NCKH năm 3 - NCKH năm 3
Đề tài NCKH (Đại học Hải Phòng)
04/06/2020
ẢNH HƯỞNG CỦA KHUYNH HƯỚNG TƯỢNG TRƯNG, SIÊU THỰC TRONG
THƠ MỚI VIỆT NAM
trong dòng chảy văn học, hiện tượng kế thừa, tiếp thu những thành tựu tưởng, nghệ
thuật hiện tượng phổ biến, như một quy luật. Kế thừa thơ truyền thống dân tộc, tiếp thu
chủ nghĩa lãng mạn, tượng trưng, siêu thực của văn học Pháp, thanh niên trí thức Việt Nam
đầu thế kỷ XX đã sáng tạo ra một thời đại thi ca hoàn toàn khác trưc. Phải nói rằng Thơ
mi 1932 - 1945 một sự tích hợp nghệ thuật kỳ diệu, độc đáo trong lịch sử văn học Việt
Nam đã đi trọn hành trình thi ca trưc lúc hạ cánh để chuyển sang c ngoặt mi
khi lịch sử đã sang trang. Một thế kỷ thi ca Pháp vi những đỉnh thơ lừng danh như:
Lamartine, V.Hugo, Chateaubriand, Baudelaire, Verlaine, Valéry, Mallarmé... đã được các
nhà t mi thâu tóm, tiếp biến trong ng 13 năm. Thơ mi, một hiện tượng độc đáo
một không hai trong tiến trình thơ Việt Nam. Chỉ trong mt thời gian ngn của lịch sử, Thơ
mi đã khởi đi từ lãng mạn, đến tượng trưng siêu thực. Ba trào lưu thơ đã tích hợp, tổng
hoà, đan xen nhau trong trong khá nhiều tác giả, tác phẩm tiêu biểu, làm cho Thơ mi trở
nên giàu có, đa thanh, đa sc, trong đó, ngoài sự hin din tiên phong của ch nghĩa lãng
mạn, còn phần đóng góp không nh của ngh thut tượng trưng - siêu thực, được các
nhà thơ mi tiếp biến đầy sáng tạo.
Chuyên đề:
ẢNH HƯỞNG CỦA KHUYNH HƯỚNG TƯỢNG TRƯNG, SIÊU THỰC TRONG THƠ MỚI VIỆT
NAM
A. CHỦ NGHĨA SIÊU THỰC
I. Về sự ra đời kết thúc của chủ nghĩa siêu thc
Chủ nghĩa siêu thực một trào lưu nghệ thuật xuất hiện vào những năm 20 thế kỷ XX Pháp do Andre
Breton và P.Soupault đ xưng vi sự tham gia của L.Aragon và P.Eluard.
Sự ra đời của chủ nghĩa siêu thực v thực chất một sự nổi loạn đối vi văn minh tư sản và skhủng hoảng
tinh thần của một bộ phận thanh niên trí thức trưc thực trạng hội hỗn độn sự bất lực của mình v mặt
nghệ thuật. Trường phái y chống lại chủ nghĩa hiện thực mang tính chất suy đồi. thế nhiu nhà văn
tài ng như L.Aragon P. Éluard dần dần rời bỏ trường phái này chuyển sang chủ nghĩa hiện thực o
cuối những năm 30 của thế kỉ XX đồng thời cũng trở thành những nhà thơ nổi tiếng.
Trưc khi phát xít Đức chiếm đóng đất Pháp, chủ nghĩa siêu thực chính thức kết thúc lịch sử của nó.
II. Định nghĩa
Chủ nghĩa siêu thực một trào lưu nghệ thuật văn học nguồn gốc từ Pháp, được đặc trưng
bởi sự thể hiện tưởng theo cách tự phát tự động, chỉ được cai trị bởi sự thúc đẩy của tiềm thức, coi
thường logic và phủ nhận các tiêu chuẩn đạo đức và xã hội đã thiết lập.
Nguồn gốc của thuật ngữ "siêu thực" xảy ra vào năm 1917, thông qua G. Apollinaire, một từ có nghĩa
"những trên chủ nghĩa hiện thực". Tuy nhiên, như một phong trào nghệ thuật văn học, chỉ xuất
hiện ở Pháp vào những năm 1920.
Chủ nghĩa siêu thực dự định vượt ra khỏi gii hạn của trí tưởng tượng được tạo ra bởi tưởng sản
truyn thống logic của nó và bởi những ý tưởng nghệ thuật đã có hiệu lực từ thời Phục hưng.
Phong trào siêu thực phát triển mặc nguy bị tiêu diệt, bởi những biểu hiện trái ngược phát sinh
dựa trên chủ nghĩachính phủ. Nhiu nhà tưởng của phong trào đã trao đổi những lời buộc tội, nói rằng
họ không tuân theo mục đích của chủ nghĩa siêu thực. Bất chấp bầu không khí căng thẳng này, chủ nghĩa siêu
thực phát triển mạnh ảnh hưởng đến suy nghĩ của con người, bởi tạo ra một quan niệm mi v thế
gii và con người, nhưng cũng là một sự thay đổi liên quan trong quá trình nghệ thut.
Một số học giả cho rằng chủ nghĩa siêu thực đang trong quá trình mang thai cho đến năm 1924,
khi Manifeste du Surréalisme (Tuyên ngôn của chủ nghĩa siêu thực), bởi Breton, xuất hiện. Thay thế hệ thống
các giá trị họ dự định sẽ xóa bỏ, những người theo thuyết Dada những người theo chủ nghĩa siêu thực
đầu tiên đã dùng đến các thuyết phân tâm học v sự khuếch tán gần đây để hình thành một tưởng thi ca
mi.
Vi sự khởi đầu của Thế chiến II, những người theo chủ nghĩa siêu thực lan rộng ngay sau đó phong trào
đã bị giải thể châu Âu sự khác biệt v ý kiến giữac thành viên và các vị trí chính tr khác nhau.
Kiểm tra các tính năng chính của chủ nghĩa siêu thực.
Quan điểm thi pháp của họ chống lại sự sùng bái c trào lưu văn học hiện thực lãng mạn thế kỷ 19,
đưa ra một phương pháp sáng tác họ gọi “lối viết tự động”, tức ghi lại những ảo giác tự phát theo
“trạng thái của những người bị thôi miên”... nói tóm lại, là theo chủ quan của người ngh sĩ thoát ly mọi liên
h vi thực tế xã hội.
Trong bản tuyên ngôn của các nhà chủ nghĩa siêu thực viết năm 1924. André Breton đã viết như sau: c
tưởng được tự do bộc lộ, không phải chịu bất kỳ một sự kiểm soát nào của trí, hay của những thành kiến
đạo đức thẩm mỹ” .
Chủ nghĩa siêu thực là một khuynh hưng nghệ thuật ln bao trùm nhiu loại hình của nghệ thuật. Bắt đầu từ
thơ, siêu thực lan ti hội họa rồi tiếp đến điện ảnh, tiểu thuyết.
III. Một vài đặc điểm về chủ nghĩa siêu thực
1. Những nguyên tắc của trường phái siêu thc:
- Chủ nghĩa siêu thực thẳng tay gạt bỏ mọi quy tắc trong ngữ pháp và thi pháp, mọi nguyên tắc logic trong
duy, giành lấy stự do tuyệt đối cho cảm xúc tuôn trào. Sáng tác của họ do đó thường được cấu thành bằng
những dòng tim thức rời rạc, gián cách, không thể khắc họa được bức tranh thực tại toàn vẹn.
- ng v thế gii vô thức của con người mà họ cho là một lĩnh vực vô hạn đối vi sự khám phá sang tạo
nghệ thuật.
- Đ cao các ngẫu hứng, chú trọng ghi những cái xuất hiện t qua trong đầu, không qua sự kiểm soát của
trí.
- Vứt bỏ sự phân tích logic, xóa bỏ các gông cùm của lý trí, đạo đức, tôn giáo và chỉ tin cậy ở trực giác, giấc
mơ, ảo giác, ở những linh cảm bản năng và sự tiên tri.
- Dựa theo thuyết “tự động tâm linh” của Bréton họ kêu gọi hưng ti sự hồn nhiên không suy nghĩ của trẻ
thơ, ti trạng thái mê sảng, ti những ảo giác.
Vì thế chủ nghĩa siêu thực chủ trương thơ ca phải được tuôn trào tự do, không cần sử dụng các dấu chấm
câu, không cần tuân thủ trật tự ngữ pháp, đ cao sự liên tưởng tự do của cá nhân.
2. Về phong cách đề i
Họ chủ trương giải phóng thơ khỏi những qui cách l lối trưc đó họ cho khuôn o, n lâm,
chủ trương dùng những từ ngữ kiểu cách, kỳ lạ, âm luật và cú pháp bất thường.
Đ tài của họ những tưởng huyn ảo quái dị, sđau khổ nh nhung quá khứ, tình yêu. Hcho
rằng chỉ vi lối sáng tác ấy người ta mi đạt đến một hiện thực cao hơn hin thực tầm thường hằng ngày, mt
“siêu hiện thực”, chữ mà A.Breton đặt ra. (Bách khoa toàn thư Việt Nam).
3. Về quan điểm chính trị
Các tác giả chủ nghĩa siêu thực nói chung đu những người phản kháng lại trật tự hội bản. Hđấu
tranh cho nhân quyn, chống chủ nghĩa thực dân c đầu rơi vào tinh thần nổi loạn chính phủ và những cá
nhân bản cực đoan. người ngay từ đầu đã tán thành chính sách chống đế quốc thực dân của những
người cộng sản.
4. Về nghệ thuật
Loại trừ những bài thơ điên loạn, nghĩa, chơi chữ, cần thừa nhận những cải cách của các nhà thơ siêu thực
v mặt thi pháp như: từ ngữ hình tượng thơ, thơ tự do thơ văn xuôi. Các nhà siêu thực xây dựng tác
phẩm hoàn toàn dựa trên những thủ pháp như sự tương tự, cái nghịch lý, sự bất ngờ, s thống nhất những cái
không thể thống nhất được. T đó ở tác phẩm xuất hiện một bầu không khí nghệ thuật đặc biệt, tính huyn
ảo, phi lý...
5. Các tác giả tiêu biểu
Thủ lĩnh phát ngôn nhân đầu tiên của trào lưu thơ siêu thực André Breton. Nhân vật quan trọng bên
cạnh Bréton nhà thơ, tiểu thuyết gia rất quen thuộc vi bạn đọc Việt Nam : Louis Aragon. Mặccó vị thế
quan trọng như vậy, nhưng sau Aragon lại từ bỏ chủ nghĩa siêu thực trở v vi văn chương truyn thống kiểu
Balzac. Những ngôi sao nổi tiếng khác như Tristan Tzara, Philippe Soupault, Jacques Prévert... Ngoài ra
những người theo chủ nghĩa siêu thực nhưng không hoàn toàn tuân thủ các nguyên tắc của nó, nhưng cũng rất
nổi tiếng như Federico Garcia Lorca (Tây Ban Nha), Anais Nin, Henry Miller, Charles Henry Ford (Mỹ),
Hugh Sykes Davies, Dylan Thomas (Anh), St.J.Perse, Paul Eluard (Pháp)...
IV. Ảnh hưởng của chủ nghĩa siêu thực đến Thơ mới Việt Nam ( 1932 1945 )
Trong văn học Việt Nam thế kỷ XX, chủ nghĩa siêu thực không trở thành một dòng riêng biệt, nhưng
bút pháp hoặc thi pháp siêu thực thì đã đưc các nhà thơ sử dụngđạt được những thành công nhất định. Ta
thể thấy được điu đó đậm nhạt Hàn Mặc Tử trong tập Thơ điên, Nguyễn Xuân Sanh trong Xuân Thu
Nhã Tập, Nguyễn Đình Thi vi những bài thơ không vần, Hoàng Cầm trong tập V Kinh Bắc, thơ Ngô
Kha và trong ca từ Trịnh Công n...
Việt Nam, nhiu nhà nghiên cứu cho rằng không dễ dàng trong việc xếp đặt các nhà Thơ Mi Việt Nam
theo một trường phái nhất định: lãng mạn, hoặc tượng trưng hay siêu thực, mà Thơ mi chủ yếu được sáng
tác theo quĩ đạo chủ nghĩa lãng mạn, sau đó, men ti chủ nghĩa tượng trưng chủ nghĩa siêu thực. Hiện
tượng đan xen giữa các yếu tố lãng mạn, tượng trưng, siêu thực như trong nhiu bài thơ của Hàn Mặc Tử,
Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Đinh Hùng là điển hình.
1. Trường Thơ Loạn, một trường thơ mang đậm yếu tố siêu thực
Trường thơ loạn ( Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Yến Lan…) đã bẩy cái đẹp qua một địa hạt khác
cái đẹp để tiệm cận vi cái kinh dị,i ghê rợn, cái xấu và đem những cái ấy làm thi liệu cho thơ, đẩy thơ đến
bờ chủ nghĩa siêu thực: Hồn, máu, sngười, xương khô, tủy, đám ma… tràn đầy trong thơ Hàn Mặc T
Chế Lan Viên:
“Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút;
Mỗi lời thơ đu dính não cân ta
Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt
Như mê man chết điếng cả làn da”.
( m máu -Hàn Mặc Tử)
“Trên một nắm mộ tàn ta nhặt được
Khp xương ma trắng tựa não cân nguời,
Tuỷ đã cạn, nhưng vẫn dầm hơi ưt,
Máu tuy khô, còn đượm khí tanh hôi.”
( Xương khô - Chế Lan Viên)
Điêu tàn dựng lên một thế gii đầy sọ dừa, xương máu, cùng yêu ma hồn, não, máu, chết, nắm mộ tàn, khp
xương, ma, dầm hơi ưt, khí tanh hôi. Đây là lời thơ miêu tả một yêu tinh nh nơi trần thế.
Rồi lấy ra một khp xương rợn trắng
Nút bao dòng huyết đẫm khí tanh hôi
Tìm những miếng trần gian trong tủy cạn
Rồi say sưa, vang cất tiếng reo cười “
Rồi: những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn
Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi “.
Rồi nhà thơ kêu lên:
Hồn của ai trú ngụ đầu ta?
Ý của ai trào lên trong đáy óc,
Để bay đi theo tiếng cười, điệu khóc?
( i ngọn cờ của chủ soái Hàn Mặc Tử, các thành viên trong Trường thơ loạn say sưang tác. Có những
đêm cả bọn đem chăn màn ra bờ biển lại suốt đêm để thả hồn theo những vần thơ kỳ dị. Tcủa các thi
Trường thơ loạn tràn ngập trăng, hồn, máu, bóng ma, sọ người, ơng cốt, tinh tủy... Tất cả say sưa c
chân vào thế gii rùng rợn đó...
Việc nhóm thơ Bình Định cho ra đời Trường thơ loạn khiến văn, thi hữu khắp nơi bàn tán xôn xao. Nhiu
người hoan nghênh nhưng cũng không ít người chê bai. Hoài Thanh kể: "Tôi đã nghe người ta mạt sát Hàn
Mặc Tử nhiều lắm. người bảo: Hàn Mặc Tử thơ với thẩn gì, toàn nói nhảm!".
người còn nghiêm khắc hơn nữa: "Thơ rắc rối thế. Mình tưởng ý nghĩa khuất khúc gì, cứ đọc đi
đọc lại hoài, thì ra lừa mình!". Đặc biệt Xuân Diệu người ghét cay ghét đắng những vần thơ điên của
Tử...
