Preview text:
lOMoAR cPSD| 53331727
1. Cơ sở hình thành tư tưởng hcm
- Tư tưởng của Hồ Chí Minh là kết quả của sự kế thừa các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc. Đó là truyền thống yêu nước, ý chí độc lập, tự
cường; đoàn kết, nhân ái, khoan dung, tinh thần cộng đồng, lạc quan yêu
đời, cần cù, thông minh, sáng tạo
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Từ chủ nghĩa
yêu nước, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp thu bản chất
khoa học và cách mạng của học thuyết này
2. Nội dung cơ sở thực tiễn tg hình thành tt
- Vào nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển
từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, Nhân
dân các nước thuộc địa bị chủ nghĩa thực dân tước hết những giá trị văn
hoá, tinh thần, quyền lợi kinh tế và địa vị xã hội…
- Cùng với mâu thuẫn cơ bản trong xã hội tư bản - mâu thuẫn giữa vô sản
và tư sản, chủ nghĩa đế quốc làm phát sinh một mâu thuẫn mới - mâu
thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc thực dân
- Giữa thế kỷ XIX (1858), Việt Nam từ một quốc gia phong kiến độc lập
đã bị chủ nghĩa tư bản Pháp xâm lược, trở thành một nước thuộc địa nửa
phong kiến. Sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản Pháp đã làm nảy sinh
trong xã hội Việt Nam hai giai cấp mới: giai cấp tư sản và giai cấp vô
sản. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, bị mất độc lập tự do, nhân
dân ta không ngừng nổi lên chống lại chúng.
- triều đình nhà Nguyễn ký Hiệp ước Patơnốt (6-6-1884) chịu sự bảo hộ
của đế quốc Pháp và thất bại của phong trào Cần Vương và các phong
trào cứu nước theo hệ tư tưởng tư sản, đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng đường lối.
3. Giá trị tt hcm vs cmvn lOMoAR cPSD| 53331727
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động
của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của dân
tộc và thời đại. Người đã tiếp thu, kế thừa những giá trị, tinh hoa văn hóa
của loài người, trong đó chủ yếu là chủ nghĩa Mác - Lênin, giải đáp các
vấn đề của sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
- Trong suốt chặng đường hơn một nửa thế kỷ, tư tưởng Hồ Chí Minh đã
trở thành ngọn cờ dẫn dắt cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác. Ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng và
Nhân dân ta trên con đường thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”.
- Trong bối cảnh của tình hình thế giới đang diễn biến ngày càng nhanh,
phức tạp và khó lường hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh giúp chúng ta
nhận thức đúng những vấn đề lớn có liên quan đến việc bảo vệ nền độc
lập dân tộc, phát triển xã hội và bảo đảm quyền con người; độc lập dân
tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội vì lợi ích con người.
- Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết là thế giới quan, phương
pháp luận xem xét và xử lý các vấn đề thực tiễn.
- Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh ở chỗ đã bao gồm một hệ thống những
quan điểm lý luận toàn diện và sâu sắc về chiến lược, sách lược cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta,
về sự cải biến cách mạng đối với thế giới, về đạo đức, phong cách,
phương pháp Hồ Chí Minh, về việc hiện thực hóa các tư tưởng ấy trong đời sống xã hội...
- Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh là sự định hướng cho sự phát triển của dân tộc
4. Cơ sở lý luận giá trị truyền thống dân tộc
- Một là: Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
- Quá trình dựng nước và giữ nước đã hình thành nhiều truyền thống tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam. Đó là truyền thống yêu nước, đoàn kết, là sự
cầnù, sáng tạo trong lao động, anh dũng kiên cường trong chiến đấu, làý
chíươn lên vượt qua khó khăn, thử thách, là tinh thần tương thân, tươngái . . .
+ Trong các giá trị đó, chủ nghĩa yêu nước truyền thống là giá trị xuyên
uốt lịch sử dân tộc Việt Nam, là tư tưởng, tình cảm cao quý và thiêng lOMoAR cPSD| 53331727
liêng hất, là chuẩn mực đạo đức cơ bản nhất của dân tộc, là cội nguồn
trí tuệ sángạo và lòng dũng cảm của con người Việt Nam.
Hai là: Tinh hoa văn hóa nhân loại. - Văn hoá phương Đông
+ Về Nho giáo: Hồ Chí Minh sinh ra trong gia đình nhà Nho yêu nước,ừ
rất sớm đã chịuảnh hưởng của Nho học từ người cha và nhiều nhà
Nhoêu nướcở quê hương. Người tiếp thu những mặt tích cực của Nho
giáo như: Triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo giúp đời, là
khát vọngề một xã hội đại đồng, là hòa mục, hòa đồng, là triết lý nhân
sinh tu thânưỡng tính, đề cao văn hóa, lễ giáo, hiếu học và Người đã
phê phán loại bỏ hững yếu tố tiêu cực và thủ cựu của nó. + Về Phật
giáo: Hồ Chí Minh đã tiếp thu và chịuảnh hưởng sâu sắc nhữngư tưởng
tốt đẹp của Phập giáo như: vị tha, từ bi, bácái, cứu khổ cứu nạn,
hương người như thể thương thân, nếp sống đạo đức, trong sạch, giản
dị, hăm lo việc thiện, ca ngợi lao động, phê phán lười biếng, chủ
trương gắn bóới dân, với nước. - Văn hoá phương Tây :
+ Cùng với tư tưởng triết học phương Đông, Hồ Chí Minh còn tiếp thuền
văn hóa dân chủ và cách mạng của phương Tây. Người chịuảnh hưởng
sâu sắc tư tưởng tự do, bình đẳng trong Tuyên ngôn độc lập của nước
Mỹ, năm 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Đại Cách mạng Pháp, năm 1791.
