HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
VIỆN BÁO CHÍ
TIỂU LUẬN
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đề tài: Cơ sở lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh - Bài học đối với
thế hệ trẻ từ tấm gương tiếp biến văn hóa của Hồ Chí Minh
Sinh viên: Nguyễn Nguyệt Anh
Mã sinh viên: 2151050006
Lớp tín chỉ: TH01001_K41.10
HÀ NỘI – 2021
MỞ ĐẦU
1: Lý do chọn đề tài
Nói về Bác, Tổng Bí thư Lê Duẩn từng khẳng định: “ Tư tưởng và đạo
đức cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng và nâng cao tâm hồn
của chúng ta. Ngọn cờ chói lọi của Người mãi mãi chỉ lối cho chúng ta tiến
lên phía trước”. Như chúng ta đã biết, tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, từ đó giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Với một hệ tư tưởng nhân văn
mang ý nghĩa quan trọng, tư tưởng Hồ Chí Minh đích thực là tài sản tinh thần
vô giá của Đảng và dân tộc ta, là hiện thân của con đường đấu tranh và thắng
lợi của Cách mạng Việt Nam. Để hình thành được tư tưởng vĩ đại ấy, cơ sở
luận đóng vai trò vô cùng quan trọng giúp Người tiếp thu được cả những tinh
hoa của giá trị truyền thống đất nước cũng như của nhân loại. Đặc biệt khi
tiếp cận được với chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã đúc rút được tư tưởng về
giải phóng dân tộc, con người và giai cấp đúng đắn.
Bên cạnh đó, thông qua việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, có thể thấy
sự tiếp biến văn hóa của Người thực sự xứng đáng là tấm gương cho thế hệ trẻ
ngày nay noi theo. Trước những tiếp thu văn hóa, Hồ Chí Minh luôn có sự
tiếp biến, học hỏi một cách chọn lọc, khoa học, hợp lý. Không những vậy,
Người còn bổ sung, phát triển, làm phong phú đồng thời gạt bỏ những điều
lạc hậu, lỗi thời. Từ đó, hình thành nên một nền tư tưởng đúng đắn, vừa theo
kịp thời đại vừa phù hợp với thực tiễn đất nước ta.
Quả thật, tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và
dân tộc ta, là hiện thân của con đường đấu tranh và thắng lợi của Cách mạng
Việt Nam.
2: Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó nêu lên bài học đối với thế hệ trẻ thông
qua tấm gương tiếp biến văn hóa của Hồ Chí Minh
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Trên cơ sở đối tượng nghiên cứu, bài
tiểu luận có nhiệm vụ nghiên cứu rõ các nội dung sau:
+ Cơ sở lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
+ Bài học đối với thế hệ trẻ từ tấm gương tiếp biến văn hóa của Hồ Chí
Minh
3: Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Tư tưởng Hồ Chí Minh
- Phạm vi: Cuối thế kỉ XIX đến nay
4: Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác - Lê nin, phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng cộng
sản Việt Nam về tư tưởng Hồ Chí Minh
- Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cơ sở lý luận hình thành
tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải dựa trên thế giới quan, phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, những giá trị truyền thống tốt đẹp của Việt Nam cũng
như tinh hoa văn hóa nhân loại. Trong quá trình nghiên cứu cần phải kết hợp
với việc sử dụng các phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, so sánh,
thống kê,… nhằm phản ánh chân thực quá trình hình thành tư tưởng của
Người.
5: Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: Nghiên cứu cơ sở lý luận hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh giúp người học nắm vững những hệ thống quan điểm lý luận
toàn diện, sâu sắc trong nguồn gốc tư tưởng của Người. Đồng thời học hỏi về
tấm gương tiếp biến văn hóa của Hồ Chí Minh trong công cuộc giải phóng đất
nước, từ đó liên hệ đến thực tế ngày nay.
- Ý nghĩa thực tiễn: Thông qua việc nghiên cứu cơ sở lý luận
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, củng cố cho sinh viên kiến thức về vai trò
của giá trị truyền thống đất nước, tinh hóa văn hóa nhân loại và chủ nghĩa
Mác - Lênin . Từ đó kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, tích cực chủ động đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, bảo vệ
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như đường lối, chủ
trương của Đảng và Nhà nước.
6: Kết cấu của tiểu luận
Tiểu luận bao gồm hai chương:
- Chương I: Cơ sở lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
+ Một số khái niệm: Tư tưởng là gì?
Tư tưởng Hồ Chí Minh là gì?
+ Cơ sở lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
Tinh hóa văn hóa nhân loại
Chủ nghĩa Mác - Lênin
- Chương II: Bài học với thế hệ trẻ từ tấm gương tiếp biến văn
hóa của Hồ Chí Minh
+ Tiếp thu trên tinh thần chọn lọc, phù hợp, sáng tạo, không rập
khuôn, giáo điều
+ Tiếp thu văn hoá trên nền tảng truyền thống văn hoá của đất
nước; hội nhập không đánh mất bản sắc dân tộc, vẫn giữ được tinh thần
thuần tuý Việt Nam 
NỘI DUNG
Chương I: Cơ sở lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1: Một số khái niệm
1.1.1: Tư tưởng
Theo nghĩa chung nhất, tưởng “quan điểm hoặc ý nghĩ chung của
con người đối với thế giới tự nhiên hội”. (Nguyễn Như Ý. Đại từ điển
Tiếng Việt. Nxb. Văn hóa-Thông tin. Nội 1999. tr1757). Trong thuật ngữ
“Tư tưởng Hồ Chí Minh”, khái niệm “tư tưởng”đây không có nghĩa là tinh
thần tư tưởng, ý nghĩa tưởng của một nhân, cộng đồng, nghĩa
một hệ thống những quan điểm, luận điểm mang giá trị như một học thuyết
được xây dựng trên một nền tảng triết học (thế giới quan phương pháp
luận) nhất quán, đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của một giai cấp, một dân
tộc, phug hợp với nhu cầu tiến hóa của thực tiễn, nhất định, trở lại chỉ đạo
cải tạo thực tiễn đó.
1.1.2: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm
2011) nêu khái niệm “Tư tưởng Hồ Chí Minh” như sau:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh một hệ thống quan điểm toàn diện sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta,
kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần cùng to lớn quý giá của
Đảng dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân
dân ta giành thắng lợi”
20
.
Khái niệm trên đây chỉ rõ ba yếu tố sau:
Một là, đã nêu bản chất khoa học cách mạng cũng như nội dung
bản của tưởng Hồ Chí Minh. Đó hệ thống quan điểm toàn diện sâu
sắc về những vấn đề bản của cách mạng Việt Nam, từ đó phản ánh những
vấn đề tính quy luật của cách mạng Việt Nam. tưởng Hồ Chí Minh
hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về mục tiêu xây dựng một nước Việt
Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ giàu mạnh, góp phần xứng
đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Để đạt mục tiêu đó, con đường phát
triển của dân tộc Việt Nam độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội.
Mục tiêu con đường này đúng theo luận Mác-Lênin; khẳng định vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam sự quản của Nhà nước cách
mạng; xác định lực lượng cách mạng toàn thể nhân dân Việt Nam yêu
nước, xây dựng con người Việt Nam năng lực phẩm chất đạo đức cách
mạng; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại trên cơ sở quan hệ
quốc tế hòa bình, hợp tác, hữu nghị cùng phát triển; với phương pháp cách
mạng phù hợp...
tưởng Hồ Chí Minh một hệ thống lớn bao gồm những quan điểm,
nguyên tắc, phương pháp về cách mạng Việt Nam tầm chiến lược. Hồ Chí
Minh còn tưởng về quân sự, ngoại giao, đối ngoại, phương pháp cách
mạng, tư tưởng đổi mới, hội nhập và phát triển. Hồ Chí Minh còn có cả những
quan niệm về dự báo xu thế, triển vọng của cách mạng Việt Nam, quan hệ
giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. ởng Hồ Chí Minh
còn thể hiện những quan điểm giữa kinh tế và chính trị với văn hóa, giữa xã
hội với quản lý xã hội, cấuhộicác chính sáchhội hướng tới mục
tiêu phát triển hiện đại hóa Việt Nam…Tư tưởng Hồ Chí Minh hướng tới
phát triển con người từ nhân tới cộng đồng, từ dân tộc đến nhân loại, thể
hiện rất sâu sắc không chỉ tầm nhìn chiến lược mà còn là chủ nghĩa nhân đạo,
chủ nghĩa nhân văn cao cả của Người. Trong duy luận trong hoạt
động thực tiễn của mình, Hồ Chí Minh còn những tưởng về giáo dục -
đào tạo, về khoa học - công nghệ, về dùng người hiền tài để chấn hưng dân
tộc, v.v.
21
Hai là, đã nêu lên sở hình thành tưởng Hồ Chí Minh chủ nghĩa
Mác-Lênin – giá trị cơ bản nhất trong quá trình hình thành và phát triển của
tưởng đó; đồng thời tư tưởng Hồ Chí Minh còn bắt nguồn từ việc Người, bằng
phẩm chất nhân của mình, đã tiếp thu các giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại.
Ba là, đã nêu lên ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng địnhtưởng
Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần cùng to lớn quý giá của Đảng dân
tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Cùng với
chủ nghĩa Mác-Lênin, tưởng Hồ Chí Minh một bộ phận cấu thành làm
nên nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng
Việt Nam.
1.2: Cơ sở lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
1.2.1: Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
Thứ nhất, chủ nghĩa yêu nước với ý chí bất khuất trong đấu tranh dựng nước
và giữ nước:
Chủ nghĩa yêu nước được xem là động lực, sức mạnh, niềm tự hào và là
nhân tố hàng đầu trong đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Bởi vậy,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là
một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm
lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ,
to lớn, lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nhấn chìm tất cả bán
nước và lũ cướp nước”.
Chính sức mạnh truyền thống ấy đã thúc giục Nguyễn Tất Thành ra đi
tìm đường cứu nước. Đồng thời chi phối mọi suy nghĩ, hành động của Người
trong suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng. Người cũng khẳng định chủ
nghĩa yêu nước chính sở tưởng đã dẫn dắt Người đến với chủ nghĩa
Mác - Lênin: “Lúc đầu, chính chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ
nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”.
Thứ hai, tinh thần nhân nghĩa, tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái.
