



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61155494
LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI: Ấn Độ cổ trung đại
I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH VĂN MINH ẤN ĐỘ CỔ TRUNG ĐẠI
1. Điều kiện tự nhiên và dân cư
Mục tiêu: SV nắm được những đặc điểm cơ bản về tự nhiên và dân cư Ấn Độ và ảnh hưởng của chúng đối
với lịch sử và văn hóa Ấn Độ.
Phương pháp: Thuyết trình của GV kết hợp sử dụng bản đồ và đặt câu hỏi gợi mở cho SV (Yêu cầu SV
đọc trước giáo trình và tài liệu liên quan) - Vị trí địa lý:
+ Ấn Độ là một “tiểu lục địa” nằm ở miền Nam châu Á, hai mặt Đông Nam và Tây Nam giáp Ấn Độ Dương.
Tây Bắc là vùng đồi núi thấp, giáp với Trung Á và Tây Nam Á.
Phía Bắc là dãy Himalaya hùng vĩ án ngữ theo một vòng cung dài 2.600 km, trong đó có tới 40 ngọn núi cao
trên 7.000m so với mặt biển, biên giới tự nhiên giữa Ấn Độ và Trung Hoa. Theo trí tưởng tưởng của người
Ấn Độ cổ thì đây là những ‘trụ trời” đã nâng vòm trời lên cho nhân gian sinh sống.
Himalaya theo tiếng Sanxkrít, có nghĩa là “nơi cư trú của tuyết” hay “xứ sở của tuyết”. Trong trí tưởng tưởng
của người Ấn Độ thì Himalaya là nơi tiếp giáp giữa cõi trời và trần gian, là nơi trú ngụ và đi về của các thần
linh nên nơi đây thường là chốn tu hành khổ luyện của những đạo sĩ muốn tĩnh tâm thiền định, chiêm
nghiệm về bản chất của vũ trụ và nhân sinh, tìm con đường giải thoát cho chúng sinh khỏi cảnh lầm than,
khổ ải của cuộc đời.
+ Thời cổ trung đại, lãnh thổ của Ấn Độ rộng lớn hơn, bao gồm cả các nước Pakixtan, Bănglađét, Nêpan ngày nay.
+ Ấn Độ ngày nay là một nước có diện tích lớn vào hàng thứ 7 trên thế giới (3.280.483 km2) và có số dân
đông thứ hai, sau Trung Quốc. Nhìn trên bản đồ, Ấn Độ gần như chiếm trọn cả vùng Nam Á. - Điều kiện tự nhiên:
+ Địa hình Ấn Độ rất đa dạng: chia làm hai miền Nam và Bắc, lấy dãy núi Vinđya làm ranh giới.
Miền Bắc có hai con sông lớn là sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Gange). Lưu vực sông Ấn là nơi phát
nguyên của một trong những nền văn minh sớm nhất trong lịch sử nhân loại. Hai con sông Ấn và Hằng đã
tạo nên những đồng bằng rộng lớn, phì nhiêu, rất thuận lợi cho trồng trọt, phát triển kinh tế nông nghiệp.
(Lưu vực sông Ấn, sông Hằng là một trong những vựa lúa của thế giới hiện nay).
Miền cực Bắc Ấn Độ là tỉnh Casơmia. Phía Nam Casơmia là vùng Penjap, nghĩa là “vùng năm sông” (gồm
sông Ấn và bốn nhánh sông chính là Ravi, Thelum, Chenar và Sutleji). Các sông lớn của Ấn Độ như sông
Ấn, sông Hằng đều bắt nguồn từ dãy núi Himalaya, nhưng lại chảy theo hai hướng ngược nhau. Sông Ấn
dài trên 1.500 km chảy theo hướng Tây Nam qua vùng Penjap Tây, đổ ra vịnh Ôman, tên Ấn của nó là
Sindhu, có nghĩa là “sông”. Người Ba Tư khi vào đất Ấn đã đổi nó thành Hinđu và gọi tất cả miền Bắc Ấn Độ
là Hindustan, nghĩa là “xứ sở các dòng sông”[1]. Chính nơi đây từ thiên niên kỷ thứ III TCN đã nảy sinh ra
một nền văn minh nổi tiếng là Môhenjô Đarô và Harappa.
Sông Hằng được coi là con sông linh thiêng nhất của Ấn Độ. Nó bắt nguồn từ dãy Himalaya, choàng ngang
cả phía Bắc Ấn. Trong huyền thoại Ấn Độ, sông Hằng là người con gái của Himalaya, không những vậy, theo
người Ấn Độ, sông Hằng còn là con sông ở trên trời. Nó chảy tung bọt dưới chân thiên thần Visnu - thần Bảo
tồn, nên nó có tên là Visnupadi. Khi vua Bhagiratha để tiếp tục ý nguyện của cha mình, đã bỏ ngai vàng lên
Himalaya luyện phép mới mời được sông Hằng rời thiên giới quay dòng chảy xuống tưới mát cho lOMoAR cPSD| 61155494
trần gian. Nó chảy ngang qua Himalaya và tiếp tục chảy xuống âm phủ. Vì vậy sông Hằng có đến ba dòng
chảy qua cả ba thế giới: trên trời nó là Ngân Hà, ở mặt đất nó là Hằng Hà, dưới âm phủ nó có tên là
Patalaganga. Vì sông Hằng chảy qua cả ba thế giới nên nó còn được gọi là Tripathaga.
Đối với người Ấn Độ, nước sông Hằng có sức thanh tẩy rất màu nhiệm: người có tội đến tắm nước sông
Hằng sẽ trở nên trong sạch. Đến với sông Hằng, gọi tên sông Hằng, người ta cảm thấy tĩnh tâm, thanh thản
và như trút đi hết mọi cực khổ, lo âu của cuộc đời. Do vậy, sông Hằng được coi như sông Mẹ. Hình tượng
của sông Hằng được nhân hoá như là một người đàn bà mang một bình đầy nước, đứng trên một con cá sấu.
Việc tắm nước sông Hằng đã trở thành một sinh hoạt tôn giáo thiêng liêng. Đó là lễ hội tắm Kumbh Mela.
Hàng năm, hàng triệu tín đồ đạo Hinđu từ khắp miền đất nước đều hành hương về đây tắm dòng nước mát
sông Hằng để được rửa sạch mọi lỗi lầm, để được tĩnh tâm, an ủi. Và khi chết, nếu được nhỏ vài giọt nước
sông Hằng vào miệng thì đó là diễm phúc của cuộc đời. “Dòng sông Hằng…đã nắm giữ trái tim của Ấn Độ
và thu hút hàng bao nhiêu triệu người đến đôi bờ của nó từ buổi bình minh của lịch sử. Câu chuyện dòng
sông Hằng, từ ngọn nguồn của nó đến biển cả, từ thời xưa đến thời nay, là câu chuyện của nền văn minh và
văn hoá Ấn Độ, của sự hưng suy của các triều đại, của những thành phố lớn, kiêu hãnh, của cuộc phiêu lưu
của con người và sự tìm tòi của trí tuệ từng làm bận bịu các nhà tư tưởng Ấn Độ…” (Jawaharlal Nehru: Phát
hiện Ấn Độ, NXB Văn học, Hà Nội, 1997, t1, tr 91)[2]
Miền Nam Ấn là cao nguyên Đêcan rộng lớn, có nhiều rừng rú và khoáng sản, nằm giữa hai dãy núi Đông
Ghát và Tây Ghát, chạy dài dọc theo hai mặt Đông và Tây của bờ biển Ấn Độ Dương. Vùng cao nguyên
Đêcan có rất nhiều sông ngòi chảy qua và đổ ra biển, song mực nước của các con sông này không ổn định
nên không thuận lợi cho giao thông cũng như thuỷ lợi.
+ Cùng với sự đa dạng của địa hình, khí hậu của Ấn Độ cũng rất đa dạng và khắc nghiệt: ở miền Bắc Ấn –
dãy Himalaya quanh năm tuyết phủ, gió lạnh thấu xương, bão tuyết thường xuyên xảy đến, mùa hè băng
tuyết tan lại tạo thành những cơn thác lũ đổ xuống chân núi, có thể cuốn lấp đi cả một vùng làng mạc dân
cư. Ở miền Nam, khí hậu khô, nóng, đất đai khô cằn.
→ Tóm lại, Ấn Độ là một đất nước có điều kiện tự nhiên, điều kiện địa lý hết sức đa dạng nhưng cũng vô
cùng khắc nghiệt. Đó là một tiểu lục địa mênh mông, vừa có những miền núi cao đầy băng giá và rừng rậm
âm u, vừa có những miền đại dương chói chang ánh nắng, vùa có những con sông lớn với những đồng
bằng trù phú lại vừa có những cao nguyên và sa mạc khô khan, nóng nực.
- Cư dân: Ấn Độ gồm rất nhiều tộc người, nhưng chủ yếu có hai thành phần chủng tộc: Đraviđa chủ yếu cư
trú ở miền Nam và người Aryan từ vùng Caxpiên di cư xuống miền Bắc Ấn Độ và định cư ở đó.
Theo các tài liệu nghiên cứu về ngôn ngữ học, khảo cổ học và dân tộc học, ở Ấn Độ có đến 1500 ngôn ngữ
khác nhau. Ngày nay, chính phủ Ấn Độ đã công nhận 15 ngôn ngữ chính thức, trong đó tiếng Hinđu được
coi là ngôn ngữ dân tộc và tiếng Sanskrít là ngôn ngữ cổ dân tộc[3].
