2015, những người có thể tham gia 
tố tụng với tư cách là người bào chữa đã được mở rộng hơn so với quy định của BLTTHS 
năm 2003. Theo đó, bên cạnh Luật sư, bào chữa viên nhân dân, người đại diện hợp pháp 
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thì trợ giúp viên pháp lý cũng có thể trở thành người 
bào chữa miễn phí cho các đối tượng chính sách được trợ giúp pháp lý. 
Tuy nhiên, không phải bất cứ ai thuộc diện các đối tượng nêu trên đều có thể trở thành 
người bào chữa. Để phù hợp với quy định của Luật Luật sư, cũng như bảo đảm tính 
khách quan, tính chặt chẽ của hoạt động tố tụng, khoản 4 Điều 72 BLTTHS năm 2015 
quy định những người sau đây không được bào chữa cho người bị buộc tội:  (1) 
Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó, người thân thích của người đã 
hoặcđang tiến hành tố tụng trong vụ án đó.  (2) 
Người tham gia vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định, 
ngườiđịnh giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật.      lOMoAR cPSD| 58794847 (3) 
Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người bị kết án mà chưa được xóa 
ántích, người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, đưa vào cơ sở cai nghiện 
bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc. 
Trong số những đối tượng không được làm người bào chữa nêu trên, có những đối tượng 
đã được BLTTHS năm 2003 quy định, nhưng cũng có đối tượng mới được BLTTHS 
năm 2015 bổ sung, đó là người đã tham gia vụ án đó với tư cách là người dịch thuật và 
người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đã bị kết án mà chưa được xóa án tích, 
người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, 
cơ sở giáo dục bắt buộc. 
Để bảo đảm tốt nhất quyền bào chữa của người bị buộc tội, pháp luật cho phép một 
người bào chữa có thể bào chữa cho nhiều người bị buộc tội trong cùng một vụ án nếu 
quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau. Đồng thời, pháp luật cũng cho phép nhiều 
người bào chữa có thể bào chữa cho một người bị buộc tội. 
- Thứ hai, quy định về thủ tục đăng ký bào chữa 
Theo quy định của BLTTHS năm 2003, để tham gia bào chữa trong vụ án, người bào 
chữa phải được cấp giấy chứng nhận người bào chữa. Hiện nay, BLTTHS năm 2015 đã 
thay thủ tục “cấp giấy chứng nhận bào chữa” bằng thủ tục “đăng ký bào chữa”, theo đó 
trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ mà người bào chữa phải xuất trình theo 
quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 78 BLTTHS năm 2015, cơ quan có thẩm quyền 
tiến hành tố tụng có trách nhiệm kiểm tra giấy tờ do người bào chữa cung cấp, nếu thấy 
đủ điều kiện luật định thì vào sổ đăng ký bào chữa và gửi ngay văn bản thông báo người 
bào chữa cho người đăng ký và cơ sở giam giữ, đồng thời lưu các giấy tờ liên quan đến 
đăng ký bào chữa trong hồ sơ vụ án. Ngược lại, nếu xét thấy không đủ điều kiện đăng 
ký bào chữa thì từ chối việc đăng ký bào chữa và phải có văn bản nêu rõ lý do từ chối. 
Từ quy định trên thấy rằng, thời hạn chấp nhận đăng ký bào chữa được rút ngắn từ 03 
ngày theo quy định của BLTTHS năm 2003 xuống còn 01 ngày (24 giờ) kể từ khi nhận 
đủ các giấy tờ luật định. Để khắc phục tình trạng “đẻ” thêm thủ tục, giấy tờ liên quan 
đến bào chữa, BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể các loại giấy tờ cần phải xuất trình 
tương ứng với từng diện người bào chữa trong trường hợp bào chữa thông thường và 
bào chữa chỉ định. Ngoài ra, để xóa bỏ việc người bào chữa phải thực hiện thủ tục xin 
cấp giấy chứng nhận người bào chữa riêng cho từng giai đoạn tố tụng như trước đây, 
BLTTHS năm 2015 quy định văn bản thông báo người bào chữa có giá trị sử dụng trong 
suốt quá trình tham gia tố tụng. Những quy định trên đây đã tạo thuận lợi hơn cho những 
đối tượng muốn trở thành người bào chữa, bảo đảm sự minh bạch, rõ ràng, cũng như 
bảo đảm tính kịp thời và hiệu quả của hoạt động bào chữa trong Tố tụng Hình sự. 