Ba là: Chủ nghĩa Mác – Lênin.
- Chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận củaư
tưởng Hồ Chí Minh. Người tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin trên nền tảng
hững tri thức văn hóa tinh túy của nhân loại cùng với sự hiểu biết chính
trị hong phú được tích lũy qua hoạt động thực tiễn đấu tranh vì mục
tiêu cứuước, giải phóng dân tộc của chính mình. lOMoAR cPSD| 53331727
- Từ những nhận thức ban đầu về chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh đi vào
ghiên cứu chủ nghĩa Mác. Người tiếp thu lý luận Mác – Lênin theo
phương pháp macxít, nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất. Người vận
dụng lập trường, uan điểm, phương pháp biện chứng của Chủ nghĩa
Mác – Lênin để giải uyết những vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt
Nam, chứ không đi tìm hững kết luận có sẵn trong sách vở.
- Như vậy, chính thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin đã giúp Hồ Chí Minh vận dụng lý luận và kinh nghiệm thực tiễn
phong phú của mình để từ đó tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc ta.
5. Liên hệ với sv trong phát huy gtri vh
- Học và tìm hiểu về văn hóa dân tộc: Mỗi người có trách nhiệm học và
tìm hiểu về văn hóa dân tộc của mình để có thể hiểu và trân trọng các giá
trị văn hóa truyền thống của địa phương.
- Sử dụng và phát triển ngôn ngữ và phương tiện truyền thông truyền
thống : Mỗi người có thể sử dụng và phát triển ngôn ngữ và phương tiện
truyền thông truyền thống để giữ gìn và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc của địa phương.
- Tham gia các hoạt động văn hóa: Mỗi người có thể tham gia các hoạt
động văn hóa như hội họa, văn nghệ, âm nhạc để phát triển bản sắc văn
hóa dân tộc. Tham gia các hoạt động xã hội: Mỗi người có thể tham gia
các hoạt động xã hội để giúp đỡ cộng đồng trong việc bảo tồn và phát
triển di sản văn hóa truyền thống của địa phương.
- Quan tâm và chia sẻ với người khác về văn hóa dân tộc: Mỗi người có
trách nhiệm quan tâm và chia sẻ với người khác về văn hóa dân tộc để
tạo động lực và giúp đỡ cộng đồng trong việc giữ gìn và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc.
6. đặc điểm phương thức tiếp thu tinh hoa vhnl của hcm lOMoAR cPSD| 53331727
- Hồ Chí Minh đã tiếp thu phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và ứng dụng
sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đất nước, đưa cách mạng Việt Nam
giành nhiều thắng lợi vĩ đại và cống hiến nhiều vào kho tàng lý luận
mácxít cũng như phương pháp hoạt động sáng tạo của cuộc cách mạng vô sản.
- Người đã thông thạo các ngôn ngữ tiêu biểu cho nền văn minh của nhân
loại, am tường các nền văn hóa Đông, Tây, kim, cổ. Khi tiếp thu các nền
văn hóa, Người bao giờ cũng phân tích các yếu tố giá trị toàn nhân loại
và vĩnh cửu. Người đã làm giàu trí tuệ của mình bằng tinh thần văn hóa
nhân loại. Người là tượng trưng cho sự kết hợp hài hòa giữa các nền
văn hóa và tỏa ra một nền văn hóa của tương lai.
- Hồ Chí Minh đã khai thác Nho giáo, lựa chọn những yếu tố tich cực, phù
hợp để phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng.
Tiếp thu tư tưởng vị tha ở Phật giáo, Hồ Chí Minh là hiện thân của lòng
nhân ái, độ lượng, khoan dung - những nét đặc trưng của giáo lý đạo Phật.
Thứ nhất là, tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người
như thể thương thân - một tình yêu bao la không chỉ dành cho con người
mà dành cho cả chim muông, cây cỏ.
Thứ hai là, nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện.
Thứ ba là, tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác chống lại mọi phân biệt đẳng cấp.
- Lĩnh hội tư tưởng văn hóa phương Tây: Trong ba mươi năm hoạt động
cách mạng ở nước ngoài, Hồ Chí Minh sống chủ yếu ở châu Âu nên
cũng chịu ảnh hưởng rất sâu rộng của nền văn hóa dân chủ và cách mạng của phương Tây lOMoAR cPSD| 53331727
- Tóm lại, Hồ Chí Minh tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại một cách
có chọn lọc rồi vận dụng tinh hoa đó một cách sát hợp vào những điều
kiện cụ thể của đất nước, của dân tộc vì mục đích không chỉ cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc mình mà còn góp phần tích cực nhất vào sự
nghiệp của các dân tộc khác trên thế giới.
6. Nhân tố chủ quan HCM
- Những năm tháng hoạt động trong nước và bôn ba khắp thế
giới để học tập, nghiên cứu, Hồ Chí Minh đã không ngừng quan sát, nhận
xét thực tiễn, làm phong phú thêm sự hiểu biết của mình, đồng thời
hình thành những cơ sở quan trọng để tạo dựng nên những thành
công trong lĩnh vực hoạt động lý luận của Người về sau.
- Các nhà yêu nước tiền bối và cùng thời với Hồ Chí Minh tuy
cũng đã có những quan sát, nhưng họ chưa nhận thấy, hoặc
nhận thức chưa đúng về sự thay đổi của dân tộc và thời đại.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh khám phá
các quy luật vận động xã hội, đời sống văn hóa và cuộc đấu
tranh của các dân tộc trong hoàn cảnh cụ thể để khái quát
thành lý luận, đem lý luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn và được
kiểm nghiệm trong thực tiễn. Nhờ vào con đường nhận thức
chân lý như vậy mà lý luận của Hồ Chí Minh mang giá trị
khách quan, cách mạng và khoa học.
- Phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn. Mục tiêu
đấu tranh giải phóng dân tộc, sự tác động mạnh mẽ của thời
đại và sự nhận thức đúng đắn về thời đại đã tạo điều kiện để
Hồ Chí Minh hoạt động có hiệu quả cho dân tộc và nhân loại.
- Có được điều đó là nhờ vào nhân cách, phẩm chất và tài năng
trí tuệ siêu việt của Hồ Chí Minh.
- Phẩm chất, tài năng đó được biểu hiện trước hết ở tư duy độc
lập, tự chủ, sáng tạo, cộng với đầu óc phê phán tinh tường, sáng lOMoAR cPSD| 53331727
suốt trong việc nhận xét, đánh giá các sự vật sự việc chung quanh.
- Phẩm chất, tài năng đó cũng được biểu hiện ở bản lĩnh kiên
định, luôn tin vào nhân dân; khiêm tốn, bình dị, ham học hỏi;
nhạy bén với cái mới, có phương pháp biện chứng, có đầu óc
thực tiễn. Chính vì thế, Hồ Chí Minh đã khám phá ra lý luận
cách mạng thuộc địa trong thời đại mới trên cơ sở đó xây dựng
một hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc và sáng tạo về cách
mạng Việt Nam, kiên trì chân lý và định ra các quyết sách đúng
đắn, sáng tạo để đưa cách mạng đến thắng lợi.
- Phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh còn biểu hiện ở sự khổ
công học tập để chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức nhân loại, là tâm
hồn của một nhà yêu nước chân chính, một chiến sĩ cộng sản
nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu nước thương dân, sẵn
sàng chịu đựng hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của đồng bào.
- Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tổng hòa của những
điều kiện khách quan và chủ quan, của truyền thống văn hóa dân
tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Từ thực tiễn dân tộc và thời
đại được Hồ Chí Minh tổng kết, chuyển hóa sắc sảo, tinh tế với
một phương pháp khoa học, biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh
đã trở thành tư tưởng Việt Nam hiện đại.
7. Tư tưởng hcm về đọc lập dân tộc đề cập vdd gì
- Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chỉ có độc lập dân tộc thật sự mới có một
nền hòa bình chân chính; chỉ có hòa bình chân chính, mới có độc lập
dân tộc hoàn toàn. Không thể có độc lập dân tộc thực sự, khi đất
nước còn có sự lệ thuộc, hoặc có sự hiện diện của quân đội nước
ngoài. Trên thực tiễn, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn thể hiện ý chí độc
lập tự do, khát vọng hòa bình của dân tộc. Người luôn tìm mọi cách
để đẩy lùi chiến tranh, cứu vãn hòa bình, giữ gìn độc lập dân tộc.
Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là tiền đề đi lên chủ
nghĩa xã hội: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, cách mạng Việt lOMoAR cPSD| 53331727
Nam phải trải qua hai giai đoạn: Cách mạng dân tộc, dân chủ nhân
dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng dân tộc, dân chủ
phải được thực hiện trước, nhằm giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản,
thực hiện hai mục tiêu chiến lược: Dân tộc và dân chủ. Theo Người,
trong giai đoạn cách mạng này là tập trung giải quyết hai mâu thuẫn
cơ bản là mâu thuẫn giữa toàn thể quốc dân Việt Nam với thực dân
Pháp và chính quyền phong kiến tay sai; mâu thuẫn giữa giai cấp
nông dân với giai cấp địa chủ. Để giải quyết mâu thuẫn cơ bản và
chủ yếu nói trên, Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết dân tộc nhằm:
“Đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến”; “Làm cho nước Nam
được hoàn toàn độc lập”. Như vậy, ngay trong Cương lĩnh đầu tiên
của Đảng (2/1930), Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, độc lập dân tộc là mục
tiêu trực tiếp, trước hết. Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước
hết trong cách mạng dân tộc dân chủ, nó cũng là khởi điểm của con
đường cách mạng Việt Nam. Bởi vậy, độc lập dân tộc không phải là
mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam, mà thực hiện độc lập
dân tộc còn là quá trình tạo tiền đề đi lên chủ nghĩa xã hội.
8. Phân tích vấn đề độc lập dân tộc
- Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất
cả các dân tộc: Ý chí và quyết tâm trên còn được thể hiện trong
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Khi thực dân
Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam lần thứ hai, trong Lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946, Người ra lời hiệu
triệu, thể hiện quyết tâm sắt đá, bảo vệ cho bằng được nền độc
lập dân tộc - giá trị thiêng liêng mà nhân dân Việt Nam mới
giành được: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Năm
1965, đế quốc Mỹ tăng cường mở rộng chiến tranh ở Việt Nam.
Trong hoàn cảnh khó khăn, chiến tranh ác liệt đó, Hồ Chí Minh
đã nêu lên một chân lý thời đại, một tuyên ngôn bất hủ của các
dân tộc khao khát nền độc lập, tự do trên thế giới “Không có gì
quý hơn độc lập, tự do”. Với tư tưởng trên của Hồ Chí Minh,
nhân dân Việt Nam đã anh dũng chiến đấu, đánh thắng đế quốc
Mỹ xâm lược, buộc chúng phải ký kết Hiệp định Paris, cam kết
tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ta.
- Độc lập dân tộc phải gắn liền tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc của nhân dân: lOMoAR cPSD| 53331727
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với tự do của nhân dân.