1. Sơ lược lịch sử Ấn Độ cổ trung đại lOMoAR cPSD| 61155494
a. Thời cổ đại *
Thời kỳ văn minh lưu vực sông Ấn (từ đầu thiên kỷ III đến giữa thiên kỷ II TCN): còn gọi là thời kỳ
văn hoá Haráppa và Môhenjô Đarô (do việc phát hiện ra hai thành phố Haráppa và Môhenjô Đarô bị chôn vùi
dưới đất ở vùng lưu vực sông Ấn). Chủ nhân của nền văn minh này là người Đraviđa, qua nghiên cứu các
hiện vật tìm được và tìm hiểu cấu trúc của hai thành phố này cho thấy: đây là thời kỳ xã hội người Đraviđa
đã có sự phân hoá giai cấp, nhà nước đã hình thành. *
Thời kỳ Vêđa (từ giữa thiên kỷ II đến giữa thiên kỷ I TCN)
Lịch sử Ấn Độ thời kỳ này được phản ánh trong bộ kinh Vêđa, bộ kinh Thánh của đạo Bàlamôn nên được
gọi là thời kỳ Vêđa. Chủ nhân của thời kỳ Vêđa là người Aryan (nghĩa là “người cao quý”) mới di cư từ Trung Á lOMoAR cPSD| 61155494
vào Ấn Độ (vào khoảng năm 1500 TCN). Trước khi vào Ấn Độ, người Aryan còn đang ở trong thời kỳ tan rã
của chế độ thị tộc, bộ lạc, sống cuộc sống du mục, chưa định cư, tức là ở trình độ văn minh thấp hơn so với
người Đraviđa. Khi vào Ấn Độ, người Aryan học tập kỹ thuật làm nông nghiệp của người Đraviđa, bắt đầu
sống định cư, dần dần xây dựng các quốc gia đầu tiên ở Ấn Độ. Trong quá trình đó, người Aryan đã xây
dựng chế độ đẳng cấp, để bảo vệ chế độ đẳng cấp họ dùng luật pháp (luật Manu) và tôn giáo (đạo
Bàlamôn). Do vậy, trong thời kỳ này ở Ấn Độ xuất hiện 2 vấn đề có ảnh hưởng rất quan trọng và lâu dài
trong xã hội đó là chế độ đẳng cấp Vácna và đạo Bàlamôn. *
Ấn Độ từ thế kỷ VI TCN đến thế kỷ IV TCN: là thời kỳ hình thành các quốc gia sơ kỳ. Đây cũng là
thời kỳ các vương quốc ở Ấn Độ tranh giành quyền bá chủ ở lưu vực sông Hằng, trong đó vương quốc
Magađa là vương quốc lớn mạnh nhất ở vùng Bắc Ấn.
Năm 327 TCN, sau khi tiêu diệt Ba Tư, quân đội Makêđônia do Alêchxăngđrơ chỉ huy đã tấn công Ấn Độ, tuy
nhiên họ đã không thành công. *
Ấn Độ từ thế kỷ IV đến thế kỷ II TCN: Vương triều Môrya (321 – 187 TCN) do Sanđra Gúpta, biệt
hiệu là Môrya (chim công) lập nên sau khi đánh thắng quân Makêđônia, giải phóng đất nước. Đây là triều đại
huy hoàng nhất trong lịch sử Ấn Độ cổ đại, đặc biệt giai đoạn cường thịnh là thời Asôca (273 – 236 TCN).
Đạo Phật trở thành quốc giáo. *
Ấn Độ từ thế kỷ II TCN đến thế kỷ IV sau công nguyên:
Sau khi Asôca chết, vương triều Môrya suy sụp nhanh chóng, nước Magađa thống nhất dần dần tan rã, đến
năm 28 TCN thì diệt vong. Ấn Độ rơi vào tình trạng chia cắt trầm trọng. Tộc Cusan từ Trung Á vào chiếm
miền Tây Bắc Ấn Độ, thành lập nước Cusan. Dưới thời vua Canixca (78 – 123) - vốn là một người tôn sùng
đạo Phật, nên Phật giáo thời kỳ này cũng rất hưng thịnh. Sau khi Canixca chết, nước Cusan ngày càng suy
yếu, đến thế kỷ V thì bị diệt vong. b. Thời trung đại *
Vương triều Gúp ta (từ thế kỷ IV đến thế kỷ VI): đây là thời kỳ xác lập chế độ phong kiến ở Ấn Độ.
Giai đoạn này được xem là “Thời đại cổ điển” trong lịch sử Ấn Độ. Các phương diện chính trị - xã hội và nền
văn hóa được định hình, trở thành bản sắc của Ấn Độ. *
Vương triều Hác sa (thế kỷ VII đến thế kỷ XII): là thời kỳ tồn tại chế độ phong kiến phân tán ở Ấn
Độ. Trong thời kỳ này, có một giai đoạn dưới thời trị vì của Hác sa, Ấn Độ trở thành một vương quốc tương
đối hùng mạnh ở miền Bắc Ấn Độ, đến năm 648, khi Hác sa chết, quốc gia do ông dựng lên cũng tan rã
theo. Từ đó cho đến thế kỷ XII là thời kỳ Ấn Độ liên tiếp ngoại tộc xâm chiếm. Đến năm 1200, toàn bộ miền
Bắc Ấn Độ bị nhập vào Ápganixtan. *
Vương triều Hồi giáo Đêli (1206 – 1526)
Đây là thời kỳ thống trị của người Hồi giáo. Năm 1206, viên tổng đốc của Ápganixtan ở miền Bắc Ấn Độ đã
tách miền Bắc Ấn Độ thành một nước riêng tự mình làm vua (xuntan), đóng đô ở Đêli, gọi là nước Xuntan
Đêli (hay vương triều Hồi giáo Đêli). *
Vương triều Môgôn (1526 – 1857): là thời kỳ Ấn Độ bị Mông Cổ xâm lược và thống trị. Từ giữa thế
kỷ XVIII, thực dân Anh bắt đầu chinh phục Ấn Độ, đến năm 1849, Ấn Độ hoàn toàn bị biến thành thuộc địa
của Anh, vương triều Môgôn tồn tại đến năm 1857 thì bị diệt vong.
II. NHỮNG THÀNH TỰU CHÍNH CỦA VĂN MINH ẤN ĐỘ 1. Chữ viết lOMoAR cPSD| 61155494 -
Chữ viết là một biểu hiện của văn minh. Chữ viết xuất hiện đầu tiên ở Ấn Độ từ nền văn minh sông
Ấn. Tại các di chỉ thuộc nền văn minh sông Ấn, người ta đã phát hiện được hơn 3000 con dấu khắc chữ đồ
hoạ, nhưng đáng tiếc cho đến ngày nay người ta vẫn chưa tìm ra cách giải mã loại chữ này.
→ Dân tộc Ấn là dân tộc có chữ viết vào loại sớm nhất thế giới. -
Vào thế kỷ VIII – VII TCN, ở Ấn Độ xuất hiện cùng một lúc nhiều loại chữ cổ: Brami (từng được vua
Asôka khắc trên bia đá); Kharosthi, loại chữ này có lẽ bắt nguồn từ một loại chữ cổ vùng Tây Á; chữ Sanxkrít
(chữ Phạn) do người Ấn tạo ra trên cơ sở kế thừa các mẫu tự của hai chữ trên; chữ Pali được xây dựng trên
cơ sở vay mượn từ Phạn ngữ (viết kinh Phật)
Trong 4 thứ chữ này, chữ Phạn là thứ chữ được bổ sung dần cả về ngữ pháp và kiểu chữ. Người có công
trong việc hoàn chỉnh hệ thống ngữ pháp của chữ Phạn, tu chỉnh kiểu chữ của nó là Panini (thế kỷ V TCN),
từ đó chữ Phạn được sử dụng phổ biến ở Ấn Độ cho đến thế kỷ X.
Người ta thường chia chữ Phạn thành ba loại: chữ Phạn cổ xưa hay chữ Phạn thời Vêđa, chữ Phạn sử thi
và chữ Phạn cổ điển. Chữ Phạn cổ xưa được sử dụng trong các kinh Vêđa trong khoảng thiên niên kỷ II
TCN. Đó là một ngôn ngữ dựa trên một phương ngữ ở vùng Tây Bắc Ấn Độ, còn mang nhiều nét sơ khai.
