



















Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI BỘ MÔN TRIẾT HỌC ĐỀ TÀI
Cơ sở lý luận của bài học tôn trọng hiện thực khách quan. Đảng ta đã vận dụng
bài học này trong thực tiễn đối mới như thế nào? NHÓM: 6 LỚP HP: 2273MLNP0221
CHUYÊN NGÀNH: Quản Trị Kinh Doanh
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ TT Họ và tên Nhiệm vụ
Nhóm tự Đánh giá của xếp loại giảng viên
1Nguyễn Duy Quang Vỹ Nhóm trưởng+Tổng hợp word 2Trần Linh Trang Làm nội dung 1.1- 1.2 3Hoàng Thị Yến Làm nội dung 1.3- 1.4 4Đỗ Hoàng Trung Viết mở đầu-kết luận. 5Nguyễn Đăng Trung Phản Biện 6Mai Quang Nhật Thuyết Trình Trường 7Hà Quang Tuấn Thuyết Trình 8Nguyễn Đình Tuệ Làm nội dung 2.1- 2.3 9Đinh Thanh Tùng Làm nội dung 2.4- 2.5 10 Phạm Tường Vy Làm powerpoint 11 Nguyễn Khánh Linh Làm powerpoint MỤC LỤC
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………….. 1
NỘI DUNG……………………………………………………………………2
I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA BÀI HỌC TÔN TRỌNG HIỆN THỰC KHÁCH
QUAN………………………………………………………………………
1.1, Hoàn cảnh ra đời định nghĩa vật chất 1.2, Khái niệm vật chất
1.3 Nội dung phạm trù vật chất
1.4. Ý nghĩa định nghĩa vật chất của Lênin
II : ĐẢNG TA ĐÃ VẬN DÙNG BÀI HỌC NÀY TRONG THỰC TIỄN ĐỔI MỚI NHƯ THẾ NÀO?
2.1: Vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan phát huy tính năng động chủ quan
ở việt nam giai đoạn trước năm 1986
2.2 Vận dụng nguyên tắc tôn trong khách quan,phát huy tính năng động chủ quan ở việt nam hiện nay
2.2.1 Quan điểm của Đảng về vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan
2.2.2. Vận dung nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năg động chủ quan
trên lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam hiện nay
2.2.3. Vận dung nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ
quan trên lĩnh vực chính trị ở Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN………………………………………………………………………
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………… MỞ ĐẦU
Ngay từ khi ra đời, Đảng cộng sản Việt Nam đã lấy chủ nghĩa Mác Lênin làm nền
tảng tư tưởng và vận dụng tư tưởng lý luận đó vào thực tế cách mạng nước ta để đề
ra đường lối, chủ trương, chính sách qua từng thời kỳ. Một trong những vận dụng
cơ sở lý luận của triết học Mác Lênin vào công cuộc đổi mới đất nước mà Đảng đã
khởi xướng bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ IV là nguyên tắc khách quan, một
nguyên tắc được rút ra từ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Vănkiện
Đại hội Đảng lần IX đã viết : “Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và
hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy
luật khách quan là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng”. Việc tìm
hiểu quy luật khách quan trên cơ sở mối quan hệ giữa vật chất và ý thức để vận
dụng đúng đắn quy luật này vào thực tiễn là vấn đề hết sức cần thiết đối với Đảng
viên. Vậy ở bài tiểu luận này tôi xin được phân tích đề tài SỰ VẬN DỤNG BÀI
HỌC TÔN TRỌNG HIỆN THỰC KHÁCH QUAN CỦA ĐẢNG TA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI. NỘI DUNG
I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA BÀI HỌC TÔN TRỌNG HIỆN THỰC KHÁCH QUAN
a. Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước C.Mác về
phạm trù vật chất
Các nhà triết học duy tâm, cả chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa
duy tâm chủ quan, từ cổ đại đến hiện đại tuy buộc phải thừa nhận sự tồn tại của các
sự vật, hiện tượng của thế giới nhưng lại phủ nhận đặc trưng “ tự thân tồn tại ’’
của chúng. Chủ nghĩa duy tâm khách quan thừa nhận sự tồn tại hiện thực của giới
tự nhiên, nhưng lại cho rằng nguồn gốc của nó là do “sự tha hóa” của “tinh thần thế
giới”. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng đặc trưng cơ bản nhất của mọi sự vật,
hiện tượng là sự tồn tại lệ thuộc vào chủ quan, tức là một hình thức tồn tại khác của ý thức.
=> Chủ nghĩa duy tâm quan niệm bản chất của thế giới, cơ sở đầu tiên của
mọi tồn tại là bản nguyên tinh thần, còn vật chất là sản phẩm của bản nguyên tinh
thần ấy. Chủ nghĩa duy tâm phủ nhận vật chất với tính cách là thực tại khách quan,
cho rằng thế giới vật chất là tạo vật của thượng đế, hoặc là “sự phức hợp” những
cảm giác của con người.
- Thời cổ đại, đặc biệt là ở Hy Lạp- La Mã, Trung Quốc, Ấn Độ đã xuất hiện
chủ nghĩa duy vật với quan niệm chất phác về giới tự nhiên, về vật chất. Nhìn
chung, các nhà duy vật cổ đại đã đồng nhất vật chất với những dạng tồn tại cụ thể
và xem chúng là khởi nguyên của thế giới, tức là quy vật chất về những vật thể hữu
hình, cảm tính đang tồn tại ở thế giới bên ngoài.
Thí dụ: nước (quan niệm của Talet); không khí (quan niệm Anaximen); lửa
(quan niệm của Hêraclit); nguyên tử (quan niệm của Đêmôcrit); đất, nước, lửa, gió
(quan niệm của triết học Ấn Độ); kim, mộc, thủy, hỏa, thổ (quan niệm trong
Thuyết ngũ hành ở Trung Quốc).
Thí dụ như: nóng và lạnh, khô và ướt, sinh ra và chết đi,..
=> Đây là một cố gắng muốn thoát ly cách nhìn trực quan về vật chất, muốn
tìm một bản thân sâu sắc hơn đang ẩn giấu phía sau các hiện tượng cảm tính bề
ngoài các sự vật. Tuy nhiên, ông vẫn chưa vượt khỏi hạn chế của các quan niệm
trước đó về vật chất.