Người đánh giá cao học thuyết
“Tam dân” của Tôn Trung Sơn về độc lập và tự do: dân tộc độc lập,
dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc. Và bằng lý lẽ đầy thuyết
phục, trong khi viện dẫn bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của
Cách mạng Pháp năm 1791, Hồ Chí Minh khẳng định dân tộc Việt
Nam đương nhiên cũng phải được tự do và bình đẳng về quyền lợi:
“Đó là lẽ phải không ai chối cãi được”. Người nói: “Nước độc lập
mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Ngoài ra, độc lập cũng phải gắn với cơm no, áo ấm và hạnh phúc của
nhân dân. Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945
trong hoàn cảnh nhân dân đói rét, mù chữ. . . , Hồ Chí Minh yêu cầu
phải cố gắng để cho nhân dân ai cũng có cái ăn cái mặc, ai cũng có
chỗ ở và được học hành.
- Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để:
Trong quá trình đi xâm lược các nước, bọn thực dân đế quốc hay
dùng chiêu bài mị dân, thành lập các chính phủ bù nhìn bản xứ, tuyên
truyền cái gọi là “độc lập tự do” giả hiệu cho nhân dân các nước
thuộc địa nhưng thực chất là nhằm che đậy bản chất “ăn cướp” và
“giết người” của chúng.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, hoàn toàn
và triệt để trên tất cả các lĩnh vực. Người nhấn mạnh: độc lập mà
người dân không có quyền tự quyết về ngoại giao, không có quân
đội riêng, không có nền tài chính riêng. . . . , thì độc lập đó chẳng có ý nghĩa gì.
- Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ 9.
Mqh giữa độc lập dân tộc và cnxh
- Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là cơ sở tiền
đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh, con
đường cách mạng Việt Nam có hai giai đoạn: cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong
cách mạng dân tộc dân chủ có hai nhiệm vụ chiến lược cơ
bản, trong đó giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm
vụ dân chủ được rải ra thực hiện từng bước và phục tùng lOMoAR cPSD| 53331727
nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Vì thế, ở giai đoạn cách mạng
dân tộc dân chủ thì độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước
mắt, cấp bách. Kết luận này được Hồ Chí Minh rút ra từ sự
phân tích tình hình thực tế và những mâu thuẫn khách quan
tồn tại của xã hội Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến.
- Chủ nghĩa xã hội là con đường củng cố vững chắc độc lập dân tộc,
giải phóng dân tộc một cách hoàn toàn triệt để. Về lý luận, độc lập
dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ giữa mục tiêu
trước mắt và mục tiêu cuối cùng; mối quan hệ giữa hai giai đoạn của
một quá trình cách mạng. Lôgíc lịch sử khách quan cho thấy: thực
hiện mục tiêu trước mắt là điều kiện tiên quyết để đi tới mục tiêu
cuối cùng và chỉ thực hiện được mục tiêu cuối cùng thì mục tiêu
trước mắt mới củng cố vững chắc một cách hoàn toàn, triệt để. Giữa
hai giai đoạn cách mạng không có bức tường ngăn cách, cách mạng
dân tộc dân chủ xác lập cơ sở, tiền đề cho cách mạng xã hội chủ
nghĩa, cách mạng xã hội chủ nghĩa khẳng định và bảo vệ vững chắc
nền độc lập dân tộc.
- Hồ Chí Minh chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội càng phát triển, càng đạt đến
độ chín muồi thì các tiềm lực, nhất là tiềm lực vật chất kỹ thuật của
dân tộc càng mạnh, đất nước càng có điều kiện củng cố độc lập của
mình, tăng cường khả năng phòng thủ. Không có một chế độ xã hội
nào có thể đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc bằng chủ nghĩa xã
hội. Trong toàn bộ cấu trúc nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội thể
hiện khả năng tự bảo vệ và biết cách bảo vệ.
- Hồ Chí Minh khẳng định, trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động
là người chủ duy nhất. Đó là sự khác biệt về chất giữa chủ nghĩa xã
hội với các chế độ xã hội trước đó. Chế độ dân chủ là chế độ do nhân
dân làm chủ, dân chủ là vấn đề thuộc bản chất của nhà nước ta. Theo
Hồ Chí Minh, dân chủ xã hội chủ nghĩa phải được phát huy trên tất
cả các lĩnh vực, phải được thể chế hoá bằng pháp luật, được hoàn
thiện, nâng cao trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội và nâng cao
dân trí. Đây là điều kiện cơ bản và quyết định vận mệnh của dân tộc,
tạo ra sức đề kháng trên phạm vi xã hội, loại trừ và có khả năng
chống trả bất kỳ một hành động nào đe dọa độc lập, tự do của dân
tộc. Thực hiện được một xã hội như vậy thì độc lập dân tộc mới thực
sự vững chắc, sự nghiệp giải phóng dân tộc mới thắng lợi một cách
hoàn toàn và triệt để. 10.
Những sáng tạo của HCM trong sự nghiệp dân tộc lOMoAR cPSD| 53331727
- Sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc lựa chọn con
đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam.
- Hồ Chí Minh tích cực tham gia phong trào cộng sản quốc tế
trước khi tiến hành vận động phong trào cách mạng Việt Nam.
- Chuẩn bị lực lượng tiên phong cho cách mạng Việt Nam
- Chủ tịch Hồ Chí Minh phát hiện, khơi dậy và tổ chức thành công
sức mạnh "dời non, lấp biển" của dân tộc Việt Nam.
- Sáng tạo trong cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại của dân tộc Việt Nam.
- Sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc
và sức mạnh thời đại. 11.
Ý nghĩa mqg giữa độc lập dân tộc và cnxh
- Trong 91 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhờ xác định rõ nôị
dung và cụ thể hóa mục tiêu về đôc lậ p dân tộ c và chủ nghĩa xã hộ
ị theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã lãnh đạo đất nước vượt qua
những khó khăn, thử thách và đạt được những thành tựu to lớn có ý
nghĩa lịch sử. Thực tiễn đó chỉ ra rằng, độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội là ngọn cờ, là sự lựa chọn nhất quán và đúng đắn
của Ðảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta
trong 91 năm qua. Hiện tại, dù còn nhiều khó khăn, nhưng Ðảng ta
vẫn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì đó là
con đường đúng đắn, là quy luật và xu thế phát triển tất yếu của thời
đại; là điều kiện bảo đảm để dân tộc thực sự độc lập, nhân dân có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh trở thành hiện thực. 12.