Từ thế kỉ IV TCN, các nhà ngữ pháp Ấn Độ, đặc biệt là Panini là người có công hoàn chỉnh chữ Phạn cả về
kiểu chữ và ngữ pháp, biến nó thành một ngôn ngữ có cấu trúc chặt chẽ, lôgic, trở thành chữ Phạn cổ điển
được dùng phổ biến trong thơ ca, kịch và truyện. Đến khoảng thế kỉ II SCN, nhà ngữ pháp Patanjali đã hoàn
chỉnh và phát triển chữ Phạn thêm một bước. Còn chữ Phạn sử thi thì đã được dùng chủ yếu trong các bộ
sử thi Mahabharata và Ramayana, tuy xuất hiện sau chữ Phạn thời Vêđa nhưng lại cổ hơn, bình dân hơn và
sinh động hơn chữ Phạn cổ điển. Sau đó, chữ Phạn trở thành chữ viết chính thức của Ấn Độ từ thế kỉ V
TCN đến thế kỷ X sau công nguyên. -
Từ thế kỷ X trở đi dần dần xuất hiện nhiều loại chữ viết khác nhau. Mỗi khu vực, mỗi vùng có một
thứ chữ viết riêng. Trong đó, chữ Hinđi được xây dựng trên cơ sở chữ Phạn là thứ chữ phổ biến ở Ấn Độ cho đến nay. -
Ngày nay ở Ấn Độ có 15 thứ tiếng chính được dùng phổ biến, chia làm 2 hệ thống:
+ ngữ hệ Aryan (khoảng gần 3/4 dân số Ấn Độ thuộc ngữ hệ này, gồm 11 thứ tiếng)
+ ngữ hệ Đraviđa (4 thứ tiếng)
Ngoài ra, đặc biệt ở Bắc Ấn dùng phổ biến tiếng Anh. Ấn Độ chưa có ngôn ngữ thống nhất toàn quốc. Cư
dân nói ngữ hệ Aryan sống ở miền Bắc, cư dân nói ngữ hệ Đraviđa sống ở miền Nam. Các ngôn ngữ khác
ngữ hệ thì hoàn toàn khác nhau, thậm chí cùng ngữ hệ cũng rất khác nhau. Vì thế, tính tách biệt giữa các
cộng đồng ngôn ngữ rất lớn. Ấn Độ là quốc gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ, đa văn hoá. Phạn ngữ, chữ Hinđi
như một cơ sở để thống nhất cộng đồng văn hoá Ấn Độ. 2. Văn học
Câu hỏi thảo luận: Hai bộ sử thi Mahabharata và Ramayana ra đời như thế nào, có điểm gì nổi bật về kết
cấu và nội dung? Giá trị về mặt văn học – nghệ thuật và lịch sử của hai bộ sử thi này như thế nào?
Nền văn học Ấn Độ rất phong phú, rất đặc sắc, giàu tính sáng tạo, thấm đậm tinh thần nhân văn, tinh thần Hinđu giáo.
Một số tác phẩm tiêu biểu:
a. Kinh Vêđa: là bộ kinh cầu nguyện nhưng đồng thời nó cũng là một tác phẩm văn học cổ xưa nhất của Ấn Độ. lOMoAR cPSD| 61155494 -
Vêđa bắt nguồn từ chữ “Vid” trong tiếng Phạn, nghĩa là “hiểu biết”, “tri thức”, “sự thông thái”, “uyên
bác”. Vêđa là “kho tri thức”. -
Người Ấn Độ cho rằng kinh Vêđa do thần thánh ban cho họ, thực tế nó là sáng tác tập thể của
người Ấn Độtrong một giai đoạn lịch sử rất lâu dài. -
Kinh Vêđa được sáng tác vào khoảng từ 1500 – 1000 năm TCN, lúc đầu được truyền miệng, sau
mới đượcghi chép lại. -
Cấu tạo: Vêđa có 4 tập là Rig Vêđa, Yajur Vêđa, Sama Vêđa, Atharva Vêđa.
+ Rig Vêđa: (ca tụng): bộ kinh tập hợp những bài thơ, bài ca, những mẩu chuyện ca ngợi thần linh.
Rig Vêđa (viết đầy đủ là Rig Vêđa Samhita, Sam: cùng nhau, hita: sắp xếp, sưu tập) là tri thức về các thánh
ca, ca tụng thần linh dưới dạng thi ca, vì “rig” có nghĩa là “tán ca”, Vêđa có nghĩa là tri thức.
+ Yajur Vêđa (Yajur Vêđa Samhita) (tế tự), Yajus nghĩa là “thần chú”: bộ kinh tập hợp những lễ nghi và cách
thức khấn vái thần thánh.
+ Sama Vêđa (Sama Vêđa Samhita) (hát có vần điệu, “saman” có nghĩa là “từ điệu”): là bộ kinh về các giai
điệu, ca chầu cầu nguyện thần linh trong lễ hiến tế.
+ Atharva Vêđa (thần chú, phép ma thuật) là bộ kinh tập hợp những lời khấn vái cầu xin có tính chất phù chú
ma thuật, tương truyền do đạo sĩ Atharva truyền lại.
Trong 4 bộ, Rig Vêđa gồm 1028 bài thơ là bộ ra đời sớm nhất và có giá trị văn học lớn nhất, ngày nay chỉ còn lại khoảng 10%.
Về mặt văn học, Rig Vêđa là một pho thần thoại đồ sộ và rất sinh động của người Aryan cổ xưa. Họ tôn thờ
nhiều hiện tượng tự nhiên: thần Surya (thần Mặt Trời), thần Usha (thần Rạng Đông), thần Sôma (thần Mặt
Trăng), thần Inđra (thần Sấm Sét), thần Anhi (thần Lửa), thần Mêru (thần Núi), thần tình yêu Kama, thần
Diêm Vương Yama, thần khổng lồ Purusa, thần Manu, thần Brahma, Vishnu, Siva (nhưng ba thần này chưa
có vai vế như sau này), thờ các á thần Ganđarva, Apsara (nghĩa là lượn trong nước).
Đánh giá về kinh Vêđa, Jawaharlal Neru đã viết: “Những bài Thánh ca Vêđa này đã được Rabindranath
Tagore miêu tả là một di chúc nên thơ về phản ứng tập thể của một dân tộc trước những điều kỳ diệu về nỗi
kinh hoàng của cuộc sống. Một dân tộc với sức sáng tạo mạnh mẽ và chất phác ở ngay buổi bình minh của
nền văn minh đã có được ý thức lý giải cái bí ẩn vô tận ẩn tàng trong cuộc sống. Lòng tin đơn giản của họ đã
quy định tính thần thánh cho mọi nhân tố và sức mạnh của thiên nhiên, nhưng đó là niềm tin dũng cảm và
đầy sung sướng, trong đó ý thức về sự huyền bí chỉ tạo cho cuộc sống say mê, chứ không làm cho nó trở
nên nặng nề với những trở ngại lòng tin của một giống người không phải chịu gánh nặng của việc nghiền
ngẫm tri thức về tính nhiều vẻ mâu thuẫn nhau của thế giới quan tuy lúc khác được soi sáng nhờ kinh
nghiệm trực giác”[4]
- Kế tiếp 4 tập Vêđa và có liên quan tới Vêđa còn có các tác phẩm Bramana (Phạn thư), Upanisát (sách
nghĩa sâu)…nhưng giá trị văn học không đáng kể, chủ yếu là những bài cầu nguyện, thần chú, những nghi thức cúng bái…
* Kinh Upanisad: là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của thánh kinh Vêđa. Upanisad được hiểu là
“áo nghĩa thư”, nghĩa là sách có ý nghĩa thâm sâu uyên áo, là những kinh bình chú, chú giải có tính chất triết
học – tôn giáo giải thích ý nghĩa triết lý sâu xa của Vêđa. Upanisad được coi là tác phẩm hoàn chỉnh của triết
học Ấn Độ, trong đó nêu lên nguyên lý vũ trụ, tinh thần sáng tạo vũ trụ, đấng tối cao Brahman, về bản chất
và ý nghĩa của đời sống tâm linh con người. lOMoAR cPSD| 61155494
Sự xuất hiện của Upanisad đánh dấu bước chuyển từ thế giới quan thần thoại tôn giáo sang tư duy triết học.
Trong khi các kinh Vêđa thiên về con đường thờ phụng, cầu xin sự phù hộ và ban phước lành của các đấng
thần linh, thì kinh Upanisad muốn khai phá con đường trí tuệ để lý giải những vấn đề về bản thể vũ trụ và
bản chất đời sống tâm linh của con người. Upanisad được giải nghĩa là “thị toạ”, “cận toạ” vì “upa” là gần,
“ni” là cung kính trang nghiêm, “shad” là “ngồi”. Theo nghĩa đó, Upanisad là lý giáo mà ông thầy truyền cho
các môn sinh thân tín khi họ cung kính ngồi dưới chân thầy. -
Thời gian xuất hiện: phần đông các học giả đều cho rằng từ thế kỷ VIII TCN đến thế kỷ VI công nguyên. -
Nội dung, mục đích căn bản của Upanisad là nhằm vạch ra nguyên lý tối cao tuyệt đối, bất diệt là
bản thể của vũ trụ vạn vật, lý giải về thực chất bản tính con người và mối quan hệ giữa đời sống tinh thần
con người với nguồn gốc bất diệt của vũ trụ, từ đó chỉ ra con đường, cách thức giải thoát con người ra khỏi
sự ràng buộc của thế giới sự vật hiện tượng hữu hình, hữu hạn.
Trả lời cho câu hỏi “Cái gì là thực tại đầu tiên tối cao duy nhất, là căn nguyên của tất cả mà khi nhận thức
được nó, người ta sẽ biết được tất cả vũ trụ”, và có thể giải thoát được linh hồn con người khỏi nỗi khổ cuộc
đời?. Upanisad đã đưa ra lời giải đáp rằng, đó là “tinh thần vũ trụ tối cao” Brahman. Brahman cũng chính là
átman (átman nghía là hơi thở, linh hồn). Brahman cũng chính là thực tại duy nhất, tuyệt đối, tối cao, vĩnh
viễn, vô hình, vô danh, vô sắc, là bản chất của tất cả, xâm nhập và bao trùm tất cả, ở ngoài giới hạn của không gian và thời gian.