- Đóng góp cho sự phát triển phạm trù vật chất không thể thiếu hai nhà triết
học Hy Lạp cổ đại là Leucippus (Lơxip, khoảng 500-440 trước Công nguyên) và
Democritos (Đêmôcrít) (khoảng 460-370 trước Công nguyên). Cả hai ông đều cho
rằng vật chất là nguyên tử. Nguyên tử theo họ là những hạt nhỏ nhất, không thể
phân chia, không khác nhau về chất, tồn tại vĩnh viễn và sự phong phú của chúng
về hình dạng, tư thế, trật tự sắp xếp quy định tính muôn vẻ của vạn vật. Theo
thuyết nguyên tử thì vật chất theo nghĩa bao quát nhất, chung nhất không đồng
nghĩa với những vật thể mà con người có thể cảm nhận được một cách trực tiếp,
mà là một lớp các phần tử hữu hình rộng rãi nằm sâu trong mỗi sự vật, hiện tượng.
=> quan niệm này không những thể hiện một bước tiến khá xa của các nhà triết
học duy vật trong quá trình tìm kiếm một định nghĩa đúng đắn về vật chất mà còn
có ý nghĩa như một dự báo khoa học tài tình của con người về cấu trúc của thế giới vật chất nói chung.
Bắt đầu từ thời kỳ phục hưng ( thế kỷ XV ), phương Tây đã có sự bứt phá so
với phương Đông ở chỗ khoa học thực nghiệm ra đời, đặc biệt là sự phát triển
mạnh của cơ học, công nghiệp. Đến thế kỷ XVII - XVIII, chủ nghĩa duy vật mang
hình thức chủ nghĩa duy vật siêu hình, máy móc. Thuyết nguyên tử vẫn được các
nhà triết học và khoa học tự nhiên thời kỳ phục hưng và cận đại (thế kỷ XV-XVIII)
như Galilei, Bacon, Hobbes, Spinoza, Newton.,,, Đặc biệt, những thành công kỳ
diệu của Newton trong vật lý học cổ điển (nghiên cứu cấu tạo và thuộc tính của các
vật thể vật chất vĩ mô- bắt đầu tính từ nguyên tử trở lên) và việc khoa học vật lý
thực nghiệm chứng minh đượ3c sự tồn tại thực sự của nguyên tử càng làm cho
quan niệm trên được củng cố thêm.
Do chưa thoát khỏi phương pháp tư duy siêu hình nên nhìn chung các nhà
triết học duy vật thời kỳ cận đại đã không đưa ra được những khái quát triết học
đúng đắn. Các nhà duy vật đồng nhất vật chất với nguyên tử và khối lượng. Với
quan niệm vật chất là một hay một số chất tự có, đầu tiên, sản sinh ra vũ trụ chứng
tỏ các nhà duy vật trước C.Mác đã đồng nhất vật chất với vật thể. Hạn chế này tất
yếu dẫn đến quan điểm duy vật nửa vời, không triệt để. Họ chỉ duy vật khi giải
quyết những vấn đề của tự nhiên nhưng lại duy tâm thần bí khi giải thích các hiện tượng xã hội.
b. Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
và sự phá sản của các quan điểm duy vật siêu hình về vật chất.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, một loạt phát minh khoa học làm cho các
quan điểm duy vật siêu hình rơi vào khủng hoảng. Nhiều phát minh trong vật lý
học thời kỳ này đã làm đảo lộn quan niệm cũ về vật chất, đó là: Rơnghen (Đức)
phát hiện ra tia X (1895); A.H.Beccơren (1852-1908), nhà vật lý học Pháp và
M.Quyri (1867-1934), phát minh ra hiện tượng phóng xạ trong chất uranium
(1896); S.J.Tômxơn phát hiện ra điện tử (1897); nhà bác học Đức Kaufman phát
hiện ra sự thay đổi khối lượng điện tử; thuyết tương đối hẹp của A.Anhxtanh...
=> Các phát minh khoa học này gây ra cuộc khủng hoảng về thế giới quan
trong vật lý học. Không ít nhà khoa học và triết học đứng trên lập trường duy vật
tự phát, siêu hình đã hoang mang, dao động hoài nghi tính đúng đắn của chủ nghĩa
duy vật. Họ cho rằng, nguyên tử không phải là phần tử nhỏ nhất, mà có thể phân
chia, tan rã, bị “mất đi”. Do đó, Vật chất cũng có thể biến mất, có hiện tượng
không có khối lượng cơ học, hạt chuyển thành trường, cũng có nghĩa là vật chất
chỉ còn là năng lượng, là sóng phi vật chất; quy luật cơ học không còn tác dụng gì
trong thế giới vật chất “kỳ lạ”, thế giới tồn tại không có quy luật, mọi khoa học trở
thành thừa, một số các nhà vật lý học giải thích một cách duy tâm các hiện tượng
vật lý và cho rằng vật chất tiêu tan. Trong hoàn cảnh đó, các nhà triết học duy tâm
chủ quan lợi dụng cơ hội này để khẳng định bản chất “phi vật chất” của thế giới,
khẳng định vai trò của các lực lượng siêu nhiên đối với quá trình sáng tạo ra thế
giới, cơ sở tồn tại của chủ nghĩa duy vật không còn nữa. Tình hình đó đòi hỏi
V.I.Lênin phải đấu tranh bảo vệ và phát triển chủ nghĩa duy vật. 2. Định nghĩa
Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”,
V.I.Lênin đưa ra định nghĩa vật chất kinh điển:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
3. Nội dung định nghĩa vật chất của Lênin
- Vật chất là một phạm trù triết học
Theo Lênin , vật chất là 1 phạm trù triết học , thì nó khác với vật chất trong
khoa học tự nhiên và trong đời sống hàng ngày.Vật chất trong khoa học tự nhiên ,
trong đời sống hàng ngày là các dạng vật chất cụ thể , tồn tại hữu hình , hữu hạn ;
có sinh ra có mất đi , chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác . Chúng bao gồm vật
chất dưới dạng hạt , trường , trong tự nhiên , xã hội , dưới dạng vĩ mô , vi mô rất phong phú đa dạng .
Vật chất với tính cách là 1 phạm trù triết học tức là vật chất đã được khái
quát từ tất cả các sinh vật cụ thể . Do đó , nó tồn tại vô cùng vô tận , không có khởi
đầu , không có kết thúc , không được sinh ra , không bị mất đi ; đây là phạm trù
rộng nhất , vì thế không thể quy nó vào các vật cụ thể để hiểu nó .