Xuất phát từ hoàn cảnh nhu cầu đối phó với thiên nhiên chống
giặc ngoại xâm của dân tộc, người Việt Nam sống gắn bó, yêu thương, đùm
bọc lẫn nhau trong tình làng nghĩa xóm, tắt lửa tối đèn nhau. Trong
tưởng Hồ Chí Minh, con người vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành
công của cách mạng; dân là gốc của nước; nước lấy dân làm gốc, gốc có vững
thì cây mới bền; xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân; đoàn kết dân tộc gắn liền
với đoàn kết quốc tế một nguyên tắc chiến lược quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Truyền thống này đã đi sâu vào mỗi con người Việt
Nam góp phần vô cùng quan trọng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Thứ ba, niềm tự hào về lịch sử, trân trọng nền văn hóa, ngôn ngữ, phong tục
tập quán và những truyền thống tốt đẹp khác của dân tộc.
Đó chính một cơ sở hình thành tư tưởng, phẩm chất của nhà văn hóa
kiệt xuất Hồ Chí Minh với quan điểm văn hóa mục tiêu, động lực của cách
mạng; cần giữ gìn cốt cách văn hóa dân tộc đồng thời tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại, xây dựng nền văn hoá mới của Việt Nam. Chính Hồ Chí Minh
một biểu tượng đẹp của sự tích hợp tinh hoa văn hóa phương Đông
phương Tây.
Thứ tư, truyền thống lạc quan, yêu đời, niềm tin vào sức mạnh của bản
thân, của chính nghĩa: truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo
trong sản xuất và chiến đấu
Trước cái nghèo, cái khổ cùng với vàn áp bức, bóc lột, nhân dân
Việt Nam vẫn đối diện với một tinh thần lạc quan, yêu đời. Đó không phải
sự chủ quan đích thực niềm tin mạnh mẽ, vững chắc vào những điều
mình đã làm, đã tin tưởng đi theo, quyết không khuất phục trước số phận hay
bất kỳ kẻ thù nào. Đứng trước khó khăn, nhân dân Việt Nam vẫn luôn động
viên nhau . “Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”
Dân tộc Việt Nam hình thành và phát triển trong điều kiện hoàn cảnh tự
nhiên hội khó khăn, khắc nghiệt ngay từ buổi đầu dựng nước giữ
nước. Để tồn tại phát triển, người Việt Nam từ thế hệ này đến thế hệ khác
đã phải lao động chăm chỉ, phải chiến đấu quả cảm trí thông minh, sáng
tạo. Đó là truyền thống tốt đẹp góp phần tạo nên bản sắc văn hóa của dân tộc
Việt Nam. Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát huy truyền thống đó cùng toàn
diện.
1.2.2: Tinh hoa văn hóa nhân loại
Tinh hoa văn hóa phương Đông:
Tiếp thu cả Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo một cách chọn lọc, Hồ
Chí Minh đã phê phán, gạt bỏ những yếu tố duy tâm, lạc hậu để học hỏi
chuyển hóa những yếu tố duy vật, tích cực, phù hợp với điều kiện lịch sử
hội, con người và thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Nho giáo: Đạo Nho Đạo Khổng còn gọi hay một hệ thống đạo
đức, triết học hội, triết giáo dục triết học chính trị do Khổng Tử đề
xướng và được các môn đồ của ông phát triển với mục đích xây dựng một
hội thịnh trị. Nho giáo rất có ảnh hưởng tại ở các nước châu Á là Trung Quốc,
Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc. Đối với Nho giáo, Hồ Chí Minh phân tích:
“Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều
điều không đúng song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học”. “Chỉ
những người cách mạng chân chính mới thu thái được những điều hiểu
biết quý báu của các đời trước để lại”. Lênin dạy chúng ta như vậy" .
36
Sinh ra trong một gia đình Nho giáo, Hồ Chí Minh đã được tiếp thu
những quan điểm tốt đẹp của Nho giáo. Đó là mặt triết lý hành động, tư tưởng
về nhập thế, hành đạo, giúp đời; triết nhân sinh, lấy tu thân làm gốc, lấy
hành động để lập thân và có lý tưởng về một xã hội bình trị, thế giới đại đồng.
Nho giáo còn đề cao sự ham học hỏi, đức “khiêm tốn”, tính “hoà nhã”, cách
đối nhân xử thế “có lý, tình”. Bởi vậy, Người đánh giá rất cao Khổng Tử.
Ngày 19/5/1966, Người đến thăm Khổng Tử, khắc chữ lên bia đá: “Khổng Tử
là người thầy vĩ đại nhất của nhân loại”.
Phật giáo: một tôn giáo lớn bao gồm một loạt các truyền thống, tín
ngưỡng phương pháp tu luyện dựa trên lời dạy của Thích Ca Mâu Ni.
còn nhiều yếu tố duy tâm nhưng đã nhiều mặt tích cực ảnh hưởng sâu
sắc tới sự hình thành nhân cách, tưởng chính trị Hồ Chí Minh. Đó
tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người; nếp sống đạo đức,
trong sạch, giản dị, hướng thiện; tinh thần bình đẳng, dân chủ chống lại mọi
sự phân biệt đẳng cấp; đề cao lao động, gắn bó với nhân dân, đất nước. Những
quan điểm tích cực đó trong triết của Phật giáo được Hồ Chí Minh vận
dụng sáng tạo để đoàn kết toàn dân nước Việt Nam hòa bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ giàu mạnh.Trong thư gửi Hội Phật tử năm 1947, Người
viết: “Đức Phật đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn, muốn cứu chúng sinh ra
khỏi khổ nạn, Người phải hy sinh tranh đấu, diệt ác ma. Nay đồng bào ta
đại đoàn kết, hy sinh của cải xương máu, kháng chiến đến cùng, để đánh tan
thực dân phản động, để cứu quốc dân ra khỏi khổ nạn, để giữ quyền thống
nhất và độc lập của Tổ quốc. Thếchúng ta làm theo lòng đại từ đại bi của
Đức Phật Thích Ca, kháng chiến để đưa giống nòi ra khỏi cái khổ ải nô lệ”.
Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển những tưởng nhân bản, đạo
đức tích cực trong Phật giáo vào việc xây dựng hội mới, con người mới
Việt Nam hiện nay. Người chỉ rõ nhiệm vụ: "Đồng bào Phật giáo cả nước, từ
Bắc đến Nam, đều cố gắng thực hiện lời Phật dạy là: "Lợi lạc quần sinh,
ngã vị tha"" . Nghĩa là, đồng bào Phật giáo, cũng như đồng bào cả nước đều
38
thể cùng nhau thực hiện lời Phật dạy, luôn sống, làm việc với tinh thần
"Đem lại lợi ích và vui sướng cho mọi người, quên mình vì người khác". Điều
đó là phù hợp với lối sống xã hội chủ nghĩa "mình vì mọi người, mọi người vì
mình".
tưởng Đạo giáo với thuyết “vô vi” (nghĩa chỉ tiếp thu những yếu
tố tích cực) đã ảnh hưởng tới hình thành nhân cách Hồ Chí Minh, đó là sống
luôn lạc quan, yêu đời, yêu thiên nhiên, cỏ cây, sông núi... đó những nét
đẹp ở Hồ Chí Minh, một con người bình dị thanh cao. Người còn kêu gọi
nhân dân ta trồng cây, tổ chức “Tết trồng cây” để bảo vệ môi trường sinh thái
cho chính cuộc sống con người. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa
phát triển tư tưởng thoát khỏi mọi ràng buộc của vòng danh lợi trong Lão
giáo. Người khuyên cán bộ, đảng viên ít lòng tham muốn về vật chất, thực
hiện cần kiệm liêm chính, chí công tư; hành động theo đạo với ý nghĩa
là hành động đúng với quy luật tự nhiên, xã hội.
Mặt khác, Hồ Chí Minh còn chú ý kế thừa, phát triển nhiều ý tưởng của
các trường phái khác nhau trong các nhà tưởng phương Đông cổ đại khác
như Mặc Tử, Hàn Phi Tử, Quản Tử, v.v...Đồng thời, Người cũng chú ý tìm
hiểu những trào lưu tưởng tiến bộ thời cận hiện đại Ấn Độ, Trung Quốc
như chủ nghĩa Găngđi, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn. Hồ Chí Minh
đã phát triển sáng tạo các quan điểm về dân tộc, dân quyền, dân sinh của Tôn
Trung Sơn trong cách mạng dân chủ tư sản thành tư tưởng đấu tranh cho Độc
lập - Tự do - Hạnh phúc của con người dân tộc Việt Nam theo con đường
cách mạng sản. Là nhà mácxít sáng tạo, Hồ Chí Minh đã kế thừa phát
triển những tinh hoa trong tưởng, văn hóa phương Đông để giải quyết
những vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam thời hiện đại.
Tinh hoa văn hóa phương Tây:
Trong những năm 1905-1906, khi còn học Trường tiểu học Pháp -
bản xứ ở Vinh (tỉnh Nghệ An), Hồ Chí Minh đã tiếp xúc với các tác phẩm văn
hóa phương Tây, quan tâm sâu sắc tới khẩu hiệu nổi tiếng của Đại Cách mạng
Pháp năm 1789: “LIBERTÉ, ÉGALITÉ, FRATERNITÉ” (Tự do, Bình đẳng,
Bác ái). Những tưởng tiến bộ của cách mạng Pháp về “Tự do, Bình đẳng,
Bác ái” đã ảnh hưởng mạnh đến Người và là một trong những yếu tố tác động
tới hướng đi tìm đường cứu nước của Người.
Hồ Chí Minh đã nhanh chóng tiếp thu được vốn tri thức của thời đại,
nâng cao trình độ sử dụng ngôn ngữ, hiểu biết văn hóa Pháp, Mĩ. Đặc biệt,
Người đã nắm bắt được các giá trị về quyền sống, quyền tự do, quyền mưu
cầu hạnh phúc của Tuyên ngôn độc lập nước Mỹ năm 1776, bản Tuyên ngôn
nhân quyền dân quyền của Pháp. Không dừng lại đấy, Người còn trực
tiếp tìm hiểu tưởng của dân chủ thông qua, các tác phẩm của những nhà
khai sáng nổi tiếng như Vônte, Rútxô, Môngtexkiơ,… Từ đó, Người đã dàn
hình thành được phong cách hoạt động dân chủ trong thực tiễn cuộc sống.
Như vậy, trong quá trình hình thành phát triển tưởng của mình, Hồ Chí
Minh đã kế thừa chọn lọc tinh hoa văn hoá phương Đông phương Tây,
nâng lên một trình độ mới trên cơ sở phương pháp luận Mácxít – Lêninnít.