Đúng những vần thơ điên của các thi đã gây shock cho nhiu người. Nhưng thật ra đó chỉ một cách
giải quyết sbế tắc trong tưởng thôi. Hàn Mặc Tử đã dẫn dắt các thi sĩ sáng tác khá nhiu vần thơ kỳ
dị cho đến lúc chàng rời bỏ cuộc đời vào năm 1941.
Sang năm 1942, đến lượt Bích Kcũng vĩnh viễn ra đi. Trường thơ loạn từ đó tan rã.)
Trích bài Tựa tập thơ Điêu tàn (1937) do Chế Lan Viên viết:
Hàn mặc Tử viết: Làm thơ tức điên. Tôi thêm: Làm thơ sự phi thường. Thi không phải Người.
Người mơ, Người say, Người điên. Tiên, Ma, Quỷ, Tinh, Yêu, thoát Hiện Tại. xáo trộn
vãng. ôm trùm Tương Lai.
Người ta không hiểu được i những câu nghĩa, tuy rằng những cái nghĩa hợp lý. Nhưng
thường thường không nói. gào, thét, khóc, cười. Cái của cũng tột cùng. gào vỡ sọ,
thét đứt hầu, khóc trào nước mắt, cười tràn cả tuỷ tuỷ. Thế người tự cho hiểu được nó,
rồi đem so sánh với Người, chê giả dối với Người. Với nó, cái nói đều cả. )
Một trong những nhà thơ ln của phong trào Tmi, đặc biệt vi tập Thơ Điên” đã được rất nhiu người
biết đến tập thơ này chúng ta thể thấy đâu đó đôi nét của chủ nghĩa siêu thực trong thơ ông, một hồn
thơ mãnh liệt nhưng luôn quằn quại đau đn, dường như một cuộc vật lộn giằng dữ dội giữa linh
hồn và xác thịt. Linh hồn muốn thoát khỏi xác phàm để bay ti cõi siêu nhiên sáng láng, thơm tho, tinh khiết
nhưng thực ra vẫn gắn vi cuộc đời, vi con người ông thiết tha yêu thương bằng một tình u trn
thế.
Ông tạo ra cho mình một thế gii nghệ thuật điên loạn, ma quái xa lạ vi đời thực. Lời thơ mê man, mê sảng
như trong cõi mơ, trong thế gii đó có hai hình tượng sống động như hai con người, như hai người bạn tâm
tình đó là: Ta và trăng:
Say trăng (Hàn Mặc Tử)
Ta khạc hồn ra ngoài cửa miệng
Cho bay lên hửng vi ngàn khơi
trên kia, một người
Ngồi n sông Ngân giặt lụa ci
c hóa thành trăng trăng ra c
La ưt
đẫm
cả
trăng
thơm
Người
trăng
ăn
vận
toàn
trăng
cả
riêng
thôi
lại
đỏ
hườm
Ta
hẵng
đưa
tay
choàng
trăng
đã
trăng
ta
lượm
trăng
rơi
Trăng
vưng
lên
cành
lên
mái
tóc
ơi,
Hãy
đứng
yên
tôi
gỡ
cho
rồi
đi
Thong
thả
đi
Trăng
tan
ra
bọt
lấy
tôi
thương
Tối
nay
trăng
khắp
phương
Thảy
đu
nao
nức
khóc
nường
vu
qui
Say!
say
lảo
đảo
cả
trời
thơ
Gió
rít
tần
cao
trăng
ngã
ngửa
Vỡ
tan
thành
vũng
đọng
vàng
khô
Ta
nằm
trong
vũng
trăng
đêm
ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra
Những tưởng của chủ nghĩa siêu thực đậm nét nhất trong bài “Rượt
trăng”:
Ha ha! Ta đuổi theo trăng
Ta đuổi theo
trăng
Trăng bay lả tả trên nh vàng
Ti đây nơi i đưc gặp ng
Rủ rê, rủ hai đứa i vào rừng hoang
i lượm
trắng
làm
chiếu
trải
Chúng
tôi
đầu
trên
khối
sao
băng
Chúng
tôi
soi
chuyện
bằng
hơi
thở
Dần
dần
hao
cỏ
biến
ra
thơ
Chúng
tôi
lại
người
của
ưc
Không
xác
thịt
chỉ
linh
hồn
đang
mộng
Chao
ôi!
Chúng
tôi
lên
kinh
động
trăng ghen, trăng ngã, trăng rụng xuống mình hai tôi.
Hoảng n nng lại cả i
i toan níu áo ng thời theo trăng
hô! Ta đuổi theo trăng! Ta đuổi theo trăng!
Trăng! Trăng! Trăng! Trăng!
Th ng ra, ti th nàng ra
y buông ng
xuống
cho
ta
ẵm
bồng
Đố trăng trăng chạy đàng trời
Tôi rú một tiếng trăng rơi tức thì
Hàn Mặc Tđã ng tạo một thế gii thơ kỳ lạ, hiểm, thơ ông vừa lãng mạn, vừaợng trưng - siêu thực,
vừa chất cổ điển, lại vừa hết sức tân kỳ. Cho đến nay, nhiu nhà nghiên cứu cho rằng chưa thể khám phá
hết thơ Hàn Mặc Tử - một thế gii cùng huyn nhiệm. Thế gii thơ Hàn Mặc Tử rộng rinh không bờ bến
như ông đã trình y trong Thơ điên: “Tôi sống mãnh liệt đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu,
bằng lệ, bằng hồn, tôi đã phát triển hết các cảm giác của tình yêu. Tôi đã vui, buồn, giận, hờn đến gần đứt sự
sống. Thôi mời cô cvào… Ánh sáng lạ trong thơ tôi sẽ làm cho đỏ gấc. một khi đã o
cô sẽ lạc, vườn thơ tôi rộng rinh không bờ bến. Càng đi xa, càng n lạnh”.
Mắc phải trọng bệnh khi còn rất trẻ, n Mặc Thoàn toàn tuyệt vọng; trên đỉnh đau thương tột cùng, thơ
ông viết ra như người đến từ mt cõi khác, T điên, mt hin tượng thơ khác lạ trong dòng chảy thơ Vit
đến hồi bấy giờ, “lối viết tự động” thoát ra từ bản năng thức đã làm thơ ông ít nhiu mang sắc thái của
trường thơ siêu thực.
"Sẽ không thể giải thích được đầy đủ hiện ợng Hàn Mặc Tử nếu chỉ vận dụng thi pháp của chủ nghĩa lãng
mạn nh hưởng của Kinh thánh. Chúng ta cần nghiên cứu thêm luận của chủ nghĩa tượng trưng chủ
nghĩa siêu thực. Trong những bài thơ siêu thực của Hàn Mặc Tử, người ta không phân biệt được thực,
sắc không, thế gian xuất thế gian, cái hữu hình cái hình, nội tâm ngoại gii, chủ thể khách
thể, thế gii cảm xúc phi cảm xúc. Mọi giác quan bị trộn lẫn, mọi lôgic bình thường trong tư duy ngôn
ngữ, trong ngữ pháp thi pháp bị đảo lộn bất ngờ. Nhà thơ đã những so sánh ví von, những đối chiếu kết
hợp lạ kỳ, tạo nên sự độc đáo đầy kinh ngạc kinh dị đối vi người đọc." (Nhà phê bình văn học Phan Cự
Đệ )
2. Trong Xuân Thu Nhã Tập.
Đây một nhóm văn chương nghệ thuật cùng quan điểm: Nguyễn Đỗ Cung, Phạm Văn Hạnh, Nguyễn
Xuân Khoát, Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ. Thành lập năm 1942.
Theo c tác giả, thơ "là cái siêu thoát, ra ngoài ưc lệ, tn lí trí"; thơ thuộc v "những lp dày đặc của
tim thức ý thức" nên không giải được chỉ "cảm" được; thơ không được băn khoăn v thiện ác,
không được tả tình hay tả cảnh, "một bài thơ là do sự phối hợp những âm thanh, chữ, hình ảnh...
Thơ sự rung động, sự quyến rũ- không thể ỡng lại, một cách tự nhiên, hoàn toàn. Thơ - thế, không cần
để hiểu mà cốt để cảm. Ví dụ:
“Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngắt
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh”.
( Màu thời gian Đoàn Phú Tứ )
Những câu thơ trên tưởng chừng như hiện ra trưc mắt người đọc v một hình ảnh quen thuộc vì nó được
miêu tả tỉ mỉ v màu sắc, v hương sắc nhưng thực ra nó không có bất kỳ tính hiện thực nào.
Hay như bài “Buồn Xưa” của Nguyễn Xuân Sanh:
…Lẵng xuân
Bờ giũ trái xuân sa
Đáy đĩa a đi nhp hải hà
Nhài
đàn
rót
nguyệt
đôi
thơm
Tỳ bà sương cũ đựng rừng xa…”
Những u thơ trên người đọc khó thể xác định nghĩa thực của nó, như “đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà”
chẳng hạn ta không tìm thấy nghĩa thực của ( XTNT chủ trương: thơ không cần nghĩa, chỉ cần gợi
rung cảm). Đồng thời XTNT đi theo ng:” một bài thơ thể hiểu ra nhiu lối cảm một cách duy
nhất, nên độc giả tuỳ theo trình độ tri thức ởng thụ ít hay nhiu ví dụ cùng một ánh trăng, một nụ cười,
một tiếng đàn mọi người đu rung động nhưng mức độ không giống nhau.
( Gv mở rộng: Trong thơ Hoàng Cầm dụ như bài Diêu Bông ta thấy lá diêu bông chính một hình
tượng không có thực, một ảo tưởng tình yêu:
“Hai ngày sau em tìm thấy
Chị chau mày:
Đâu phải Diêu Bông
Mùa đông sau em tìm thấy lá
Chị lắc đầu
Trông nắng vãn bên sông…
( Lá Diêu Bông)
Hoàng Cầm thường hay nói v việc ông sáng tác một số bài thơ, những bài hay nhất của mình, do một
người nữ hình o đó đọc cho chép. khi một u, có khi một đoạn, thậm ckhi trọn vẹn cả i.
Việc sáng tác bài thơ Lá Diêu Bông một trường hợp tiêu biểu: “ chẳng có chuyện gì phải lo nghĩ, chẳng có
ý định trong đầu sao v quá nửa đêm một mùa rét ấy, tôi vẫn không ngủ được. Im lặng, chợt bên tai
văng vẳng lên một giọng nữ rất nhỏ nhẹ rành rọt, đọc chậm rãi, tiết điệu, nghe như từ thời nào xa a
vẳng đến, có lẽ từ tin kiếp vọng v:
“Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng…” )
3. Đinh Hùng với “Mê hồn ca” - mang đậm yếu tố siêu thc
Đinh Hùng sinh ngày 3 tháng 7 m 1920 - tại làng Phương Dực, huyện Phú Xuyên, tỉnh Tây, mất ngày
24/8/1967 tại Sài Gòn bệnh ung thư. Ông bạn thân của nhà n Thạch Lam. nhà thơ Hoàng
Chương là anh rể của ông. Từ tuổi đôi mươi Đinh Hùng đã bắt đầung tác thơ, văncó thơ được đăng trên
Nội Tân Văn của Vũ Ngọc Phan, giai phẩm Đời Nay của Tực Lực Văn Đoàn. Trong sáng tác, Đinh Hùng
còn các bút danh Hoài Điệp Thứ Lang, Thần Đăng. Năm 1943, Đinh Hùng xuất bản tập n xuôi ám
ma tôi" . Ông được nhà thơ Thế Lữ khuyến khích, bắt đầu nổi tiếng trên thi đàn vi bài thơ "Kỳ nữ". m
1954, Đinh Hùng cho ra đời tập thơ "Mê hồn ca". Mê hồn ca" u chuyện thơ đầy mộng mỵ, ma quái,
hiểm như truyện Bồ Tùng Linh,
Không như những nhà Thơ Mi khác, Đinh Hùng - Người kiến trúc chiêm bao ( Đỗ Lai Thúy), ông đã
kiến trúc một thiên nhiên ảo diệu, thần bí. Thiên nhiên của thời hồng hoang, thái cổ còn tinh khôi, nguyên
thuỷ. đó, lóe lên ngọn lửa của đêm hồng hoang man rợ, “sông núi giao thần”; trong không gian Thái Cổ ấy,
người thơ cùng Người gái thiên nhiên - Kỳ nữ kết tình ân ái “làm đôi người cô độc thủa sơ khai”:
"Chúng tôi gặp nhau bên dòng suối ngọt,
Làm đôi nguời cô độc thuả sơ khai,
Nàng bâng khuâng đốt lửa những đêm dài,
Ta từng buổi bơ vơ tìm bộ lạc.
Nàng là Gái - Muôn - Đời không đổi khác:
Bộ ngực tròn nuôi cuộc sống đương xuân.
Ta đến đây làm chủ hội phong trần,
Lấy hoa lá kết nên Tình Thái Cổ ".
( Đinh Hùng - Người gái thiên nhiên)
Đến Đinh Hùng, thể nói, những sáng tác buổi đầu thơ ông (hồn ca) đã nghiêng hẳn sang trường
thơ siêu thực, ngôn tthơ ông được chuốt trau bóng bẩy, lời lẽ trang trọng, ý tưởng thơ kỳ lạ, hiễm, giọng
thơ buồn đau , bi thiết:
“Trăng ơi! đừng bỏ kinh thành.
Hồn Cố Đô vẫn thanh bình như xưa.
Nhỡn tin chợt sáng thiên cơ
Biết chăng ảo phố đồ đâu?
Ta say ánh lửa tinh cầu
Dựng lên địa chấn, loạn màu huyn không”.
(Đinh Hùng - Sông Núi giao thần)
hồn ca như lạc bưc vào thế gii khác, một thế gii biệt lập vi thế gii hiện hữu, thế gii đó do thi
nhân kiến trúc trên một nn chiêm bao; trong chiêm bao ấy, nhà thơ tiếp tục tạo ra những giấc kỳ
diệu, giấc v thế gii, con người của thời hồng hoang, nguyên thủy vi những bóng hình man rợn: Rồi
những đêm sâu bỗng hiện v,/ Vượn lâm tuyn khóc rợn trăng khuya./ Đâu đây u uất hồn sơ cổ,/ Từng bóng
ma rừng theo bưc đi.” (Đinh Hùng - Những hưng sao rơi ).
Đinh Hùng đã đi vào Mê hồn ca vi một không gian siêu thực, mộng mị, lẫn lộn giữa cõi dương thế vi
âm phần: “Trời cuối thu rồi- Em ở đâu?./ Nằm bên đất lạnh chắc em sầu?/ Thu ơi đánh thức hồn ma dậy,/ Ta
muốn vào thăm nấm mộ sâu./ ...Thần chết cười trong b ngực điên,/ Ta nghe em thở tiếng ưu phin./ Nỗi
lòng xưa dậy tan Thanh Vắng./ Hơi đất mê người- Trăng hiện lên”. (Đinh Hùng - Gửi người dưi m).