- Thứ ba, quy định về lựa chọn, chỉ định người bào chữa      lOMoAR cPSD| 58794847
Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 đã có sự sửa đổi, bổ sung đáng kể về lựa chọn, chỉ 
định người bào chữa, theo đó người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích 
của họ có quyền lựa chọn người bào chữa (khoản 1 Điều 75). So với quy định của 
BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã mở rộng chủ thể có quyền lựa chọn người 
bào chữa bằng việc quy định bổ sung người thân thích của người bị buộc tội có quyền 
mời người bào chữa. Đồng thời, còn quy định cụ thể thủ tục và trách nhiệm của cơ quan 
có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cơ quan quản lý người bị tạm giữ, tạm giam khi tiếp 
nhận được yêu cầu nhờ người bào chữa từ người bị buộc tội phải chuyển yêu cầu này 
hoặc thông báo cho người bào chữa được họ nhờ biết; có trách nhiệm tạo điều kiện cho 
người bào chữa liên hệ với người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam để thỏa thuận về việc nhờ  bào chữa. 
Sự sửa đổi, bổ sung này của BLTTHS năm 2015 có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó 
không chỉ giải quyết những vướng mắc trong cơ chế bảo đảm cho người bị buộc tội 
đang bị tạm giữ, tạm giam có cơ hội tiếp cận với người bào chữa để bảo vệ quyền và 
lợi ích hợp pháp của mình, mà còn ngăn ngừa các biểu hiện ngăn cản, gây khó khăn cho 
người bào chữa khi tham gia tố tụng, qua đó bảo đảm tốt hơn quyền bào chữa của người 
bị buộc tội, nhất là người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam. Đặc biệt, để tháo gỡ những 
vướng mắc liên quan đến việc bào chữa cho người bị tạm giữ, tạm giam, đồng thời 
nhằm bảo đảm tính minh bạch của hoạt động Tố tụng Hình sự, BLTTHS năm 2015 đã 
bổ sung quy định: “Trong trường hợp người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam 
trong giai đoạn điều tra có đề nghị từ chối người bào chữa do người thân thích của họ 
nhờ thì điều tra viên phải cùng người bào chữa đó trực tiếp gặp người bị bắt, người bị 
tạm giữ, người bị tạm giam để xác nhận việc từ chối” (khoản 2 Điều 77). 
Bên cạnh đó, để bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội theo khung hình phạt 
có quy định các loại, mức hình phạt nghiêm khắc, BLTTHS năm 2015 đã mở rộng các 
trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa (trường hợp người bị buộc tội được chỉ 
định người bào chữa), đối với bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật Hình sự quy định mức 
cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. 
Theo quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS năm 2003, chỉ bị can, bị cáo về tội theo 
khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình mới được chỉ định người bào chữa. Trong 
khi đó, Điều 76 BLTTHS năm 2015 thì bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật Hình sự quy 
định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình phải 
được chỉ định người bào chữa. Thêm vào đó, việc chỉ định người bào chữa cho đối 
tượng có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần theo quy định của BLTTHS năm 2003 
chỉ áp dụng đối với bị can, bị cáo, BLTTHS năm 2015 đã mở rộng đối với cả người bị 
bắt, người bị tạm giữ. 
- Thứ tư, quy định về thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng      lOMoAR cPSD| 58794847
Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định thời điểm tham gia tố tụng của người bào 
chữa sớm hơn, theo đó người bào chữa có quyền tham gia tố tụng kể từ khi người bị bắt 
có mặt tại trụ sở của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số 
hoạt động điều tra (Điều 74) thay vì tham gia từ khi có quyết định tạm giữ như quy định  của BLTTHS năm 2003. 
Sự sửa đổi này xuất phát từ việc BLTTHS năm 2015 coi người bị bắt là người bị buộc 
tội (khoản 1 Điều 4) và người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa. 
Với quy định này, người bào chữa được quyền tham gia tố tụng rất sớm, từ trước khi có 
quyết định khởi tố bị can, qua đó góp phần bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp 
của người bị buộc tội ngay từ những hoạt động đầu tiên của quá trình tố tụng. 