Vấn đề nguyên tắc trong hoạt động của đảng
- Đảng Cộng sản Việt Nam quy định 5 nguyên tắc tổ chức hoạt động
cơ bản, đó là: tập trung dân chủ trong Đảng; tự phê bình và phê bình;
đoàn kết thống nhất; gắn bó mật thiết với nhân dân; Đảng hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Đây không phải là những
nguyên tắc riêng rẽ, mà là một hệ thống những nguyên tắc xác định,
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, đan xen, thâm nhập vào nhau
trong thực tiễn xây dựng và hoạt động của Đảng. Trong đó, tự phê
bình và phê bình là một trong những nguyên tắc hết sức quan trọng,
nếu chúng ta nhận thức đúng đắn và thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ
giúp cho từng đảng viên và các tổ chức đảng không ngừng phát triển,
lớn mạnh, góp phần nâng cao năng lực và sức chiến đấu của các tổ lOMoAR cPSD| 53331727
chức cơ sở đảng, xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, văn minh. 13.
Phân tích nguyên tắc: kỷ luật nghiêm minh tự giác
- Kỷ luật của Đảng là kỷ luật dựa trên tình đồng chí, kỷ luật của những
người cùng chung một lý tưởng, tự nguyện đứng trong hàng ngũ
Đảng, sẵn sàng hy sinh vì lợi ích của giai cấp công nhân, của dân
tộc. Mọi đảng viên và tổ chức đảng liên kết với nhau theo một kỷ
luật chung dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ, sự thống nhất chặt
chẽ về chính trị, tư tưởng và tổ chức, được thể hiện tập trung trong
các điều khoản của Điều lệ Đảng. Kỷ luật đó xuất phát từ ý chí của
toàn Đảng nhằm bảo đảm cho sự thống nhất, tập trung cao trong
Đảng, đồng thời để phát huy dân chủ, phát huy tính tích cực và sáng
tạo của toàn thể đảng viên và các tổ chức đảng. Vì vậy, Hồ Chí Minh
luôn khẳng định: Kỷ luật của Đảng là “kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm
túc và tự giác”[2]. Kỷ luật của Đảng không chỉ đòi hỏi tính tự giác mà
còn mang tính bắt buộc đối với những cá nhân, những bộ phận chưa
ý thức đầy đủ nhiệm vụ của người đảng viên. Bắt buộc là một nội
dung tất yếu của mọi hình thức kỷ luật. Sự giác ngộ càng cao thì tính
bắt buộc càng ít và càng mang tính tự giác cao. Đảng viên tự giác
chấp hành những điều khoản trong Điều lệ đã được họ thảo luận dân
chủ và thống nhất ý kiến trước khi được chính thức thông qua tại các kỳ đại hội đảng.
- Để bảo đảm kỷ luật được chặt chẽ, tự giác phải mở rộng, tăng cường
dân chủ trong Đảng. Hai mặt dân chủ và kỷ luật trong Đảng phải
luôn luôn đi đôi với nhau. Có mở rộng và tăng cường dân chủ trong
Đảng thì mới bảo đảm được kỷ luật và có bảo đảm được kỷ luật thì
mới tăng cường được dân chủ. Trước lúc đi xa, Hồ Chí Minh đã để
lại bản Di chúc lịch sử và dành những lời đầu tiên cho Đảng: “Trước
hết nói về Đảng... Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường
xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để
củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có
tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Theo Người, tự phê bình và phê
bình là phản ánh trung thực tinh thần dân chủ và sức chiến đấu của
Đảng. Bởi vì: “... một đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là
một đảng hỏng. Một đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình,
vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh
sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm
đó. Như thế là một đảng tiến bộ, mạnh dạn, chân chính”[6] lOMoAR cPSD| 53331727 14.
phân tích nguyên tắc tập trung dân chủ
- Tập trung dân chủ là một nguyên tắc của hoạt
động Đảng, được kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố
“tập trung” và “dân chủ” để tạo thành một thể
thống nhất. Theo đó, dân chủ là điều kiện tiền đề
của tập trung, còn tập trung là cơ sở cho dân chủ được thực hiện.
- Tập trung dân chủ là nguyên tắc căn bản nhất
trong 5 nguyên tắc của hoạt động Đảng, đóng vai
trò chi phối các nguyên tắc khác. Thực hiện tốt tập
trung dân chủ sẽ giúp công cuộc xây dựng Đảng
được trong sạch và vững mạnh hơn. 15.
Ý nhghiax của nguyên tắc trong xdung đảng
- Thứ nhất, về lý luận, nguyên tắc là vấn đề có tính
sống còn đối với một tổ chức. Tuân thủ các
nguyên tắc thì tổ chức đó vững mạnh, từ bỏ hoặc
thực hiện không nghiêm túc các nguyên tắc thì sẽ
dẫn đến tổ chức rệu rã và có nguy cơ tan rã.
- Tuân thủ nghiêm ngặt những nguyên tắc chủ yếu
nói trên trong quá trình xây dựng Đảng là một
trong những yếu tố có tính quyết định bảo đảm
cho Đảng ta giữ vững và tăng cường bản chất giai
cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc
Việt Nam; là cơ sở khoa học để Đảng ta không
ngừng chăm lo xây dựng Đảng, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, làm cho lOMoAR cPSD| 53331727
Đảng luôn xứng đáng vai trò người lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
- Thứ hai, quan điểm chỉ đạo là kiên định nhưng
không phải là cứng nhắc, giáo điều và cũng không
phải là đổi mới vô nguyên tắc.