1.2.3: Chủ nghĩa Mác - Lênin
Chủ nghĩa Mác - Lênin làsở thế giới quan và phương pháp luận của
tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh với hạt nhân luận là triết học duy vật biện
chứng duy vật lịch sử. Trên sở đó Người đánh giá, phân tích các học
thuyết đương thờitổng kết thực tiễn đúc rút luận và hình thành nên một
hệ thống những quan điểm bản cách mạng Việt Nam, hình thành nên
tưởng chính trị Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giai cấp và con người.
Từ nhu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam, chủ nghĩa Mác - Lênin
đích thực kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Qua
những tác phẩm của Lênin, Người đã thấy mối quan hệ thống nhất giữa
cách mạng sản cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa. Nhờ đó, Hồ
Chí Minh tìm thấy con đường giải phóng dân tộc và trở lại tìm hiểu chủ nghĩa
Mác sâu hơn.
Trên sở năng lực trí tuệ xuất chúng, Hồ Chí Minh tiếp thu học
thuyết Mác-Lênin một cách chọn lọc, không rập khuôn máy móc, không sao
chép giáo điều. Người tiếp thu theo phương pháp mácxít, cốt nắm lấy cái tinh
thần, cái bản chất vận dụng sáng tạo lập trường, quan điểm, phương pháp
của chủ nghĩa Mác - Lênin để hoạch định đường lối, chủ trương phù hợp với
cách mạng Việt Nam. Bởi vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin được Hồ Chí Minh coi
“cái cẩm nang thần kỳ, kim chỉ nam còn ánh sáng mặt trời soi
đường chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản”. Ngay từ cuối những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã khẳng
định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất chủ nghĩa Lênin”. Do sự vận
dụng và phát triển vô cùng chọn lọc và tài tình, Hồ Chí Minh đã giải quyết
được cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước người lãnh đạo cách mạng
Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin,
Hồ Chí Minh đã trở thành người cộng sản với tầm vóc trí tuệ lớn như Lênin
mong muốn: “Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu
trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại
đã tạo ra”
Tổng kết kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng
định: “Chúng tôi giành được thắng lợi đó do nhiều nhân tố, nhưng cần
phải nhấn mạnh rằng chúng tôi giành được những thắng lợi đó trước hết
nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác - Lênin”.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh không
những đã vận dụng sáng tạo, còn bổ sung, phát triểnlàm phong phú
chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại mới. thể khẳng định rằng chủ nghĩa
Mác Lênin nguồn gốc luận sở chủ yếu nhất của sự hình thành phát
triển tưởng Hồ Chí Minh. tưởng Hồ Chí Minh một bước nhảy vọt
trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Chương II: Bài học đối với thế hệ trẻ từ tấm gương tiếp biến
văn hóa Hồ Chí Minh
2.1: Tiếp thu trên tinh thần chọn lọc, phù hợp, sáng tạo, không rập
khuôn, giáo điều
Hồ Chí Minh một hiện tượng đa văn hoá. Các nhà báo nước ngoài
từng tiếp xúc với Hồ Chí Minh đều nhận xét: “Trong văn hoá Hồ Chí Minh
chất "uymua" Anh, chất lịch thiệp, trang nhã Pháp, chất thâm thuý, hàm
súc của các nhà hiền triết phương Đông”.
Trong tự nhiên cũng như trong hội, không hiện tượng nào mang
“nền tảng tinh khiết, không pha trộn”. Văn hoá càng như thế. Chính Hồ Chí
Minh đã sớm khẳng định điều này: “Văn hoá Việt Nam ảnh hưởng lẫn
nhau của văn hoá Đông phương và Tây phương chung đúc lại”. Người cũng
căn dặn: “Mình đã hưởng cái hay của người thì cũng phải cái hay cho
người ta hưởng. Mình đừng chịu vay mà không trả” (Báo Cứu quốc, ngày 9-
10-1945), nghĩa phải biết học tập một cách sáng tạo, để những đóng
góp xứng đáng vào kho tàng văn hoá của nhân loại. Đó là nguyên tắc phương
pháp luận nhất quán của Hồ Chí Minh trên con đường tiếp biến các giá trị văn
hoá của loài người.
Với Người, chủ nghĩa Mác - Lênin “còn là mặt trời soi sáng con đường
chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.128). Tuy nhiên, Người khẳng
định: “Lý luận cách mạng không phải giáo điều, kim chỉ nam cho
hành động cách mạng; và lý luận không phải là một cáicứng nhắc, nó đầy
tính chất sáng tạo; luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận
mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động. Những người cộng sản các nước phải
cụ thể hoá chủ nghĩa Mác - Lênin cho thích hợp với điều kiện hoàn cảnh từng
lúc từng nơi” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.496). vậy, Người
không những vận dụng sáng tạo mà còn góp phần bổ sung và phát triển những
nội dung mới khiến cho chủ nghĩa Mác - Lênin được thêm phong phú, đa
dạng hơn. Về vấn đề Đảng, Lênin cho rằng sự ra đời của Đảng Cộng sản
sản phẩm của chủ nghĩa Mác kết hợp với phong trào công nhân, nhưng ở Việt
Nam sự ra đời của Đảng Cộng sản là sản phẩm kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Về vấn đề giải phóng giai
cấp, giải phóng dân tộc, chủ nghĩa Mác-Lênin bao giờ cũng xác định giải
phóng giai cấp là trước hết, nhưng ở Việt Nam, theo Hồ Chí Minh, muốn giải
phóng giai cấp trước hết phải giải phóng dân tộc độc lập dân tộc chỉ ý
nghĩa khi mang lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân… Rõ ràng, lý luận Mác-
Lênin đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo vào thực tiễn Việt
Nam và từ thực tiễn sinh động bổ sung cho luận, làm phong phú thêm cho
lý luận. Nhờ vậy mới có đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo để đưa cách
mạng Việt Nam giành được thắng lợi trong công cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc và trong công cuộc xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.
Trong một bài đăng trên tạp chí Cộng sản số tháng 5-1921 của Đảng
Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã nêu vấn đề: “Chế độ cộng sản thể áp
dụng ở châu Á nói chung Đông Dương nói riêng không?”. Lúc bấy giờ,
thuyết "Européo-centrisme" còn đang thống trị châu Âu, vẫn coi châu Âu
trung tâm của thế giới, xem thường phương Đông lạc hậu, nhất là các dân tộc
nhược tiểu. Các đảng hội Quốc tế II chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề
dân tộc thuộc địa. Các đảng cộng sản theo Quốc tế III thì cho rằng: vấn đề
giải phóng các dân tộc thuộc địa chỉ có thể được giải quyết khi nào cách mạng
vô sản giành được thắng lợi chính quốc. Cả Mác, Ăngghen, rồi Lênin cũng
chưa nghĩ đến khả năng các dân tộc thuộc địathể tự giải phóng mình ngay
giữa vòng vây của chủ nghĩa đế quốc. Thế mà Nguyễn Ái Quốc lại cả gan đưa
ra một quan điểm trái ngược, “phi kinh điển” so với các luận điểm trên. Từ sự
phân tích những điều kiện kinh tế- chính trị- hội…của châu Á (chế độ
ruộng công, thuyết bình đẳng về tài sản, sự giáo dục lao động cưỡng bức
đối với người lớn, chế độ phúc lợi cho người già, tưởng “dân vi quý”, sự
lên án nghiêm khắc thói ăn bám,…), Nguyễn Ái Quốc đưa ra nhận định: “chủ
nghĩa cộng sản thâm nhập dễ dàng vào châu Á, dễ dàng hơn châu Âu”,
nghĩa là theo Nguyễn Ái Quốc, cách mạng thuộc địa đi theo con đường vô sản
thể nổ ra châu Á, nếu “chúng ta nhiệt tình tuyên truyền chủ nghĩa
cộng sản thực tâm muốn giúp đỡ những người lao động lật đổ ách của
những kẻ bóc lột” “và trong khi thì họ sẽ trở thành một lực lượng khổng lồ
thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa bản chủ nghĩa
đế quốc” “có thể giúp đỡ những người anh em phương Tây tronghọ cũng
nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”. (Hồ Chí Minh: , Nxb. Chính trịToàn tập
quốc gia, H.2002, t.1. tr. 36.) Đó quả thật một luận điểm táo bạo, mới mẻ
cho thấy sự tiếp thu, vận dụng đầy sáng tạo của Hồ Chí Minh từ chủ nghĩa
Mác - Lênin.
Sau khi về Quảng Châu (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc có dịp tiếp xúc
với chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn. Qua đó, tiếp thu những yếu tố
phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam đề ra mục tiêu "dân tộc độc lập, dân
quyền tự do, dân sinh hạnh phúc". Tôn Trung Sơn đề ra chủ nghĩa dân tộc
theo ông, Trung Quốc mới chỉ chủ nghĩa gia tộc, chủ nghĩa tông tộc
chưa có chủ nghĩa dân tộc. Hiện Trung Quốc tuy là nước độc lập nhưng đang
bị các nước đế quốc áp bức, xâu như một "thứ thuộc địa", do đó phải đề
xướng chủ nghĩa dân tộc, chống đế quốc, làm cho Trung Quốc hưng thịnh.
Việt Nam khác Trung Quốc, chủ nghĩa gia tộc tông tộc không nặng như
Trung Quốc, trái lại, do lập quốc sớm, nên chủ nghĩa yêu nước truyền
thống đoàn kết dân tộc phát triển rất mạnh mẽ. Bởi vậy, Hồ Chí Minh không
nói chủ nghĩa dân tộc đề ra mục tiêu dân tộc độc lập. Tiếp đến, Tôn Trung
Sơn đề ra chủ nghĩa dân quyền, theo ông, các nước Âu - Mỹ thời quân chủ
không tự do nên mới nêu khẩu hiệu đấu tranh cho tự do; trái lại, Trung
Quốc từ xưa đến nay đã sống đầy đủ trong tự do. Vì vậy, ông đề ra nội dung
của chủ nghĩa dân quyền là dân chủ, bình đẳng. Hồ Chí Minh không nói chủ
nghĩa dân quyền như Tôn Trung Sơn, nói dân quyền tự do, bởi Việt Nam
là thuộc địa của Pháp, mất quyền độc lập, phải giành lại độc lập mới có tự do,
do đó mới nhấn mạnh . Cuối cùng, Tôn"Không có gì quý hơn độc lập, tự do!"