Từ bỏ thế gii thực tại, đi sâu vào thế gii siêu nhiên, siêu cảm, thể nói thơ Đinh Hùng đã ợt qua từ
trường của thơ lãng mạn men ti lãnh địa của siêu thực: Mê hồn ca được kiến tạo không phải để phản ánh
hoặc điểm cho thế gii thực tại, độc lập vi thế gii thực tại. Đây điu hầu như không các nhà
thơ Lãng mạn. (Đỗ Lai Thúy - Mắt thơ I, trang 178 - HN 2000). Chính vậy Nguyễn Tấn Long - nhà
nghiên cứu văn học trưc đây đã nhận xét: “Tbỏ một thế gii hin hữu, tìm v mt một thế gii thuở sơ
khai, tạo dựng một không gian mi cho tâm tư, thi nhân không sống bằng thực tại, sống bằng nguồn siêu
tưởng...” Vy nên, một lần nữa, thể nói, vi hồn ca, tĐinh Hùng đã ơn sang trường thơ siêu
thực, và chính ông đã góp phần tạo tin đ cho nhóm Dạ đài và Xuân thu nhã tập ra đời sau đó.
B. Chủ nghĩa tượng trưng
I. Vài nét về chủ nghĩa tượng trưng
1. Lịch sử hình thành
Chủ nghĩa tượng trưng là một trào lưu nghệ thuật và là một quan điểm triết học - mỹ học xuất hiện ở Phương
Tây cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, bao gồm nhiu hiện tượng văn học - nghệ thuật như: thơ, kịch, tiểu
thuyết, hội hoạ …
2. Khái niệm:
Luận giải v chủ nghĩa tượng trưng, các nhà nghiên cứu có nhiu cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên,
xuất phát từ cách tiếp cận nào thì những nội dung chính được các nhà nghiên cứu quan tâm đến cũng tập
trung vào khái niệm tượng trưng”, sự ra đời của chủ nghĩa tượng trưng sở triết học của chủ nghĩa
tượng trưng.
Từ điển Cambridge định nghĩa “symbol” (tượng trưng) nghĩa: 1/ Một vật, biểu tượng hoặc đối tượng được
dùng để đại diện cho một điu nào đó,dụ: trái tim tượnga trưng cho tình yêu; 2/Một vật được sử dụng để
biểu thị cho chất lượng hoặc ý tưởng, dụ: c, biểu ợng của ssống; 3/Con số, bức thư, hiệu đưc
sử dụng trong toán học, âm nhạc, khoa học,… dụ: Kí hiệu của Oxy O; 4/Một vật có thể được tả như
biểu ợng của một vật khác nếu được xem như đại diện bởi kết nối rất nhiu ý tưởng của mọi
người vi nhau. Qua định nghĩa trên ta thể thấy rằng “tượng trưng” “biểu tượng” là hai khái niệm rất
gần gũi. Khi chuyển dịch khái niệm “symbol” sang tiếng Việt, thuật ngữ này được dùng vi cả nghĩa “tượng
trưng” “biểu tượng”. Từ điển tiếng Việtcủa Hoàng Phê chủ biên, định nghĩa tượng trưng là:
“1/dùng một svật cụ thể hình thức hoặc tính chất thích hợp để gợi ra sự liên tưởng đến một cái trừu
tượng o đó, dụ: Chim bồ u ợng trưng cho hòa bình; 2/ svật cụ thể được dùng để tượng trưng cho
một cái trừu tượng nào đó, ví dụ: Xing xích là tượng trưng cho nô lệ” [102, tr.1082].
Theo Hegel, tượng trưng được hiểu như một kiểu duy nghệ thuật đã xuất hiện từ rất lâu: “là một svật
bên ngoài, một dấu hiệu trực tiếp nói thẳng vi trực giác chúng ta: tuy sự vật này không phải được lựa chọn
được chấp nhận như tồn tại trong thực tế bản thân nó. Trái lại, được chấp nhận vi một ý nghĩa
rộng ln khái quát hơn nhiu. Do đó, phải phân biệttrongợng trưng hai yếu tố: ý nghĩa biểu hiện.
Ý nghĩa sự gắn lin vi một biểu hiện hay một sự vậtcho nội dung của biểu hiện này hay của sự vật này
cái gì. Còn sự biểu hiện một tồn tại cảm quan hay một hình ảnh nào đó” [53, tr.496-497]. Cách định
nghĩa này xem xét khái niệm tượng trưng trong phạm trù nghệ thuật, trong đó bao gồm cả văn học nghệ
thuật.
Theo Chu Quang Tim, tượng trưng là: “dùng những sự vật cụ thể để diễn tả những mang tính chất trừu
tượng. Mcảm phát sinh chỗ trực giác được hình tượng, cho nên tác phẩm văn nghệ là sbiểu hiện những
ý tưởng cụ thể, nó trực tiếp lay động sự xúc cảm của giác quan” [137, tr.24]. Khi nhắc đến khái niệm tượng
trưng, các nhà nghiên cứu thường đ cập đến khái niệm “biểu tượng” trong nhiu trường hợp, hai khái
niệm này được đồng nhất vi nhau. T điển thuật ngữ văn học viết: “Biểu tượng như thuật ngữ của mĩ học,
luận văn học ngôn ngữ học còn được gọi ợng trưng, nghĩa rộng nghĩa hẹp” [49, tr. 24].
Theo chúng tôi, hai khái niệm này điểm thống nhất mọi biểu tượng đu tính tượng trưng nhất định.
Tuy nhiên, trong mỗi biểu tượng ngoài tính tượng trưng còn những ý nghĩa khác. Đồng thời,
mỗi hình ảnh tượng trưng cũng mang trong những thông điệp khác nhau. Chính thế, không thể đồng
nhất tượng trưng và biểu tượng.
Trong luận án này, tượng trưng được hiểu vi nội hàm một phương diện đặc thù của sáng tạo nghệ
thuật, trở thành phương thức khái quát đời sống, nghiêng v tính chất ổn định đa nghĩa. Tượng
trưng phải xuất phát từ một hình tượng nghệ thuật nhất định, từ đó mở ra nhiu liên tưởng phong phú, có khả
năng khám phá hiện thực và nâng tầm hình tượng ở mức độ ngưng kết ý nghĩa.
3. Đặc điểm:
- Chủ nghĩaợng trưng quan niệm nghệ thuật không phải phản ánh thế gii thực tại, thế gii của hiện tượng
một thế gii siêu tưởng, một thế gii hồ của sự tương hợp giữa ánh ng, sắc màu, âm thanh, mùi
hương và nhạc điệu.
Chủ thể tiếp nhận thơ tượng trưng cùng một lúc có thể cảm ứng tổng hòa thế gii âm thanh, sắc màu, mùi
hương bằng tất cả các giác quan tương ứng.c nhà tượng trưng xem thế gii hữu hình chỉ hình ảnh, là cái
bóng, là biểu trưng cho một thế gii mà ta không thấy được. Họ quan niệm chính cái không nhìn thấy đó mi
bản thể của thế gii. Nhà thơ nhận thức thế gii bằng trực giác, bởi chỉ có trực giác mi nắm bắt được i
đằng sau, hình, mi ng cảm được thế gii đích thực ta không nhìn thấy. Họ cho rằng, nghệ thuật,
muốn phản ánh thế gii phải tìm ra những “hiện thực ẩn dấu” thể hiện bằng các biểu trưng thẩm mỹ.
Họ quan niệm thơ là kẻ thù của “sự mô tả khách quan”, thơ“trưc hết phải có nhạc tính”.
1- Về quan niệm thơ: Chủ nghĩa ợng trưng xem thơ như một thứ siêu cảm giác, không giải thích được.
Thơ phải gắn chặt vi âm nhạc, phải gợi chứ không vẽ các đường nét, hình thể (Verlaine). Nghĩa thơ
không cần có hình tượngnét, và được quan niệm như một bản hoà âm huyn ảo. Mỗi từ trong thơ phải gắn
lin vi một nốt nhạc.
2- Về đặc điểm thơ tượng trưng: Chủ nghĩa tượng trưng xem thế gii hữu hình chỉ hình ảnh, cái
bóng, tượng trưng cho một thế gii ta không nhìn thấy được. Đây mi chính bản thể của thế gii.
Cho nên, nhà thơ phải đến vi cuộc sống bằng trực giác vì chỉ có trực giác mi tìm ra cái bí ẩn nằm sau thế
gii hữu hình, mi nhìn thấy thế gii đích thực là cái thế gii không nhìn thấy y.
3- Về mặt ngôn từ phương thức thể hiện: Thơ tượng trưng dùng biểu tượng như một cấu tạo hình
tượng đặc biệt để chống lại lối miêu tả biểu lộ tình cảm trực tiếp của chủ nghĩa lãng mạn. Nói cách khác,
chủ nghĩa tượng trưng tôn trọng điu bí ẩn của thơ. H tránh dùng miêu tả mà dùng những từ gợi lên ý nghĩa.
Tức là dùng biểu tượng như là một phương tiện biểu hiện.
Đến thời kỳ cuối thơ ợng trưng rơi vào tình trạng phi giao tiếp, tính chất loại bỏ sự giao tiếp của người
đọc.
II. Ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng đến Thơ mới Việt Nam ( 1932 1945 )
Quan niệm Tương ứng các giác quan trong thơ tượng trưng của Baudelaire đã ảnh hưởng sâu sắc đến T
mi Việt Nam. Mùi hương, màu sắc âm thanh tương hợp lẫn nhau. Xuân Diệu nhà thơ đã thể hiện cảm
quan hết sức tinh nhạy, bằng stương hợp các giác quan, ông thể “nghe” được những âm thanh n
huyn diệu của đất trời, cảm nhận được các “gam” của sắc màu không gian, “chiết suất” hương thơm tạo
vật muôn loài qua thơ: “Này lắng nghe em khúc nhạc thơm,/ Say người như rượu tối tân hôn;/ Như hương
thấm tận qua xương tuỷ,/ Âm điệu, thần tiên, thấm tận hồn./ Hãy tự buông cho khúc nhạc hường,/ Dẫn vào
thế gii của Du Dương:/ Ngừng hơi thở lại, xem trong ấy,/ Hiển hiện hoa và phảng phất hương”.
( Xuân Diu - Huyn diệu).
Sự tương ứng các giác quan tạo nên hiệu ứng lan tỏa, đan xen nhiu tầng cảm xúc và thực sự đem lại cho thơ
những cảm nhận mi lạ. Một khúc nhạc, đối vi Xuân Diệu, không phải chỉ để thưởng thức một ch thuần
túy bằng những cung bậc “du dương” của thanh nhạc (tương ứng vi thính giác) cùng một lúc, nhiu giác
quan ứng cảm, hợp phối để thêm khúc nhạc hường (màu của nhạc), rồi lan tỏa thành khúc nhạc thơm
(hương của nhạc) rồi, hãy uống thơ tan trong khúc nhạc (vị của nhạc). Chỉ một khổ gồm bốn câu thơ,
Xuân Diệu đã tổng hòa bốn giác quan tương ứng, nghe - nhìn - ngửi - uống, nhà thơ như đã nhập thần, hóa
thân, hòa tan vào khúc nhạc đất trời Huyn diu.
Sự ơng ng các giác quan cũng thể hiện rất nét trong một si thơ của Huy Cận. Thế gii thơ ông
một thế gii ngát mùi hương vi âm thanh, sắc màu xen lẫn, cùng các giác quan giao hòa, cảm ứng, phức hợp
hơn là cụ thể; mỗi câu thơ luôn mở ra nhiu tầng cảm xúc, khơi gợi, dẫn dắt c chân người thơ dập dìu đi
giữa đường thơm:
"Đường trong làng: hoa dại vi mùi rơm…/ Người cùng tôi đi dạo giữa đường thơm;/ Lòng giắt sẵn ít
hương hoa tưởng tượng./ Đất thêu nắng, bóng tre, rồi bóng phượng/ Lần lượt buông màn ng nhẹ chân
lâu:/ Lên b cao hay đi xuống b u?/ Không biết nữa.– chút làm ngợp/ Trong không khí…hương vi
màu hoà hợp…". ( Huy Cận - Đi giữa đường thơm).
Mùi hương, màu sắc, âm thanh cùng tương hợp gây hiệu ứng hồ lẫn lộn giữa các giác quan. Đoàn Phú
Tứ, T mi còn có thêm mt cảm quan mi v thời gian, đó là“màu thời gian”: "Màu thời gian không xanh/
Màu thời gian tím ngát/ Hương thời gian không nồng/ Hương thời gian thanh thanh". Vi màu thời gian”,
Đoàn Phú Tđã góp thêm cách cảm nhn mi, ông đã điểm thêm vào diện mạo thời gian, làm cho thời gian
vừa có hương, lại vừa có sắc.
Ngoài quan niệm Tương ứng các giác quan, chủ nghĩaợng trưng rất chú trọng tiết điệu, âm nhạc trong thơ.
Các nhà thơ tượng trưng đu thống nhất là sự quan tâm đến nhạc điệu tinh tế của thơ. Không phải ngẫu nhiên
Thơ mi đạt ti sự tuyệt tác những bài thơ nội dung trực tiếp nhạc cảm: Nhị hồ, Nguyệt cầm (Xuân
Diệu), Thu (Chế Lan Viên), Tỳ bà (Bích Khê)...
Âm nhạc trong thơ tượng trưng được khai thác triệt để, âm nhạc được chú trọng đến mức nhiu khi từng ch
thơ chỉ cần vang mà không cần nghĩa như: Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà của Nguyễn Xuân Sanh.
Yếu tố nhạc trong thơ tượng trưng được khai thác tối đa thơ Bích Khê; toàn bộ thơ Bích Khê, trưc hết,
được dựng lên trên một nn nhạc; trong rất nhiu sáng tác, ông đã dụng ý chọn những từ ngữ thanh bằng
(bình thanh) đưa vào trong mỗi câu thơ, mỗi khổ thơ, thậm chí nguyên cả bài thơ. Trên nn nhạc -thơ hòa
phối ấy, âm thanh, u sắc, mùi ơng cứ truyn lan vang tỏa, tạo nên sự liên tưởng trùng phức, đầy
hoặc: “Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng./ Vàng rơi! ng rơi! Thu mênh mông” Câu thơ Hoài Thanh
cho là hay vào bậc nhất trong thơ Việt Nam.
Trong một i thơ khác, bài Hoàng hoa, dài 18 câu, Bích Khê cũng đã “thiết kếtoàn những thanh
bằng, từ đầu cho đến cuối bài thơ:
"Lam nhung ô! Màu lưng chừng trời;/ Xanh nhung ô! Màu phơi nơi nơi./ Vàng phai nằm im ôm non gầy;/
Chim n eo mình nương xương cây./ Đây mùa Hoàng hoa, mùa Hoàng hoa:/ Đông nam y đùn nơi thành
xa…/ Oanh già theo quyên quên tin chàng!/ Đào theo phù dung: thư không sang!/ Ngàn khơi, ngàn khơi, ta
ngàn khơi!:/ Làm trăng theo chàng qua muôn nơi;/ Theo chàng ta làm con chim uyên/ Làm mây theo chàng
bên nhung yên./ Chàng ơi! hồn say trong mơ màng,/- Hồn ta? Hay hồn tình lang?/ Non yên tên bay ngang
muôn đầu…/ Thâm khuê oan giam xuân sâu?/ - Ai xây bờ xanh trên xương người?!/ Ai xây mồ hoa chôn
đời tươi?! (Bích Khê - Hoàng hoa)
Bài thơ hiện lên toàn những từ ngữ mang hình ảnh tượng trưng, ám gợi, rất hồ v nghĩa; chỉ thanh
âm của nhạc-thơ cứ vang rung trùng điệp. Nếu không có tiêu đ Hoàng hoa, một điển tích lấy từ Kinh Thi nói
v người lính đi thú phương xa nh nhà, lẽ ta sẽ mất hẵn sgợi ý liên tưởng, khi tìm ng để cảm nhận
bài thơ.