Kinh Upanisad viết “Đầu tiên, nguyên thuỷ chỉ có một thực tại duy nhất không hai. Một số cho rằng nguyên
thuỷ, đầu tiên cái không tồn tại là duy nhất, chỉ duy nhất, không hai, và từ cái không tồn tại đó, tồn tại được
sinh ra”. Đó chính là Brahman. Brahman có nghĩa là toàn tri toàn năng, là nguyên lý cấu tạo nên và chi phối
vũ trụ, là nguyên nhân của hết thảy mọi sự sống. Nó là “cái do đó mọi vật sinh ra, cái nhờ đó mọi vật sinh
trưởng, cái trong đó mọi vật nhập vào sau khi tiêu tan, cái đó chính là Brahman”.
“Brahman là nguồn sáng của mọi ánh sáng”, “Brahman là cái ở đằng trước, Brahman là cái ở đằng sau,
Brahman là cái ở bên phải, Brahman là cái ở bên trái, Brahman ở chót vót trên cao và ở tận cùng đáy sâu.
Brahman là cái vĩ đại nhất”. “Brahman không lớn, không nhỏ, không ngắn, không dài, không rực rỡ, không tối
tăm, không mùi, không vị, không mắt, không tai, không tiếng nói, không hơi thở, không trong, không ngoài,
không bị tiêu huỷ”. “Brahman là cái vô hình và không thể nắm bắt, không thể lấy gì tỷ nghĩ và không màu
sắc, lại không mắt không tai, không chân nhưng hằng hữu như cái không có chỗ nào không thấu khắp cả và
là cái không thể sờ đụng, cái không ở đâu không có nó…như tử cung sinh vạn vật”.
“Cái ấy, cái mà con người ta không thể dùng lời mà diễn tả được, nhưng nhờ đó mà có ngôn ngữ. Chính cái
ấy là Brahman chứ không phải là Đấng mà con người thờ phụng ở cõi đời này. Cái ấy, cái mà con người ta
không thể lấy phàm thức mà tưởng nghĩ được, nhưng nhờ đó mà có trí tuệ. Chính cái ấy là Brahman chứ
không phải là Đấng mà con người thờ phụng ở cõi đời này.
Cái ấy, cái mà người ta không thể lấy mắt mà nhìn thấy được nhưng nhờ đó mà mắt thấy được tất cả. Chính
cái ấy là Brahman chứ không phải là Đấng con người thờ phụng trên cõi đời này. Cái ấy, cái mà con người ta
không thể lấy tai mà nghe được, nhưng nhờ nó mà tai nghe được mọi sự. Chính cái ấy là Brahman chứ
không phải là Đấng con người thờ phụng trên cõi đời này. Cái ấy chẳng thở được bằng hơi thở nhưng nhờ đó
mà đời sống biết hít thở sinh khí. Chính cái ấy là Brahman, chứ không phải là Đấng con người thờ phụng
trên cõi đời này”.
Brahman xuất phát từ căn tự “brah”, có nghĩa là vươn lên, ý muốn nói tới một thực tại tuyệt đối tối cao vĩnh hằng và bất diệt.
“Tinh thần vũ trụ tối cao Brahman” biểu hiện trong con người và chúng sinh là linh hồn cá nhân bất diệt
Átman. Cơ thể, nhục thể chỉ là nơi hiện thân của linh hồn bất tử. Nói một cách khác, linh hồn cá nhân bất
diệt chỉ là một bộ phận của cái toàn bộ, tuyệt đối tối cao Brahman, như tia nắng của ánh mặt trời. Brahman
là cái ngã vũ trụ đại đồng thì Átman là cái ngã cá nhân. Nhưng vì Átman chỉ là một bộ phận của Brahman lOMoAR cPSD| 61155494
trong sự vật, hiện tượng, cho nên về bản chất Brahman và Átman là một. Chúng chỉ khác nhau về hình thức
thể hiện mà thôi. Brahman chỉ có một, còn Átman thì rất nhiều. lOMoAR cPSD| 61155494
“Tinh thần vũ trụ tối cao” Brahman tựa như đại dương mênh mông, còn linh hồn cá nhân bất diệt hay tự thể
Átman của con người và hết thảy chúng sinh tựa như những đợt sóng của biển cả. Những đợt sóng đó có
hàng muôn triệu và mỗi con sóng tựa hồ như có một cá tính riêng của mình, nhưng thực chất đều là nước
của đại dương mênh mông cả.
Do linh hồn bất tử được thể hiện trong thể xác con người nên người ta lầm tưởng rằng linh hồn cá biệt là cái
khác với “linh hồn vũ trụ tối cao”, là cái của ta, do ta. Những tình cảm, ý chí, dục vọng, những hành động của
thể xác nhằm thoả mãn mọi ham muốn của con người trong đời sống trần tục đã che lấp bản tính chân thật
của mình, gây nên những hậu quả giam hãm, ràng buộc, linh hồn bất tử đầu thai vào hết thân xác này đến
thân xác khác với các hình thức khác nhau, từ kiếp này sang kiếp khác gọi là luân hồi (samsara). Muốn giải
thoát linh hồn bất tử khỏi vòng nghiệp báo luân hồi, đưa linh hồn cá biệt trở về đồng nhất với linh hồn tối
cao, đưa cái “tiểu ngã” đồng nhất với cái “đại ngã”, con người phải toàn tâm toàn ý, dốc lòng tu luyện đạo
đức và tu luyện trí tuệ, nhận ra chân bản tính của mình và thực tướng của vũ trụ vạn vật, đạt tới giác ngộ và
giải thoát. Tu luyện đạo đức là hành động theo bổn phận tự nhiên, không tính toán vụ lợi, diệt mọi dục vọng,
tu luyện trí tuệ là thiền định, suy tư chiêm nghiệm nội tâm. b. Sử thi
Đồ sộ nhất là hai bộ sử thi Mahabharata và Ramayana, đều được truyền miệng, từ nửa đầu thiên kỷ I TCN,
sau đó được chép lại bằng khẩu ngữ, đến các thế kỷ đầu công nguyên thì được dịch ra tiếng Sanxkrít.
- Mahabharata (Những chiến công vĩ đại của dòng họ Bharata) là bộ sử thi lớn nhất của người Ấn, cũng là
bộ sử thi vĩ đại nhất của nhân loại còn lại đến ngày nay, phản ánh cuộc nội chiến giữa các vương quốc của
người Aryan mới lập ra ở Ấn Độ vào nửa đầu thiên niên kỷ I TCN. Tuy nhiên, chủ đề chiến tranh chỉ chiếm
khoảng 1/4 độ dài tác phẩm, 3/4 còn lại phản ánh mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội, tư tưởng, tôn giáo Ấn Độ.
Vì vậy, Mahabharata được coi là pho Bách khoa toàn thư về Ấn Độ. Người Ấn Độ thường tự hào cho rằng:
“Cái gì không có trong Mahabharata thì cũng không có ở bất cứ nơi nào trên đất Ấn Độ”.
Theo các nhà nghiên cứu thì Mahabharata là một tác phẩm được ra đời do tập thể các tác giả dân gian Ấn
Độ sáng tác và được bổ sung trong nhiều thế kỷ (từ thế kỷ V TCN đến thế kỷ V sau CN). Toàn bộ tác phẩm
gồm 110.000 câu thơ đôi, chia làm 18 quyển, dài gấp 7 lần tổng số của cả hai bộ sử thi Iliát và Ôđixê của Hy
Lạp cổ đại cộng lại.
Mahabharata có ảnh hưởng sâu rộng trên thế giới, đặc biệt ở Đông Nam Á. Ở Inđônêxia, khoảng từ thế kỉ
VII đến thế kỷ XIII, xuất hiện nhiều truyện được phóng tác từ cốt truyện Mahabharata như: “Trận đánh vĩ đại
của con cháu Bharata” bằng tiếng Giava cổ, “Đám cưới của Acgiuna”. Ở Campuchia, vào thời kì Ăngko,
nhiều cảnh trong Mahabharata được thể hiện bằng phù điêu trên mặt đền Ăngko và các đền đài khác.
Tóm tắt nội dung: như tên gọi của nó là “Những chiến công vĩ đại của dòng họ Bharata”, tác phẩm kể về
cuộc chiến lịch sử giữa hai dòng họ Kôrava và Panđava, đều là dòng dõi Bharata. (Nhiều nhà nghiên cứu
cho rằng, cốt lõi lịch sử của Mahabharata là cuộc chiến tranh bộ tộc ở lưu vực sông Hằng trong khoảng giữa
thiên niên kỷ II TCN, trong quá trình tạo dựng những nhà nước đầu tiên của người Aryan.
Họ Bharata có hai người con trai là Đritarastra bị mù từ bé và em là Panđu. Người anh có 100 người con trai
được gọi chung là anh em Kôrava, người con cả là Đuriôđana. Trong khi đó, Panđu chỉ có 5 người con trai
gọi chung là anh em Panđava. Năm anh em nhà Panđava đều là con cái các vị thần: Yuđisthiva (con thần
Dharma), Arjuna (con Thần Inđra), Bhima (con Thần Vayu), Nakala và Sahađêva (hai người con sinh đôi của
Thần Surya). Vua cha chỉ định cho Panđu trị vì đất nước. Thế rồi sau khi Panđu qua đời, ngôi báu lại được
truyền cho vị vua mù Đritarastra.