- Vật chất là cải tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc
vào ý thức , bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được
Nói cách khác, tính trừu tượng của phạm trù vật chất bắt nguồn từ cơ sở hiện
thực, do đó, không tách rời tính hiện thực cụ thể của nó. Nói đến vật chất là nói
đến tất cả những gì đã và đang hiện hữu thực sự bên ngoài ý thức của con người.
Vật chất là hiện thực chứ không phải hư vô và hiện thực này mang tính khách quan
chứ không phải hiện thực chủ quan. Đây cũng chính là cái “phạm vi hết sức hạn
chế” mà ở đó, theo V.I.Lenin, sự đối lập giữa vật chất và ý thức là tuyệt đối. Tuyệt
đối hóa tính trừu tượng của phạm trù này sẽ không thấy vật chất, sẽ rơi vào quan
điểm duy tâm . Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa tính hiện thực cụ thể của phạm trù này
sẽ đồng nhất vật chất với vật thể, và đó là thực chất quan điểm của chủ nghĩa duy
vật trước C.Mác về vấn đề này. Như vậy, mọi sự vật, hiện tượng từ vi mô đến vĩ
mô, từ những cái đã biết đến những cái chưa biết, từ những sự vật “giản đơn nhất”
đến những hiện tượng vô cùng “kỳ lạ”, dù tồn tại trong tự nhiên hay trong xã hội
cũng đều là những đối tượng tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người,
nghĩa là đều thuộc phạm trù vật chất, đều là các dạng cụ thể của vật chất. Xã hội
loài người cũng là một dạng tồn tại đặc biệt của vật chất. Theo V.I.Lenin, trong đời
sống xã hội thì “khách quan không phải theo ý nghĩa là một xã hội những sinh vật
có ý thức, những con người, có thể tồn tại và phát triển không phụ thuộc vào sự tồn
tại của những sinh vật có ý thức, mà khách quan theo ý nghĩa là tồn tại xã hội
không phụ thuộc vào ý thức xã hội của con người”.
=> Điều này cho ta nhận thấy rằng vật chất tổn tại độc lập với ý thức . Ý
thức của con người không quyết định sự tồn tại của vật chất cho dù con người
có nhận thức được vật chất đỏ có tồn tại hay không . Trong thực tế cuộc sống
con người , ý thức giúp con người cảm nhận được sự tồn tại của vật chất và từ
đó đưa ra những quan niệm đúng đắn hơn trong hoạt động sống của mình .
Những vật chất mà con người đang cảm nhận được chính là những cái đã có sẵn
và nó tồn tại một cách khách quan .
Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi giản tiếp hoặc trực tiếp
tác động lên giác quan của con người .
Trái với quan niệm “khách quan” mang tính chất duy tâm về sự tồn tại của
vật chất, V.I.Lenin khẳng định rằng, vật chất luôn biểu hiện đặc tính hiên jthuwcj
khách quan của mình thông qua sự tồn tại không lệ thuộc vào ý thức của các sự
vật, hiện tượng cụ thể, tức là luôn biểu hiện sự tồn tại hiện thực của mình dưới
dạng các thực thể. các thực thể này do những đặc tính bản thể luận vốn có của nó,
nên khi trực tiếp hoặc gián tiếp tác động vào các giác quan đem lại cho con người những cảm giác.
=>Khi con người cảm nhận được sự tồn tại của vật chất có nghĩa là khi đó
một trong những giác quan của con người cảm nhận được sự tồn tại về hình dáng ,
kích thước , màu sắc , âm thanh ... của vật chất . Chính những giác quan này tạo
cho con người có cảm giác khác nhau khi nhìn thấy những dạng vật chất khác nhau .
Cảm giác , tư duy , ý thức chỉ là sự phản ảnh của vật chất .
Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Trong thế giới ấy, theo quy
luật vốn có của nó mà đến một thời điểm nhất định sẽ cùng một lúc tồn tại hai hiện
tượng- hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần. Các hiện tượng vật chất luôn
tồn tại khách quan, không lệ thuộc vào hiện tượng tinh thần. Còn các hiện tượng
tinh thần (cảm giác, tư duy, ý thức,..) lại luôn luôn có nguồn gốc từ các hiện tượng
vật chất và những gì có được trong hiện tượng tinh thần ấy chẳng qua chỉ được
chép lại, chụp lại, là bản sao của các sự vật, hiện tuongj đang tồn tại với tư cách là
hiện thực khách quan. Như vật, cảm giác là cơ sở duy nhất của mọi sự hiểu biết,
song bản thân nó lại không ngừng chép lại, chụp lại, phản ánh hiện thực khách
quan, nên về nguyên tác con người có thể nhận thức được thế giới vật chất. Trong
thế giới vật chất, không có gì là không thể biết, chỉ có những cái đã biết và những
cái chưa biết, do hạn chế của con người trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Cùng với sự phát triển của khoa học, các giác quan của con người ngày càng được
nối dài, giới hạn nhận thức của các thời đại bị vượt qua, bị mất đi chứ không phải
vật chất mất đi như những người duy tâm quan niệm.
=>Trong thế giới hiện tại , con người cảm nhận mọi thứ bằng các giác quan
và đồng thời vật chất là cái " được cảm giác của chúng ta chép lại , chụp lại , phản
ánh " . V.ILênin muốn nhấn mạnh rằng bằng những phương thức nhận thức khác
nhau ( chép lại , chụp lại , phản ánh ... ) con người có thể nhận thức được thế giới
vật chất . Từ cảm giác đến từ duy hay cao hơn nữa là nhận thức thi vật chất vẫn là
yếu tố trung gian không thể thiếu. 4. Ý nghĩa
Với những nội dung cơ bản như trên định nghĩa vật chất của V. I. Lênin có nhiều ý nghĩa to lớn .
Khi khẳng định vật chất là " thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác " , " tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác " . V.I.Lênin đã thừa
nhận rằng , trong nhận thức luận , vật chất là cái có trước, là tính thứ nhất ,
là nguồn gốc khách quan của cảm giác (ý thức), còn cảm giác (ý thức) là cái
có sau, là tính thứ hai, là cái phụ thuộc vào vật chất. Đó cũng là câu trả lời
theo lập trường nhất nguyên duy vật của V.I.Lênin đối với mặt thứ nhất vấn
đề cơ bản của triết học.