Kết luận
Tóm lại, trong dòng chảy văn học, hiện tượng kế thừa, tiếp thu những thành tựu tưởng, nghệ thuật hiện
tượng phổ biến, như một quy luật. Kế thừa thơ truyn thống dân tộc, tiếp thu chủ nghĩa lãng mạn, tượng
trưng, siêu thực của văn học Pháp, thanh niên trí thức Việt Nam đầu thế kỷ XX đã ng tạo ra một thời đại thi
ca hoàn toàn khác trưc. Phải nói rằng Tmi 1932 - 1945 một stích hợp nghệ thuật kỳ diệu, độc đáo
trong lịch sử văn học Việt Nam đã đi trọn hành trình thi ca trưc lúc hạ cánh để chuyển sang c
ngoặt mi khi lịch sđã sang trang. Một thế kỷ thi ca Pháp vi những đỉnh thơ lừng danh như: Lamartine,
V.Hugo, Chateaubriand, Baudelaire, Verlaine, Valéry, Mallarmé... đã được các nhà thơ mi thâu tóm, tiếp
biến trong vòng 13 năm. Thơ mi, một hiện ợng độc đáo một không hai trong tiến trình thơ Việt Nam.
Chỉ trong một thời gian ngắn của lịch sử, Thơ mi đã khởi đi tlãng mạn, đến tượng trưng siêu thực. Ba
trào lưu thơ đã tích hợp, tổng hoà, đan xen nhau trong trong knhiu tác giả, tác phẩm tiêu biểu, làm cho
Thơ mi trở nên giàu có, đa thanh, đa sắc, trong đó, ngoài sự hin diện tiên phong của chủ nghĩa lãng mạn,
còn phần đóng góp không nhỏ của nghệ thuật tượng trưng - siêu thực, được các nhà thơ mi tiếp biến đầy
sáng tạo.
C. LUYỆN TẬP
ĐỀ Bài 1:
Thơ không phải một vòng quay chậm rãi của cảm xúc một lối thoát của cảm xúc, không phải sự
biểu hiện của tính cách một lối thoát cho tính. (T.S. Eliot)
Anh/Chị hiểu như thế nào v ý kiến trên? Hãy làm sáng tỏ qua tác phẩm Đây thôn Dạ (Hàn Mặc Tử)
ĐỀ BÀI 2:
Văn chương sẽ hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương lại còn sáng
tạo ra sự sống. trụ nầy tầm thường chật hẹp không đủ thỏa mãn mối tình cảm dồi dào của nhà văn. Nhà
văn sẽ sáng tạo ra những thế giới khác.
(Hoài Thanh Nhiệm vụ của văn chương, Tao Đàn số 7, 1/6/1939)
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy tìm hiểu sự sáng tạo trong văn chương qua một số tác giả tiêu biểu
trong phong trào Thơ Mi 1932 1945.
Hướng dẫn
1. Giải thích
- Thơ hình thức sáng tác văn học đầu tiên của loài người, thực sự hình thành khi con người nhu cầu tự
biểu hiện. Thơ phản ánh cuộc sống qua những cảm xúc dạt dào, chất chứa, những liên tưởng, tưởng tượng
mạnh mẽ, ngôn ngữ hàm súc và gợi cảm, hình ảnh phong phú và rất giàu nhịp điệu…
- Vòng quay chm rãi của cảm xúc: biểu hiện cảm xúc một cách đu đu, mờ nhạt, không cun trào, không
thăng hoa, không mãnh liệt…
- Lối thoát của cảm xúc: cảm c trong thơ phải được biểu hiện ra, thoát ra, tuôn trào mãnh liệt qua những
đợt sóng ngôn từ, nếu không có thơ, người nghệ sĩ sẽ rơi vào bế tắc. Thơ là lối thoát duy nhất của thi sĩ.
- Tính cách: tổng thể nói chung những đặc điểm tâm lí ổn định trong ch xử sự của một con người. Nói
thơ không phải sự biểu hin của tính cách khẳng định: mục đích của thơ không nhằm biểu hin bản chất
xã hội, con người xã hội của nhà thơ.
- Thơmt lối thoát cho cá tính: tính cái riêng, din mạo riêng của mt người, phân biệt vi những
nhân khác trong cộng đồng. Trong đời sống, cá tính được thể hiện qua suy nghĩ, tình cảm, hành động của con
người trong những tình huống cụ thể. Trong nghệ thuật, tính được hiểu phong cách ngh thut, tính
sáng tạo của người nghệ sĩ.
-> Bằng cách diễn đạt giàu hình ảnh, T.S. Eliot đã khẳng định được đặc trưng bản của thơ ca sự bộc lộ
của tình cảm, cảm xúc, mong muốn được giãi bày, tâm sự, chia sẻ nhận được sđồng điệu từ người đọc;
đồng thời thơ ca chính là nơi mà người nghệ khẳng định cá tính qua sự độc đáo, sáng tạo v cả nội dung tư
tưởng và hình thức nghệ thuật.
2. nh
- Thơ không phải một vòng quay chậm rãi của cảm xúc một lối thoát của cảm c
+ Người nghệ ng tạo không chỉ phản ánh đời sống còn thể hiện những tưởng, tình cảm trưc hiện
thực.
+ Thơ thể loại trữ tình, vạch xuất phát của thơ là tình cảm, đích đến của thơ cũng tình cảm. Người nghệ
bao giờ cũng những người nhạy cảm hơn hết trưc cuộc đời, trưc đời sống tâm hồn mình. Họ đến vi
thơ, dùng tiếng thơ để được giãi bày tất cả những hỉ, nộ, ái, và mong muốn nhận được sự tri âm, đồng điệu
từ người đọc. Thơ là cách giải thoát cho những nỗi nim, điệu hồn đi tìm những hồn đồng điệu…
+ Tình cảm trong thơ phải chân thành, mãnh liệt chứ không thể nhạt nhòa, đơn điệu. Bởi nếu không đủ mãnh
liệt thì thi nhân không đủ rung động để sáng tạo, thơ cũng không thể ra đời, hoặc nếu có, tiếng thơ ấy cũng
không thể tìm được sự đồng điệu cùng độc giả
- Thơ không phải sự biểu hiện của tính cách một lối thoát cho tính
+ Tính cách thể hiện bản chất con người xã hội của nhà thơ nhưng cá tính mi là cái riêng biệt, phân biệt con
người này vi con người khác. Trong thơ ca, tính sáng tạo đòi hỏi phải được khẳng định thông qua sự độc
đáo, mi lạ trong nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của tác phẩm.
+ Xuất phát từ yêu cầu của sáng tạo văn chương: Bản chất của nghệ thuật ng tạo, vì vậy thơ ca cũng đòi
hỏi nhà thơ phải in dấu n riêng của mình trong tác phẩm. Nhờ khả năng ng tạo tuyệt vời các thi nhân
luôn tìm ra những ch nói mi từ những điu đã cũ. Nếu không sáng tạo, không phẩm chất riêng thì
tác phẩm và tác giả sbị lãng quên. Những sáng tạo v hình thức biểu hiện rất phong phú qua thể loại, cấu tứ
tác phẩm, ngôn ngữ thơ, hình ảnh thơ,... Mỗi tác phẩm phải một phát minh về hình thứcNhờ tính
sáng tạo của người ngh cảm xúc chân thành mãnh lit mi đến được tìm được tiếng nói tri âm nơi
người đọc,…
3. Phân tích, chứng minh
- Phân tích dẫn chứng cần tp trung vào các vấn đ sau:
+ Phân tích tình cảm, cảm xúc mãnh lit, thăng hoa thể hiện trong thi phẩm.
+ Chỉ ra cá tính sáng tạo của nhà thơ thể hiện qua nội dung tưởng và hình thức nghệ thuật tác phẩm.
4. Bàn luận, đánh giá nghĩa của vn đề
Ý kiến của T.S. Eliot đã khẳng định được một đặc trưng quan trọng của thơ ca, ý nghĩa định ng cho
người sáng tác và tiếp nhận :
- Nhà thơ cần trau dồi vốn sống, sống sâu sắc, mãnh liệt trong từng cảm xúc, đồng thời luôn luôn sáng tạo để
mang đến sự độc đáo, mi lạ cho tác phẩm, khẳng định được cá tính trong nghệ thuật.
- Người đọc trong quá trình tiếp nhận văn học cần trân trọng công sức của nhà thơ, đọc không chỉ thấy cái
hay của u chữ còn thực sự đồng điệu tri âm vi tâm hồn, vi tiếng nói sâu lắng nhà thơ gửi gắm vào
tác phẩm.
Đề bài:
Văn chương sẽ hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương lại còn sáng
tạo ra sự sống. trụ nầy tầm thường chật hẹp không đủ thỏa mãn mối tình cảm dồi dào của nhà văn. Nhà
văn sẽ sáng tạo ra những thế giới khác.
(Hoài Thanh Nhiệm vụ của văn chương, Tao Đàn số 7, 1/6/1939)
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy tìm hiểu sự sáng tạo trong văn chương qua một số tác giả tiêu biểu
trong phong trào Thơ Mi 1932 1945.
Hướng dẫn
Yêu cầu chung: Biết làm bài NLVH; vận dụng tốt các thao tác giải thích, phân tích, bình luận văn học; biết
kết hợp kiến thức luận vi kiến thức v tác phẩm để n luận, đánh giá; văn viết hình ảnh giàu cảm
xúc, có giọng điệu riêng, có sáng tạo.
Yêu cầu cụ th:
* Giải thích
Văn chương sẽ hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương lại còn sáng
tạo ra sự sống:
Văn chương không chỉ giúp hình dung ssống hiểu biết hiện thực cuộc sống phong phú đa dạng còn
giúp khám phá, sáng tạo lại thực tại. hiện thực khách quan được soi chiếu qua tâm hồn người nghệ sĩ,
cho nên sáng tạo ra sự sống thực chất là hiện thực được nhào nặn trong tác phẩm ghi dấu ấn ởng,tình
cảm và sức sáng tạo của người ngheej sĩ.
trụ nầy tầm thường chật hẹp không đủ thỏa mãn mối tình cảm dồi dào của nhà văn.
Sự đối lập giữa hiện thực khách quan chủ thể ng tạo được nhấn mạnh ở phương diện tâm hồn, tình cảm
mãnh liệt, nguồn cảm hứng sáng tạo của tác giả vượt khỏi khuôn khổ hiện thực. Quan điểm của Hoài Thanh
gắn vi tưởng của chủ nghĩa lãng mạn đ cao vai trò cái Tôi chủ quan thể, muốn khẳng định bản sắc,
phong cách riêng trong sáng tạo nghệ thuật.
Nhà văn sẽ sáng tạo ra những thế giới kc.
Thế giới khác do nhà văn sáng tạo chính thế gii nghệ thuật được tạo dựng bằng ngôn tnghệ
thuật, ng ti những đ tai hiện thực nhà văn quan tâm, qua đó gửi gắm quan niệm nghệ thuật, cảm
hứng của tác giả v con người và cuộc sống, biểu đạt qua sắc thái thẩm mỹ đậm cá tính sáng tạo của nhà văn.
* Phân tích, bình luận
Cơ snhận định của Hoài Thanh gắn vi sự phát triển của văn học giai đoạn 1930 1945 vi sự phát triển
đa dạng của c khuynh ng văn học. Thời điểm 1939 đã xuất hiện những đỉnh cao trong sáng tác, hình
thành nhiu phong cách tác giả độc đáo, đặc biệt phong phú phong trào Thơ Mi vi những đỉnh cao,
chẳng hạn như Xuân Diệu,n Mặc Tử, Nguyễn Bính… (theo đánh giá trong công trình nghiên cứu Ba đỉnh
cao Thơ Mới của TS. Chu Văn Sơn). c nhà thơ đã khẳng định cái Tôi nhân thể mạnh mẽ, tạo dựng
không gian thơ của riêng mình…
Một số gợi ý v dấu ấn sáng tạo trong thơ của các đỉnh cao Thơ Mi:
+ Xuân Diệu tạo dựng nên một “vũ trụ tình yêu đầy hoan lạc(ý GS. Nguyễn Đăng Mạnh) để khẳng định vị
trí ông Hoàng tình yêu, nhà thơ phát hiện mối quan hệ gắn kết con người hiện thực bằng niềm khát khao
giao cảm, bằng cảm xúc, cảm giác, bằng niềm vui,nỗi buồn của tâm hồn luôn sống vội vàng, cuống quít tận
hưởng vẻ đẹp trần gian. Qua đó khẳng định vị trí nhà thơ mới nhất trong số các nhà Thơ Mới.
+ Hàn Mặc Tminh chứng sphát tiết tinh hoa rực rỡ, phát triển sự ng tạo từ thơ Đường luật
đến thơ Lãng mạn tiếp tục phát triển đến ranh gii siêu thực, tượng trưng trên tiến trình hiện đại hóa Văn
học Việt Nam. Ông tạo dựng một thế gii khiến c c giả Thi nhân Việt Nam như lạc o một vườn thơ
“rộng rinh và n lạnh”. Thế gii thơ Hàn Mặc Tử “hương thơm”, “mật đắng”,”máu cuồng và hồn điên” thể
hiện một khát khao tình người đậm đà. Trong thơ Hàn là sự trộn hòa kỳ lạ giữa thực và ảo, những câu thơ lấp
lánh tài hoa…
+ Nguyễn Bính “thi chân quê” tạo dựng một thế gii riêng của trai hin bạn vi gái đồng trinh”, thấm
đượm hồn quê, tình quê mang đậm phong vị Bắc Bộ. Trong khuôn khổ thi ca truyn thống, cảm xúc cá nhân
được bộc lộ vi nhiu cung bậc khi thiết tha dịu ngọt,lúc chua chát khinh bạc,mang tâm trạng tha hương sầu
xứ ….
==> Các nhà thơ đã đóng góp những thế gii thơ riêng biệt nhưng góp phần tạo nên thế gii chung của tình
cảm dồi dào với cuộc đời con người.
* Mở rộng, nâng cao.
Khẳng định vai trò chủ thể sáng tạo góp phần cho văn chương đến vi cuộc đời thông qua con đường tình
cảm. Đóng góp v nội dung – nghệ thuật trong tác phẩm giúp nhà văn định hình phong cách độc đáo.
Cần tránh quá đ cao chủ quan dễ đi đến bóp méo, xuyên tạc sự thật, đi ngược lại những giá trị Chân
Thiện – Mỹ của cuộc sống.