- Thứ năm, quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa 
Trong BLTTHS năm 2003, quyền và nghĩa vụ của người bào chữa tuy đã được quy định 
nhưng chưa thật sự đầy đủ. Để người bào chữa thực hiện tốt việc bào chữa, đồng thời 
tăng cường trách nhiệm của người bào chữa khi tham gia tố tụng, BLTTHS năm 2015 
đã bổ sung quyền của người bào chữa, gồm: 
(1) Quyền gặp, hỏi người bị buộc tội. 
(2) Quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cungcủa 
người có thẩm quyền kết thúc, người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm  giữ, bị can. 
(3) Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm 
lấylời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra theo quy  định của BLTTHS. 
(4) Thu thập chứng cứ; kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, 
đồvật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng 
cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản. 
(5) Đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế. 
Cùng với việc mở rộng quyền, BLTTHS năm 2015 còn bổ sung nghĩa vụ của người bào 
chữa phải có mặt theo yêu cầu của cơ quan điều tra, viện kiểm sát; không được tiết lộ 
thông tin mà mình biết được khi tham gia các hoạt động tố tụng liên quan đến vụ án 
hoặc liên quan đến người mà mình bào chữa cho những người không có trách nhiệm  giải quyết vụ án. 
Ngoài ra, BLTTHS năm 2015 còn bổ sung cơ chế để người bào chữa thực hiện tốt việc 
bào chữa như: Quy định trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng 
phải thông báo trước cho người bào chữa thời gian, địa điểm tiến hành các hoạt động tố      lOMoAR cPSD| 58794847
tụng mà họ có quyền tham gia; quy định cụ thể thủ tục gặp người bị buộc tội đang bị 
bắt, tạm giữ, tạm giam, thủ tục giao nộp chứng cứ, thủ tục đọc, ghi chép, sao chụp tài 
liệu trong hồ sơ vụ án.  8. 
Phân tích và đánh giá quy định của BLTTHS 2015 về vấn đề từ 
chốingười bào chữa chỉ định của người bị buộc tội là người dưới 18  tuổi. 
 Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 76 và Điều 422 BLTTHS 2015 thì người bị 
buộc tội là người dưới 18 tuổi sẽ được chỉ định người bào chữa. Sau khi cơ quan có 
thẩm quyền chỉ định NBC cho bị cáo là người dưới 18 tuổi, bị cáo vẫn có quyền yêu 
cầu thay đổi hoặc từ chối NBC được chỉ định cho họ. Tuy nhiên quyền này không có 
tính tuyệt đối. Theo quy định tại khoản 3 Điều 77 BLTTHS năm 2015, trong trường hợp 
chỉ có bị cáo dưới 18 tuổi từ chối NBC còn người đại diện hợp pháp của bị cáo không 
từ chối thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử với sự tham gia của NBC đã được cử. Quy 
định này nhằm bảo đảm lợi ích của chính các bị cáo là người dưới 18 tuổi, đồng thời nó 
thể hiện sự tiến bộ của pháp luật. Thông thường quyền bào chữa là quyền của bị cáo, 
họ có quyền quyết định, lựa chọn NBC tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp 
pháp của mình, các cơ quan THTT có nghĩa vụ tôn trọng quyết định đó của bị cáo. 
Nhưng trong các trường hợp quy định tại Điều 76 BLTTHS năm 2015 thì quyền quyết 
định của các chủ thể này không có tính tuyệt đối. Sở dĩ, pháp luật hạn chế quyền của bị 
cáo trong trường hợp này để bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của bị cáo. Bị cáo là 
người dưới 18 tuổi là những người còn nhiều hạn chế về hiểu biết pháp luật cũng như 
kiến thức xã hội do đó họ có thể gặp khó khăn trong việc thực hiện quyền bào chữa của 
mình nên cần có sự can thiệp từ phía các cơ quan, người THTT.  9. 
Có nên quy định thủ tục đăng ký bào chữa không? Tại sao? 
- Quy định thủ tục đăng ký bào chữa tại Điều 78 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 trực 
tiếp tháo gỡ rào cản thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho Luật sư, bào chữa 
viên nhân dân, trợ giúp viên pháp lý, người đại diện của người bị buộc tội tiếp cận sớm 
với người bị buộc tội. Nhìn chung, quy định về thủ tục đăng ký bào chữa có các đặc  điểm sau đây: 
+ Thứ nhất, về chủ thể đăng ký bào chữa: Là người được người bị buộc tội, người 
đại diện hoặc người thân thích của họ nhờ thực hiện việc bào chữa hoặc người được cơ 
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định bào chữa cho người bị buộc tội, bao 
gồm: Luật sư, người đại diện của người bị buộc tội, bào chữa viên nhân dân, trợ giúp 
viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý 
(khoản 1, 2 BLTTHS 2015). 