Ghen tức trước tài nghệ của anh em Panđava, anh em Kôrava, đặc biệt là người anh cả Đuriôđana đã nhiều
lần mưu giết hại những người anh em họ của mình như đánh thuốc độc, đốt nhà…Nhưng tất cả âm mưu của
anh em nhà Kôrava đều thất bại. Anh em Panđava và bà mẹ Kunti đã theo một con đường hầm trốn vào
rừng giả dạng là những ẩn sĩ. Một năm sau, tại hội kén chồng cho công chúa Đrôpađi ở xứ Pansala, Arjuna
đã chiến thắng và nàng Đrôpađi xinh đẹp trở thành vợ chung của năm anh em Panđava. lOMoAR cPSD| 61155494 lOMoAR cPSD| 61155494
Khi biết anh em Panđava còn sống và là đồng minh của Vương quốc Yađava hùng mạnh, ông vua mù cho
mời họ về và chia cho họ nửa đất nước. Không hài lòng với việc chia đôi vương quốc, Đuriôđana thách
Yuđisthiva đánh xúc xắc với người chú của mình là Sakuni - một kẻ chuyên cờ bạc bịp. Yuđisthiva đã bị thua
phải lần lượt gán từ tài sản, vương quốc, anh em đến bản thân và ngay cả nàng Đrôpađi xinh đẹp. Trước sự
phản đối của mọi người và sự can thiệp của ông vua mù, một thoả thuận đã được chấp nhận: năm anh em
Panđava cùng vợ phải vào rừng sống 13 năm ẩn tích. Nếu để lộ tung tích họ sẽ phải bị đày tiếp thêm một
thời hạn 13 năm nữa.
Hết thời hạn lưu đày, anh em Panđava đã nhiều lần thương thuyết với Kôrava để đòi lại nửa vương quốc của
mình, nhưng Đuriôđana không chấp nhận. Không còn cách nào khác, anh em nhà Panđava phải chuẩn bị
cho cuộc chiến. Do có nhiều bạn bè là các vua chúa, anh em Panđava đã tập hợp được một đạo quân đông
đảo và hùng mạnh. Anh em Kôrava cũng ráo riết chuẩn bị cho cuộc chiến. Hầu như tất cả các vua chúa Ấn
Độ đều đứng về bên này hoặc bên kia và họ cùng kéo quân tới cánh đồng Kurusêtra để giao chiến. Cuộc đại
chiến vĩ đại kéo dài 18 ngày, cho tới khi tất cả các thủ lĩnh, trừ năm anh em Panđava và người bạn Krishna
của họ là sống sót, còn tất cả đều thiệt mạng trên chiến trường. Sau cuộc chiến đẫm máu ở cánh đồng
Kurusêtra, Yuđisthiva lên ngôi và cùng các em mình trị vì vương quốc. Sau nhiều năm cai trị đất nước trong
hoà bình, Yuđisthiva nhường ngôi cho Parikshita, cháu của Arjuna. Năm anh em nhà Panđava cùng người
vợ chung sau đó đi đến chân núi Himalaya, từ đó họ lên Thần Núi Mêru để nhập vào thế giới của các vị thần linh.
Sử thi Mahabharata không chỉ là tác phẩm văn học vĩ đại nhất của Ấn Độ và của nhân loại mà còn là một tác
phẩm có giá trị như bộ Đại Bách khoa toàn thư về triết học, chính trị, đạo đức, đời sống, xã hội và văn hoá
của đất nước Ấn Độ truyền thống. [5]
- Ramayana (kỳ tích của Hoàng tử Rama): bộ sử thi lớn thứ hai của Ấn Độ, sau Mahabharata (về dung
lượng chỉ bằng 1/4 số trang của Mahabharata). Có truyền thuyết cho rằng, tác giả cả Ramayana là nhà hiền
triết Valmiki sống vào khoảng thế kỷ VI – V TCN.
Nội dung ca ngợi chiến công của hoàng tử Rama trong việc tiêu diệt loài quỷ dữ Ravana để cứu vợ mình là
nàng Sita, ca ngợi mối tình rất đẹp nhưng đầy trắc trở giữa Rama và Sita. Đồng thời tác phẩm cũng phản
ánh quá trình chinh phục Ấn Độ của người Aryan. Tuy Ramayana có dung lượng ít hơn Mahabharata nhưng
sự cuốn hút và sức ảnh hưởng của nó rất lớn lao, nó đã làm say mê biết bao thế hệ người Ấn Độ. Những
nhân vật chủ yếu của bộ sử thi này là Rama và Sita đã trở thành những nhân vật kiểu mẫu mà người Ấn Độ
mong muốn: một ông vua sáng suốt, một người phụ nữ xinh đẹp, chung thuỷ.
Ramayana có ảnh hưởng lớn cả ở Đông Nam Á, mỗi nước có một phiên bản Ramayana đã được bản địa
hoá (Ramakiên ở Thái Lan, Ramayana ở Inđônêxia, kịch Rama ở Mianma, trường ca Riêm Kê ở
Cămpuchia, trường ca Phạlắc Phạlam và Xỉnxay ở Lào, Ramayana của Chămpa, Dạ Thoa Vương của Việt Nam. Tóm tắt nội dung:
Vua nước Kôsala là Đasaratha có 4 người con trai do 3 bà vợ sinh ra, những người con trai đó có tên là
Rama, Bharata, Lacsmana và Satruyna. Cả 4 anh em cùng tới triều đình vua Janaka tham gia cuộc thi bắn
cung kén chồng cho công chúa. Rama chiến thắng và giành được nàng Sita làm vợ. Rama cùng vợ là nàng
Sita sống hạnh phúc trong hoàng cung của vua cha và được vua cha tuyên bố chọn làm Hoàng thái tử. Thế
rồi, bà vợ hai Kailây sức nhớ tới lời hứa của chồng sẽ làm bất cứ điều gì bà muốn và buộc vua Đasaratha
phải đày Rama vào rừng và đưa con trai của mình là Bharata lên làm Hoàng Thái tử. Vua Đasaratha và
Bharata không muốn điều đó nhưng Rama tự nguyện đi lưu đày cùng vợ và em trai Lacsmana để Vua cha
thực hiện được lời hứa của mình. Khi vua Đasaratha qua đời, Bharata lên ngôi nhưng chàng luôn coi mình
chỉ là người trợ giúp cho Rama mà thôi. Trong khi đó, Rama, Sita và Lacsmana sống cuộc đời khổ hạnh
trong khu rừng Đanđaca. Tại đây chàng đã giết nhiều quỷ dữ đến quấy phá cuộc sống của các nhà tu hành.
Quỷ Ravana – vua xứ Lanka quyết định trả thù cho bầy tôi của mình đã bị Rama giết chết. Một hôm, khi
Rama và Lacsmana đi săn, quỷ Ravana biến thành một nhà tu hành tới bắt Sita đem về Lanka. Hai anh em
bổ đi tìm nàng Sita ở khắp nơi. Được sự giúp đỡ của chúa khỉ Sugriva và đặc biệt là viên tướng khỉ
Hanuman, Rama đã biết được vợ mình bị ai bắt và hiện đang ở đâu. Đoàn quân khỉ khổng lồ giúp Rama bắc lOMoAR cPSD| 61155494 lOMoAR cPSD| 61155494
một chiếc cầu đá qua biển tới Lanka. Sau một trận chiến đẫm máu, Rama, Lacsmana cùng liên quân của
mình đã chiến thắng Ravana và giải phóng được Sita.
Mặc dù trong suốt thời gian bị giam cầm, quỷ Ravana không cách nào mua chuộc hoặc đụng được đến nàng
Sita, thế nhưng sau bao gian lao vất vả mới cứu được nàng Sita, Rama lại nghi ngờ lòng chung thuỷ của vợ.
Để chứng minh cho sự trong trắng của mình, nàng Sita đã tự lên dàn hoả thiêu. Song Thần Lửa Agni không
tiếp nhận nàng vì nàng vô tội. Sau thử thách đó, Rama mới yên tâm và cùng vợ trở về đô thành Agôđhia.
Bharata trả lại ngôi báu cho anh mình và Rama lên ngôi vua trị vì đất nước.
Đoạn cuối kể tiếp về cuộc đời bất hạnh của nàng Sita sau khi trở về Agôđhia. Tuy đã chứng minh được sự
trong trắng của mình, nàng Sita vẫn bị dân chúng nghi ngờ và ghét bỏ. Mặc dầu rất tin vợ, nhưng để được
lòng dân, Rama buộc phải đuổi nàng Sita ra khỏi hoàng cung. Người vợ chung thuỷ đó tìm đến ở nhờ nhà
một nhà đạo sĩ Vanmiki. Và tại đây, nàng sinh ra hai người con trai song sinh là Kusa và Lava. Năm tháng
qua đi, trong một buổi tế ngựa, đạo sĩ Vanmiki đưa hai chàng thiếu niên tới trước mọi người đọc bản trường
ca Ramayana do mình sáng tác. Rama nhận ra hai con trai của mình và cho người đi đón vợ về. Lúc này, tuy
đã được minh oan, nhưng vì quá buồn phiền, nàng Sita kêu cầu mẹ mình là nữ Thần Đất đón nàng trở về
lòng đất. Đất nứt ra và nàng Sita biến mất. Sau sự việc đó, Rama cũng trở về trời và hiện nguyên hình là thần Vishnu.[6]
c. Sơkuntơla (tác giả là Kaliđasa)
Kaliđasa là nhà thơ, nhà soạn kịch lớn nhất thời Gúpta (thế kỷ V). Vở kịch Sơkuntơla được coi là một kiệt
tác của văn học Ấn Độ thời trung đại. Kaliđasa cũng được coi là một trong những nhà văn hoá lớn nhất của
Ấn Độ, là niềm tự hào của văn học Ấn Độ.