TRUONG VAN QUYNH

Preview text:

NCKH năm 3 - NCKH năm 3
Đề tài NCKH (Đại học Hải Phòng) 04/06/2020
ẢNH HƯỞNG CỦA KHUYNH HƯỚNG TƯỢNG TRƯNG, SIÊU THỰC TRONG
THƠ MỚI VIỆT NAM
trong dòng chảy văn học, hiện tượng kế thừa, tiếp thu những thành tựu tưởng, nghệ
thuật hiện tượng phổ biến, như một quy luật. Kế thừa thơ truyền thống dân tộc, tiếp thu
chủ nghĩa lãng mạn, tượng trưng, siêu thực của văn học Pháp, thanh niên trí thức Việt Nam
đầu thế kỷ XX đã sáng tạo ra một thời đại thi ca hoàn toàn khác trước. Phải nói rằng Thơ
mới 1932 - 1945 một sự tích hợp nghệ thuật kỳ diệu, độc đáo trong lịch sử văn học Việt
Nam đã đi trọn hành trình thi ca trước lúc hạ cánh để chuyển sang bước ngoặt mới
khi lịch sử đã sang trang. Một thế kỷ thi ca Pháp với những đỉnh thơ lừng danh như:
Lamartine, V.Hugo, Chateaubriand, Baudelaire, Verlaine, Valéry, Mallarmé... đã được các
nhà thơ mới thâu tóm, tiếp biến trong vòng 13 năm. Thơ mới, một hiện tượng độc đáo
một không hai trong tiến trình thơ Việt Nam. Chỉ trong một thời gian ngắn của lịch sử, Thơ
mới đã khởi đi từ lãng mạn, đến tượng trưng siêu thực. Ba trào lưu thơ đã tích hợp, tổng
hoà, đan xen nhau trong trong khá nhiều tác giả, tác phẩm tiêu biểu, làm cho Thơ mới trở
nên giàu có, đa thanh, đa sắc, trong đó, ngoài sự hiện diện tiên phong của chủ nghĩa lãng
mạn, còn phần đóng góp không nhỏ của nghệ thuật tượng trưng - siêu thực, được các
nhà thơ mới tiếp biến đầy sáng tạo. Chuyên đề:
ẢNH
HƯỞNG CỦA KHUYNH HƯỚNG TƯỢNG TRƯNG, SIÊU THỰC TRONG THƠ MỚI VIỆT NAM
A.
CHỦ NGHĨA SIÊU THỰC
I. Về
sự ra đời kết thúc của chủ nghĩa siêu thực
Chủ nghĩa siêu thực là một trào lưu nghệ thuật xuất hiện vào những năm 20 thế kỷ XX ở Pháp do Andre
Breton và P.Soupault đề xướng với sự tham gia của L.Aragon và P.Eluard.
Sự ra đời của chủ nghĩa siêu thực về thực chất là một sự nổi loạn đối với văn minh tư sản và sự khủng hoảng
tinh thần của một bộ phận thanh niên trí thức trước thực trạng xã hội hỗn độn và sự bất lực của mình về mặt
nghệ thuật. Trường phái này chống lại chủ nghĩa hiện thực và mang tính chất suy đồi. Vì thế nhiều nhà văn
tài năng như L.Aragon và P. Éluard dần dần rời bỏ trường phái này và chuyển sang chủ nghĩa hiện thực vào
cuối những năm 30 của thế kỉ XX đồng thời cũng trở thành những nhà thơ nổi tiếng.
Trước khi phát xít Đức chiếm đóng đất Pháp, chủ nghĩa siêu thực chính thức kết thúc lịch sử của nó.
II. Định nghĩa
Chủ nghĩa siêu thực là một trào lưu nghệ thuật văn học có nguồn gốc từ Pháp, được đặc trưng
bởi sự thể hiện tư tưởng theo cách tự phát tự động, chỉ được cai trị bởi sự thúc đẩy của tiềm thức, coi
thường logic và phủ nhận các tiêu chuẩn đạo đức và xã hội đã thiết lập.
Nguồn gốc của thuật ngữ "siêu thực" xảy ra vào năm 1917, thông qua G. Apollinaire, là một từ có nghĩa là
"những gì ở trên chủ nghĩa hiện thực". Tuy nhiên, như một phong trào nghệ thuật và văn học, nó chỉ xuất
hiện ở Pháp vào những năm 1920.
Chủ nghĩa siêu thực dự định vượt ra khỏi giới hạn của trí tưởng tượng được tạo ra bởi tư tưởng tư sản và
truyền thống logic của nó và bởi những ý tưởng nghệ thuật đã có hiệu lực từ thời Phục hưng.
Phong trào siêu thực phát triển mặc dù có nguy cơ bị tiêu diệt, bởi vì những biểu hiện trái ngược phát sinh
dựa trên chủ nghĩa vô chính phủ. Nhiều nhà tư tưởng của phong trào đã trao đổi những lời buộc tội, nói rằng
họ không tuân theo mục đích của chủ nghĩa siêu thực. Bất chấp bầu không khí căng thẳng này, chủ nghĩa siêu
thực phát triển mạnh và ảnh hưởng đến suy nghĩ của con người, bởi vì nó tạo ra một quan niệm mới về thế
giới và con người, nhưng cũng là một sự thay đổi có liên quan trong quá trình nghệ thuật.
Một số học giả cho rằng chủ nghĩa siêu thực đang trong quá trình mang thai cho đến năm 1924,
khi Manifeste du Surréalisme (Tuyên ngôn của chủ nghĩa siêu thực), bởi Breton, xuất hiện. Thay thế hệ thống
các giá trị mà họ dự định sẽ xóa bỏ, những người theo thuyết Dada và những người theo chủ nghĩa siêu thực
đầu tiên đã dùng đến các lý thuyết phân tâm học về sự khuếch tán gần đây để hình thành một tư tưởng thi ca mới.
Với sự khởi đầu của Thế chiến II, những người theo chủ nghĩa siêu thực lan rộng và ngay sau đó phong trào
đã bị giải thể ở châu Âu vì có sự khác biệt về ý kiến giữa các thành viên và các vị trí chính trị khác nhau.
Kiểm tra các tính năng chính của chủ nghĩa siêu thực.
Quan điểm và thi pháp của họ chống lại sự sùng bái các trào lưu văn học hiện thực và lãng mạn thế kỷ 19,
đưa ra một phương pháp sáng tác mà họ gọi là “lối viết tự động”, tức là ghi lại những ảo giác tự phát theo
“trạng thái của những người bị thôi miên”... nói tóm lại, là theo chủ quan của người nghệ sĩ thoát ly mọi liên
hệ với thực tế xã hội.
Trong bản tuyên ngôn của các nhà chủ nghĩa siêu thực viết năm 1924. André Breton đã viết như sau: “ Các
tưởng được tự do bộc lộ, không phải chịu bất kỳ một sự kiểm soát nào của trí, hay của những thành kiến
đạo đức thẩm mỹ” .
Chủ nghĩa siêu thực là một khuynh hướng nghệ thuật lớn bao trùm nhiều loại hình của nghệ thuật. Bắt đầu từ
thơ, siêu thực lan tới hội họa rồi tiếp đến điện ảnh, tiểu thuyết.
III. Một vài đặc điểm về chủ nghĩa siêu thực
1. Những
nguyên tắc của trường phái siêu thực:
- Chủ nghĩa siêu thực thẳng tay gạt bỏ mọi quy tắc trong ngữ pháp và thi pháp, mọi nguyên tắc logic trong tư
duy, giành lấy sự tự do tuyệt đối cho cảm xúc tuôn trào. Sáng tác của họ do đó thường được cấu thành bằng
những dòng tiềm thức rời rạc, gián cách, không thể khắc họa được bức tranh thực tại toàn vẹn.
- Hướng về thế giới vô thức của con người mà họ cho là một lĩnh vực vô hạn đối với sự khám phá sang tạo nghệ thuật.
- Đề cao các ngẫu hứng, chú trọng ghi những cái xuất hiện lướt qua trong đầu, không qua sự kiểm soát của lý trí.
- Vứt bỏ sự phân tích logic, xóa bỏ các gông cùm của lý trí, đạo đức, tôn giáo và chỉ tin cậy ở trực giác, giấc
mơ, ảo giác, ở những linh cảm bản năng và sự tiên tri.
- Dựa theo thuyết “tự động tâm linh” của Bréton họ kêu gọi hướng tới sự hồn nhiên không suy nghĩ của trẻ
thơ, tới trạng thái mê sảng, tới những ảo giác.
Vì thế chủ nghĩa siêu thực chủ trương thơ ca phải được tuôn trào tự do, không cần sử dụng các dấu chấm
câu, không cần tuân thủ trật tự ngữ pháp, đề cao sự liên tưởng tự do của cá nhân.
2. Về phong cách đề tài
Họ chủ trương giải phóng thơ khỏi những qui cách lề lối gò bó trước đó mà họ cho là khuôn sáo, hàn lâm,
chủ trương dùng những từ ngữ kiểu cách, kỳ lạ, âm luật và cú pháp bất thường.
Đề tài của họ là những mơ tưởng huyền ảo quái dị, là sự đau khổ nhớ nhung quá khứ, là tình yêu. Họ cho
rằng chỉ với lối sáng tác ấy người ta mới đạt đến một hiện thực cao hơn hiện thực tầm thường hằng ngày, một
“siêu hiện thực”, chữ mà A.Breton đặt ra. (Bách khoa toàn thư Việt Nam).
3. Về quan điểm chính trị
Các tác giả chủ nghĩa siêu thực nói chung đều là những người phản kháng lại trật tự xã hội tư bản. Họ đấu
tranh cho nhân quyền, chống chủ nghĩa thực dân lúc đầu rơi vào tinh thần nổi loạn vô chính phủ và những cá
nhân tư bản cực đoan. Có người ngay từ đầu đã tán thành chính sách chống đế quốc và thực dân của những người cộng sản.
4. Về nghệ thuật
Loại trừ những bài thơ điên loạn, vô nghĩa, chơi chữ, cần thừa nhận những cải cách của các nhà thơ siêu thực
về mặt thi pháp như: từ ngữ và hình tượng thơ, thơ tự do và thơ văn xuôi. Các nhà siêu thực xây dựng tác
phẩm hoàn toàn dựa trên những thủ pháp như sự tương tự, cái nghịch lý, sự bất ngờ, sự thống nhất những cái
không thể thống nhất được. Từ đó ở tác phẩm xuất hiện một bầu không khí nghệ thuật đặc biệt, có tính huyền ảo, phi lý...
5. Các tác giả tiêu biểu
Thủ lĩnh và phát ngôn nhân đầu tiên của trào lưu thơ siêu thực là André Breton. Nhân vật quan trọng bên
cạnh Bréton là nhà thơ, tiểu thuyết gia rất quen thuộc với bạn đọc Việt Nam : Louis Aragon. Mặc dù có vị thế
quan trọng như vậy, nhưng sau Aragon lại từ bỏ chủ nghĩa siêu thực trở về với văn chương truyền thống kiểu
Balzac. Những ngôi sao nổi tiếng khác như Tristan Tzara, Philippe Soupault, Jacques Prévert... Ngoài ra có
những người theo chủ nghĩa siêu thực nhưng không hoàn toàn tuân thủ các nguyên tắc của nó, nhưng cũng rất
nổi tiếng như Federico Garcia Lorca (Tây Ban Nha), Anais Nin, Henry Miller, Charles Henry Ford (Mỹ),
Hugh Sykes Davies, Dylan Thomas (Anh), St.J.Perse, Paul Eluard (Pháp)...
IV. Ảnh hưởng của chủ nghĩa siêu thực đến Thơ mới Việt Nam ( 1932 1945 )
Trong văn học Việt Nam thế kỷ XX, chủ nghĩa siêu thực không trở thành một dòng riêng biệt, nhưng
bút pháp hoặc thi pháp siêu thực thì đã được các nhà thơ sử dụng và đạt được những thành công nhất định. Ta
có thể thấy được điều đó đậm nhạt ở Hàn Mặc Tử trong tập Thơ điên, ở Nguyễn Xuân Sanh trong Xuân Thu
Nhã Tập, Nguyễn Đình Thi với những bài thơ không vần, ở Hoàng Cầm trong tập Về Kinh Bắc, ở thơ Ngô
Kha và trong ca từ Trịnh Công Sơn...
Ở Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng không dễ dàng trong việc xếp đặt các nhà Thơ Mới Việt Nam
theo một trường phái nhất định: lãng mạn, hoặc tượng trưng hay siêu thực, mà Thơ mới chủ yếu là được sáng
tác theo quĩ đạo chủ nghĩa lãng mạn, sau đó, men tới chủ nghĩa tượng trưng và chủ nghĩa siêu thực. Hiện
tượng đan xen giữa các yếu tố lãng mạn, tượng trưng, siêu thực như trong nhiều bài thơ của Hàn Mặc Tử,
Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Đinh Hùng là điển hình.
1. Trường Thơ Loạn, một trường thơ mang đậm yếu tố siêu thực
Trường thơ loạn ( Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Yến Lan…) đã bẩy cái đẹp qua một địa hạt khác
cái đẹp để tiệm cận với cái kinh dị, cái ghê rợn, cái xấu và đem những cái ấy làm thi liệu cho thơ, đẩy thơ đến
bờ chủ nghĩa siêu thực: Hồn, máu, sọ người, xương khô, tủy, đám ma… tràn đầy trong thơ Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên:
“Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút;
Mỗi lời thơ đều dính não cân ta
Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt
Như mê man chết điếng cả làn da”.
( Rướm máu -Hàn Mặc Tử)
“Trên một nắm mộ tàn ta nhặt được
Khớp xương ma trắng tựa não cân nguời,
Tuỷ đã cạn, nhưng vẫn dầm hơi ướt,
Máu tuy khô, còn đượm khí tanh hôi.”
( Xương khô - Chế Lan Viên)
Điêu tàn dựng lên một thế giới đầy sọ dừa, xương máu, cùng yêu ma hồn, não, máu, chết, nắm mộ tàn, khớp
xương, ma, dầm hơi ướt, khí tanh hôi. Đây là lời thơ miêu tả một yêu tinh nhớ nơi trần thế.
“ Rồi lấy ra một khớp xương rợn trắng
Nút bao dòng huyết đẫm khí tanh hôi
Tìm những “ miếng trần gian” trong tủy cạn
Rồi say sưa, vang cất tiếng reo cười “
Rồi: “ … những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn
Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi “. Rồi nhà thơ kêu lên:
” Hồn của ai trú ngụ ở đầu ta?
Ý của ai trào lên trong đáy óc,
Để bay đi theo tiếng cười, điệu khóc?”
( Dưới ngọn cờ của chủ soái Hàn Mặc Tử, các thành viên trong Trường thơ loạn say sưa sáng tác. Có những
đêm cả bọn đem chăn màn ra bờ biển ở lại suốt đêm để thả hồn theo những vần thơ kỳ dị. Thơ của các thi sĩ
Trường thơ loạn tràn ngập trăng, hồn, máu, bóng ma, sọ người, xương cốt, tinh tủy... Tất cả say sưa bước
chân vào thế giới rùng rợn đó...
Việc nhóm thơ Bình Định cho ra đời Trường thơ loạn khiến văn, thi hữu khắp nơi bàn tán xôn xao. Nhiều
người hoan nghênh nhưng cũng không ít người chê bai. Hoài Thanh kể: "Tôi đã nghe người ta mạt sát Hàn
Mặc Tử nhiều lắm. người bảo: Hàn Mặc Tử thơ với thẩn gì, toàn nói nhảm!".
Có người còn nghiêm khắc hơn nữa: "Thơ rắc rối thế. Mình tưởng ý nghĩa khuất khúc gì, cứ đọc đi
đọc lại hoài, thì ra lừa mình!". Đặc biệt Xuân Diệu là người ghét cay ghét đắng những vần thơ điên của Tử...