+ Thứ hai, về giai đoạn tố tụng có thể thực hiện việc đăng ký bào chữa: Việc đăng 
ký bào chữa có thể được thực hiện sớm nhất ở giai đoạn khởi tố khi có người bị bắt, 
người bị tạm giữ hoặc được thực hiện trong giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. + Thứ 
ba, về hoạt động đặc trưng: Người muốn trở thành người bào chữa cho người bị buộc      lOMoAR cPSD| 58794847
tội thực hiện việc nộp các giấy tờ theo nội dung yêu cầu của điều luật; cơ quan có thẩm 
quyền tiến hành tố tụng xem xét chấp thuận hoặc không chấp thuận việc đăng ký bào 
chữa, vào sổ đăng ký bào chữa hoặc từ chối đăng ký bào chữa. 
+ Thứ tư, về giá trị của văn bản thông báo người bào chữa: Văn bản thông báo người 
bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tham gia tố tụng, trừ các trường hợp 
người bị buộc tội từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa hoặc người đại diện 
hoăc người thân thích của người bị buộ c tộ i có nhược điểm về thể chất mà không ̣ thể 
tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi từ chối hoặc 
đề nghị thay đổi người bào chữa (khoản 6 Điều 78 BLTTHS 2015). 
+ Thứ năm, về hủy bỏ đăng ký bào chữa: Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng 
thực hiện hủy bỏ việc đăng ký bào chữa, làm chấm dứt tư cách người bào chữa khi phát 
hiện người bào chữa thuộc những trường hợp không được bào chữa theo khoản 4 Điều 
72 BLTTHS 2015 hoặc khi người bào chữa vi phạm pháp luật khi tiến hành bào chữa 
theo khoản 7 Điều 78 BLTTHS 2015. 
- Nhìn chung, quy định thủ tục đăng ký bào chữa tại Điều 78 Bộ luật Tố tụng hình sự 
năm 2015 là một trong những nội dung cải cách tư pháp mang tính đột phá, xóa bỏ hẳn 
thủ tục cấp giấy nhận người bào chữa của cơ quan tiến hành tố tụng theo quy định Bộ 
luật tố tụng hình sự trước đây. Tuy nhiên, do lần đầu tiên được ghi nhận nên quy định 
này không thể tránh khỏi những tồn tại, hạn chế cần được nghiên cứu, thảo luận nghiêm 
túc, làm cơ sở để cơ quan có thẩm quyền xem xét thay đổi hoặc hướng dẫn kịp thời.  10. 
So sánh người bào chữa với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của 
bịhại, đương sự.  11. 
Vì sao người làm chứng không thể trở thành người bào chữa và ngược 
lại?- Người làm chứng không thể trở thành người bào chữa bởi vì người bào chữa chỉ 
được phép đưa ra những chứng cứ có lợi cho người bị buộc tội. Họ không thể làm 
chứng vì nghĩa vụ của người làm chứng là phải khai báo trung thực những gì họ biết 
về vụ án, nghĩa vụ đó mâu thuẫn với nghĩa vụ của người bào chữa.  12. 
Vì sao người dưới 18 tuổi không được làm người chứng kiến trong tố  tụnghình sự?  - 
Người chứng kiến là người được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu 
cầuchứng kiến việc tiến hành hoạt động tố tụng.  - 
Người chứng kiến có trách nhiệm xác nhận nội dung, kết quả công việc mà người 
cóthẩm quyền tiến hành tố tụng đã tiến hành trong khi mình có mặt và có thể nêu ý kiến 
cá nhân. Ý kiến này được ghi vào biên bản.  - 
Người dưới 18 tuổi là người có năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ. Họ là chủ 
thể không đảm bảo có đầy đủ nhận thức, sự vô tư, khách quan trong quá trình thực hiện 
nghĩa vụ của mình thì không được làm người chứng kiến. 
13. Đánh giá quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thời điểm tham gia tố 
tụng của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự. 