Kaliđasa là nhà thơ vĩ đại nhất viết bằng tiếng Phạn của Ấn Độ. Song người ta lại biết quá ít về cuộc đời của
con người vĩ đại này. Theo các truyền thuyết, ông vốn thuộc dòng dõi đẳng cấp Bàlamôn. Ông mồ côi cha
mẹ và được một người chăn cừu nuôi. Lớn lên, ông ít được học và có phần hơi đần, nhưng lại rất đẹp trai.
Một nàng công chúa mê Kaliđasa và xin vua cha cho lấy làm chồng. Vì yêu chồng, nàng công chúa cầu xin
nữ thần Kali truyền cho chàng trí tuệ. Và thế là từ đó chàng trở nên thông minh và có tên là Kaliđasa (kẻ nô lệ của nữ thần Kali).
Tuy những tài liệu còn lại quá ít ỏi, nhưng các nhà nghiên cứu biết chắc là Kaliđasa sống và sáng tác vào
giai đoạn trị vì của hai vị vua Sanđra Gupta II và Kumara Gúpta I (thế kỷ IV – V) - thời đại hoàng kim của văn
hoá Ấn Độ cổ đại. Kaliđasa được coi là chiếc vương miện của làng thơ trong đội ngũ chín nhà văn hoá lớn
hay thường gọi là chín viên ngọc quý của vua Sanđra Gúpta. Ông đã viết rất nhiều tác phẩm kịch và thơ, có
những tác phẩm trở thành bất hủ như: ba vở kịch: “Malavika và Agnimita”, “Phần thưởng của lòng dũng
cảm” và “Lại nhận ra được nàng Sakuntala” (gọi tắt là Sakuntala), các bài thơ: “Sự ra đời của Thần chiến
tranh”, “Dòng dõi Ragu”, “Đám mây sứ giả”, “Thời gian của năm”. Các nhà nghiên cứu coi Kaliđasa là
Shakespeare cảu Ấn Độ và xếp ông vào hàng ngũ các kịch gia vĩ đạo nhất của nhân loại. Vở kịch nổi tiếng nhất là Sakuntala.
Vở kịch mở đầu bằng cảnh đi săn của Vua Đusianta. Ngài đuổi theo con hươu và lạc đến am thất của ẩn sĩ
Kanva. Lúc đó, vị ẩn sĩ không có nhà, vì thế đức Vua đã gặp và đem lòng yêu người con gái nuôi có sắc đẹp
mê hồn của ẩn sĩ là nàng Sakuntala. Nhà vua và Sakuntala đã tỏ tình với nhau. Sau ít ngày chung sống
trước khi về triều, nhà Vua tặng Sakuntala một chiếc nhẫn và hứa sẽ tìm lại nàng.
Vì vô ý phạm một thất thố với một vị đạo sĩ ghé qua nhà, nên Sakuntala đã bị ông ta trừng phạt bằng câu
chú khiến nhà vua quên hẳn nàng. Lúc đã mang thai, Sakuntala lên kinh đô tìm gặp nhà Vua. Trên đường,
nàng vô ý đánh rơi chiếc nhẫn xuống sông. Vì đã bị nguyền, nên khi gặp nhau, nhà Vua không nhận ra nàng
và từ chối nàng. Thương Sakuntala, một tiên nữ đưa nàng về trời. Tại thiên giới nàng sinh hạ được một con
trai và đặt tên cho con là Bharata (vị thuỷ tổ của các anh hùng trong sử thi Mahabharata). Một thời gian sau,
một người đánh cá bắt được chiếc nhẫn của Sakuntala trong bụng một con cá và nộp lên cho nhà vua
Đusianta. Nhìn thấy chiếc nhẫn, nhà Vua bỗng trở lại bình thường và nhớ lại tất cả. Lập tức, Ngài cho đi tìm
Sakuntala nhưng không thấy. Thông cảm với vị Vua đau khổ, các thần đưa Ngài lên đỉnh núi Himalaya. Tại
đây, nhà Vua đã gặp được con trai và lại được đoàn tụ cùng Sakuntala. lOMoAR cPSD| 61155494
Đại thi hào Goeth đã ca tụng vở kịch này: “Hương thơm của mùa xuân, quả chín của mùa thu, tất cả những
gì làm lòng người náo nức mê say và nuôi dưỡng con người và tất cả trời đất bao la đều đã thu tóm lại trong
một tiếng duy nhất: Sakuntala”
Kaliđasa, một tài năng thi ca của đất nước Ấn Độ đã góp vào kho tàng của nhân loại những viên ngọc quý giá. 1. Tôn giáo Seminar:
Vấn đề 1:Quá trình ra đời và phát triển của đạo Bàlamôn – Hinđu. Giáo lý và đặc điểm cơ bản của tôn giáo này.
Vấn đề 2: Quá trình ra đời và phát triển của đạo Phật. Giáo lý, giáo luật của Phật giáo. Tìm hiểu ảnh
hưởng của Phật giáo ở Đông Nam Á. lOMoAR cPSD| 61155494
Ấn Độ là một đất nước của tôn giáo, là quê hương của hai trong số những tôn giáo lớn nhất thế giới như đạo
Hinđu, đạo Phật, ngoài ra còn có các đạo Jain, đạo Xích. Từ mấy ngàn năm nay, tôn giáo vẫn giữ một vai trò
lớn trong đời sống tâm linh của con người Ấn Độ.
a. Đạo Bà la môn - đạo Hinđu
* Đạo Bà la môn -
Thời gian xuất hiện: đạo Bàlamôn xuất hiện rất sớm ở Ấn Độ, có thể nói là sớm nhất, ngay từ đầu
thiên niên kỷ I TCN, khi người Aryan đã làm chủ phần lớn bán đảo Ấn Độ và bắt đầu xây dựng những quốc
gia đầu tiên. Đạo này hình thành trên cơ sở của đạo Vêđa. Đạo Bàlamôn là tôn giáo của xã hội có giai cấp
và nhà nước đầu tiên do người Aryan lập ra ở Ấn Độ. -
Đạo Bàlamôn hình thành trên cơ sở hỗn hợp nhiều tín ngưỡng nguyên thuỷ, là một tôn giáo không
có người sáng lập, không có tổ chức giáo hội chặt chẽ…Giáo lý căn bản của đạo Bàlamôn được trình bày trong bộ kinh Vêđa. - Nội dung:
+ Đạo Bàlamôn là tôn giáo đa thần, trong đó tôn thờ thần Brahma là Đấng Tối cao, là đấng đã sáng tạo ra vũ
trụ, vạn vật và loài người. Phò tá Brahma có thần Vishnu (thần Bảo vệ), thần Siva (thần phá hoại).
+ Đạo Bàlamôn tuyên truyền thuyết luân hồi và nghiệp báo. Đạo giải thích rằng linh hồn của mỗi người là
một bộ phận của Brahma, mà Brahma thì tồn tại vĩnh hằng nên khi con người chết đi, linh hồn sẽ còn mãi và
luân hồi trong nhiều kiếp sinh vật khác nhau. Cuộc sống con người ở kiếp sau phụ thuộc vào chính hành
động, lời nói, suy nghĩ của họ ở kiếp trước. Nếu kiếp trước là người ngoan đạo, sùng kính các thần, thực
hiện đúng các nguyên tắc của đạo Bàlamôn thì ở kiếp sau, thân phận sẽ được ở đẳng cấp cao hơn, ngược
lại sẽ rơi xuống địa vị thấp kém hơn, thậm chí biến thành súc vật. Vì thế sống ở kiếp này, con người phải
phấn đấu để được đầu thai ở kiếp sau tốt hơn. Giai cấp thống trị Ấn Độ đã lợi dụng điều này để ngăn chặn
sự phản kháng của quần chúng nhân dân.
+ Đạo Bàlamôn cho rằng xã hội phân chia thành các đẳng cấp là do ý chí của thần thánh nên nó tồn tại vĩnh
viễn. Do đó, đạo Bàlamôn trở thành công cụ bảo vệ chế độ đẳng cấp bất bình đẳng trong xã hội Ấn Độ.
Trước khi đạo Bàlamôn ra đời, chế độ đẳng cấp đã xuất hiện trong quá trình tan rã của chế độ công xã
nguyên thủy của người Arya, toàn bộ cư dân chia thành 4 đẳng cấp:
Bàlamôn là đẳng cấp của những người làm nghề tôn giáo lOMoAR cPSD| 61155494
Ksatơrya là đẳng cấp của các chiến binh
Vaisya là đẳng cấp của những người bình dân làm nghề chăn nuôi, làm ruộng, thủ công, buôn bán.
Suđra là đẳng cấp của những người cùng khổ, vốn là con cháu của các bộ lạc bại trận, không có tư liệu sản xuất.
Nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của chế độ đẳng cấp là do sự phân hoá giai cấp, sự phân công về nghề
nghiệp, sự phân biệt về bộ tộc. Nhưng các tăng lữ Bàlamôn thì dùng uy lực của thần linh để giải thích hiện
tượng xã hội ấy. Luật Manu chép: “Vì sự phồn vinh của cả thế giới, từ mồm, tay, đùi và bàn chân của mình,
ngài (thần Brahma) đã tạo nên Braman, Ksatơrya, Vaisya và Suđra”
Trong 4 đẳng cấp ấy, đẳng cấp Bàlamôn có địa vị cao nhất. Luật Manu viết: “Do sinh ra từ bộ phận cao quý
nhất của thân thể Brahma, do sinh ra sớm nhất, do hiểu biết Vêđa, Bàlamôn có quyền là chúa tể của tất cả các tạo vật ấy”
Ngoài Bàlamôn, chỉ có hai đẳng cấp Ksatơrya và Vaisya mới được trở thành tín đồ của đạo Bàlamôn và cả
ba đẳng cấp trên được quan niệm là những người sinh hai lần, còn Suđra không được dự các buổi lễ tôn
giáo và được quan niệm là những người sinh một lần.
+ Chú trọng tế lễ thần thánh rất xa xỉ. Mỗi cuộc tế lễ gọi là lễ hiến sinh, giết nhiều trâu bò, lễ lớn giết hàng
trăm trâu bò. Lễ càng lớn thì càng được thần thánh phù hộ nhiều. Lúc đầu còn giết tù binh để tế lễ, về sau chỉ giết trâu bò. -
Đạo Bàlamôn đã đươc truyền bá rộng rãi ở Ấn Độ trong nhiều thế kỷ. Đến khoảng thế kỷ VI TCN, ở
Ấn Độ xuất hiện một tôn giáo mới gọi là đạo Phật, đạo Bàlamôn bị suy thoái trong một thời gian dài. -
Sau này, đạo Bàlamôn cải biến tiếp thu một số tín điều của tôn giáo khác: bổ sung thêm một số kinh
kệ, thần thánh, thay đổi một số lễ nghi, trở thành Ấn Độ giáo (Hinđu giáo)
* Hinđu giáo (Ấn Độ giáo)
Thế kỷ VII, đạo Phật suy sụp ở Ấn Độ, đạo Bàlamôn dần dần phục hưng, đến khoảng thế kỷ VIII, IX, đạo
Bàlamôn đã bổ sung thêm nhiều yếu tố mới về đối tượng sùng bái, về kinh điển, về nghi thức tế lễ…từ đó,
đạo Bàlamôn được gọi là đạo Hinđu (hay Ấn Độ giáo)
Đạo Hinđu theo nguyên nghĩa có nghĩa là “tôn giáo của người Ấn Độ”, khái niệm đó lần đầu tiên được nhà
sử học Bácthơ đưa ra trong cuốn “Tôn giáo Ấn Độ”, xuất bản năm 1879 [7]. (Câu hỏi gợi mở cho SV: Tại sao
lại gọi là Ấn Độ giáo?) -
Giáo lý đạo Hinđu về cơ bản không có gì khác so với giáo lý của đạo Bàlamôn. Những quan điểm
cốt lõi về số phận của con người vẫn được giữ nguyên vẹn (luân hồi, nghiệp báo, giải thoát). Theo những
quan niệm đó, số phận của con người ở kiếp này phụ thuộc vào chính hành động của con người ở kiếp
trước. Con người có thể được giải thoát khi mà linh hồn của cá nhân người đó hoà nhập vào linh hồn của vũ
trụ nhưng điều này rất khó xảy ra. -
Về thần linh: Hinđu giáo không chỉ tiếp nhận những vị thần linh của đạo Bàlamôn mà còn sáng tạo ra
rất nhiều thần khác. Vì thế, Hinđu giáo là tôn giáo đa thần, trong đó có 3 thần được tôn thờ hơn cả: Brama,
Visnu, Siva nhưng địa vị của Brama ngày càng mờ nhạt trong khi đó vai trò của Visnu và Siva ngày càng
được đề cao, tạo thành những giáo phái riêng biệt. Đạo Hinđu chia thành hai phái là phái thờ thần Visnu và
phái thờ thần Siva (trong thời kỳ này đạo Hinđu có điều kiện phát triển xuống miền Nam Ấn Độ, rồi từ đó lan
rộng ra các vùng Đông Nam Á, đặc biệt là giáo phái Siva). lOMoAR cPSD| 61155494
Mỗi buổi sáng, tín đồ phái Visnu dùng son vẽ lên trán, còn tín đồ phái Siva thì bôi lên lông mày một vạch
ngang bằng than phân bò cái hoặc đeo ở tay, ở cổ cái linga. Tuy nhiên hai phái đó vẫn đoàn kết với nhau và
có khi cùng cúng tế trong một ngôi đền. -
Kinh thánh của đạo Hinđu ngoài các tập Vêđa và Upanisad còn có Mahabharata, Bhagavad Gita, Ramayana và Purana. -
Về tục lệ, cũng như đạo Bàlamôn, đạo Hinđu cũng hết sức coi trọng sự phân chia đẳng cấp. Lúc
này, chế độ đẳng cấp cũ Vácna đã chuyển biến sang Casta, xuất hiện nhiều đẳng cấp mới gọi là jati.
Hinđu giáo là tôn giáo chủ yếu ở Ấn Độ. Tôn giáo này còn truyền bá sang một số nước Đông Nam Á, đặc
biệt là Cămpuchia từ thời Ăngko trở về trước. Ngày nay, ở Ấn Độ có khoảng 84% tổng số cư dân theo đạo
Hinđu. Ngoài Ấn Độ, đa số dân Nêpan và đảo Bali ở Inđônêxia, gần 20% dân số Bănglađét và Xri Lanca vẫn theo đạo Hinđu.
=> Một số điểm cần lưu ý: -
Đạo Hinđu là một tôn giáo trục của Ấn Độ, chiếm tới 83% dân số (theo số liệu thống kê năm 1971).
Tuy nhiên mức độ lan toả sang các nước khác để trở thành tôn giáo thế giới lại không mạnh mẽ như đạo Phật hay đạo Islam. -
Đạo Hinđu không phải là một tôn giáo nguyên dạng thuần khiết mà là tổng hợp của những hệ thống
tôn giáo – tín ngưỡng - triết học. Đó là một tôn giáo không có người sáng lập, không có giáo chủ, giáo điều
và một tổ chức nhà thờ trung ương chặt chẽ. Mặt khác, đạo Hinđu ở một dạng thức uyển chuyển thường
xuyên biến thái, tiếp thu và đồng hoá ảnh hưởng của những tôn giáo khác.
* Một số khái niệm cơ bản trong giáo lý của đạo Hinđu -
Átman – Brahman: là khái niệm gốc, cơ bản nhất của toàn bộ giáo lý đạo Hinđu.
Brahman là cái bản ngã của vũ trụ, cái tuyệt đối, dưới khía cạnh tôn giáo là yếu tố thần linh được bao chứa
và thấm nhuần trong vạn vật. Còn Átman là cái bản ngã cá thể, cái đặc thù trong từng sự vật, con người, là
một phần của Brahman, tồn tại một cách cụ thể và đồng nhất.
Các kinh sách Hindu đã đưa ra rất nhiều thí dụ và hình ảnh minh hoạ về cặp phạm trù cơ bản Átman,
Brahman: hình ảnh một bầy ong có đến ngàn vạn con khác nhau, nhưng cùng tiết ra mật ngọt, hình ảnh trăm
ngàn con sóng khác nhau nhưng cuối cùng đều đổ về biển cả. Kinh Upanisad kể lại sự đối đáp giữa hai thầy
trò nói về một cây vả khổng lồ đã lớn lên từ một hạt vả nhỏ li ti. Đó chính là cách giải thích thô sơ và thần bí
về tính thống nhất và đa dạng của vật chất. -
Dharma: đạo Hinđu cho rằng tất cả mọi sự sinh thành, biến hoá của vạn vật trong tự nhiên và xã hội
đều bị chi phối bởi một nguyên lý, một trật tự, một quy luật khách quan ngoài ý muốn của con người. Trong
thời kỳ Vêđa, đó là khái niệm rita (quy luật vận động) chủ yếu áp dụng trong thế giới tự nhiên, sau đó chuyển
thành khái niệm dharma (đạo, pháp) mở rộng ra các lĩnh vực xã hội và tư tưởng. Đạo Hinđu kêu gọi con
người ta trong cuộc sống phải hành động tuân theo dharma - tức là dựa trên bổn phận thiêng liêng không vụ lợi. -
Kácman và samsara (nghiệp báo, luân hồi). Nếu khái niệm Átman, Brahman làm nền tảng cho vũ trụ
quan của đạo Hinđu thì học thuyết Kácman – samsara là nền tảng của nhân sinh quan đạo Hinđu và của
một số tôn giáo khác như đạo Phật, đạo Jaina.
Theo học thuyết samsara, con người không thật sự chết đi mà chỉ chuyển hoá sang một kiếp sống khác, một
sự tái sinh trong vòng luân hồi. Đời người là một chuỗi mắt xích dài vô tận mà mỗi kiếp sống hiện hữu chỉ là một mắt xích mà thôi. lOMoAR cPSD| 61155494
Học thuyết Kácman (nghiệp báo) gắn liền với samsara. Theo đó bất cứ hành động nào của con người cũng
đều được trả giá. Tất cả những niềm vui và nỗi khổ ở cõi đời này đều là kết quả của những hành động đã
được thực hiện từ kiếp trước, cũng như bất kỳ mọi hành động nào được thực hiện ở kiếp này sẽ là những
nguyên nhân của những niềm vui hoặc những nỗi khổ trong kiếp sau. Nghiệp báo là toàn năng, ngoài ý
muốn của con người, theo đuổi con người như “con bê chạy theo để nhận ra mẹ nó trong hàng trăm ngàn con bò khác nhau” -
Moksa: Vậy thì con người liệu có thể tránh được luân hồi - nghiệp báo hay không? Đạo Hinđu chủ
trương rằng, mặc dù điều đó rất khó tránh, nhưng mặt khác nếu con người biết dốc tâm gắng sức thì vẫn có
thể đến được cõi giải thoát, nghĩa là cõi bất tử, bất tái sinh.