- Khi khẳng định vật chất là cái " được cảm giác của chúng ta chép lại ,
chụp lại , phản ảnh " , V.I.Lênin muốn nhấn mạnh rằng bằng những phương
thức nhận thức khác nhau ( chép lại , chụp lại , phản ánh ... ) con người có
thể nhận thức được thế giới vật chất . Như vậy , định nghĩa vật chất của
V.I.Lênin đã bác bỏ quan điểm của chủ nghĩa duy tâm , bác bỏ thuyết không
thể biết , đã khắc phục được những hạn chế trong các quan điểm của chủ
nghĩa duy vật trước Mác về vật chất .
- Đồng thời , định nghĩa vật chất của V.I.Lênin còn có ý nghĩa định hưởng
đối với khoa học cụ thể trong việc tìm kiếm các dạng hoặc các hình thức mới
của vật thể trong thế giới .
- “Vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó” là khẳng
định hết sức quan trọng trong việc bác bỏ thuyết “bất khả tri”, đồng thời có
tác dụng khuyến khích các nhà khoa học đi sâu tìm hiểu thế giới vật chất,
góp phần làm giàu kho tàng tri thức nhân loại. Ngày nay khoa học tự nhiên,
khoa học xã hội và nhân văn ngày càng phát triển với những khám phá mới
mẻ khẳng định đúng đắn quan điểm duy vật biện chứng về vật chất, chứng tỏ
định nghĩa vật chất của V. I. Lênin vẫn giữ nguyên giá trị và do đó mà chủ
nghĩa duy vật biện chứng ngày càng khẳng định vai trò là hạt nhân của thế
giới quan, phương pháp luận đúng đắn của các khoa học hiện đại.
5. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
a. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
Ăngghen định nghĩa: “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là
một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hưữ của vật chất – thì
bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay
đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”
Theo quan niệm của Ăngghen: vận động không chỉ thuần túy là sự thay đổi vị trí
trong không gian mà là “mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ”, vận
động “là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật
chất” nên thông qua vận động mà các dạng cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại
cụ thể của mình; vận động của vật chất là tự thân vận động; và, sự tồn tại của vật
chất luôn gắn liền với vật chất.
Dựa trên thành tựu khoa học trong thời đại mình, Ăngghen đã phân chia vận động
thành năm hình thức cơ bản: vận động cơ học, vận động vật lý, vận động hóa học,
vận động sinh học và vận động xã hội.
Các hình thức vận động nói trên được sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao tương
ứng với trình độ kết cấu của vật chất. Các hình thức vận động khác nhau về chất
song chúng không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó:
hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp và bao
hàm trong nó những hình thức vận động thấp hơn. Trong sự tồn tại của mình, mỗi
sự vật có thể có nhiều hình thức vận động khác nhau song bản thân nó bao giờ
cũng được đặc trưng bởi hình thức vận động cao nhất mà nó có.
Bằng việc phân loại các hình thức vận động cơ bản, Ăngghen đã đặt cơ sở cho việc
phân loại, phân ngành, hợp ngành khoa học. tư tưởng về sự thống nhất nhưng khác
nhau về chất của các hình thức vận động cơ bản còn là cơ sở để chống lại khuynh
hướng đánh đồng các hình thức vận động hoặc quy hình thức vận động này vào
hình thức vận động khác trong quá trình nhận thức.
Khi khẳng định vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu
của vật chất; chủ nghĩa duy vật biện chứng cũ đã khẳng định vận động là vĩnh viễn.
Điều này không có nghĩa chủ nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận sự đứng im, cân
bằng; song đứng im, cân bằng chỉ là hiện tượng tương đối, tạm thời và thực chất
đứng im, cân bằng chỉ là một trạng thái đặc biệt của vận động.
b. Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất
Mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một quảng tính
nhất định và tồn tại trong những mối tương quan nhất định với những dạng vật chất
khác. Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là không gian. mặt khác, sự tồn tại
của sự vật còn được thể hiện ở quá trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp và
chuyển hóa,…Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian.
Ăngghen viết: “Các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian và thời gian;
tồn tại ngoài thời gian thì cũng hết sức vô lý như tồn tại ngoài không gian”. Như
vậy, vật chất, không gian, thời gian không tách rời nhau; không có vật chất tồn tại
ngoài không gian và thời gian; cũng không có không gian, thời gian tồn tại ngoài vật chất vận động.
Là những hình thức tồn tại của vật chất, không tách khỏi vật chất nên không gian,
thời gian có những tính chất chung như những tính chất của vật chất, đó là tính
khách quan, tính vĩnh cửu, tính vô tận và vô hạn.
Ngoài ra, không gian có thuộc tính ba chiều còn thời gian chỉ có một chiều. tính ba
chiều của không gian và một chiều của thời gian biểu hiện hình thức tồn tại về
quảng tính và quá trình diễn biến của vật chất vận động.
6. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Khuynh hướng chung của các trường phái duy vật là tìm nguồn gốc, bản chất sự
thống nhất của thế giới vật chất ngay trong bản thân nó. Trong thời cận đại cũng
như cả trong thời đại cổ đại, việc phủ nhận lực lượng siêu tự nhiên và việc thừa
nhận sự thống nhất vật chất của thế giới không tách rời nhau. Nếu như các nhà triết
học tự nhiên thời cổ đại và phục hưng đã luận chứng nguyên tắc thống nhất vật
chất của thế giới bằng cách quy cái siêu tự nhiên về cái tự nhiên, về cái có thể thụ
cảm cảm tính được, thì các nhà duy vật thời cận đại đã chứng minh sự thống nhất
vật chất của thế giới phù hợp với nhất nguyên luận duy vật bằng những thành tựu
của khoa học tự nhiên thời đó.
Bằng sự phát triển lâu dài của bản thân triết học và sự phát triển khoa học, chủ
nghĩa duy vật biện chứng chứng minh rằng, bản chất của thế giới là vật chất, thế
giới thống nhất ở tính vật chất. Điều đó được thể hiện ở những điểm cơ bản sau đây:
Một là, chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới vật
chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người.
Hai là, mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với nhau,
biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật
chất, hoặc có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của
những quy luật khách quan phổ biến của thế giới vật chất.
Ba là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không được sinh ra và
không bị mất đi. Trong thế giới không có gì khác ngoài những quá trình vật chất
đang biến đổi và chuyển hoá lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau.