Theo Thông tư 46/2019/TT-BCA quy định:      lOMoAR cPSD| 58794847
“Điều 7. Thời điểm người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, 
người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố tham gia tố tụng  1. 
Thời điểm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, người bị tố 
giác,người bị kiến nghị khởi tố tham gia tố tụng kể từ khi có Quyết định phân công giải 
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và có căn cứ xác định tư cách tham 
gia tố tụng của bị hại, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố.  2. 
Thời điểm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn dân sự, bị 
đơndân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự kể từ khi có quyết 
định khởi tố vụ án hình sự và có căn cứ xác định tư cách tham gia tố tụng của nguyên 
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự.”  CHƯƠNG 2  
I. CÂU HỎI LÝ THUYẾT 
1. Phân tích và đánh giá quy định của BLTTHS 2015 về các trường hợp 
phải từ chối hoặc thay đổi người có thẩm quyền THTT? 
Được quy định tại Điều 49 BLTTHS 2015 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2018) 
“Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi 
khi thuộc một trong các trường hợp:  1. 
Đồng thời là bị hại, đương sự; là người đại diện, người thân thích của bị hại, 
đương sự hoặc của bị can, bị cáo;  2. 
Đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám định, 
người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật trong vụ án đó;  3. 
Có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm  vụ.” 
Các trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người có thẩm quyền tiến hành 
tố tụng trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 theo khoản 1 Điều 49 
Khoản 1 Điều 49 không cho phép một người cùng một lúc vừa thực hiện nhiệm 
vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người tiến hành tố tụng (Cán bộ điều tra, Điều tra 
viên, Kiểm tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án), vừa tham 
gia tố tụng với tư cách là bị hại, đương sự; là người đại, diện, người thân thích của bị 
hại, đương sự hoặc của bị can, bị cáo.      lOMoAR cPSD| 58794847
Những người thân thích của những người tiến hành tố tụng hoặc của bị can, bị 
cáo là những người có quan hệ họ hàng gần với những người đó như: ông, bà nội, 
ngoại; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi; vợ, chông; anh, chị em, ruột; anh, chị, em nuôi; anh 
chị em vợ hoặc chồng; cô, dì, chú, bác, cậu; con, cháu của cô, dì, chú, bác, cậu. 
Các trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người có thẩm quyền tiến hành 
tố tụng trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 theo khoản 2 Điều 49 
Theo khoản 2 Điều 49, những người tiến hành tố tụng phải từ chối hoặc bị thay 
đổi nếu họ đã tham gia trong tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa, người làm 
chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật  trong vụ án đó. 
Các trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người có thẩm quyền tiến hành 
tố tụng trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 theo khoản 3 Điều 49 
Khoản 3 Điều 49 quy định những trường hợp khác phải từ chối hoặc thay đổi 
người tiến hành tố tụng. Đó là có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng những người tiến 
hành tố tụng có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ. Những căn cứ rõ ràng đó có 
thể là: người tiến hành tố tụng có mối quan hệ mật thiết về công vụ, về kinh tế, về gia 
đình với người có lợi ích được giải quyết trong vụ án hoặc cố mâu thuẫn nghiêm trọng  với người đó 
Kết luận: Những trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng 
được quy định ở Điều 49 là những trường hợp chung. Việc thay đổi từng loại người 
tiến hành tố tụng cụ thể (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký 
Tòa án) được cụ thể hóa ở các Điều 51,52, 53, 54 Bộ luật này. 
Từ việc phân tích khoản 1 2 3 Điều 49 ta thấy Điều luật hiện đang có những 
ưu điểm và hạn chế sau: 
Ưu điểm từ điều luật này: Bảo đảm tính vô tư của những người tiến hành tố tụng 
hoặc người tham gia tố tụng là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình 
sự. Nếu có lý do xác đáng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện 
nhiệm vụ của mình thì họ không được tiên hành tô tụng. 
Nhược điểm: tại khoản 3 cần có hướng dẫn cụ thể các căn cứ thay đổi người tiến 
hành tố tụng, đảm bảo cho việc kiểm sát hoạt động của các cơ quan, người tiến hành  tố tụng dễ dàng hơn. 
2. Nêu ý kiến cá nhân về việc trực tiếp ghi nhận quyền im lặng của người bị 
buộc tội trong BLTTHS 2015?