Trung Sơn đề ra chủ nghĩa dân sinh, coi đó động lực tối cao, trọng tâm
của mọi hoạt động lịch sử. Mục tiêu của ông xoá bỏ tình trạng nghèo nàn,
làm cho mọi người được quân bình về mặt tài phú mà không còn đại bần nữa.
Hồ Chí Minh không nói chủ nghĩa dân sinh mà nói dân sinh hạnh phúc, làm
cho ai cũngcơm ăn, áo mặc, được sống một đời hạnh phúc. Nếu nước độc
lập, tự do dân không được hưởng hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng ý
nghĩa gì. Tóm lại, Hồ Chí Minh đã lấy chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung
Sơn làm sở, từ đó phỏng, học hỏi chọn lọc, biến đổi cho phù hợp
với thực tiễn Việt Nam.
Qua đó, thể thấy sự tiếp biến văn hóa cùng thông minh, tinh tế
của Hồ Chí Minh tầm quan trọng của đối với cách mạng Việt Nam.
Ngày nay, trong thời kỳ hội nhập, thế hệ trẻ - nền móng của đất nước càng
phải thấm nhuần, học hỏi tấm gương tiếp biến của Người: Không tiếp thu “cả
gói" mà biết lựa chọn những cái hợp lý, cái cần thiết, tiếp thu trên tinh thần
vận dụng có đổi mới, không rập khuôn, giáo điều. Không chỉ trong công cuộc
xây dựng đất nước ngay cả trong cuộc sống của mỗi người cũng cần học
hỏi, tiếp thu nhiều nguồn văn hóa để làm phong phú kiến thức, hiểu biết của
mình. Song phải tự nhận thức được đúng, sai, thiếu, thừa để học hỏi được
những điều đúng đắn, gạt bỏ được những thứ sai trái, lỗi thời, không phù hợp
với bản thân, thời đại xã hội ngày nay.
2.2: Tiếp thu văn hoá trên nền tảng truyền thống văn hoá của đất nước;
hội nhập không đánh mất bản sắc dân tộc, vẫn giữ được tinh thần
thuần tuý Việt Nam 
Trong hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành đã điều
kiện đặt chân đến nhiều nước, biết nhiều ngoại ngữ, làm nhiều nghề, tiếp xúc
với nhiều vĩ nhân,…do đó có hội tiếp xúc với nhiều nền văn hoá, gia nhập
nhiều tổ chức (Công đoàn lao động hải ngoại Anh, Câu lạc bộ Faubourg,
Hội Tam điểm,…) để học cách tổ chức, tìm hiểu các cơ chế chính trị – xã hội,
…nhằm chắt lọc lấy cái hay, cái tốt, cái thích hợp, phục vụ cho sự nghiệp cứu
nước, giải phóng dân tộc và xây dựng nước Việt Nam độc lập trong tương lai.
Tại Pháp, Người đã tiếp thu tưởng nhân quyền, dân quyền pháp
quyền của các nhà Khai sáng Pháp vận dụng vào cuộc đấu tranh, phê
phán chế độ thực dân, đòi các quyền ấy cho các dân tộc thuộc địa.thể tìm
thấy dấu ấn ảnh hưởng các giá trị của nền Cộng hoà Pháp trong bản Yêu sách
của nhân dân An Nam, lời mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập 1945, trong Hiến
pháp đầu tiên 1946,… Đúng là Hồ Chí Minh đã sớm bị hấp dẫn bởi tưởng
Tự do, Bình đẳng, Bác ái của Đại cách mạng Pháp muốn đi sang Pháp để
tìm hiểu xem những ẩn đằng sau ba từ ấy. Người đã nhận ra rằng nền
Cộng hoà Pháp chủ yếu được xây dựng trên quan điểm giá trị về con người cá
nhân, nhất về quyền tự do, bình đẳng của cá nhân theo tinh thần cách mạng
tư sản Pháp; còn Hồ Chí Minh xuất phát từ vị trí người dân thuộc địa phương
Đông, vốn đề cao tinh thần cộng đồng, luôn đặt quốc gia, dân tộc lên trên
nhân. Với Hồ Chí Minh, Tự do trước hết vẫn là tự do của toàn dân tộc chứ
chưa phải tự do nhân; Bình đẳng cũng được Hồ Chí Minh nâng lên
thành quyền bình đẳng giữa các dân tộc; còn Bác ái (fraternité) một khái
niệm quá rộng, như lòng bác ái của Chúa đòi hỏi phải yêu cả kẻ thù của
mình”, điều khó chấp nhận đối với các dân tộc bị áp bức! Hồ Chí Minh
hiểu khái niệm này theo đúng nghĩa của tình hữu ái, như tinh thần “tứ
hải giai huynh đệ”, nên Người thường quen gọi những người lao động, các
dân tộc bị áp bức là anh em (hỡi anh em ở các thuộc địa!, các dân tộc anh em,
các nước anh em,…).
Tóm lại, Hồ Chí Minh nhận thức Tự do, Bình đẳng, Bác ái qua lăng kính của
ngươì dân bị áp bức châu Á chứ không theo tinh thần cách mạng tư sản Pháp,
nên chỉ coi đó những yếu tố cần chứ chưa đủ. Cái giá trị lớn nhất Hồ
Chí Minh theo đuổi suốt đời là: “Độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho đồng bào
tôi, đó là tất cả những tôi muốn, đótất cả những gì tôi hiểu”. Điều quan
trọng ấy lại không có trong bảng giá trị của nền Cộng hoà Pháp, vậy, trong
thư kêu gọi những người Pháp hãy cộng tác bình đẳng, thân thiện với Việt
Nam để gây dựng hạnh phúc chung cho cả hai dân tộc, Người đã chủ động bổ
sung vào khẩu hiệu ấy một từ nữa: “Người Việt và người Pháp cùng tin tưởng
vào đạo đức: Tự do, Bình Đẳng, Bác ái, Độc lập” (Hồ Chí Minh: Toàn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.4. tr. 458). Thêm Độc lập để ràng buộc
họ: “Nước Pháp muốn độc lập, không có lý gì lại muốn nước Việt Nam không
độc lập?”
Như vậy, con đường Hồ Chí Minh tiếp biến các giá trị văn hoá nhân
loại lựa chọn, tích hợp những nhân tố tiến bộ, hợp lý, cải biến nó cho phù
hợp với truyền thống văn hoá dân tộc và nhu cầu đất nước; tức là tiếp thu trên
sở phê phán, tiếp nhận gắn liền với đổi mới, theo các tiêu chí: Dân tộc,
Dân chủ và Nhân văn.
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mac-Lênin, được hấp thụ một thế giới
quan, nhân sinh quan triệt để cách mạng khoa học, một khí sắc bén để
cải tạo hội và con người. Nhưng từ giác độ văn hoá phương Đông, Hồ Chí
Minh nhận thấy chủ nghĩa Mác-Lênin chủ yếu vẫn được hình thành trên nền
tảng triết phương Tây, mang dấu ấn đấu tranh giai cấp phương Tây. Để
được hoàn thiện, Người kiến nghị cần bổ sung sở lịch sử của chủ nghĩa
Mác bằng dân tộc học phương Đông, bởi phương Tây chưa phải toàn thế
giới ! Xuất phát từ đặc điểm của văn hoá phương Đông và Việt Nam, nhất
trong hoàn cảnh đang đấu tranh giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh vẫn chú
trọng hơn đến đoàn kết, thống nhất, đồng thuận dân tộc. Hồ Chí Minh đã
không tuyệt đối hoá đấu tranh giai cấp như một số người, chỉ thấy đấu tranh
giai cấp mà không thấy sách lược liên minh, hợp tác giai cấp mỗi giai đoạn
cụ thể (tất nhiên vừa hợp tác, vừa đấu tranh); không thấy vấn đề đoàn kết
giai cấp trong đại đoàn kết dân tộc; không thấy vấn đề liên minh giai cấp
trong mặt trận dân chủ chống phát xít,…
vậy, trong đấu tranh giải phóng dân tộc, với nhận thức rằng “chủ nghĩa
dân tộc là một động lực lớn của đất nước” “người ta không thể làm gì được,
cho người An Nam nếu như không dựa trên cái động lực đại duy nhất
trong đời sống xã hội của họ”, Hồ Chí Minh rất coi trọng sự đoàn kết, thống
nhất trong nội bộ dân tộc, đã ra sức củng cố mở rộng mặt trận dân tộc
thống nhất. Trong kháng chiến chống Pháp, lần Người đã phê phán những
biểu hiện tả khuynh của một số người: “Nghe người ta nói giai cấp đấu tranh,
mình cũng đề ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh mà không xét hoàn cảnh nước
mình như thế nào để làm cho đúng” “trong lúc cân toàn
4
(Sđd, t.5, tr.272.)
dân đoàn kết chủ trương giai cấp đấu tranh môt điều ngu ngốc
5
”.