Tính vật chất của thế giới đã được kiểm nghiệm bởi chính cuộc sống hiện thực của
con người và nó trở thành cơ sở cho cuộc sống và hoạt động của con người. Con
người không thể bằng ý thức mà sản sinh ra các đối tượng vật chất được. Con
người chỉ có cải biến thế giới vật chất theo những quy luật vốn có của nó.
II: ĐẢNG TA ĐÃ VẬN DỤNG BÀI HỌC NÀY VÀO TRONG THỰC TIỄN NHƯ THẾ NÀO?
2.1: Vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan phát huy tính năng động chủ quan
ở việt nam giai đoạn trước năm 1986:
Trước năm 1986, mô hình kinh tế của Việt Nam là mô hình kinh tế kế
hoạch hóa tập trung,quan liêu, bao cấp những đặc điểm cơ bản sau: Về
sở hữu, nền kinh tế Việt Nam trước năm 1986 là nền kinh tế dựa trên
chế độ sở hữu thuần nhất (công hữu về tư liệu sản xuất) với hai thành
phần kinh tế là kinh tế nhà nước (quốc doanh) và kinh tế tập thể . Các
thành phần kinh tế khác không được thừa nhận. Về cơ chế vận hành,
nền kinh tế Việt Nam trước năm 1986 vận hành theo cơ chế kế hoạch
hóa tập trung. Theo đó, mọi hoạt động từ sản xuất tới tiêu dùng đều do
nhà nước quyết định. Nhà nước định lượng cho sản xuất, định lượng
phân phối cho tiêu dùng. Kế hoạch hóa là công cụ trung tâm của nền
kinh tế. Khi nó đã được ban hành thì có tính chất bắt buộc thực hiện
vô điều kiện đối với tất cả các chủ thể trong nền kinh tế. Các quan hệ
thị trường không hề được coi trọng. Về quản lý nhà nước, nhà nước
trực tiếp quản lý mọi hàng hóa và giá cả trên thị trường có tổ chức.
Nhà nước quy định giá mua cũng như giá bán đối với hầu hết các loại
hàng hóa. Hàng hóa không được tự do lưu thông. Đất đai, vốn, sức lao
động không được coi là hàng hóa nên không được mua bán trên thị
trường.Nền kinh tế Việt Nam trước năm 1986 là nền kinh tế khép kín,
chỉ giao lưu buôn bán với các nước xã hội chủ nghĩa . Sở dĩ có sự tồn tại
của một nền kinh tế với những đặc điểm như vậy là do đặc điểm lịch sử đặc biệt
của Việt Nam trước năm 1975: vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa kháng chiến
thống nhất đất nước, giành độc lân tộc. Trong bối cảnh đó, một nền kinh tế như thế
đã góp phần tích cực vào việc huy động toàn bộ sức người sức của cho kháng
chiến. Mọi lợi ích cá nhân đều được gác lại vì mục tiêu cao cả độc lập dân tộc,
thống nhất đất nước. Phát triển công nghiệp hóa theo mô hình nền kinh tế khép
kín, hướng nội và thiên về phát triển công nghiệp nặng đồng thời dựa vào lợi thế
về lao động, tài nguyên đất đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa,
việc phân bổ nguồn lực để sản xuất chủ yếu bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung
quan liêu trong nền kinh tế thị trường. Đã áp đặt nóng vội, giản đơn các chính sách,
biện pháp hành chính để đẩy nhanh tiến độ cải tạo XHCN đối với các thành phần
kinh tế còn lại với mục tiêu không phải để huy động, phát triển, mà hạn chế, thu
hẹp, thậm chí xóa bỏ các thành phần kinh tế “phi XHCN”. Còn non trẻ chủ quan
duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội.
Dẫn đến thành phần phần kinh tế XHCN (quốc doanh và tập thể) tăng nhanh về số
lượng, quy mô và phạm vi hoạt động mở rộng nhưng hiệu quả kinh doanh thấp và
ngày càng giảm đáng thất vọng. Bên cạnh đó nhà nước ta đã biết cách tự chủ tư
duy và đường lối đối ngoại, coi trọng công tác nghiên cứu chiến lược, tổng kết
thực tiễn và dự báo quốc tế cũng là kinh nghiệm quý báu trong lãnh đạo hoạt động
đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam những năm 1976-1986. Nghiên cứu chiến
lược tổng kết thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Bởi lẽ, tổng kết thực
tiễn là để tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu, những bài học kinh nghiệm và các
giải pháp tích cực, hạn chế tiêu cực nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong hoạt động
đối ngoại. Nhà nước chủ động khắc phục đường lối đối ngoại “nhất biên đảo”, tích
cực xác lập các mối quan hệ quốc tế đa dạng hóa, đa phương hóa các mối quan hệ
quốc tế là vũ khí sắc bén giúp Việt Nam phá vỡ thế bao vây, cấm vận, đưa đất
nước hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới. Đồng thời, đem lại
những lợi ích kinh tế rõ ràng, nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế
đồng thời chủ động khắc phục đường lối đối ngoại “nhất biên đảo”, tích cực xác
lập các mối quan hệ quốc tế đa dạng, đa phương.Đa dạng hóa, đa phương hóa các
mối quan hệ quốc tế là vũ khí sắc bén giúp Việt Nam phá vỡ thế bao vây, cấm vận,
đưa đất nước hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới. Đồng thời, đem
lại những lợi ích kinh tế rõ ràng, nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế
đồng thời tăng cường mở rộng quan hệ với tất cả các nước trong khu vực và thế giới.
2.2 Vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan,phát huy tính năng động chủ quan ở việt nam hiện nay :
-Định hướng những giải pháp đồng bộ, khả thi theo nguyên tắc tôn trọng khách quan
phát huy tính năng động chủ quan
-Chuyển đổi từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang mô
hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
-Vận dụng bài học tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan, để
thực hiện được tư duy đổi mới đó, cần phải tổ chức lực lượng vật chất để thực hiện nó.
-Tôn trọng khách quan luôn gắn liền với việc phát huy tính năng động chủ quan.
-Chuyển đổi kinh tế sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là thực tế khách quan.
-Đảng ta thực hiện chủ trương khuyến khích phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, đa dạng về sở hữu.
-Thay vì nền kinh tế chỉ có hai thành phần như trước năm 1986 thì hiện
nay nền kinh tế bao gồm năm thành phần: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác xã,
kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể tiểu chủ.
-Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, tạo điều kiện
cho mọi thành phần kinh tế có cơ hội phát triển và bình đẳng trước pháp luật.
-Nhà nước đã ban hành, sửa đổi nhiều văn bản pháp luật.
-Bước đột phá quan trọng là việc nhà nước mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập
khẩu cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế kể cả các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài.
-Về cơ chế vận hành, chúng ta đã xóa bỏ cơ chế hành chính, tập trung, quan liêu,
bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
2.2.1 Quan điểm của Đảng về vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy
tính năng động chủ quan :
Ở Việt Nam, trong khoảng 10 năm sau khi thống nhất đất nước, bên cạnh những
thành tựu đạt được, chúng ta nôn nóng, tách rời hiện thực, vi phạm nhiều quy luật
khách quan trong đó quan trọng nhất là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nên đã vi phạm những sai lầm
trong việc xác định mục tiêu, xác định các bước xây dựng cơ sở vật chất – kỹ
thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế. Tình trạng khủng hoảng kinh tế
xã hội ngày càng trầm trọng xuất phát từ nguyên nhân chủ quan, bắt nguồn từ
những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương,chính sách lớn, sai lầm về
chủ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện. Đánh giá về mức độ sai lầm do chủ quan
duy ý chí của Đảng trong thời kỳ này, Đại hội lần thứ VI đã chỉ rõ Đảng đã “nóng
vội chạy theo nguyện vọng chủ quan”, “giản đơn hóa, muốn thực hiện nhiều mục
tiêu của CNXH trong điều kiện nước ta mới có chặng đường đầu tiên”. Do chủ
quan duy ý chí, trong nhận thức và hành động của Đảng trong giai đoạn này vi
phạm các quy luật khách quan, biểu hiện qua một số lĩnh vực cụ thể được Văn kiện
Đại hội Đảng lần VI đánh giá như sau: “chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần ở nước ta tồn tại trong một thời gian tương đối dài” nên “đã có
những biểu hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ
nghĩa”, “chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ
sản xuất với tính chất và trình độ sản xuất” nên “có lúc đẩy mạnh quá mức việc
xây dựng công nghiệp nặng mà không chú ý phát triển công nghiệp nhẹ”. Đại hội
lần thứ VI đã chỉ rõ Đảng quan vốn có của nó trong việc đề ra các chế định, chủ
trương, chính sách vào thực tế của công cuộc xây dựng đất nước ta. Với quan điểm
tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, từ sau Đại hội Đảng lần VI đến
nay, nhiều biện pháp khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí đã được thực hiện mà đầu
tiên là việc Đại hội VI đề ra đường lối đổi mới toàn diện. Ngoài ra, cũng do chủ
quan duy ý chí trong việc dùng kế hoạch pháp lệnh để chỉ huy toàn bộ nền kinh tế
đất nước, “duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp” – một
cơ chế “gắn liền với tư duy kinh tế dựa trên những quan niệm giản đơn về chủ
nghĩa xã hội, mang nặng tính chất chủ quan, duy ý chí”, “có nhiều chủ trương sai
trong việc cải cách giá cả tiền lương, tiền tệ” cùng với việc “bố trí cơ cấu kinh tế
trước hết là sản xuất và đầu tư thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh,
không tính đến điều kiện khả năng thực tế ” nên dẫn đến việc sản xuất chậm phát
triển, mâu thuẫn giữa cung và cầu ngày càng gay gắt do việc áp dụng những chính
sách, chủ trương trên đã vi phạm những quy luật khách quan của nền kinh tế sản
xuất hàng hóa (quy luật cung cầu quy luật giá trị,quy luật cạnh tranh, phá sản
…). Việc bỏ qua không thừa nhận và vận dụng những quy luật khách quan của
phương thức sản xuất, của nền kinh tế hàng hóa ... vào việc chế định các chủ
trương chính sách kinh tế làm cho nền kinh tế nước ta bị trì trệ khủng hoảng trầm
trọng. Trên cơ sở quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, rút
kinh nghiệm từ những sai lầm do chủ quan duy ý chí, từ Đại hội VI của Đảng
(1986) Đảng đã chỉ rõ bài học kinh nghiệm trong thực tiễn cách mạng ở nước ta là
muốn đảm bảo thành công thì phải vận dụng đúng nguyên tắc khách quan “Đảng
phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật là điều kiện
đảm bảo sự dẫn đầu của Đảng” (Văn kiện Đại hội Đảng lần V). Đây là sự thừa
nhận vai trò quyết định của vật chất và các quy luật khách quan vốn có của nó
trong việc đề ra các chế định, chủ trương, chính sách vào thực tế của công cuộc
xây dựng đất nước ta.Với quan điểm tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan, từ sau Đại hội Đảng lần VI đến nay, nhiều biện pháp khắc phục bệnh chủ
quan duy ý chí đã được thực hiện mà đầu tiên là việc Đại hội VI đề ra đường lối
đổi mới toàn diện. Đại hội VI xác định xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ
nghĩa là một công việc to lớn, không thể làm xong trong một thời gian ngắn, không
thể nóng vội làm trái quy luật. Văn kiện Đại hội xác định: "Nay phải sửa lại cho
đúng như sau: Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên
tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với những hình thức và bước đi
thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất, luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất".
Đại hội cũng phát hiện một vấn đề lớn có tính lý luận, hoàn toàn mới mẻ: "Kinh
nghiệm thực tiễn chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp
quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có
những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất". Trên cơ
sở đó, Đại hội xác định: "Nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời
kỳ quá độ".Trong cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư, tôn trọng nguyên tắc quan hệ
sản xuất phải phù hợp với lực lượng sản xuất, Đại hội VI đã xác định phải điều
chỉnh lại các cơ cấu này theo hướng "không bố trí xây dựng công nghiệp nặng vượt
quá điều kiện và khả năng thực tế", tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện
ba chương trình mục tiêu: sản xuất lương thực - thực phẩm, sản xuất hàng tiêu
dùng và sản xuất hàng xuất khẩu. Đây là những chương trình chẳng những đáp ứng
được nhu cầu bức xúc nhất lúc bấy giờ mà còn là điều kiện thúc đẩy sản xuất và
lưu thông hàng hóa, là cái gốc tạo ra sản phẩm hàng hóa. Về cơ chế mới quản lý
kinh tế, trước đây trong các văn kiện Đại hội Đảng chỉ nêu nhiệm vụ "xây dựng
nền kinh tế hàng hóa", thì nay nói rõ và đầy đủ hơn: "Phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước"(Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội) Về cơ chế mới quản lý kinh tế, trước đây trong các
văn kiện Đại hội Đảng chỉ nêu nhiệm vụ "xây dựng nền kinh tế hàng hóa", thì nay
nói rõ và đầy đủ hơn: "Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước" (Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội).