Đúng là những vần thơ điên của các thi sĩ đã gây shock cho nhiều người. Nhưng thật ra đó chỉ là một cách
giải quyết sự bế tắc trong tư tưởng mà thôi. Hàn Mặc Tử đã dẫn dắt các thi sĩ sáng tác khá nhiều vần thơ kỳ
dị cho đến lúc chàng rời bỏ cuộc đời vào năm 1941.
Sang năm 1942, đến lượt Bích Khê cũng vĩnh viễn ra đi. Trường thơ loạn từ đó tan rã.)
Trích bài Tựa tập thơ Điêu tàn (1937) do Chế Lan Viên viết:
Hàn mặc Tử viết: Làm thơ tức điên. Tôi thêm: Làm thơ sự phi thường. Thi không phải Người.
Người mơ, Người say, Người điên. Tiên, Ma, Quỷ, Tinh, Yêu, thoát Hiện Tại. xáo trộn
vãng. ôm trùm Tương Lai.
Người
ta không hiểu được nói những câu nghĩa, tuy rằng những cái nghĩa hợp lý. Nhưng
thường thường không nói. gào, thét, khóc, cười. Cái của cũng tột cùng. gào vỡ sọ,
thét đứt hầu, khóc trào nước mắt, cười tràn cả tuỷ tuỷ. Thế người tự cho hiểu được nó,
rồi đem so sánh với Người, chê giả dối với Người. Với nó, cái nói đều cả. )
Một trong những nhà thơ lớn của phong trào Thơ mới, đặc biệt với tập “Thơ Điên” đã được rất nhiều người
biết đến và tập thơ này chúng ta có thể thấy đâu đó đôi nét của chủ nghĩa siêu thực trong thơ ông, một hồn
thơ mãnh liệt nhưng luôn quằn quại đau đớn, dường như có một cuộc vật lộn và giằng xé và dữ dội giữa linh
hồn và xác thịt. Linh hồn muốn thoát khỏi xác phàm để bay tới cõi siêu nhiên sáng láng, thơm tho, tinh khiết
nhưng thực ra vẫn gắn bó với cuộc đời, với con người mà ông thiết tha yêu thương bằng một tình yêu trần thế.
Ông tạo ra cho mình một thế giới nghệ thuật điên loạn, ma quái xa lạ với đời thực. Lời thơ mê man, mê sảng
như trong cõi mơ, trong thế giới đó có hai hình tượng sống động như hai con người, như hai người bạn tâm
tình đó là: Ta và trăng: Say trăng (Hàn Mặc Tử) Ta khạc hồn ra ngoài cửa miệng Cho bay lên hí hửng với ngàn khơi Ở trên kia, có một người Ngồi bên sông Ngân giặt lụa chơi Nước hóa thành trăng trăng ra nước Lụa là
ướt đẫm cả trăng thơm
Người trăng ăn vận toàn trăng cả
Gò má riêng thôi lại đỏ hườm
Ta hẵng đưa tay choàng trăng đã
Mơ trăng ta lượm tơ trăng rơi
Trăng vướng lên cành lên mái tóc cô ơi,
Hãy đứng yên tôi gỡ cho rồi cô đi Thong thả cô đi
Trăng tan ra bọt lấy gì tôi thương
Tối nay trăng ở khắp phương
Thảy đều nao nức khóc nường vu qui
Say! say lảo đảo cả trời thơ
Gió rít tần cao trăng ngã ngửa
Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra
Những tư tưởng của chủ nghĩa siêu thực đậm nét nhất trong bài “Rượt trăng”: Ha ha! Ta đuổi theo trăng Ta đuổi theo trăng Trăng bay lả tả trên cành vàng Tới đây là nơi tôi được gặp nàng Rủ rê, rủ rê hai đứa tôi vào rừng hoang Tôi lượm
lá trắng làm chiếu trải
Chúng tôi kê đầu trên khối sao băng
Chúng tôi soi chuyện bằng hơi thở
Dần dần hao cỏ biến ra thơ
Chúng tôi lại là người của ước mơ
Không xác thịt chỉ là linh hồn đang mộng
Chao ôi! Chúng tôi rú lên vì kinh động
Vì trăng ghen, trăng ngã, trăng rụng xuống mình hai tôi. Hoảng lên nhưng lại cả cười Tôi toan níu áo nàng thời theo trăng Hô hô! Ta đuổi theo trăng! Ta đuổi theo trăng! Trăng! Trăng! Trăng! Trăng! Thả nàng ra, thôi thả nàng ra Hãy buông
nàng xuống cho ta ẵm bồng Đố trăng trăng chạy đàng trời
Tôi rú một tiếng trăng rơi tức thì
Hàn Mặc Tử đã sáng tạo một thế giới thơ kỳ lạ, bí hiểm, thơ ông vừa lãng mạn, vừa tượng trưng - siêu thực,
vừa có chất cổ điển, lại vừa hết sức tân kỳ. Cho đến nay, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng chưa thể khám phá
hết thơ Hàn Mặc Tử - một thế giới vô cùng huyền nhiệm. Thế giới thơ Hàn Mặc Tử rộng rinh không bờ bến
như ông đã trình bày trong Thơ điên: “Tôi sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu,
bằng lệ, bằng hồn, tôi đã phát triển hết các cảm giác của tình yêu. Tôi đã vui, buồn, giận, hờn đến gần đứt sự
sống. Thôi mời cô cứ vào… Ánh sáng lạ trong thơ tôi sẽ làm cho gò má cô đỏ gấc. Và một khi cô đã vào là
cô sẽ lạc, vườn thơ tôi rộng rinh không bờ bến. Càng đi xa, càng ớn lạnh”.
Mắc phải trọng bệnh khi còn rất trẻ, Hàn Mặc Tử hoàn toàn tuyệt vọng; trên đỉnh đau thương tột cùng, thơ
ông viết ra như người đến từ một cõi khác, Thơ điên, một hiện tượng thơ khác lạ trong dòng chảy thơ Việt
đến hồi bấy giờ, “lối viết tự động” thoát ra từ bản năng vô thức đã làm thơ ông ít nhiều mang sắc thái của trường thơ siêu thực.
"Sẽ không thể giải thích được đầy đủ hiện tượng Hàn Mặc Tử nếu chỉ vận dụng thi pháp của chủ nghĩa lãng
mạn và ảnh hưởng của Kinh thánh. Chúng ta cần nghiên cứu thêm lý luận của chủ nghĩa tượng trưng và chủ
nghĩa siêu thực. Trong những bài thơ siêu thực của Hàn Mặc Tử, người ta không phân biệt được hư và thực,
sắc và không, thế gian và xuất thế gian, cái hữu hình và cái vô hình, nội tâm và ngoại giới, chủ thể và khách
thể, thế giới cảm xúc và phi cảm xúc. Mọi giác quan bị trộn lẫn, mọi lôgic bình thường trong tư duy và ngôn
ngữ, trong ngữ pháp và thi pháp bị đảo lộn bất ngờ. Nhà thơ đã có những so sánh ví von, những đối chiếu kết
hợp lạ kỳ, tạo nên sự độc đáo đầy kinh ngạc và kinh dị đối với người đọc." (Nhà phê bình văn học Phan Cự Đệ )
2. Trong Xuân Thu Nhã Tập.
Đây là một nhóm văn chương nghệ thuật có cùng quan điểm: Nguyễn Đỗ Cung, Phạm Văn Hạnh, Nguyễn
Xuân Khoát, Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ. Thành lập năm 1942.
Theo các tác giả, thơ "là cái gì siêu thoát, ra ngoài ước lệ, ở trên lí trí"; thơ thuộc về "những lớp dày đặc của
tiềm thức và vô ý thức" nên không giải được mà chỉ "cảm" được; thơ không được băn khoăn về thiện ác,
không được tả tình hay tả cảnh, "một bài thơ là do sự phối hợp những âm thanh, chữ, hình ảnh...
Thơ là sự rung động, sự quyến rũ- không thể cưỡng lại, một cách tự nhiên, hoàn toàn. Thơ - vì thế, không cần
để hiểu mà cốt để cảm. Ví dụ:
“Màu thời gian không xanh Màu thời gian tím ngắt
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh”.
( Màu thời gian – Đoàn Phú Tứ )
Những câu thơ trên tưởng chừng như hiện ra trước mắt người đọc về một hình ảnh quen thuộc vì nó được
miêu tả tỉ mỉ về màu sắc, về hương sắc nhưng thực ra nó không có bất kỳ tính hiện thực nào.
Hay như bài “Buồn Xưa” của Nguyễn Xuân Sanh: “ …Lẵng xuân Bờ giũ trái xuân sa Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà
Nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm
Tỳ bà sương cũ đựng rừng xa…”
Những câu thơ trên người đọc khó có thể xác định nghĩa thực của nó, như “đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà”
chẳng hạn ta không tìm thấy nghĩa thực của nó ( XTNT chủ trương: thơ không cần rõ nghĩa, chỉ cần gợi và
rung cảm). Đồng thời XTNT đi theo hướng:” một bài thơ có thể hiểu ra nhiều lối dù có cảm một cách duy
nhất, nên độc giả tuỳ theo trình độ tri thức mà hưởng thụ ít hay nhiều ví dụ cùng một ánh trăng, một nụ cười,
một tiếng đàn mọi người đều rung động nhưng mức độ không giống nhau.
( Gv mở rộng: Trong thơ Hoàng Cầm ví dụ như bài Lá Diêu Bông ta thấy lá diêu bông chính là một hình
tượng không có thực, một ảo tưởng tình yêu:
“Hai ngày sau em tìm thấy lá Chị chau mày: Đâu phải lá Diêu Bông
Mùa đông sau em tìm thấy lá Chị lắc đầu
Trông nắng vãn bên sông…” ( Lá Diêu Bông)
Hoàng Cầm thường hay nói về việc ông sáng tác một số bài thơ, những bài hay nhất của mình, là do một
người nữ vô hình nào đó đọc cho chép. Có khi một câu, có khi một đoạn, thậm chí có khi trọn vẹn cả bài.
Việc sáng tác bài thơ Lá Diêu Bông là một trường hợp tiêu biểu: “ chẳng có chuyện gì phải lo nghĩ, chẳng có
ý định gì trong đầu mà sao về quá nửa đêm một mùa rét ấy, tôi vẫn không ngủ được. Im lặng, chợt bên tai
văng vẳng lên một giọng nữ rất nhỏ nhẹ mà rành rọt, đọc chậm rãi, có tiết điệu, nghe như từ thời nào xa xưa
vẳng đến, có lẽ từ tiền kiếp vọng về:
“Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng…” )
3. Đinh Hùng với “Mê hồn ca” - mang đậm yếu tố siêu thực
Đinh Hùng sinh ngày 3 tháng 7 năm 1920 - tại làng Phương Dực, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây, mất ngày
24/8/1967 tại Sài Gòn vì bệnh ung thư. Ông là bạn thân của nhà văn Thạch Lam. Và nhà thơ Vũ Hoàng
Chương là anh rể của ông. Từ tuổi đôi mươi Đinh Hùng đã bắt đầu sáng tác thơ, văn và có thơ được đăng trên
Hà Nội Tân Văn của Vũ Ngọc Phan, giai phẩm Đời Nay của Tực Lực Văn Đoàn. Trong sáng tác, Đinh Hùng
còn ký các bút danh Hoài Điệp Thứ Lang, Thần Đăng. Năm 1943, Đinh Hùng xuất bản tập văn xuôi "Đám
ma tôi" . Ông được nhà thơ Thế Lữ khuyến khích, bắt đầu nổi tiếng trên thi đàn với bài thơ "Kỳ nữ". Năm
1954, Đinh Hùng cho ra đời tập thơ "Mê hồn ca". Mê hồn ca" là câu chuyện thơ đầy mộng mỵ, ma quái, bí
hiểm như truyện Bồ Tùng Linh,
Không như những nhà Thơ Mới khác, Đinh Hùng - Người kiến trúc chiêm bao ( Đỗ Lai Thúy), ông đã
kiến trúc một thiên nhiên ảo diệu, thần bí. Thiên nhiên của thời hồng hoang, thái cổ còn tinh khôi, nguyên
thuỷ. Ở đó, lóe lên ngọn lửa của đêm hồng hoang man rợ, “sông núi giao thần”; trong không gian Thái Cổ ấy,
người thơ cùng Người gái thiên nhiên - Kỳ nữ kết tình ân ái “làm đôi người cô độc thủa sơ khai”:
"Chúng tôi gặp nhau bên dòng suối ngọt,
Làm đôi nguời cô độc thuả sơ khai,
Nàng bâng khuâng đốt lửa những đêm dài,
Ta từng buổi bơ vơ tìm bộ lạc.
Nàng là Gái - Muôn - Đời không đổi khác:
Bộ ngực tròn nuôi cuộc sống đương xuân.
Ta đến đây làm chủ hội phong trần,
Lấy hoa lá kết nên Tình Thái Cổ ".
( Đinh Hùng - Người gái thiên nhiên)
Đến Đinh Hùng, có thể nói, những sáng tác buổi đầu thơ ông (Mê hồn ca) đã nghiêng hẳn sang trường
thơ siêu thực, ngôn từ thơ ông được chuốt trau bóng bẩy, lời lẽ trang trọng, ý tưởng thơ kỳ lạ, bí hiễm, giọng
thơ buồn đau , bi thiết:
“Trăng ơi! đừng bỏ kinh thành.
Hồn Cố Đô vẫn thanh bình như xưa.
Nhỡn tiền chợt sáng thiên cơ
Biết chăng ảo phố mê đồ là đâu? Ta say ánh lửa tinh cầu
Dựng lên địa chấn, loạn màu huyền không”.
(Đinh Hùng - Sông Núi giao thần)
Mê hồn ca như lạc bước vào thế giới khác, một thế giới biệt lập với thế giới hiện hữu, thế giới đó do thi
nhân “ kiến trúc ” trên một nền chiêm bao; và trong chiêm bao ấy, nhà thơ tiếp tục tạo ra những giấc mơ kỳ
diệu, giấc mơ về thế giới, con người của thời hồng hoang, nguyên thủy với những bóng hình man rợn: Rồi
những đêm sâu bỗng hiện về,/ Vượn lâm tuyền khóc rợn trăng khuya./ Đâu đây u uất hồn sơ cổ,/ Từng bóng
ma rừng theo bước đi.” (Đinh Hùng - Những hướng sao rơi ).
Đinh Hùng đã đi vào Mê hồn ca với một không gian siêu thực, mộng mị, lẫn lộn giữa cõi dương thế với
âm phần: “Trời cuối thu rồi- Em ở đâu?./ Nằm bên đất lạnh chắc em sầu?/ Thu ơi đánh thức hồn ma dậy,/ Ta
muốn vào thăm nấm mộ sâu./ ...Thần chết cười trong bộ ngực điên,/ Ta nghe em thở tiếng ưu phiền./ Nỗi
lòng xưa dậy tan Thanh Vắng./ Hơi đất mê người- Trăng hiện lên”. (Đinh Hùng - Gửi người dưới mộ).