(XYZ: , Tài liệu của Ban huấn luyệnDuy vật biện chứng và duy vật lịch sử
Trung ương (chưa đưa vào Hồ Chí Minh: )Toàn tập
Bên cạnh đó, một lãnh tụ cộng sản, được đi đến nhiều quốc gia,
bắt gặp, tiếp thu nhiều nền văn hóa nhưng ở Người, vẫn luôn giữ cái cốt cách
nhà nho - nghĩa khí. Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện sự quan tâm tới vấn đề
đạo đức bằng văn từ, quan trọng hơn bằng tự làm gương một cách tự giác,
kiên trì, hệ thống. Hồ Chí Minh nói: “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Suốt đời, Người chưa
hề biết khuất phục hay lùi bước trước kẻ thù. Hồ Chí Minh nói “dân chủ với
nhân dân, chuyên chính với kẻ thù của nhân dân”, chống bệnh quan liêu,
mệnh lệnh, yêu cầu phải quét sạch chủ nghĩa nhân... Suốt đời, Người
không nhận một cái cho riêng mình, Người không màng danh lợi, không
ham bia đá, tượng đồng. Cuộc đời của Người, từ lúc làm một thợ ảnh bình
thường ngõ hẻm Compoint nước Pháp, “một viên gạch hồng Bác chống lại
cả một mùa băng giá” đến khi làm Chủ tịch nước sống giữa thủ đô Nội,
vẫn là một cuộc đời thanh bạch, giản dị, tao nhã từ câu nói, tác phong đến vật
dùng trang hàng ngày, từ ǎn uống đến sở thích sống hoà mình với nhân
dân, từ ngôi nhà sàn Bác ở suốt 15 năm cuối của cuộc đời Người, đơn sơ, nho
nhỏ, chỉ những đồ dùng rất gần gũi với Bác: Một chiếc giường đơn trải

Preview text:

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN VIỆN BÁO CHÍ TIỂU LUẬN
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đề tài: Cơ sở lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh - Bài học đối với
thế hệ trẻ từ tấm gương tiếp biến văn hóa của Hồ Chí Minh
Sinh viên: Nguyễn Nguyệt Anh Mã sinh viên: 2151050006
Lớp tín chỉ: TH01001_K41.10 HÀ NỘI – 2021 MỞ ĐẦU 1: Lý do chọn đề tài
Nói về Bác, Tổng Bí thư Lê Duẩn từng khẳng định: “ Tư tưởng và đạo
đức cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng và nâng cao tâm hồn
của chúng ta. Ngọn cờ chói lọi của Người mãi mãi chỉ lối cho chúng ta tiến
lên phía trước”. Như chúng ta đã biết, tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, từ đó giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Với một hệ tư tưởng nhân văn
mang ý nghĩa quan trọng, tư tưởng Hồ Chí Minh đích thực là tài sản tinh thần
vô giá của Đảng và dân tộc ta, là hiện thân của con đường đấu tranh và thắng
lợi của Cách mạng Việt Nam. Để hình thành được tư tưởng vĩ đại ấy, cơ sở lý
luận đóng vai trò vô cùng quan trọng giúp Người tiếp thu được cả những tinh
hoa của giá trị truyền thống đất nước cũng như của nhân loại. Đặc biệt khi
tiếp cận được với chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã đúc rút được tư tưởng về
giải phóng dân tộc, con người và giai cấp đúng đắn.
Bên cạnh đó, thông qua việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, có thể thấy
sự tiếp biến văn hóa của Người thực sự xứng đáng là tấm gương cho thế hệ trẻ
ngày nay noi theo. Trước những tiếp thu văn hóa, Hồ Chí Minh luôn có sự
tiếp biến, học hỏi một cách chọn lọc, khoa học, hợp lý. Không những vậy,
Người còn bổ sung, phát triển, làm phong phú đồng thời gạt bỏ những điều
lạc hậu, lỗi thời. Từ đó, hình thành nên một nền tư tưởng đúng đắn, vừa theo
kịp thời đại vừa phù hợp với thực tiễn đất nước ta.
Quả thật, tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và
dân tộc ta, là hiện thân của con đường đấu tranh và thắng lợi của Cách mạng Việt Nam.
2: Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó nêu lên bài học đối với thế hệ trẻ thông
qua tấm gương tiếp biến văn hóa của Hồ Chí Minh
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Trên cơ sở đối tượng nghiên cứu, bài
tiểu luận có nhiệm vụ nghiên cứu rõ các nội dung sau:
+ Cơ sở lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
+ Bài học đối với thế hệ trẻ từ tấm gương tiếp biến văn hóa của Hồ Chí Minh
3: Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Tư tưởng Hồ Chí Minh
- Phạm vi: Cuối thế kỉ XIX đến nay
4: Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác - Lê nin, phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng cộng
sản Việt Nam về tư tưởng Hồ Chí Minh
- Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cơ sở lý luận hình thành
tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải dựa trên thế giới quan, phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, những giá trị truyền thống tốt đẹp của Việt Nam cũng
như tinh hoa văn hóa nhân loại. Trong quá trình nghiên cứu cần phải kết hợp
với việc sử dụng các phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, so sánh,
thống kê,… nhằm phản ánh chân thực quá trình hình thành tư tưởng của Người.
5: Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: Nghiên cứu cơ sở lý luận hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh giúp người học nắm vững những hệ thống quan điểm lý luận
toàn diện, sâu sắc trong nguồn gốc tư tưởng của Người. Đồng thời học hỏi về
tấm gương tiếp biến văn hóa của Hồ Chí Minh trong công cuộc giải phóng đất
nước, từ đó liên hệ đến thực tế ngày nay.
- Ý nghĩa thực tiễn: Thông qua việc nghiên cứu cơ sở lý luận
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, củng cố cho sinh viên kiến thức về vai trò
của giá trị truyền thống đất nước, tinh hóa văn hóa nhân loại và chủ nghĩa
Mác - Lênin . Từ đó kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, tích cực chủ động đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, bảo vệ
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như đường lối, chủ
trương của Đảng và Nhà nước.
6: Kết cấu của tiểu luận
Tiểu luận bao gồm hai chương:
- Chương I: Cơ sở lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
+ Một số khái niệm: Tư tưởng là gì?
Tư tưởng Hồ Chí Minh là gì?
+ Cơ sở lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
Tinh hóa văn hóa nhân loại Chủ nghĩa Mác - Lênin
- Chương II: Bài học với thế hệ trẻ từ tấm gương tiếp biến văn hóa của Hồ Chí Minh
+ Tiếp thu trên tinh thần chọn lọc, phù hợp, sáng tạo, không rập khuôn, giáo điều
+ Tiếp thu văn hoá trên nền tảng truyền thống văn hoá của đất
nước; hội nhập mà không đánh mất bản sắc dân tộc, vẫn giữ được tinh thần thuần tuý Việt Nam NỘI DUNG
Chương I: Cơ sở lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh 1.1: Một số khái niệm 1.1.1: Tư tưởng
Theo nghĩa chung nhất, tư tưởng là “quan điểm hoặc ý nghĩ chung của
con người đối với thế giới tự nhiên và xã hội”. (Nguyễn Như Ý. Đại từ điển
Tiếng Việt. Nxb. Văn hóa-Thông tin. Hà Nội 1999. tr1757). Trong thuật ngữ
“Tư tưởng Hồ Chí Minh”, khái niệm “tư tưởng” ở đây không có nghĩa là tinh
thần tư tưởng, ý nghĩa tư tưởng của một cá nhân, cộng đồng, mà có nghĩa là
một hệ thống những quan điểm, luận điểm mang giá trị như một học thuyết
được xây dựng trên một nền tảng triết học (thế giới quan và phương pháp
luận) nhất quán, đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của một giai cấp, một dân
tộc, phug hợp với nhu cầu tiến hóa của thực tiễn, nhất định, trở lại chỉ đạo và
cải tạo thực tiễn đó.
1.1.2: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm
2011) nêu khái niệm “Tư tưởng Hồ Chí Minh” như sau:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta,
kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của
Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân
dân ta giành thắng lợi”20.
Khái niệm trên đây chỉ rõ ba yếu tố sau:
Một là, đã nêu rõ bản chất khoa học và cách mạng cũng như nội dung cơ
bản của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ đó phản ánh những
vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là
hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về mục tiêu xây dựng một nước Việt
Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng
đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Để đạt mục tiêu đó, con đường phát
triển của dân tộc Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Mục tiêu và con đường này đúng theo lý luận Mác-Lênin; khẳng định vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của Nhà nước cách
mạng; xác định lực lượng cách mạng là toàn thể nhân dân Việt Nam yêu
nước, xây dựng con người Việt Nam có năng lực và phẩm chất đạo đức cách
mạng; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại trên cơ sở quan hệ
quốc tế hòa bình, hợp tác, hữu nghị cùng phát triển; với phương pháp cách mạng phù hợp...
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống lớn bao gồm những quan điểm,
nguyên tắc, phương pháp về cách mạng Việt Nam ở tầm chiến lược. Hồ Chí
Minh còn có tư tưởng về quân sự, ngoại giao, đối ngoại, phương pháp cách
mạng, tư tưởng đổi mới, hội nhập và phát triển. Hồ Chí Minh còn có cả những
quan niệm về dự báo xu thế, triển vọng của cách mạng Việt Nam, quan hệ
giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh
còn thể hiện ở những quan điểm giữa kinh tế và chính trị với văn hóa, giữa xã
hội với quản lý xã hội, cơ cấu xã hội và các chính sách xã hội hướng tới mục
tiêu phát triển và hiện đại hóa Việt Nam…Tư tưởng Hồ Chí Minh hướng tới
phát triển con người từ cá nhân tới cộng đồng, từ dân tộc đến nhân loại, thể
hiện rất sâu sắc không chỉ tầm nhìn chiến lược mà còn là chủ nghĩa nhân đạo,
chủ nghĩa nhân văn cao cả của Người. Trong tư duy lý luận và trong hoạt
động thực tiễn của mình, Hồ Chí Minh còn có những tư tưởng về giáo dục -
đào tạo, về khoa học - công nghệ, về dùng người hiền tài để chấn hưng dân tộc, v.v.21
Hai là, đã nêu lên cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa
Mác-Lênin – giá trị cơ bản nhất trong quá trình hình thành và phát triển của tư
tưởng đó; đồng thời tư tưởng Hồ Chí Minh còn bắt nguồn từ việc Người, bằng
phẩm chất cá nhân của mình, đã tiếp thu các giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại.
Ba là, đã nêu lên ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định tư tưởng
Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân
tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Cùng với
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận cấu thành làm
nên nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam.
1.2: Cơ sở lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
1.2.1: Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
Thứ nhất, chủ nghĩa yêu nước với ý chí bất khuất trong đấu tranh dựng nước và giữ nước:
Chủ nghĩa yêu nước được xem là động lực, sức mạnh, niềm tự hào và là
nhân tố hàng đầu trong đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Bởi vậy,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là
một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm
lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ,
to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán
nước và lũ cướp nước”.
Chính sức mạnh truyền thống ấy đã thúc giục Nguyễn Tất Thành ra đi
tìm đường cứu nước. Đồng thời chi phối mọi suy nghĩ, hành động của Người
trong suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng. Người cũng khẳng định chủ
nghĩa yêu nước chính là cơ sở tư tưởng đã dẫn dắt Người đến với chủ nghĩa
Mác - Lênin: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ
nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”.
Thứ hai, tinh thần nhân nghĩa, tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái.