- Thứ ba, về thực tiễn, trong nghiên cứu, học tập,
quán triệt thực hiện các nghị quyết của Đảng thì
chỉ đạo và tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu,
chậm được khắc phục nên khi thực hiện các chỉ
thị, nghị quyết của Đảng rất cần phải kiên định
tuân thủ các nguyên tắc. Nếu ai không tuân thủ sẽ
phải chịu trách nhiệm bằng các hình thức kỷ luật của Đảng. 16.
Tự phê bình và phê bình
- Theo Bác Hồ, phê bình là nêu lên những khuyết điểm của đồng chí
khác của tổ chức đảng nhằm phát huy ưu điểm và khắc phục khuyết
điểm. Tự phê bình là bản thân tự mình soi rọi mình, tự nghiêm khắc,
thật thà nhận, công khai nhận trước mặt mọi người khuyết điểm của
mình để tìm cách sửa chữa. Tự phê bình và phê bình phải đi đôi với
nhau là phương pháp giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên. Thực
chất của tự phê bình và phê bình là góp ý giúp đồng chí, đồng nghiệp
và tự bản thân kiểm điểm lại xem cái làm được và cái chưa làm được,
làm hay hoặc còn thiếu sót, sai lầm và từ đó phát huy cái tốt, tìm ra
biện pháp khắc phục sửa chữa cái chưa hay, cái khuyết điểm, sai lầm.
Vì vậy, tự phê bình và phê bình góp phần nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, giữ gìn phẩm chất, tư cách
đảng viên, nâng cao uy tín của Đảng và củng cố niềm tin của quần
chúng đối với Đảng, củng cố và phát triển sự đoàn kết thống nhất
của Đảng, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy trí tuệ
sáng tạo của mọi cán bộ, đảng viên tham gia xây dựng nghị quyết và
lãnh đạo tổ chức thực hiện thắng lợi nghị quyết của đảng bộ, chi bộ
và nhiệm vụ của cơ quan, góp phần xây dựng chi bộ trong sạch vững
mạnh, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao.Theo đó, tự phê
bình và phê bình nhằm mục đích để giúp nhau tiến bộ nên động cơ lOMoAR cPSD| 53331727
phải trong sáng, dựa trên “tình đồng chí yêu thương nhau”, phải biết
lắng nghe và chờ đợi đồng chí tiếp thu để tránh việc làm cho người
bị phê bình “nản chí, oán ghét”; không vì phê bình mà công kích, áp
đặt khuyết điểm cho nhau. Khi phê bình người khác không được xoi
mói “bớ lông, tìm vết” để tìm cơ hội “hạ bệ” lẫn nhau; “tránh công
kích cá nhân, cãi bướng, trả thù, tiểu khí”. Thực hành tự phê bình và
phê bình phải dân chủ, không mệnh lệnh, áp đặt. Nghĩa là phê bình
ngay những sai lầm, khuyết điểm của cán bộ, đảng viên và tổ chức
đảng, không để chúng tích tụ lại, trầm trọng thêm. Điều quan trọng
hơn nữa là tự phê bình và phê bình kịp thời sẽ uốn nắn ngay những
lệch lạc, ngăn chặn không để chúng tái diễn ở cán bộ, đảng viên và
tổ chức đảng khác, không đợi đến khi sai lầm khuyết điểm đã rõ ràng,
có bằng chứng pháp lý mới tiến hành tự phê bình và phê bình. 17.
Đảng có mối liên hệ mật thiết với nhân dân
- Quan hệ giữa Đảng và nhân dân là mối quan hệ bản chất, gắn
liền với sự tồn tại và phát triển của Đảng. Mối quan hệ đó được
thực hiện qua nhiều “kênh” khác nhau, trong đó, mối liên hệ
giữa đảng viên với nhân dân là “kênh” cơ bản, trực tiếp, một
phương thức chủ yếu, một biểu hiện cụ thể, sinh động của
nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân. Khi đảng viên
làm cho dân tin, dân phục, dân yêu cũng là làm cho dân tin Đảng
và yêu Đảng. Ngược lại, đảng viên hư hỏng, thoái hóa, biến chất
thì niềm tin của dân đối với Đảng bị xói mòn, sức mạnh của Đảng bị giảm sút.
18. Đoàn kết thống nhất trong đảng
- Đoàn kết, thống nhất thực sự là động lực chủ yếu của sự phát triển
của Đảng. Thống nhất là cơ bản, các hình thức đấu tranh nội bộ mang
tính chất xây dựng, góp phần quan trọng củng cố và tăng cường đoàn
kết, thống nhất trong Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng. Đoàn kết, thống nhất là một yêu cầu cơ bản, một
nguyên tắc tổ chức và hoạt động quan trọng hàng đầu của Đảng,
quyết định sức mạnh của Đảng, nhằm bảo đảm giành được những
thắng lợi to lớn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định sức mạnh to
lớn của đoàn kết qua thực tiễn cách mạng nước ta: “Đoàn kết là một
lực lượng vô địch. Lực lượng đoàn kết đã giúp Cách mạng Tháng
Tám thành công. Lực lượng đoàn kết đã giúp kháng chiến thắng lợi.
Lực lượng đoàn kết sẽ động viên nhân dân từ Bắc đến Nam đấu tranh
để thực hiện hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước lOMoAR cPSD| 53331727
- Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên tự phê bình và
phê bình, đó là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết,
thống nhất của Đảng.