Theo Đại hội VI, cơ chế quản lý kinh tế có 2 đặc trưng: "Tính kế hoạch là đặc
trưng số một của cơ chế quản lý kinh tế ngay từ buổi đầu của thời kỳ quá độ. Sử
dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ là đặc trưng thứ hai của cơ chế về quản
lý kinh tế". Vì vậy, chúng ta phấn đấu thi hành chính sách một giá, đó là giá kinh
doanh thương nghiệp và xây dựng hệ thống ngân hàng chuyên nghiệp kinh doanh
tín dụng và dịch vụ ngân hàng, hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế.Vấn đề
phân phối đã được chú trọng hơn trong quan hệ sản xuất bằng việc thực hiện nhiều
hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ
yếu, đồng thời dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất
kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Tăng trưởng kinh tế phải gắn
liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình
phát triển. Đồng thời với các đổi mới trong lĩnh vực kinh tế, việc đổi mới bắt đầu
từ việc Đảng phải đổi mới tư duy lý luận, nâng cao năng lực, trình độ lý luận của
Đảng để nhận thức đúng và hành động đúng phù hợp với hệ thống các quy luật
khách quan. Đồng thời với việc đổi mới tư duy lý luận, việc tăng cường phát huy
dân chủ, phát huy tiềm năng cán bộ khoa học kỹ thuật, đội ngũ cán bộ quản lý và
tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, tổng kết cái mới, không ngừng bổ sung,
phát triển, hoàn chỉnh lý luận về mô hình, mục tiêu, bước đi, đổi mới và kiện toàn
tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị … là những biện pháp
nhằm từng bước sửa chữa sai lầm và khắc phục bệnh của chủ quan duy ý chí. Giáo
dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa và các lĩnh vực xã hội có tiến bộ,
bảo vệ tài nguyên, môi trường được chú trọng hơn; đời sống các tầng lớp nhân dân
được cải thiện nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, gây bức xúc xã
hội. Quốc phòng, an ninh, đối ngoại được tăng cường nhưng vẫn còn nhiều hạn chế
.Dân chủ xã hội chủ nghĩa có tiến bộ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được
củng cố nhưng chưa được phát huy đầy đủ. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh, hiệu lực và hiệu quả được nâng lên tuy vậy vẫn
chưa theo kịp được yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước. Công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường, đạt một số kết quả tích cực nhưng vẫn còn
nhiều hạn chế, yếu kém, chậm được khắc phục.).Thời gian đầu sau Đại hội X, đất
nước phát triển thuận lợi, Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại
thế giới (WTO).Những từ cuối năm 2007, đầu năm 2008, kinh tế và đời sống gặp
nhiều khó khăn.Các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, kích động bạo loạn, đẩy
mạnh hoạt động “diễn biến hòa bình”. Trong bối cảnh đó, toàn Đảng, toàn dân ta
đã nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức, “đạt được những thành tựu
quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội X đề ra, nhưng
cũng còn nhiều hạn chế, khuyết điểm cần khắc phục.”Nền kinh tế vượt qua nhiều
khó khăn, thách thức, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, duy trì được tốc độ tăng trưởng
khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém
phát triển. Tuy nhiên, kinh tế phát triển chưa bền vững: chất lượng, hiệu quả, sức
cạnh tranh thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, cơ hội và yêu cầu phát triển của
đất nước, một số chỉ tiêu không đạt kế hoạch.Giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ, văn hóa và các lĩnh vực xã hội có tiến bộ, bảo vệ tài nguyên, môi
trường được chú trọng hơn; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện nhưng
bên cạnh đó vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, gây bức xúc xã hội.Quốc phòng, an
ninh, đối ngoại được tăng cường nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Dân chủ xã hội chủ
nghĩa có tiến bộ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố nhưng chưa
được phát huy đầy đủ.Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được
đẩy mạnh, hiệu lực và hiệu quả được nâng lên tuy vậy vẫn chưa theo kịp được yêu
cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước.Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
được tăng cường, đạt một số kết quả tích cực nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, yếu
kém, chậm được khắc phục.Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết
Đại hội X, Đảng ta đã rút ra một số kinh nghiệm sau: Trong bất kỳ điều kiện và
tình huống nào, “phải kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định
và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”, “Phải thực sự coi trọng
chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền vững”, nâng cao chất lượng và
hiệu quả của nền kinh tế, đồng thời duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý, giữ vững ổn
định kinh tế vĩ mô. Tăng Cường huy động các nguồn lực trong và ngoài nước.
Phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội. Đặc biệt chăm lo củng cố, xây dựng Đảng cả về chính trị, tư
tưởng và tổ chức. Trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo phải rất nhạy bén, kiên
quyết, sáng tạo, bám sát thực tiễn đất nước, chú trọng công tác dự báo, kịp thời đề
ra các giải pháp phù hợp với tình hình mới. Thực tế hiện nay, Văn kiện Đại hội XI
đã nhận định, hơn 20 năm qua, “Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn và
có ý nghĩa lịch sử. Chúng ta đã thực hiện thành công chặng đường đầu của công
cuộc đổi mới, đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, đời sống nhân dân có
nhiều thay đổi tích cực...” tuy nhiên “nước ta vẫn đang đứng trước nhiều thách
thức lớn, đan xen nhau và diễn biến phức tạp không thể xem thường”.Đất nước ta
đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, Đảng ta chủ
trương: “Tăng cường huy động phải gắn với sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
trong và ngoài nước. Phát triển lực lượng sản xuất phải đồng thời với xây dựng,
hoàn thiện quan hệ sản xuất, củng cố và tăng cường định hướng xã hội chủ nghĩa”,
muốn vậy phải “tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng;
đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát triển
kinh tế nhanh, bền vững...” để đến năm 2020 “nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại”, thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh”Xuất phát từ thực tế khách quan trên, Đảng ta cũng cần tôn
trọng quy luật khách quan, đồng thời phát huy tính năng động chủ quan của mình.