Xuất phát từ hoàn cảnh và nhu cầu đối phó với thiên nhiên và chống
giặc ngoại xâm của dân tộc, người Việt Nam sống gắn bó, yêu thương, đùm
bọc lẫn nhau trong tình làng nghĩa xóm, tắt lửa tối đèn có nhau. Trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, con người là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định thành
công của cách mạng; dân là gốc của nước; nước lấy dân làm gốc, gốc có vững
thì cây mới bền; xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân; đoàn kết dân tộc gắn liền
với đoàn kết quốc tế là một nguyên tắc chiến lược quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Truyền thống này đã đi sâu vào mỗi con người Việt
Nam góp phần vô cùng quan trọng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Thứ ba, niềm tự hào về lịch sử, trân trọng nền văn hóa, ngôn ngữ, phong tục
tập quán và những truyền thống tốt đẹp khác của dân tộc.
Đó chính là một cơ sở hình thành tư tưởng, phẩm chất của nhà văn hóa
kiệt xuất Hồ Chí Minh với quan điểm văn hóa là mục tiêu, động lực của cách
mạng; cần giữ gìn cốt cách văn hóa dân tộc đồng thời tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại, xây dựng nền văn hoá mới của Việt Nam. Chính Hồ Chí Minh
là một biểu tượng đẹp của sự tích hợp tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây.
Thứ tư, truyền thống lạc quan, yêu đời, có niềm tin vào sức mạnh của bản
thân, của chính nghĩa: truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo
trong sản xuất và chiến đấu
Trước cái nghèo, cái khổ cùng với vô vàn áp bức, bóc lột, nhân dân
Việt Nam vẫn đối diện với một tinh thần lạc quan, yêu đời. Đó không phải là
sự chủ quan mà đích thực là niềm tin mạnh mẽ, vững chắc vào những điều
mình đã làm, đã tin tưởng đi theo, quyết không khuất phục trước số phận hay
bất kỳ kẻ thù nào. Đứng trước khó khăn, nhân dân Việt Nam vẫn luôn động
viên nhau “Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”.
Dân tộc Việt Nam hình thành và phát triển trong điều kiện hoàn cảnh tự
nhiên và xã hội khó khăn, khắc nghiệt ngay từ buổi đầu dựng nước và giữ
nước. Để tồn tại và phát triển, người Việt Nam từ thế hệ này đến thế hệ khác
đã phải lao động chăm chỉ, phải chiến đấu quả cảm và trí thông minh, sáng
tạo. Đó là truyền thống tốt đẹp góp phần tạo nên bản sắc văn hóa của dân tộc
Việt Nam. Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát huy truyền thống đó vô cùng toàn diện.
1.2.2: Tinh hoa văn hóa nhân loại
Tinh hoa văn hóa phương Đông:
Tiếp thu cả Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo một cách có chọn lọc, Hồ
Chí Minh đã phê phán, gạt bỏ những yếu tố duy tâm, lạc hậu để học hỏi và
chuyển hóa những yếu tố duy vật, tích cực, phù hợp với điều kiện lịch sử xã
hội, con người và thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Nho giáo: còn gọi là Đạo Nho hay Đạo Khổng là một hệ thống đạo
đức, triết học xã hội, triết lý giáo dục và triết học chính trị do Khổng Tử đề
xướng và được các môn đồ của ông phát triển với mục đích xây dựng một xã
hội thịnh trị. Nho giáo rất có ảnh hưởng tại ở các nước châu Á là Trung Quốc,
Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc. Đối với Nho giáo, Hồ Chí Minh phân tích:
“Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều
điều không đúng song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học”. “Chỉ
có những người cách mạng chân chính mới thu thái được những điều hiểu
biết quý báu của các đời trước để lại”. Lênin dạy chúng ta như vậy"36.
Sinh ra trong một gia đình Nho giáo, Hồ Chí Minh đã được tiếp thu
những quan điểm tốt đẹp của Nho giáo. Đó là mặt triết lý hành động, tư tưởng
về nhập thế, hành đạo, giúp đời; triết lý nhân sinh, lấy tu thân làm gốc, lấy
hành động để lập thân và có lý tưởng về một xã hội bình trị, thế giới đại đồng.
Nho giáo còn đề cao sự ham học hỏi, đức “khiêm tốn”, tính “hoà nhã”, cách
đối nhân xử thế “có lý, có tình”. Bởi vậy, Người đánh giá rất cao Khổng Tử.
Ngày 19/5/1966, Người đến thăm Khổng Tử, khắc chữ lên bia đá: “Khổng Tử
là người thầy vĩ đại nhất của nhân loại”.
Phật giáo: là một tôn giáo lớn bao gồm một loạt các truyền thống, tín
ngưỡng và phương pháp tu luyện dựa trên lời dạy của Thích Ca Mâu Ni. Dù
còn có nhiều yếu tố duy tâm nhưng đã có nhiều mặt tích cực ảnh hưởng sâu
sắc tới sự hình thành nhân cách, tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh. Đó là tư
tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người; nếp sống đạo đức,
trong sạch, giản dị, hướng thiện; tinh thần bình đẳng, dân chủ chống lại mọi
sự phân biệt đẳng cấp; đề cao lao động, gắn bó với nhân dân, đất nước. Những
quan điểm tích cực đó trong triết lý của Phật giáo được Hồ Chí Minh vận
dụng sáng tạo để đoàn kết toàn dân vì nước Việt Nam hòa bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ và giàu mạnh.Trong thư gửi Hội Phật tử năm 1947, Người
viết: “Đức Phật là đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn, muốn cứu chúng sinh ra
khỏi khổ nạn, Người phải hy sinh tranh đấu, diệt lũ ác ma. Nay đồng bào ta
đại đoàn kết, hy sinh của cải xương máu, kháng chiến đến cùng, để đánh tan
thực dân phản động, để cứu quốc dân ra khỏi khổ nạn, để giữ quyền thống
nhất và độc lập của Tổ quốc. Thế là chúng ta làm theo lòng đại từ đại bi của
Đức Phật Thích Ca, kháng chiến để đưa giống nòi ra khỏi cái khổ ải nô lệ”.
Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển những tư tưởng nhân bản, đạo
đức tích cực trong Phật giáo vào việc xây dựng xã hội mới, con người mới
Việt Nam hiện nay. Người chỉ rõ nhiệm vụ: "Đồng bào Phật giáo cả nước, từ
Bắc đến Nam, đều cố gắng thực hiện lời Phật dạy là: "Lợi lạc quần sinh, vô
ngã vị tha""38. Nghĩa là, đồng bào Phật giáo, cũng như đồng bào cả nước đều
có thể cùng nhau thực hiện lời Phật dạy, luôn sống, làm việc với tinh thần
"Đem lại lợi ích và vui sướng cho mọi người, quên mình vì người khác". Điều
đó là phù hợp với lối sống xã hội chủ nghĩa "mình vì mọi người, mọi người vì mình".
Tư tưởng Đạo giáo với thuyết “vô vi” (nghĩa là chỉ tiếp thu những yếu
tố tích cực) đã ảnh hưởng tới hình thành nhân cách Hồ Chí Minh, đó là sống
luôn lạc quan, yêu đời, yêu thiên nhiên, cỏ cây, sông núi... đó là những nét
đẹp ở Hồ Chí Minh, một con người bình dị mà thanh cao. Người còn kêu gọi
nhân dân ta trồng cây, tổ chức “Tết trồng cây” để bảo vệ môi trường sinh thái
cho chính cuộc sống con người. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa và
phát triển tư tưởng thoát khỏi mọi ràng buộc của vòng danh lợi trong Lão
giáo. Người khuyên cán bộ, đảng viên ít lòng tham muốn về vật chất, thực
hiện cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; hành động theo đạo lý với ý nghĩa
là hành động đúng với quy luật tự nhiên, xã hội.
Mặt khác, Hồ Chí Minh còn chú ý kế thừa, phát triển nhiều ý tưởng của
các trường phái khác nhau trong các nhà tư tưởng phương Đông cổ đại khác
như Mặc Tử, Hàn Phi Tử, Quản Tử, v.v...Đồng thời, Người cũng chú ý tìm
hiểu những trào lưu tư tưởng tiến bộ thời cận hiện đại ở Ấn Độ, Trung Quốc
như chủ nghĩa Găngđi, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn. Hồ Chí Minh
đã phát triển sáng tạo các quan điểm về dân tộc, dân quyền, dân sinh của Tôn
Trung Sơn trong cách mạng dân chủ tư sản thành tư tưởng đấu tranh cho Độc
lập - Tự do - Hạnh phúc của con người và dân tộc Việt Nam theo con đường
cách mạng vô sản. Là nhà mácxít sáng tạo, Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát
triển những tinh hoa trong tư tưởng, văn hóa phương Đông để giải quyết
những vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam thời hiện đại.
Tinh hoa văn hóa phương Tây:
Trong những năm 1905-1906, khi còn học ở Trường tiểu học Pháp -
bản xứ ở Vinh (tỉnh Nghệ An), Hồ Chí Minh đã tiếp xúc với các tác phẩm văn
hóa phương Tây, quan tâm sâu sắc tới khẩu hiệu nổi tiếng của Đại Cách mạng
Pháp năm 1789: “LIBERTÉ, ÉGALITÉ, FRATERNITÉ” (Tự do, Bình đẳng,
Bác ái). Những tư tưởng tiến bộ của cách mạng Pháp về “Tự do, Bình đẳng,
Bác ái” đã ảnh hưởng mạnh đến Người và là một trong những yếu tố tác động
tới hướng đi tìm đường cứu nước của Người.
Hồ Chí Minh đã nhanh chóng tiếp thu được vốn tri thức của thời đại,
nâng cao trình độ sử dụng ngôn ngữ, hiểu biết văn hóa Pháp, Mĩ. Đặc biệt,
Người đã nắm bắt được các giá trị về quyền sống, quyền tự do, quyền mưu
cầu hạnh phúc của Tuyên ngôn độc lập nước Mỹ năm 1776, bản Tuyên ngôn
nhân quyền và dân quyền của Pháp. Không dừng lại ở đấy, Người còn trực
tiếp tìm hiểu tư tưởng của dân chủ thông qua, các tác phẩm của những nhà
khai sáng nổi tiếng như Vônte, Rútxô, Môngtexkiơ,… Từ đó, Người đã dàn
hình thành được phong cách hoạt động dân chủ trong thực tiễn cuộc sống.
Như vậy, trong quá trình hình thành phát triển tư tưởng của mình, Hồ Chí
Minh đã kế thừa có chọn lọc tinh hoa văn hoá phương Đông phương Tây,
nâng lên một trình độ mới trên cơ sở phương pháp luận Mácxít – Lêninnít.