- Để giữ gìn, củng cố đoàn kết, thống nhất trong chi bộ, cần tập trung
vào công tác đẩy mạnh giáo dục chính trị, tư tưởng, coi trọng rèn
luyện đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tình yêu thương đồng chí, tôn
trọng lẫn nhau của cán bộ, đảng viên. Sự đoàn kết, thống nhất trong
Đảng trước hết bắt nguồn từ sự hiểu biết và giác ngộ chính trị của
mỗi đảng viên. Vì vậy, công tác tuyên truyền trong Đảng có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng để nâng cao trình độ nhận thức cho mỗi đảng
viên, có như vậy mới tạo sự đoàn kết, thống nhất cao.
19. Xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên
- Để phát hiện, đánh giá đúng cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng:
Trước khi cất nhắc cán bộ, phải nhận xét rõ ràng. Chẳng những xem
xét công tác của họ, mà còn phải xét cách sinh hoạt của họ. Chẳng
những xem xét cách viết, cách nói của họ, mà còn phải xem xét việc
làm của họ có đúng với lời nói, bài viết của họ hay không. Chẳng
những xem xét họ đối với ta thế nào, mà còn phải xem xét họ đối với
người khác thế nào. Phải biết ưu điểm của họ, mà cũng phải biết
khuyết điểm của họ, không nên chỉ xem công việc của họ trong một
lúc, mà phải xem cả công việc của họ từ trước đến nay.
- Biết rõ cán bộ mới có thể cất nhắc một cách đúng mực. Cất nhắc cán
bộ, phải vì công tác, tài năng, vì cổ động cho đồng chí khác thêm
hăng hái. Như thế, công việc nhất định chạy. Nếu vì lòng yêu ghét,
vì thân thích, vì nể nang, nhất định không ai phục, mà gây nên mối
lôi thôi trong Đảng. Như thế là có tội với Đảng, có tội với đồng bào.
Khi cất nhắc một cán bộ, cần phải xét rõ người đó có gần gũi quần
chúng, có được quần chúng tin cậy và mến phục không, phải xem
người ấy xứng với việc gì. Nếu người có tài mà dùng không đúng tài
của họ, cũng không được việc. Không có ai cái gì cũng tốt, cái gì
cũng hay. Vì vậy, chúng ta phải khéo dùng người, sửa chữa những
khuyết điểm cho họ, giúp đỡ ưu điểm của họ để luôn xứng đáng là
người đầy tớ trung thành của nhân dân, làm mực thước để dân tin,
dân mến, dân noi theo mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn nỗ lực học
tập để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng lãnh đạo,
quản lý; rèn luyện tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong;
tự soi, tự sửa; trách nhiệm trong công tác, ý thức tổ chức kỷ luật và
đoàn kết nội bộ… từ đó, tạo niềm tin và sức hấp dẫn quần chúng, lOMoAR cPSD| 53331727
quy tụ được quần chúng, góp phần xây dựng cơ quan, đơn vị, địa
phương trong sạch, vững mạnh, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
20. Bản chất giai cấp công nhân của nhà nước
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa được coi là Nhà nước của dân, do dân, vì dân nhưng tuyệt nhiên
nó không phải là "Nhà nước toàn dân", hiểu theo nghĩa nhà nước phi
giai cấp. Nhà nước bao giờ và ở đâu cũng mang bản chất của một
giai cấp nhất định. Nhà nước Việt Nam mới, theo quan điểm của Hồ
Chí Minh, là một Nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân. Vì: -
- Một là, Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Điều này được thể hiện: -
- - Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước giữ vững và tăng
cường bản chất giai cấp công nhân. Việc xác định bản chất giai cấp
công nhân của Nhà nước là một vấn đề rất cơ bản của Hiến pháp.
Lời nói đầu của bản Hiến pháp năm 1959 khẳng định: "Nhà nước
của ta là Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh
công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo". Trong quan điểm cơ
bản xây dựng một Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ một nhà
nước thể hiện tính chất nhân dân rộng rãi. Hồ Chí Minh vẫn nhấn
mạnh nòng cốt của nhân dân là liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và tri thức, do giai cấp công nhân mà đội tiên
phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. -
- - Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức thích hợp. Nói đến
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là nói đến cách
lãnh đạo cho phù hợp với từng thời kỳ. Trong thời kỳ Hồ Chí Minh
làm Chủ tịch nước, đất nước ta vừa tiến hành kháng chiến chống giặc
ngoại xâm, giải phóng và bảo vệ Tổ quôc, vưa lãnh đạo nhân dân
xây dựng chế độ mới. Do đó, phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước ta thời kỳ đó không giống với những thời kỳ sau này.
Song, trong tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn có những vấn đề cơ bản về
phương thức lãnh đạo của Đảng chung cho các thời kỳ. Đó là: - lOMoAR cPSD| 53331727
- + Đảng lãnh đạo bằng đường lối, quan điểm, chủ trương để Nhà
nước thể chế hóa thành pháp luật, chính sách, kế hoạch -
- + Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng hoạt động của các tổ chức đảng và
đảng viên của mình trong bộ máy, cơ quan nhà nước. -
- + Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác kiểm tra. -
- Hai là, bản chất giai cấp của Nhà nước ta thể hiện ở tính định hướng
xã hội chủ nghĩa của sự phát triển đất nước. Điều này đã được thể
hiện trong quan điểm của Hồ Chí Minh ngay từ khi đất nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa mới ra đời. -
- Ba là, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta thể hiện ở nguyên
tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung dân
chủ. Hồ Chí Minh rất chú ý đến tính dân chủ trong tổ chức và hoạt
động của tất cả bộ máy, cơ quan nhà nước, nhấn mạnh đến việc phát
huy cao độ dân chủ, đồng thời phát huy cao độ tập trung. Nhà nước
phải tập trung thống nhất quyền lực để tất cả mọi quyền lực vào tay nhân dân. 21. Nhà nước dân chủ
- Nhà nước dân chủ có nội dung đặc trưng là quyền lực thuộc về nhân
dân và do nhân dân tổ chức nên. Nhà nước dân chủ ấy đương nhiên
không phải là đứng trên nhân dân, càng không phải là đối lập với
nhân dân, mà là công cụ quyền lực của nhân dân, tồn tại và hoạt động
vì nhân dân. Nhà nước ấy, nói theo ngôn ngữ của C.Mác, là sự “tự
quy định của nhân dân”(4); trong đó, hiến pháp, pháp luật là sự thể
chế hoá ý chí của nhân dân. Như vậy, theo quan niệm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, nhà nước dân chủ chính là nhà nước pháp quyền.