Từ bỏ thế giới thực tại, đi sâu vào thế giới siêu nhiên, siêu cảm, có thể nói thơ Đinh Hùng đã vượt qua từ
trường của thơ lãng mạn và men tới lãnh địa của siêu thực: Mê hồn ca được kiến tạo không phải để phản ánh
hoặc tô điểm cho thế giới thực tại, mà độc lập với thế giới thực tại. Đây là điều hầu như không có ở các nhà
thơ Lãng mạn. (Đỗ Lai Thúy - Mắt thơ I, trang 178 - HN 2000). Chính vì vậy mà Nguyễn Tấn Long - nhà
nghiên cứu văn học trước đây đã nhận xét: “Từ bỏ một thế giới hiện hữu, tìm về một một thế giới thuở sơ
khai, tạo dựng một không gian mới cho tâm tư, thi nhân không sống bằng thực tại, mà sống bằng nguồn siêu
tưởng...” Vậy nên, một lần nữa, có thể nói, với Mê hồn ca, thơ Đinh Hùng đã vươn sang trường thơ siêu
thực, và chính ông đã góp phần tạo tiền đề cho nhóm Dạ đài và Xuân thu nhã tập ra đời sau đó.
B. Chủ nghĩa tượng trưng
I. Vài nét về chủ nghĩa tượng trưng 1. Lịch sử hình thành
Chủ nghĩa tượng trưng là một trào lưu nghệ thuật và là một quan điểm triết học - mỹ học xuất hiện ở Phương
Tây cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, bao gồm nhiều hiện tượng văn học - nghệ thuật như: thơ, kịch, tiểu thuyết, hội hoạ … 2. Khái niệm:
Luận giải về chủ nghĩa tượng trưng, các nhà nghiên cứu có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên,
dù xuất phát từ cách tiếp cận nào thì những nội dung chính được các nhà nghiên cứu quan tâm đến cũng tập
trung vào khái niệm “tượng trưng”, sự ra đời của chủ nghĩa tượng trưng và cơ sở triết học của chủ nghĩa tượng trưng.
Từ điển Cambridge định nghĩa “symbol” (tượng trưng) nghĩa là: 1/ Một vật, biểu tượng hoặc đối tượng được
dùng để đại diện cho một điều nào đó, ví dụ: trái tim là tượnga trưng cho tình yêu; 2/Một vật được sử dụng để
biểu thị cho chất lượng hoặc ý tưởng, ví dụ: nước, biểu tượng của sự sống; 3/Con số, bức thư, ký hiệu được
sử dụng trong toán học, âm nhạc, khoa học,… ví dụ: Kí hiệu của Oxy là O; 4/Một vật có thể được mô tả như
biểu tượng của một vật khác nếu nó được xem như là đại diện bởi vì nó kết nối rất nhiều ý tưởng của mọi
người với nhau. Qua định nghĩa trên ta có thể thấy rằng “tượng trưng” và “biểu tượng” là hai khái niệm rất
gần gũi. Khi chuyển dịch khái niệm “symbol” sang tiếng Việt, thuật ngữ này được dùng với cả nghĩa “tượng
trưng” và “biểu tượng”. Từ điển tiếng Việtcủa Hoàng Phê chủ biên, định nghĩa tượng trưng là:
“1/dùng một sự vật cụ thể có hình thức hoặc tính chất thích hợp để gợi ra sự liên tưởng đến một cái trừu
tượng nào đó, ví dụ: Chim bồ câu tượng trưng cho hòa bình; 2/ sự vật cụ thể được dùng để tượng trưng cho
một cái trừu tượng nào đó, ví dụ: Xiềng xích là tượng trưng cho nô lệ” [102, tr.1082].
Theo Hegel, tượng trưng được hiểu như một kiểu tư duy nghệ thuật và đã xuất hiện từ rất lâu: “là một sự vật
bên ngoài, một dấu hiệu trực tiếp nói thẳng với trực giác chúng ta: tuy sự vật này không phải được lựa chọn
và được chấp nhận như nó tồn tại trong thực tế vì bản thân nó. Trái lại, nó được chấp nhận với một ý nghĩa
rộng lớn và khái quát hơn nhiều. Do đó, phải phân biệt ở trong tượng trưng hai yếu tố: ý nghĩa và biểu hiện.
Ý nghĩa là sự gắn liền với một biểu hiện hay một sự vật dù cho nội dung của biểu hiện này hay của sự vật này
là cái gì. Còn sự biểu hiện là một tồn tại cảm quan hay một hình ảnh nào đó” [53, tr.496-497]. Cách định
nghĩa này xem xét khái niệm tượng trưng trong phạm trù nghệ thuật, trong đó bao gồm cả văn học nghệ thuật.
Theo Chu Quang Tiềm, tượng trưng là: “dùng những sự vật cụ thể để diễn tả những gì mang tính chất trừu
tượng. Mỹ cảm phát sinh ở chỗ trực giác được hình tượng, cho nên tác phẩm văn nghệ là sự biểu hiện những
ý tưởng cụ thể, nó trực tiếp lay động sự xúc cảm của giác quan” [137, tr.24]. Khi nhắc đến khái niệm tượng
trưng, các nhà nghiên cứu thường đề cập đến khái niệm “biểu tượng” vì trong nhiều trường hợp, hai khái
niệm này được đồng nhất với nhau. Từ điển thuật ngữ văn học viết: “Biểu tượng như là thuật ngữ của mĩ học,
lí luận văn học và ngôn ngữ học còn được gọi là tượng trưng, nó có nghĩa rộng và nghĩa hẹp” [49, tr. 24].
Theo chúng tôi, hai khái niệm này có điểm thống nhất vì mọi biểu tượng đều có tính tượng trưng nhất định.
Tuy nhiên, trong mỗi biểu tượng ngoài tính tượng trưng nó còn có những ý nghĩa khác. Đồng thời,
mỗi hình ảnh tượng trưng cũng mang trong nó những thông điệp khác nhau. Chính vì thế, không thể đồng
nhất tượng trưng và biểu tượng.
Trong luận án này, tượng trưng được hiểu với nội hàm là một phương diện đặc thù của sáng tạo nghệ
thuật, nó trở thành phương thức khái quát đời sống, nghiêng về tính chất ổn định và đa nghĩa. Tượng
trưng phải xuất phát từ một hình tượng nghệ thuật nhất định, từ đó mở ra nhiều liên tưởng phong phú, có khả
năng khám phá hiện thực và nâng tầm hình tượng ở mức độ ngưng kết ý nghĩa. 3. Đặc điểm:
- Chủ nghĩa tượng trưng quan niệm nghệ thuật không phải phản ánh thế giới thực tại, thế giới của hiện tượng
mà là một thế giới siêu tưởng, một thế giới mơ hồ của sự tương hợp giữa ánh sáng, sắc màu, âm thanh, mùi hương và nhạc điệu.
Chủ thể tiếp nhận thơ tượng trưng cùng một lúc có thể cảm ứng tổng hòa thế giới âm thanh, sắc màu, mùi
hương bằng tất cả các giác quan tương ứng. Các nhà tượng trưng xem thế giới hữu hình chỉ là hình ảnh, là cái
bóng, là biểu trưng cho một thế giới mà ta không thấy được. Họ quan niệm chính cái không nhìn thấy đó mới
là bản thể của thế giới. Nhà thơ nhận thức thế giới bằng trực giác, bởi chỉ có trực giác mới nắm bắt được cái
đằng sau, vô hình, mới ứng cảm được thế giới đích thực mà ta không nhìn thấy. Họ cho rằng, nghệ thuật,
muốn phản ánh thế giới phải tìm ra những “hiện thực ẩn dấu” và thể hiện nó bằng các biểu trưng thẩm mỹ.
Họ quan niệm thơ là kẻ thù của “sự mô tả khách quan”, thơ“trước hết phải có nhạc tính”.
1- Về quan niệm thơ: Chủ nghĩa tượng trưng xem thơ như một thứ siêu cảm giác, không giải thích được.
Thơ phải gắn chặt với âm nhạc, phải gợi chứ không vẽ các đường nét, hình thể (Verlaine). Nghĩa là thơ
không cần có hình tượng rõ nét, và được quan niệm như một bản hoà âm huyền ảo. Mỗi từ trong thơ phải gắn
liền với một nốt nhạc.
2- Về đặc điểm thơ tượng trưng: Chủ nghĩa tượng trưng xem thế giới hữu hình chỉ là hình ảnh, là cái
bóng, là tượng trưng cho một thế giới mà ta không nhìn thấy được. Đây mới chính là bản thể của thế giới.
Cho nên, nhà thơ phải đến với cuộc sống bằng trực giác vì chỉ có trực giác mới tìm ra cái bí ẩn nằm sau thế
giới hữu hình, mới nhìn thấy thế giới đích thực là cái thế giới không nhìn thấy ấy.
3- Về mặt ngôn từ phương thức thể hiện: Thơ tượng trưng dùng biểu tượng như là một cấu tạo hình
tượng đặc biệt để chống lại lối miêu tả và biểu lộ tình cảm trực tiếp của chủ nghĩa lãng mạn. Nói cách khác,
chủ nghĩa tượng trưng tôn trọng điều bí ẩn của thơ. Họ tránh dùng miêu tả mà dùng những từ gợi lên ý nghĩa.
Tức là dùng biểu tượng như là một phương tiện biểu hiện.
Đến thời kỳ cuối thơ tượng trưng rơi vào tình trạng phi giao tiếp, có tính chất loại bỏ sự giao tiếp của người đọc.
II. Ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng đến Thơ mới Việt Nam ( 1932 1945 )
Quan niệm Tương ứng các giác quan trong thơ tượng trưng của Baudelaire đã ảnh hưởng sâu sắc đến Thơ
mới Việt Nam. Mùi hương, màu sắc và âm thanh tương hợp lẫn nhau. Xuân Diệu là nhà thơ đã thể hiện cảm
quan hết sức tinh nhạy, bằng sự tương hợp các giác quan, ông có thể “nghe” được những âm thanh bí ẩn
huyền diệu của đất trời, cảm nhận được các “gam” của sắc màu không gian, và “chiết suất” hương thơm tạo
vật muôn loài qua thơ: “Này lắng nghe em khúc nhạc thơm,/ Say người như rượu tối tân hôn;/ Như hương
thấm tận qua xương tuỷ,/ Âm điệu, thần tiên, thấm tận hồn./ Hãy tự buông cho khúc nhạc hường,/ Dẫn vào
thế giới của Du Dương:/ Ngừng hơi thở lại, xem trong ấy,/ Hiển hiện hoa và phảng phất hương”.
( Xuân Diệu - Huyền diệu).
Sự tương ứng các giác quan tạo nên hiệu ứng lan tỏa, đan xen nhiều tầng cảm xúc và thực sự đem lại cho thơ
những cảm nhận mới lạ. Một khúc nhạc, đối với Xuân Diệu, không phải chỉ để thưởng thức một cách thuần
túy bằng những cung bậc “du dương” của thanh nhạc (tương ứng với thính giác) mà cùng một lúc, nhiều giác
quan ứng cảm, hợp phối để có thêm khúc nhạc hường (màu của nhạc), rồi lan tỏa thành khúc nhạc thơm
(hương của nhạc) và rồi, hãy uống thơ tan trong khúc nhạc (vị của nhạc). Chỉ một khổ gồm bốn câu thơ,
Xuân Diệu đã tổng hòa bốn giác quan tương ứng, nghe - nhìn - ngửi - uống, nhà thơ như đã nhập thần, hóa
thân, hòa tan vào khúc nhạc đất trời Huyền diệu.
Sự tương ứng các giác quan cũng thể hiện rất rõ nét trong một số bài thơ của Huy Cận. Thế giới thơ ông là
một thế giới ngát mùi hương với âm thanh, sắc màu xen lẫn, cùng các giác quan giao hòa, cảm ứng, phức hợp
hơn là cụ thể; mỗi câu thơ luôn mở ra nhiều tầng cảm xúc, khơi gợi, dẫn dắt bước chân người thơ dập dìu đi giữa đường thơm:
"Đường trong làng: hoa dại với mùi rơm…/ Người cùng tôi đi dạo giữa đường thơm;/ Lòng giắt sẵn ít
hương hoa tưởng tượng./ Đất thêu nắng, bóng tre, rồi bóng phượng/ Lần lượt buông màn vướng nhẹ chân
lâu:/ Lên bề cao hay đi xuống bề sâu?/ Không biết nữa.– Có chút gì làm ngợp/ Trong không khí…hương với
màu hoà hợp…". ( Huy Cận - Đi giữa đường thơm).
Mùi hương, màu sắc, âm thanh cùng tương hợp gây hiệu ứng mơ hồ lẫn lộn giữa các giác quan. Đoàn Phú
Tứ, Thơ mới còn có thêm một cảm quan mới về thời gian, đó là“màu thời gian”: "Màu thời gian không xanh/
Màu thời gian tím ngát/ Hương thời gian không nồng/ Hương thời gian thanh thanh". Với “màu thời gian”,
Đoàn Phú Tứ đã góp thêm cách cảm nhận mới, ông đã điểm thêm vào diện mạo thời gian, làm cho thời gian
vừa có hương, lại vừa có sắc.
Ngoài quan niệm Tương ứng các giác quan, chủ nghĩa tượng trưng rất chú trọng tiết điệu, âm nhạc trong thơ.
Các nhà thơ tượng trưng đều thống nhất là sự quan tâm đến nhạc điệu tinh tế của thơ. Không phải ngẫu nhiên
Thơ mới đạt tới sự tuyệt tác ở những bài thơ nội dung trực tiếp là nhạc cảm: Nhị hồ, Nguyệt cầm (Xuân
Diệu), Thu (Chế Lan Viên), Tỳ bà (Bích Khê)...
Âm nhạc trong thơ tượng trưng được khai thác triệt để, âm nhạc được chú trọng đến mức nhiều khi từng chữ
thơ chỉ cần vang mà không cần nghĩa như: Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà của Nguyễn Xuân Sanh.
Yếu tố nhạc trong thơ tượng trưng được khai thác tối đa ở thơ Bích Khê; toàn bộ thơ Bích Khê, trước hết,
được dựng lên trên một nền nhạc; trong rất nhiều sáng tác, ông đã dụng ý chọn những từ ngữ thanh bằng
(bình thanh) đưa vào trong mỗi câu thơ, mỗi khổ thơ, thậm chí nguyên cả bài thơ. Trên nền nhạc -thơ hòa
phối ấy, âm thanh, màu sắc, mùi hương cứ truyền lan vang tỏa, tạo nên sự liên tưởng trùng phức, đầy mê
hoặc: “Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng./ Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông” – Câu thơ mà Hoài Thanh
cho là hay vào bậc nhất trong thơ Việt Nam.