1.2.3: Chủ nghĩa Mác - Lênin
Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của
tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh với hạt nhân lý luận là triết học duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử. Trên cơ sở đó Người đánh giá, phân tích các học
thuyết đương thời và tổng kết thực tiễn đúc rút lý luận và hình thành nên một
hệ thống những quan điểm cơ bản cách mạng Việt Nam, hình thành nên tư
tưởng chính trị Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giai cấp và con người.
Từ nhu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam, chủ nghĩa Mác - Lênin
đích thực là kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Qua
những tác phẩm của Lênin, Người đã thấy rõ mối quan hệ thống nhất giữa
cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Nhờ đó, Hồ
Chí Minh tìm thấy con đường giải phóng dân tộc và trở lại tìm hiểu chủ nghĩa Mác sâu hơn.
Trên cơ sở năng lực và trí tuệ xuất chúng, Hồ Chí Minh tiếp thu học
thuyết Mác-Lênin một cách chọn lọc, không rập khuôn máy móc, không sao
chép giáo điều. Người tiếp thu theo phương pháp mácxít, cốt nắm lấy cái tinh
thần, cái bản chất và vận dụng sáng tạo lập trường, quan điểm, phương pháp
của chủ nghĩa Mác - Lênin để hoạch định đường lối, chủ trương phù hợp với
cách mạng Việt Nam. Bởi vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin được Hồ Chí Minh coi
là “cái cẩm nang thần kỳ, là kim chỉ nam mà còn là ánh sáng mặt trời soi
đường chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản”. Ngay từ cuối những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã khẳng
định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Do sự vận
dụng và phát triển vô cùng có chọn lọc và tài tình, Hồ Chí Minh đã giải quyết
được cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước và người lãnh đạo cách mạng ở
Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin,
Hồ Chí Minh đã trở thành người cộng sản với tầm vóc trí tuệ lớn như Lênin
mong muốn: “Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu
trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra”
Tổng kết kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng
định: “Chúng tôi giành được thắng lợi đó là do nhiều nhân tố, nhưng cần
phải nhấn mạnh rằng chúng tôi giành được những thắng lợi đó trước hết là
nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác - Lênin”.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh không
những đã vận dụng sáng tạo, mà còn là bổ sung, phát triển và làm phong phú
chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại mới. Có thể khẳng định rằng chủ nghĩa
Mác – Lênin là nguồn gốc lý luận cơ sở chủ yếu nhất của sự hình thành phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước nhảy vọt
trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Chương II: Bài học đối với thế hệ trẻ từ tấm gương tiếp biến văn hóa Hồ Chí Minh
2.1: Tiếp thu trên tinh thần chọn lọc, phù hợp, sáng tạo, không rập khuôn, giáo điều
Hồ Chí Minh là một hiện tượng đa văn hoá. Các nhà báo nước ngoài
từng tiếp xúc với Hồ Chí Minh đều nhận xét: “Trong văn hoá Hồ Chí Minh
có chất "uymua" Anh, chất lịch thiệp, trang nhã Pháp, chất thâm thuý, hàm
súc của các nhà hiền triết phương Đông”.
Trong tự nhiên cũng như trong xã hội, không có hiện tượng nào mang
“nền tảng tinh khiết, không pha trộn”. Văn hoá càng như thế. Chính Hồ Chí
Minh đã sớm khẳng định điều này: “Văn hoá Việt Nam là ảnh hưởng lẫn
nhau của văn hoá Đông phương và Tây phương chung đúc lại”. Người cũng
căn dặn: “Mình đã hưởng cái hay của người thì cũng phải có cái hay cho
người ta hưởng. Mình đừng chịu vay mà không trả” (Báo Cứu quốc, ngày 9-
10-1945), nghĩa là phải biết học tập một cách sáng tạo, để có những đóng
góp xứng đáng vào kho tàng văn hoá của nhân loại. Đó là nguyên tắc phương
pháp luận nhất quán của Hồ Chí Minh trên con đường tiếp biến các giá trị văn hoá của loài người.
Với Người, chủ nghĩa Mác - Lênin “còn là mặt trời soi sáng con đường
chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.128). Tuy nhiên, Người khẳng
định: “Lý luận cách mạng không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nam cho
hành động cách mạng; và lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy
tính chất sáng tạo; lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận
mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động. Những người cộng sản các nước phải
cụ thể hoá chủ nghĩa Mác - Lênin cho thích hợp với điều kiện hoàn cảnh từng
lúc và từng nơi” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.496). Vì vậy, Người
không những vận dụng sáng tạo mà còn góp phần bổ sung và phát triển những
nội dung mới khiến cho chủ nghĩa Mác - Lênin được thêm phong phú, đa
dạng hơn. Về vấn đề Đảng, Lênin cho rằng sự ra đời của Đảng Cộng sản là
sản phẩm của chủ nghĩa Mác kết hợp với phong trào công nhân, nhưng ở Việt
Nam sự ra đời của Đảng Cộng sản là sản phẩm kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Về vấn đề giải phóng giai
cấp, giải phóng dân tộc, chủ nghĩa Mác-Lênin bao giờ cũng xác định giải
phóng giai cấp là trước hết, nhưng ở Việt Nam, theo Hồ Chí Minh, muốn giải
phóng giai cấp trước hết phải giải phóng dân tộc và độc lập dân tộc chỉ có ý
nghĩa khi mang lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân… Rõ ràng, lý luận Mác-
Lênin đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo vào thực tiễn Việt
Nam và từ thực tiễn sinh động bổ sung cho lý luận, làm phong phú thêm cho
lý luận. Nhờ vậy mới có đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo để đưa cách
mạng Việt Nam giành được thắng lợi trong công cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc và trong công cuộc xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.
Trong một bài đăng trên tạp chí Cộng sản số tháng 5-1921 của Đảng
Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã nêu vấn đề: “Chế độ cộng sản có thể áp
dụng ở châu Á nói chung và ở Đông Dương nói riêng không?”. Lúc bấy giờ,
thuyết "Européo-centrisme" còn đang thống trị châu Âu, vẫn coi châu Âu là
trung tâm của thế giới, xem thường phương Đông lạc hậu, nhất là các dân tộc
nhược tiểu. Các đảng xã hội Quốc tế II chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề
dân tộc thuộc địa. Các đảng cộng sản theo Quốc tế III thì cho rằng: vấn đề
giải phóng các dân tộc thuộc địa chỉ có thể được giải quyết khi nào cách mạng
vô sản giành được thắng lợi ở chính quốc. Cả Mác, Ăngghen, rồi Lênin cũng
chưa nghĩ đến khả năng các dân tộc thuộc địa có thể tự giải phóng mình ngay
giữa vòng vây của chủ nghĩa đế quốc. Thế mà Nguyễn Ái Quốc lại cả gan đưa
ra một quan điểm trái ngược, “phi kinh điển” so với các luận điểm trên. Từ sự
phân tích những điều kiện kinh tế- chính trị- xã hội…của châu Á (chế độ
ruộng công, thuyết bình đẳng về tài sản, sự giáo dục và lao động cưỡng bức
đối với người lớn, chế độ phúc lợi cho người già, tư tưởng “dân vi quý”, sự
lên án nghiêm khắc thói ăn bám,…), Nguyễn Ái Quốc đưa ra nhận định: “chủ
nghĩa cộng sản thâm nhập dễ dàng vào châu Á, dễ dàng hơn là ở châu Âu”,
nghĩa là theo Nguyễn Ái Quốc, cách mạng thuộc địa đi theo con đường vô sản
có thể nổ ra ở châu Á, nếu “chúng ta có nhiệt tình tuyên truyền chủ nghĩa
cộng sản và thực tâm muốn giúp đỡ những người lao động lật đổ ách của
những kẻ bóc lột” thì họ sẽ trở thành một lực lượng khổng lồ “và trong khi
thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa
đế quốc” họ cũng “có thể giúp đỡ những người anh em ở phương Tây trong
nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”. (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị
quốc gia, H.2002, t.1. tr. 36.) Đó quả thật là một luận điểm táo bạo, mới mẻ
cho thấy sự tiếp thu, vận dụng đầy sáng tạo của Hồ Chí Minh từ chủ nghĩa Mác - Lênin.
Sau khi về Quảng Châu (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc có dịp tiếp xúc
với chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn. Qua đó, tiếp thu những yếu tố
phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đề ra mục tiêu "dân tộc độc lập, dân
quyền tự do, dân sinh hạnh phúc". Tôn Trung Sơn đề ra chủ nghĩa dân tộc vì
theo ông, Trung Quốc mới chỉ có chủ nghĩa gia tộc, chủ nghĩa tông tộc mà
chưa có chủ nghĩa dân tộc. Hiện Trung Quốc tuy là nước độc lập nhưng đang
bị các nước đế quốc áp bức, xâu xé như một "thứ thuộc địa", do đó phải đề
xướng chủ nghĩa dân tộc, chống đế quốc, làm cho Trung Quốc hưng thịnh.
Việt Nam khác Trung Quốc, chủ nghĩa gia tộc và tông tộc không nặng như
Trung Quốc, trái lại, do lập quốc sớm, nên chủ nghĩa yêu nước và truyền
thống đoàn kết dân tộc phát triển rất mạnh mẽ. Bởi vậy, Hồ Chí Minh không
nói chủ nghĩa dân tộc mà đề ra mục tiêu dân tộc độc lập. Tiếp đến, Tôn Trung
Sơn đề ra chủ nghĩa dân quyền, theo ông, các nước Âu - Mỹ thời quân chủ
không có tự do nên mới nêu khẩu hiệu đấu tranh cho tự do; trái lại, Trung
Quốc từ xưa đến nay đã sống đầy đủ trong tự do. Vì vậy, ông đề ra nội dung
của chủ nghĩa dân quyền là dân chủ, bình đẳng. Hồ Chí Minh không nói chủ
nghĩa dân quyền như Tôn Trung Sơn, mà nói dân quyền tự do, bởi Việt Nam
là thuộc địa của Pháp, mất quyền độc lập, phải giành lại độc lập mới có tự do,
do đó mới nhấn mạnh "Không có gì quý hơn độc lập, tự do!". Cuối cùng, Tôn
Trung Sơn đề ra chủ nghĩa dân sinh, coi đó là động lực tối cao, là trọng tâm
của mọi hoạt động lịch sử. Mục tiêu của ông là xoá bỏ tình trạng nghèo nàn,
làm cho mọi người được quân bình về mặt tài phú mà không còn đại bần nữa.
Hồ Chí Minh không nói chủ nghĩa dân sinh mà nói dân sinh hạnh phúc, làm
cho ai cũng có cơm ăn, áo mặc, được sống một đời hạnh phúc. Nếu nước độc
lập, tự do mà dân không được hưởng hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có ý
nghĩa gì. Tóm lại, Hồ Chí Minh đã lấy chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung
Sơn làm cơ sở, từ đó mô phỏng, học hỏi có chọn lọc, biến đổi cho phù hợp
với thực tiễn Việt Nam.
Qua đó, có thể thấy sự tiếp biến văn hóa vô cùng thông minh, tinh tế
của Hồ Chí Minh và tầm quan trọng của nó đối với cách mạng Việt Nam.
Ngày nay, trong thời kỳ hội nhập, thế hệ trẻ - nền móng của đất nước càng
phải thấm nhuần, học hỏi tấm gương tiếp biến của Người: Không tiếp thu “cả
gói" mà biết lựa chọn những cái hợp lý, cái cần thiết, tiếp thu trên tinh thần
vận dụng có đổi mới, không rập khuôn, giáo điều. Không chỉ trong công cuộc
xây dựng đất nước mà ngay cả trong cuộc sống của mỗi người cũng cần học
hỏi, tiếp thu nhiều nguồn văn hóa để làm phong phú kiến thức, hiểu biết của
mình. Song phải tự nhận thức được đúng, sai, thiếu, thừa để học hỏi được
những điều đúng đắn, gạt bỏ được những thứ sai trái, lỗi thời, không phù hợp
với bản thân, thời đại xã hội ngày nay.
2.2: Tiếp thu văn hoá trên nền tảng truyền thống văn hoá của đất nước;
hội nhập mà không đánh mất bản sắc dân tộc, vẫn giữ được tinh thần thuần tuý Việt Nam
Trong hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành đã có điều
kiện đặt chân đến nhiều nước, biết nhiều ngoại ngữ, làm nhiều nghề, tiếp xúc
với nhiều vĩ nhân,…do đó có cơ hội tiếp xúc với nhiều nền văn hoá, gia nhập
nhiều tổ chức (Công đoàn lao động hải ngoại ở Anh, Câu lạc bộ Faubourg,
Hội Tam điểm,…) để học cách tổ chức, tìm hiểu các cơ chế chính trị – xã hội,
…nhằm chắt lọc lấy cái hay, cái tốt, cái thích hợp, phục vụ cho sự nghiệp cứu
nước, giải phóng dân tộc và xây dựng nước Việt Nam độc lập trong tương lai.
Tại Pháp, Người đã tiếp thu lý tưởng nhân quyền, dân quyền và pháp
quyền của các nhà Khai sáng Pháp và vận dụng nó vào cuộc đấu tranh, phê
phán chế độ thực dân, đòi các quyền ấy cho các dân tộc thuộc địa. Có thể tìm
thấy dấu ấn ảnh hưởng các giá trị của nền Cộng hoà Pháp trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam, lời
mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập 1945, trong Hiến
pháp đầu tiên 1946,… Đúng là Hồ Chí Minh đã sớm bị hấp dẫn bởi lý tưởng
Tự do, Bình đẳng, Bác ái của Đại cách mạng Pháp và muốn đi sang Pháp để
tìm hiểu xem những gì ẩn đằng sau ba từ ấy. Và Người đã nhận ra rằng nền
Cộng hoà Pháp chủ yếu được xây dựng trên quan điểm giá trị về con người cá
nhân, nhất là về quyền tự do, bình đẳng của cá nhân theo tinh thần cách mạng
tư sản Pháp; còn Hồ Chí Minh xuất phát từ vị trí người dân thuộc địa phương
Đông, vốn đề cao tinh thần cộng đồng, luôn đặt quốc gia, dân tộc lên trên cá
nhân. Với Hồ Chí Minh, Tự do trước hết vẫn là tự do của toàn dân tộc chứ
chưa phải là tự do cá nhân; Bình đẳng cũng
được Hồ Chí Minh nâng lên
thành quyền bình đẳng giữa các dân tộc; còn Bác ái (fraternité) – một khái
niệm quá rộng, như lòng bác ái của Chúa đòi hỏi phải “yêu cả kẻ thù của
mình”, là điều khó chấp nhận đối với các dân tộc bị áp bức! Hồ Chí Minh
hiểu khái niệm này theo đúng nghĩa của nó là tình hữu ái, như tinh thần “tứ
hải giai huynh đệ”, nên Người thường quen gọi những người lao động, các
dân tộc bị áp bức là anh em (hỡi anh em ở các thuộc địa!, các dân tộc anh em, các nước anh em,…).
Tóm lại, Hồ Chí Minh nhận thức Tự do, Bình đẳng, Bác ái qua lăng kính của
ngươì dân bị áp bức châu Á chứ không theo tinh thần cách mạng tư sản Pháp,
nên chỉ coi đó là những yếu tố cần chứ chưa đủ. Cái giá trị lớn nhất mà Hồ
Chí Minh theo đuổi suốt đời là: “Độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho đồng bào
tôi, đó là tất cả những gì tôi muốn, đó là tất cả những gì tôi hiểu”. Điều quan
trọng ấy lại không có trong bảng giá trị của nền Cộng hoà Pháp, vì vậy, trong
thư kêu gọi những người Pháp hãy cộng tác bình đẳng, thân thiện với Việt
Nam để gây dựng hạnh phúc chung cho cả hai dân tộc, Người đã chủ động bổ
sung vào khẩu hiệu ấy một từ nữa: “Người Việt và người Pháp cùng tin tưởng
vào đạo đức: Tự do, Bình Đẳng, Bác ái, Độc lập” (Hồ Chí Minh: Toàn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.4. tr. 458). Thêm Độc lập để ràng buộc
họ: “Nước Pháp muốn độc lập, không có lý gì lại muốn nước Việt Nam không độc lập?”
Như vậy, con đường Hồ Chí Minh tiếp biến các giá trị văn hoá nhân
loại là lựa chọn, tích hợp những nhân tố tiến bộ, hợp lý, cải biến nó cho phù
hợp với truyền thống văn hoá dân tộc và nhu cầu đất nước; tức là tiếp thu trên
cơ sở phê phán, tiếp nhận gắn liền với đổi mới, theo các tiêu chí: Dân tộc, Dân chủ và Nhân văn.
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mac-Lênin, được hấp thụ một thế giới
quan, nhân sinh quan triệt để cách mạng và khoa học, một vũ khí sắc bén để
cải tạo xã hội và con người. Nhưng từ giác độ văn hoá phương Đông, Hồ Chí
Minh nhận thấy chủ nghĩa Mác-Lênin chủ yếu vẫn được hình thành trên nền
tảng triết lý phương Tây, mang dấu ấn đấu tranh giai cấp ở phương Tây. Để
được hoàn thiện, Người kiến nghị cần bổ sung cơ sở lịch sử của chủ nghĩa
Mác bằng dân tộc học phương Đông, bởi phương Tây chưa phải là toàn thế
giới ! Xuất phát từ đặc điểm của văn hoá phương Đông và Việt Nam, nhất là
trong hoàn cảnh đang đấu tranh giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh vẫn chú
trọng hơn đến đoàn kết, thống nhất, đồng thuận dân tộc. Hồ Chí Minh đã
không tuyệt đối hoá đấu tranh giai cấp như một số người, chỉ thấy đấu tranh
giai cấp mà không thấy sách lược liên minh, hợp tác giai cấp ở mỗi giai đoạn
cụ thể (tất nhiên là vừa hợp tác, vừa đấu tranh); không thấy vấn đề đoàn kết
giai cấp trong đại đoàn kết dân tộc; không thấy vấn đề liên minh giai cấp
trong mặt trận dân chủ chống phát xít,…
Vì vậy, trong đấu tranh giải phóng dân tộc, với nhận thức rằng “chủ nghĩa
dân tộc là một động lực lớn của đất nước”, “người ta không thể làm gì được
cho người An Nam nếu như không dựa trên cái động lực vĩ đại và duy nhất
trong đời sống xã hội của họ”, Hồ Chí Minh rất coi trọng sự đoàn kết, thống
nhất trong nội bộ dân tộc, đã ra sức củng cố và mở rộng mặt trận dân tộc
thống nhất. Trong kháng chiến chống Pháp, có lần Người đã phê phán những
biểu hiện tả khuynh của một số người: “Nghe người ta nói giai cấp đấu tranh,
mình cũng đề ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh mà không xét hoàn cảnh nước
mình như thế nào để làm cho đúng”4 (Sđd, t.5, tr.272.) “trong lúc cân toàn
dân đoàn kết mà chủ trương giai cấp đấu tranh là môt điều ngu ngốc5”.
(XYZ: Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, Tài liệu của Ban huấn luyện
Trung ương (chưa đưa vào Hồ Chí Minh: Toàn tập)
Bên cạnh đó, dù là một lãnh tụ cộng sản, được đi đến nhiều quốc gia,
bắt gặp, tiếp thu nhiều nền văn hóa nhưng ở Người, vẫn luôn giữ cái cốt cách
nhà nho - nghĩa khí. Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện sự quan tâm tới vấn đề
đạo đức bằng văn từ, quan trọng hơn là bằng tự làm gương một cách tự giác,
kiên trì, có hệ thống. Hồ Chí Minh nói: “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Suốt đời, Người chưa
hề biết khuất phục hay lùi bước trước kẻ thù. Hồ Chí Minh nói “dân chủ với
nhân dân, chuyên chính với kẻ thù của nhân dân”, chống bệnh quan liêu,
mệnh lệnh, yêu cầu phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân... Suốt đời, Người
không nhận một cái gì cho riêng mình, Người không màng danh lợi, không
ham bia đá, tượng đồng. Cuộc đời của Người, từ lúc làm một thợ ảnh bình
thường ở ngõ hẻm Compoint nước Pháp, “một viên gạch hồng Bác chống lại
cả một mùa băng giá” đến khi làm Chủ tịch nước sống giữa thủ đô Hà Nội,
vẫn là một cuộc đời thanh bạch, giản dị, tao nhã từ câu nói, tác phong đến vật
dùng tư trang hàng ngày, từ ǎn uống đến sở thích sống hoà mình với nhân
dân, từ ngôi nhà sàn Bác ở suốt 15 năm cuối của cuộc đời Người, đơn sơ, nho
nhỏ, chỉ có những đồ dùng rất gần gũi với Bác: Một chiếc giường đơn trải