Tác phẩm Bhagavad Ghita đã chỉ ra 3 con đường để con người có thể đạt đến cõi giải thoát:
+ con đường hành động (Kácman mácga) khuyên con người ta phải hăng hái làm tròn bổn phận ở đời (con
đường phổ biến cho đại đa số quần chúng nhân dân)
+ con đường trí thức (jna-na mác ga): dành riêng cho một số ít người biết cách tu hành khổ hạnh, giũ bỏ
được mọi cám dỗ vật chất để chuyên tâm vào việc rèn luyện tinh thần.
+ con đường sùng tín (bhăk-ti mácga) mở rộng cho tất cả mọi hạng người khác nhau không phân biệt trình
độ học thức, giàu nghèo hay sang hèn. Theo đạo Hinđu, đó là con đường trực tiếp nhất để con người vươn
đến cõi tự siêu thoát. -
Bhăk-ti (sùng tín): tập trung nhất trong cuốn Bhagavad Ghita: hạt nhân của khái niệm là lòng sùng
tín, tin yêu hết lòng của tín đồ đối với một vị thần mà mình lựa chọn.
Phát triển thành một phong trào tôn giáo cải cách tiến bộ thời trung đại, được sự ủng hộ của các nhà văn
hoá lớn Ấn Độ như Ramanuja (XI), Kabia (XV), Tulsi-Das (XVI)…
Cũng như tinh thần chung của các phong trào tôn giáo cải cách khác, khuynh hướng bhăk-ti muốn từ chối
một tôn giáo-tăng lữ, thay vào đó là một tôn giáo-trái tim. Về lễ thức, phong trào bhăk-ti chủ trương đơn giản
hoá tối đa các hình thức cúng tế. Chỉ cần một chiếc lá, một nhành hoa, trái cây hay một chén nước trong,
không cần đến các lễ hiến tế, đền đài hay một ngẫu tượng nào, nhưng với lòng thành kính tuyệt đối, tín đồ
cũng sẽ được phù hộ.
b. Đạo Phật
Quê hương của đạo Phật là đất nước Ấn Độ cổ đại, ra đời ở một miền đất nhỏ ở vùng biên giới đông bắc Ấn
Độ, từ trên 2600 năm nay, đạo Phật đã truyền bá khắp đất nước này và đi tới hầu hết các nước vùng Đông
Á và Đông Nam Á, thu hút hàng trăm triệu tín đồ, trở thành một trong những tôn giáo lớn nhất của loài người.
Tuy nhiên như một nghịch lý, trong khi đạo Phật có những ảnh hưởng rất sau rộng ở bên ngoài Ấn Độ, thì
tại quê hương của mình, vị trí của đạo Phật ngày càng thu hẹp trước sự mở rộng của đạo Hinđu. Theo
thống kê hiện nay, 83% dân số Ấn Độ theo đạo Hinđu còn theo đạo Phật thì chưa đầy 1% dân số [8] * Sự ra
đời của đạo Phật -
Vào thế kỷ VI TCN, đạo Phật - một trong những tôn giáo lớn nhất của nhân loại, đã ra đời ở Ấn Độ.
Người sáng lập ra tôn giáo này là Sitđạtta Gôtama, hiệu là Sakia Muni (Thích Ca Mâuni) – Sakia: tên thị tộc,
bộ lạc Phật xuất hiện, Muni: Thánh → Sakia Muni: Thánh của tộc Sakia.
Đạo Phật ra đời ở Đông Bắc Ấn Độ, ở chân núi Himalaya, (nay là Nêpan). lOMoAR cPSD| 61155494 -
Đạo Phật ra đời trong hoàn cảnh đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp Vácna đang thịnh hành, những
mâu thuẫn trong lòng xã hội rất sâu sắc, đó là mâu thuẫn giữa quảng đại quần chúng nhân dân với hai đẳng cấp lOMoAR cPSD| 61155494
trên và mâu thuẫn giữa quý tộc Ksatơrya với Bàlamôn. Vì lúc này, đẳng cấp Ksatơrya đã nắm chính quyền,
có thế lực về kinh tế, chính trị, nhưng địa vị xã hội vẫn thấp hơn Bàlamôn nên họ đấu tranh chống lại đẳng cấp Bàlamôn.
- Niên đại của đạo Phật có nhiều ý kiến, trong đó có 3 ý kiến cơ bản: 563 – 483 TCN 560 – 480 TCN 624 – 544 TCN
Theo truyền thuyết, đức Phật Thích Ca là người sáng lập ra đạo Phật, tuy nhiên giáo lý nhà Phật cho rằng
Thích Ca không phải là đức Phật duy nhất. Theo tiếng Phạn, Buddha có nghĩa là “Đấng giác ngộ”. Phật
Thích Ca chỉ là một trong những đấng giác ngộ đó, nhưng là một đức Phật chí tôn có thực trong lịch sử.
Cuộc đời của Phật Thích Ca chủ yếu được biết đến qua một số kinh truyện và Phật thoại, trong đó, bên
ngoài cái nhân lõi lịch sử có thực là một vầng hào quang của những truyền thuyết và huyền thoại.
Phật Thích Ca tên thật là Sitđatta Gôtama, sinh năm 563 TCN, là hoàng tử của bộ tộc Xakya (Thích Ca), có
thủ đô là thành Kapilavatstu (ngày nay ở biên giới giáp Nêpan, đông bắc Ấn Độ). Mẹ Sítđatta là hoàng hậu
Maya xinh đẹp, hiền dịu và thông minh. Sítđạtta thuộc dòng dõi đẳng cấp vũ sĩ Ksatơrya.
Truyền thuyết cho rằng đức Phật đã có tới 547 tiền kiếp trước khi đầu thai làm con vua xứ Sakya. Kiếp gần
nhất của đức Phật là một con voi trắng 6 ngà. Vẫn theo truyền thuyết, hoàng hậu Maya nằm mơ thấy con voi
trắng đó đi vào mạn sườn phải của mình, rồi có thai, sinh ra hoàng tử cũng từ mạn sườn đó.
Từ nhỏ, Sítđạtta đã có một trí tuệ thiên bẩm phi thường với một lòng thương cảm sâu xa đối với chúng sinh.
Lần đầu ra đồng dự lễ cày tịch điền của vua, nhìn thấy trên luống cày lật đất có nhiều sâu bọ bị giết hại, vị
hoàng tử thiếu niên đó đã ngồi thiền định dưới một gốc cây, suy tư về nỗi khổ của muôn loài.
Để Sítđatta có thể quên đi nỗi u sầu nhân thế, vua cha đã kén nàng công chúa kiều diễm Yasôđara làm vợ
hoàng tử, cho hoàng tử sống trong những cung điện lộng lẫy xa hoa, luôn có tiệc tùng múa hát. Dù thế, cuộc
đời nhung lụa đó cũng không cám dỗ nổi chàng trai trẻ ưu tư, Sítđạtta vẫn không nguôi nghĩ về những nỗi
bất hạnh của con người.
Vào một đêm tối trời, Sítđatta quyết định từ biệt cha mẹ, vợ con, lặng lẽ rời kinh đô trong bộ áo tu hành giản
dị, lúc đó ông vừa tròn 29 tuổi.
Gôtama đã miệt mài đi khắp các nẻo đường tìm nơi tu luyện. Ngài đã gặp những đạo sĩ Bàlamôn, cùng họ tu
hành ép xác trong suốt 6 năm trời ròng rã, thân thể khô hép gầy mòn, nhưng vẫn không tìm được chân lý
cứu nhân độ thế. Gôtama bèn từ bỏ lối sống khổ hạnh, trở lại sinh hoạt ăn uống bình thường.
Một buổi trưa, sau khi uống một bát sữa do một thiếu nữ chăn bò dâng lên, Gôtama xuống sông tắm rửa rồi
đến ngồi thiền định dưới một gốc bồ đề, tự hứa lần này vẫn không tìm thấy đạo thì quyết không đứng dậy nữa.
Theo truyền thuyết, ngay đêm đầu tiên ma quỷ đã kéo đến, khi thì hiện thành lửa khói mây mù để doạ nạt,
khi thì hoá ra những cô gái đẹp lẳng lơ quyến rũ. Những âm mưu đó đều vô hiệu. Gôtama đã chiến thắng
mọi thử thách và cuối cùng vào tảng sáng đã tìm ra được chân lý “tứ diệu đế”, thấy được nguyên nhân sâu
xa và phương cách diệt trừ nỗi khổ trần thế, trở thành đức Phật. Lúc đó ngài vừa 35 tuổi.
Phật Thích Ca còn ngồi thiền định 48 ngày nữa, giác ngộ mọi lẽ uyên thâm về đạo, rồi đến ngoại ô thành
Vanarasi giảng bài thuyết pháp đầu tiên cho 5 người bạn cũ của mình tại khu vườn Lộc Dã. Năm người này
đã trở thành những đồ đệ đầu tiên của Phật Thích Ca.