Trong việc ban hành các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
nhà nước, các chương trình, kế hoạch đều phải xuất phát từ thực tế khách quan,
nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng
thay cho hiện thực sẽ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí. Tổng kết quá trình lãnh
đạo cách mạng, Đảng ta đã rút ra kết luận mang tính định hướng là: “Mọi đường
lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng khách quan” Hiện
nay, thực trạng trình độ lực lượng sản xuất ở nước ta còn thấy cơ sở vật chất – kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội chưa đầy đủ, vững chắc, đời sống của nhân dân chưa
cao, trong khi chúng ta có nhiều tiềm năng cả về tài nguyên thiên nhiên, con người
cũng như các quan hệ trong và ngoài nước mà chúng ta chưa khai thác được một
cách tốt nhất thì việc Đảng và nhà nước chủ trương thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, chủ trương thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền
kinh thế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nhằm phát huy tối ưu tài lực, trí
lực, nhân lực còn tiềm tàng ấy, nhằm tạo ra sự chuyển hóa về chất trong toàn bộ
đời sống xã hội để đáp ứng nhu cầu mà thực tiễn cách mạng Việt Nam đang đặt ra.
2.2.2: Vận dung nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năg động chủ quan
trên lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam hiện nay
Nhà nước đã trực tiếp quản lý mọi hàng hóa và giá cả trên thị trường
có tổ chức. Nhà nước quy định giá mua cũng như giá bán đối với hầu hết các loại
hàng hóa. Hàng hóa không được tự do lưu thông. Đất đai, vốn, sức lao động không
được coi là hàng hóa nên không được mua bán trên thị trường.Nền kinh tế Việt
Nam trước năm 1986 là nền kinh tế khép kín, chỉ giao lưu buôn bán với các nước
xã hội chủ nghĩa.Sở dĩ có sự tồn tại của một nền kinh tế với những đặc điểm như
vậy là do đặc điểm lịch sử đặc biệt của Việt Nam trước năm 1975: vừa xây dựng
chủ nghĩa xã hội, vừa kháng chiến thống nhất đất nước, giành độc lân tộc. Trong
bối cảnh đó, một nền kinh tế như thế đã góp phần tích cực vào việc huy động toàn
bộ sức người sức của cho kháng chiến. Mọi lợi ích cá nhân đều được gác lại vì
mục tiêu cao cả độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Tuy nhiên, sau năm 1975,
khi đất thống nhất thì nền kinh tế với những đặc điểm đó đã không còn phù hợp
với tình hình mới nữa và bắt đầu bộc lộ những hạn chế và yếu kém của nó. Hệ
thống quản lý tập trung đã tỏ ra thiếu đồng bộ và kém hiệu quả về mọi mặt. Cơ chế
hành chính thái quá đã dẫn tới căn bệnh quan liêu bao cấp mà tới tận ngày nay, sau
hơn 20 năm đổi mới chúng ta vẫn còn phải nỗ lực khắc phục nó. Đồng thời, cơ chế
hành chính quan liêu cũng làm hạn chế khả năng nắm bắt và vận dụng các tiến bộ
khoa học công nghệ vào phát triển kinh tế. Nền kinh tế thủ tiêu vai trò của thị
trường đã dẫn tới xóa bỏ cạnh tranh – một động lực to lớn của sản xuất kinh
doanh.Những hạn chế đó, cùng với một nền kinh tế gần như kiệt quệ sau sự tàn phá
của chiến tranh đã khiến nền kinh tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng, trì trệ về mọi
mặt. Cụ thể, ngay trong quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm 1976 – 1980, tốc độ
tăng trưởng kinh tế đã rất thấp (chỉ đạt 0,4 %/năm so với kế hoạch đề ra là 13 – 14
%); thiếu lương thực (lương thực quy thóc giảm từ 274kg/người năm 1976 xuống
268kg/người năm 1980), phải nhập khẩu gần 1 triệu tấn lương thực mỗi năm; làm
phát lên tới 20%/năm; kim ngạch xuất khẩu chỉ bằng 1/5 kim ngạch nhập khẩu.
Sau cải cách giá, lương, tiền tháng 9 năm 1985, giá cả hàng hóa biến động mạnh,
hoạt động tiền tệ hỗn loạn, lạm phát lên tới mức ba con số (chỉ số giá năm 1986
tăng gần 800%). Trong khi đó, trên thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa đang đứng
trước nguy cơ tan rã với sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu, xu thế toàn cầu hóa, hội nhập, mở cửa đang diễn ra trên phạm vi toàn thê
giới.Thực tiễn khách quan đó cho thấy mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã
không còn phù hợp với tình hình mới và cần có những thay đổi. Việc đánh giá và
nhận diện thực trạng những vấn đề cốt lõi của nền kinh tế kém hiệu quả trước năm
1986 là nắm bắt những hiện tượng kinh tế trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội
để đổi mới tư duy lý luận về mô hình kinh tế; định hướng những giải pháp đồng
bộ, khả thi theo nguyên tắc tôn trọng khách quan phát huy tính năng động chủ
quan. Trước đổi mới, chúng ta đã có những nôn nóng, chủ quan, duy ý chí, đốt
cháy giai đoạn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, sau đại hội
đảng VI năm 1986, vấn đề này đã được nhìn lại một cách toàn diện để có những
đổi mới trong tư duy cũng như thực tiễn xây dựng mô hình kinh tế xã hội chủ
nghĩa mà Việt Nam đang theo đuổi. Chuyển đổi từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa
tập trung, quan liêu, bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đảng xác định: kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá phát triển ở
giai đoạn cao, trong đó yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” đều thông qua thị trường. Các
chủ thể kinh tế đều chịu sự tác động quy luật thị trường và thái độ ứng xử của họ
đều tìm kiếm lợi ích cho mình thông qua sự điều tiết của giá cả. Vận dụng bài học
tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan, để thực hiện được tư duy
đổi mới đó, cần phải tổ chức lực lượng vật chất để thực hiện nó. Kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo
những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối
bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt sở
hữu, tổ chức quản lý, và phân phối. Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Cũng có thể nói, kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức kinh tế của một xã hội đang trong quá trình
chuyển biến từ nền kinh tế còn ở trình độ thấp sang nền kinh tế ở trình độ cao hơn
hướng tới chế độ xã hội mới – xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế thị trường có tổ
chức, có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