Trong một bài thơ khác, bài Hoàng hoa, dài 18 câu, Bích Khê cũng đã “thiết kế” toàn những thanh
bằng, từ đầu cho đến cuối bài thơ:
"Lam nhung ô! Màu lưng chừng trời;/ Xanh nhung ô! Màu phơi nơi nơi./ Vàng phai nằm im ôm non gầy;/
Chim yên eo mình nương xương cây./ Đây mùa Hoàng hoa, mùa Hoàng hoa:/ Đông nam mây đùn nơi thành
xa…/ Oanh già theo quyên quên tin chàng!/ Đào theo phù dung: thư không sang!/ Ngàn khơi, ngàn khơi, ta
ngàn khơi!:/ Làm trăng theo chàng qua muôn nơi;/ Theo chàng ta làm con chim uyên/ Làm mây theo chàng
bên nhung yên./ Chàng ơi! hồn say trong mơ màng,/- Hồn ta? Hay là hồn tình lang?/ Non yên tên bay ngang
muôn đầu…/ Thâm khuê oan gì giam xuân sâu?/ - Ai xây bờ xanh trên xương người?!/ Ai xây mồ hoa chôn
đời tươi?! (Bích Khê - Hoàng hoa)
Bài thơ hiện lên toàn những từ ngữ mang hình ảnh tượng trưng, ám gợi, rất mơ hồ về nghĩa; chỉ có thanh
âm của nhạc-thơ cứ vang rung trùng điệp. Nếu không có tiêu đề Hoàng hoa, một điển tích lấy từ Kinh Thi nói
về người lính đi thú phương xa nhớ nhà, có lẽ ta sẽ mất hẵn sự gợi ý liên tưởng, khi tìm hướng để cảm nhận bài thơ. Kết luận
Tóm lại, trong dòng chảy văn học, hiện tượng kế thừa, tiếp thu những thành tựu tư tưởng, nghệ thuật là hiện
tượng phổ biến, như một quy luật. Kế thừa thơ truyền thống dân tộc, tiếp thu chủ nghĩa lãng mạn, tượng
trưng, siêu thực của văn học Pháp, thanh niên trí thức Việt Nam đầu thế kỷ XX đã sáng tạo ra một thời đại thi
ca hoàn toàn khác trước. Phải nói rằng Thơ mới 1932 - 1945 là một sự tích hợp nghệ thuật kỳ diệu, độc đáo
trong lịch sử văn học Việt Nam và nó đã đi trọn hành trình thi ca trước lúc hạ cánh để chuyển sang bước
ngoặt mới khi lịch sử đã sang trang. Một thế kỷ thi ca Pháp với những đỉnh thơ lừng danh như: Lamartine,
V.Hugo, Chateaubriand, Baudelaire, Verlaine, Valéry, Mallarmé... đã được các nhà thơ mới thâu tóm, tiếp
biến trong vòng 13 năm. Thơ mới, một hiện tượng độc đáo có một không hai trong tiến trình thơ Việt Nam.
Chỉ trong một thời gian ngắn của lịch sử, Thơ mới đã khởi đi từ lãng mạn, đến tượng trưng và siêu thực. Ba
trào lưu thơ đã tích hợp, tổng hoà, đan xen nhau trong trong khá nhiều tác giả, tác phẩm tiêu biểu, làm cho
Thơ mới trở nên giàu có, đa thanh, đa sắc, trong đó, ngoài sự hiện diện tiên phong của chủ nghĩa lãng mạn,
còn có phần đóng góp không nhỏ của nghệ thuật tượng trưng - siêu thực, được các nhà thơ mới tiếp biến đầy sáng tạo.
C. LUYỆN TẬP
ĐỀ Bài 1:
Thơ không phải một vòng quay chậm rãi của cảm xúc một lối thoát của cảm xúc, không phải sự
biểu hiện của tính cách một lối thoát cho tính. (T.S. Eliot)
Anh/Chị hiểu như thế nào về ý kiến trên? Hãy làm sáng tỏ qua tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử)
ĐỀ BÀI 2:
Văn chương sẽ hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương lại còn sáng
tạo ra sự sống. trụ nầy tầm thường chật hẹp không đủ thỏa mãn mối tình cảm dồi dào của nhà văn. Nhà
văn sẽ sáng tạo ra những thế giới khác.
(Hoài Thanh Nhiệm vụ của văn chương, Tao Đàn số 7, 1/6/1939)
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy tìm hiểu sự sáng tạo trong văn chương qua một số tác giả tiêu biểu
trong phong trào Thơ Mới 1932 – 1945. Hướng dẫn
1. Giải thích
- Thơ là hình thức sáng tác văn học đầu tiên của loài người, thực sự hình thành khi con người có nhu cầu tự
biểu hiện. Thơ phản ánh cuộc sống qua những cảm xúc dạt dào, chất chứa, những liên tưởng, tưởng tượng
mạnh mẽ, ngôn ngữ hàm súc và gợi cảm, hình ảnh phong phú và rất giàu nhịp điệu…
- Vòng quay chậm rãi của cảm xúc: biểu hiện cảm xúc một cách đều đều, mờ nhạt, không cuộn trào, không
thăng hoa, không mãnh liệt…
- Lối thoát của cảm xúc: cảm xúc trong thơ phải được biểu hiện ra, thoát ra, tuôn trào mãnh liệt qua những
đợt sóng ngôn từ, nếu không có thơ, người nghệ sĩ sẽ rơi vào bế tắc. Thơ là lối thoát duy nhất của thi sĩ.
- Tính cách: là tổng thể nói chung những đặc điểm tâm lí ổn định trong cách xử sự của một con người. Nói
thơ không phải sự biểu hiện của tính cách là khẳng định: mục đích của thơ không nhằm biểu hiện bản chất
xã hội, con người xã hội của nhà thơ.
- Thơ là một lối thoát cho cá tính: Cá tính là cái riêng, diện mạo riêng của một người, phân biệt với những cá
nhân khác trong cộng đồng. Trong đời sống, cá tính được thể hiện qua suy nghĩ, tình cảm, hành động của con
người trong những tình huống cụ thể. Trong nghệ thuật, cá tính được hiểu là phong cách nghệ thuật, là cá tính
sáng tạo của người nghệ sĩ.
-> Bằng cách diễn đạt giàu hình ảnh, T.S. Eliot đã khẳng định được đặc trưng cơ bản của thơ ca là sự bộc lộ
của tình cảm, cảm xúc, mong muốn được giãi bày, tâm sự, chia sẻ và nhận được sự đồng điệu từ người đọc;
đồng thời thơ ca chính là nơi mà người nghệ sĩ khẳng định cá tính qua sự độc đáo, sáng tạo về cả nội dung tư
tưởng và hình thức nghệ thuật. 2. Bình
- Thơ không phải một vòng quay chậm rãi của cảm xúc một lối thoát của cảm xúc
+ Người nghệ sĩ sáng tạo không chỉ phản ánh đời sống mà còn thể hiện những tư tưởng, tình cảm trước hiện thực.
+ Thơ là thể loại trữ tình, vạch xuất phát của thơ là tình cảm, đích đến của thơ cũng là tình cảm. Người nghệ
sĩ bao giờ cũng là những người nhạy cảm hơn hết trước cuộc đời, trước đời sống tâm hồn mình. Họ đến với
thơ, dùng tiếng thơ để được giãi bày tất cả những hỉ, nộ, ái, ố và mong muốn nhận được sự tri âm, đồng điệu
từ người đọc. Thơ là cách giải thoát cho những nỗi niềm, điệu hồn đi tìm những hồn đồng điệu…
+
Tình cảm trong thơ phải chân thành, mãnh liệt chứ không thể nhạt nhòa, đơn điệu. Bởi nếu không đủ mãnh
liệt thì thi nhân không đủ rung động để sáng tạo, thơ cũng không thể ra đời, hoặc nếu có, tiếng thơ ấy cũng
không thể tìm được sự đồng điệu cùng độc giả
- Thơ không phải sự biểu hiện của tính cách một lối thoát cho tính
+ Tính cách thể hiện bản chất con người xã hội của nhà thơ nhưng cá tính mới là cái riêng biệt, phân biệt con
người này với con người khác. Trong thơ ca, cá tính sáng tạo đòi hỏi phải được khẳng định thông qua sự độc
đáo, mới lạ trong nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của tác phẩm.
+ Xuất phát từ yêu cầu của sáng tạo văn chương: Bản chất của nghệ thuật là sáng tạo, vì vậy thơ ca cũng đòi
hỏi nhà thơ phải in dấu ấn riêng của mình trong tác phẩm. Nhờ khả năng sáng tạo tuyệt vời mà các thi nhân
luôn tìm ra những cách nói mới từ những điều đã cũ. Nếu không có sáng tạo, không có phẩm chất riêng thì
tác phẩm và tác giả sẽ bị lãng quên. Những sáng tạo về hình thức biểu hiện rất phong phú qua thể loại, cấu tứ
tác phẩm, ngôn ngữ thơ, hình ảnh thơ,... Mỗi tác phẩm phải một phát minh về hình thức… Nhờ có cá tính
sáng tạo của người nghệ sĩ mà cảm xúc chân thành mãnh liệt mới đến được và tìm được tiếng nói tri âm nơi người đọc,…
3. Phân tích, chứng minh
- Phân tích dẫn chứng cần tập trung vào các vấn đề sau:
+ Phân tích tình cảm, cảm xúc mãnh liệt, thăng hoa thể hiện trong thi phẩm.
+ Chỉ ra cá tính sáng tạo của nhà thơ thể hiện qua nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật tác phẩm.
4. Bàn luận, đánh giá nghĩa của vấn đề
Ý kiến của T.S. Eliot đã khẳng định được một đặc trưng quan trọng của thơ ca, có ý nghĩa định hướng cho
người sáng tác và tiếp nhận :
- Nhà thơ cần trau dồi vốn sống, sống sâu sắc, mãnh liệt trong từng cảm xúc, đồng thời luôn luôn sáng tạo để
mang đến sự độc đáo, mới lạ cho tác phẩm, khẳng định được cá tính trong nghệ thuật.
- Người đọc trong quá trình tiếp nhận văn học cần trân trọng công sức của nhà thơ, đọc không chỉ thấy cái
hay của câu chữ mà còn thực sự đồng điệu tri âm với tâm hồn, với tiếng nói sâu lắng mà nhà thơ gửi gắm vào tác phẩm. Đề bài:
Văn chương sẽ hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương lại còn sáng
tạo ra sự sống. trụ nầy tầm thường chật hẹp không đủ thỏa mãn mối tình cảm dồi dào của nhà văn. Nhà
văn sẽ sáng tạo ra những thế giới khác.
(Hoài Thanh Nhiệm vụ của văn chương, Tao Đàn số 7, 1/6/1939)
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy tìm hiểu sự sáng tạo trong văn chương qua một số tác giả tiêu biểu
trong phong trào Thơ Mới 1932 – 1945. Hướng dẫn
Yêu cầu chung: Biết làm bài NLVH; vận dụng tốt các thao tác giải thích, phân tích, bình luận văn học; biết
kết hợp kiến thức lí luận với kiến thức về tác phẩm để bàn luận, đánh giá; văn viết có hình ảnh và giàu cảm
xúc, có giọng điệu riêng, có sáng tạo.
Yêu cầu cụ thể:
* Giải thích
Văn chương sẽ hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương lại còn sáng
tạo ra sự sống:
Văn chương không chỉ giúp hình dung sự sống – hiểu biết hiện thực cuộc sống phong phú đa dạng mà còn
giúp khám phá, sáng tạo lại thực tại. Vì hiện thực khách quan được soi chiếu qua tâm hồn người nghệ sĩ,
cho nên sáng tạo ra sự sống thực chất là hiện thực được nhào nặn trong tác phẩm ghi dấu ấn tư tưởng,tình
cảm và sức sáng tạo của người ngheej sĩ.
trụ nầy tầm thường chật hẹp không đủ thỏa mãn mối tình cảm dồi dào của nhà văn.
Sự đối lập giữa hiện thực khách quan và chủ thể sáng tạo được nhấn mạnh ở phương diện tâm hồn, tình cảm
mãnh liệt, nguồn cảm hứng sáng tạo của tác giả vượt khỏi khuôn khổ hiện thực. Quan điểm của Hoài Thanh
gắn với tư tưởng của chủ nghĩa lãng mạn đề cao vai trò cái Tôi chủ quan cá thể, muốn khẳng định bản sắc,
phong cách riêng trong sáng tạo nghệ thuật.
Nhà văn sẽ sáng tạo ra những thế giới khác.
Thế giới khác do nhà văn sáng tạo chính là thế giới nghệ thuật được tạo dựng bằng ngôn từ nghệ
thuật, hướng tới những đề tai hiện thực mà nhà văn quan tâm, qua đó gửi gắm quan niệm nghệ thuật, cảm
hứng của tác giả về con người và cuộc sống, biểu đạt qua sắc thái thẩm mỹ đậm cá tính sáng tạo của nhà văn.
* Phân tích, bình luận
– Cơ sở nhận định của Hoài Thanh gắn với sự phát triển của văn học giai đoạn 1930 – 1945 với sự phát triển
đa dạng của các khuynh hướng văn học. Thời điểm 1939 đã xuất hiện những đỉnh cao trong sáng tác, hình
thành nhiều phong cách tác giả độc đáo, đặc biệt phong phú là phong trào Thơ Mới với những đỉnh cao,
chẳng hạn như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính… (theo đánh giá trong công trình nghiên cứu Ba đỉnh
cao Thơ Mới của TS. Chu Văn Sơn). Các nhà thơ đã khẳng định cái Tôi cá nhân cá thể mạnh mẽ, tạo dựng
không gian thơ của riêng mình…
– Một số gợi ý về dấu ấn sáng tạo trong thơ của các đỉnh cao Thơ Mới:
+ Xuân Diệu tạo dựng nên một “vũ trụ tình yêu đầy hoan lạc” (ý GS. Nguyễn Đăng Mạnh) để khẳng định vị
trí ông Hoàng tình yêu, nhà thơ phát hiện mối quan hệ gắn kết con người – hiện thực bằng niềm khát khao
giao cảm, bằng cảm xúc, cảm giác, bằng niềm vui,nỗi buồn của tâm hồn luôn sống vội vàng, cuống quít tận
hưởng vẻ đẹp trần gian. Qua đó khẳng định vị trí nhà thơ mới nhất trong số các nhà Thơ Mới.
+ Hàn Mặc Tử là minh chứng sự phát tiết tinh hoa rực rỡ, phát triển sự sáng tạo từ thơ Đường luật
đến thơ Lãng mạn và tiếp tục phát triển đến ranh giới siêu thực, tượng trưng trên tiến trình hiện đại hóa Văn
học Việt Nam. Ông tạo dựng một thế giới khiến các tác giả Thi nhân Việt Nam như lạc vào một vườn thơ
“rộng rinh và ớn lạnh”. Thế giới thơ Hàn Mặc Tử là “hương thơm”, “mật đắng”,”máu cuồng và hồn điên” thể
hiện một khát khao tình người đậm đà. Trong thơ Hàn là sự trộn hòa kỳ lạ giữa thực và ảo, những câu thơ lấp lánh tài hoa…
+ Nguyễn Bính – “thi sĩ chân quê” tạo dựng một thế giới riêng của “trai hiền bạn với gái đồng trinh”, thấm
đượm hồn quê, tình quê mang đậm phong vị Bắc Bộ. Trong khuôn khổ thi ca truyền thống, cảm xúc cá nhân
được bộc lộ với nhiều cung bậc khi thiết tha dịu ngọt,lúc chua chát khinh bạc,mang tâm trạng tha hương sầu xứ ….
==> Các nhà thơ đã đóng góp những thế giới thơ riêng biệt nhưng góp phần tạo nên thế giới chung của tình
cảm dồi dào với cuộc đời con người.
* Mở rộng, nâng cao.
– Khẳng định vai trò chủ thể sáng tạo góp phần cho văn chương đến với cuộc đời thông qua con đường tình
cảm. Đóng góp về nội dung – nghệ thuật trong tác phẩm giúp nhà văn định hình phong cách độc đáo.
– Cần tránh quá đề cao chủ quan dễ đi đến bóp méo, xuyên tạc sự thật, đi ngược lại những giá trị Chân –
Thiện – Mỹ của cuộc sống.
TRUONG VAN QUYNH