- Dân chủ”, theo Hồ Chí Minh, còn có nghĩa là dân chủ về mặt xã hội, nghĩa là nhân dân làm chủ tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Tất cả các hoạt động xã hội, các quá trình xã hội, các phong trào xã hội hay nói một
cách khái quát là “Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc” và “Công việc đổi mới, xây dựng” đều thuộc trách
nhiệm, công việc của dân, tức là do dân làm chủ.
- Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, dân chủ bao gồm hai mặt thống nhất chặt chẽ với nhau: Quyền làm chủ
và trách nhiệm làm chủ. Người cho rằng, các đoàn thể, như Hội đồng nhân dân, Mặt trận, Công đoàn, Hội
nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, v.v. là những tổ chức của nhân dân, phấn đấu và bênh vực cho quyền lOMoAR cPSD| 53331727
lợi của dân, liên lạc mật thiết giữa nhân dân với Chính phủ. Bởi vậy, đồng bào cần hiểu rõ và khéo dùng
quyền dân chủ của mình. Quyền lợi luôn gắn liền với nghĩa vụ, “cho nên mọi người cần phải hăng hái làm
tròn nghĩa vụ của mình trong mọi công việc kháng chiến, cứu nước, xây dựng nước nhà”(7).
- dân chủ” là tính chất chung của toàn bộ đời sống chính trị - xã hội của đất nước. Nhân dân trực tiếp làm chủ
xã hội và thông qua bộ máy nhà nước để thực hiện quyền làm chủ của mình. Trong một chế độ xã hội như
vậy, nhà nước thực sự thâm nhập vào tất cả các mặt của đời sống xã hội chứ không chỉ giới hạn ở đời sống
chính trị. Đó thực chất là sự triển khai nội dung “dân chủ” trong tất cả các mặt của đời sống xã hội.
- Nhà nước dân chủ theo nghĩa ấy đồng nhất trở lại với xã hội đúng như dự báo của C.Mác. Do nội dung “dân
chủ”, nhà nước và pháp luật thực sự là hiện thân cho lợi ích chung, ý chí chung của toàn thể nhân dân.
22. Giá trị tư tưởng về nhà nc dân chủi gdd hiện nay
- Tư tưởng về nhà nước dân chủ là một chủ đề quan trọng, đặc biệt
trong bối cảnh hiện nay. Hãy cùng nhau khám phá một số khía cạnh
về giá trị của tư tưởng này dựa trên tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và thực tế đang diễn ra:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ:
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một di sản tư tưởng vô cùng quý báu
về dân chủ. Ông không chỉ phản ánh tầm nhìn bao quát về giá trị phổ
quát của dân chủ, mà còn đề xuất cách thức thực hành nó trong thực tế.
- Ông coi dân chủ không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực của cuộc
đổi mới. Ông khẳng định rằng xây dựng một xã hội dân chủ đòi hỏi
cán bộ, đảng viên và công chức phải thực sự là công bộc của nhân dân 1 .
- Hiện thực hóa tư tưởng dân chủ:
- Trong giai đoạn hiện nay, toàn Đảng và toàn dân Việt Nam đang đẩy
mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mục tiêu
là xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.
- Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh càng được khẳng định và phát
huy vai trò to lớn trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa 2 .
- Thực hành dân chủ trong thực tế: lOMoAR cPSD| 53331727
- Điều quan trọng không chỉ là nhận thức về dân chủ, mà còn là việc
thực hành nó. Chúng ta cần tạo bước chuyển từ nhận thức đến hành động.
- Cải cách hành chính, tạo môi trường dân chủ trong bộ máy nhà nước,
đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có phẩm chất và năng lực là
những bước cần thực hiện để hiện thực hóa tư tưởng dân chủ 3 .
- Như vậy, tư tưởng về nhà nước dân chủ không chỉ là một khái niệm
trừu tượng, mà còn là mục tiêu và động lực để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.
23. Nd tư tưởng về nhà nước của dân, do dân, vì dân
- Tư tưởng về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân là một phần
quan trọng trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Hãy cùng tôi khám phá nội dung cơ bản của tư tưởng này:
- Nhà nước của dân là Nhà nước trong đó dân là chủ:
- Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng nhà nước Việt Nam phải thực sự
phục vụ lợi ích của nhân dân. Bất kỳ quyền hạn nào cũng phải thuộc
về dân, và dân có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước.
- Điều này không chỉ ở mức lý thuyết, mà còn phải thể hiện trong thực
tế hoạt động của các cơ quan nhà nước từ xã đến Chính phủ Trung ương 1 .
- Nhà nước dân chủ:
- Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng nhà nước Việt Nam là một nhà nước
dân chủ. Điều này đòi hỏi dân làm chủ, quyền hành và lực lượng đều nằm trong tay dân.
- Công việc đổi mới, xây dựng đất nước là trách nhiệm của dân.
24. Nhà nước pháp quyền
- Nhà nước pháp quyền là một khái niệm quan trọng trong lĩnh vực
chính trị và pháp luật. Hãy cùng tìm hiểu về nó!
- Khái niệm của nhà nước pháp quyền: