-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Cơ sở văn hóa Việt Nam Nho Giáo | Trường Đại Học Thủ Đô Hà Nội
Cơ sở văn hóa Việt Nam Nho Giáo của Trường Đại Học Thủ Đô Hà Nội. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF gồm 43 trang giúp bạn tham khảo, ôn tập và hoàn thành tốt bài tập của mình đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Lịch sử 3 tài liệu
Đại học Thủ đô Hà Nội 603 tài liệu
Cơ sở văn hóa Việt Nam Nho Giáo | Trường Đại Học Thủ Đô Hà Nội
Cơ sở văn hóa Việt Nam Nho Giáo của Trường Đại Học Thủ Đô Hà Nội. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF gồm 43 trang giúp bạn tham khảo, ôn tập và hoàn thành tốt bài tập của mình đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Lịch sử 3 tài liệu
Trường: Đại học Thủ đô Hà Nội 603 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Thủ đô Hà Nội
Preview text:
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt | Nghĩa |
TCN | Trước công nguyên
|
MỤC LỤC
Chương 1: Sự hình thành của Nho Giáo 6
Chương 2: Nội dung cơ bản và sự phát triển của Nho giáo 9
Chương 3: Quá trình thâm nhập, phát triển và những đặc điểm của Nho giáo tại Việt Nam 18
2
3.1.6. Nho Giáo thời nhà Nguyễn 21
3
4
LỜI MỞ ĐẦU
Đối với các nước Châu Á, Nho giáo đã trở thành một phần không thể thiếu trong nền văn hóa. Nho giáo bắt nguồn từ Trung Quốc, sau đó mở rộng ra đến các nước như Nhật Bản, Việt Nam,…. Nói đến Nho giáo, mỗi người chúng ta vừa cảm thấy quen thuộc, vừa cảm thấy lạ lẫm. Quen thuộc bởi nó đã gắn liền với nền văn hóa của Việt Nam ta. Lạ lẫm vì hiện này có rất nhiều người không hiểu rõ về nó. Từ những triều đại đầu tiên ở Việt Nam đã coi Nho giáo là dụng cụ để phát triển đất nước. Cho đến khi người dân được tiếp cận Nho giáo, biến nó trở thành phương tiện để học hành thi cử. Cũng từ đây mà các lý luận của Nho giáo đã thấm nhuần vào người Việt của chúng ta.
Sau đây, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về đề tài Nho giáo. Sự hình thành, phát triển, nội dung của nó tại Trung Hoa_quê hương của Nho giáo và sự thâm nhập, phát triển, đặc điểm của Nho giáo tại Việt Nam.
5
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Sự hình thành của Nho Giáo.
Cơ sở hình thành.
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu Công ( Chu Công Đán ). Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Khổng Tử phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó.
- Chính vì thế mà người đời sau coi Khổng Tử là người sáng lập ra Nho giáo.
*Vạn Thế Sư Biểu – Khổng Tử:
Khổng Tử tên thật là Khâu, sinh năm 551 TCN tại nước Lỗ ( Nay là huyện Phúc Khụ, tỉnh Sơn Đông ).
Năm lên 3 ông mồ côi cha, lớn lên phải làm lụng để giúp mẹ, nhưng ông rất ham học. Năm 22 tuổi, ông mở lớp dạy học, học trò gọi ông là Khổng Phu Tử. Từ năm 34 tuổi, trong suốt gần 20 năm, Khổng Tử đưa học trò đi khắp nước trong vùng để truyền bá tư tưởng và tìm người biết dùng mình. Nhiều nơi thầy trò bị bỏ đói, bị vây, bị dọa giết, và đạo của ông thì chẳng ai dùng. Cuối đời, ông tiếp tục dạy học và soạn sách. Ông mất năm 479 TCN, thọ 73 tuổi.
Sách kinh điển của Nho giáo.
Gồm 2 bộ:
6
Bộ thứ nhất là Ngũ kinh, phần lớn có từ trước, Khổng Tử đã gia công san định, hiệu đính và giải thích.
Bộ thứ hai là “Tứ thư” gồm: “Đại học”, “Trung dung”, “ Luận ngữ”, “Mạnh Tử”.
Ngũ Kinh bao gồm những bộ sau:
Kinh Thi là sưu tập thơ ca dân gian, trong đó chủ đề tình yêu nam nữ khá nhiều. Khổng Tử dùng nó để giáo dục tình cảm lành mạnh và cách thức diễn đạt tư tưởng khúc chiết, rõ ràng.
Kinh Thư ghi lại những truyền thuyết và biến cố về các đời vua cổ - anh minh như Nghiêu, Thuấn; tàn bạo như Kiệt, Trụ. Khổng Tử gia công san định những mong đem họ làm gương cho đời sau.
Kinh Lễ ghi chép những nghi lễ thời trước, Khổng Tử hiệu đính lại mong dùng nó làm phương tiện duy trì và ổn định trật tự xã hội.
Kinh Dịch khởi thủy vốn ghi chép về âm dương Bát quái,...ở dạng kí hiệu với sự đóng góp của Chu Văn Dương và Chu Công Đán.
Từ bộ “ Chu Dịch” đó, Khổng Tử đã giảng giải sâu rộng thêm và trình bày thứ tự rõ ràng cho dễ hiểu, dễ dùng hơn.
Kinh Xuân Thu nguyên là sử kí của nước Lỗ - quê hương Khổng Tử. Được ông dụng công chọn lọc sự kiện kèm theo những lời bình, thậm chí sáng tác thêm các lời thoại để giáo dục các vua chúa.
7
Đúng ra bộ sách còn cuốn thứ 6 là Kinh Nhạc, nhưng về sau bị thất lạc, chỉ còn lại một ít làm thành 1 thiên ghép chung và Kinh Lễ, gọi là “Nhạc Kí ”. Vì vậy “Lục Kinh” chỉ còn “Ngũ kinh”.
Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ngài tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn “Luận ngữ” (các lời bàn luận). Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra “Đại Học” dạy phép làm người quân tử. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn “Trung Dung” nhằm phát triển tư tưởng của ông nội mình về cách sống dung hòa, không thiên lệch. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử (390-305 TCN) đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách “Mạnh Tử”.
- “Tứ Thư” cùng “Ngũ Kinh” hợp lại làm 9 bộ sách chủ yếu của Nho giáo và còn là những tác phẩm văn chương cổ điển của Trung Quốc. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên “Nho giáo” nguyên thủy, còn gọi là “Nho giáo tiền Tần” (trước đời Tần), “Khổng giáo” hay "tư tưởng Khổng-Mạnh“.
Tiểu kết chương 1.
Qua chương 1 chúng ta đã thấy được sự hình thành của Nho giáo. Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, do Khổng Tử sáng lập. Khổng Tử tên thật là Khâu sinh năm 551 TCN tại nước Lỗ và mất vào năm 479 TCN thọ 73 tuổi. Suốt quãng đời của ông, ông luôn gắn bó với việc dạy họ và soạn sách. Nho giáo bao gồm hai bộ chính là “Ngũ kinh” và “Tứ Thư”. “Ngũ Kinh” chia thành năm bộ nhỏ “Kinh Thi”, “Kinh Thư”, “Kinh Lễ”, “Kinh Dịch”, “Kinh Xuân Thu”. Thực ra còn một bộ thứ
8
sáu “Kinh Nhạc” nhưng sau đó đã bị thất lạc. Chỉ còn lại một ít gọi là “Nhạc Kí” nên “Lục Kinh” chỉ còn lại “Ngũ Kinh”.
Chương 2: Nội dung cơ bản và sự phát triển của Nho giáo.
Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu – người lý tưởng này gọi là quân tử (quân = kẻ làm vua, quân tử = chỉ tầng lớp trên trong xã hội, phân biệt với “tiểu nhân”, những người thấp kém về điạ vị xã hội; sau “quân tử” còn chỉ cả phẩm chất đạo đức: những người cao thượng, phẩm chất tốt đẹp, phân biệt với “tiểu nhân” là những người thiếu đạo đức hoặc đạo đức chưa hoàn thiện. Điều này có thể được lí giải bởi đối tượng mà Nho giáo hướng đến trước tiên là những người cầm quyền). Để trở thành người quân tử, con
9
người ta trước hết phải “tự đào tạo”, phải “tu thân”. Sau khi tu thân xong, người quân tử phải có bổn phận phải “hành đạo” (Đạo không đơn giản chỉ là đạo lí. Nho gia hình dung cả vũ trụ được cấu thành từ các nhân tố đạo đức, và Đạo ở đây bao chứa cả nguyên lí vận hành chung của vũ trụ, vấn đề là nguyên lí đó là những nguyên lí đạo đức do Nho gia đề xướng (hoặc như họ tự nhận là phát hiện ra) và cần phải tuân theo. Trời giáng mệnh làm vua cho kẻ nào có Đạo, tức là nắm được đạo trời, biết sợ mệnh trời. Đạo vận hành trong vũ trụ khi giáng vào con người sẽ được gọi là Mệnh). Cần phải hiểu cơ sơ triết lí của Nho giáo mới nắm được logic phát triển và tồn tại của nó.
Khổng Tử đặt ra một loạt tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức… để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội.
Tam cương và ngũ thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam tòng và Tứ đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ được tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức thì xã hội được an bình.
Tam cương: tam là ba, cương là giềng mối. Tam cương là ba mối quan hệ: quân thần (vua tôi), phụ tử (cha con), phu phụ (vợ chồng).
Trong xã hội phong kiến, những mối quan hệ này được các vua chúa lập ra trên những nguyên tắc“chết người”
- Quân thần: (“Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” nghĩa là: dù vua có bảo cấp dưới chết đi nữa thì cấp dưới cũng phải tuân lệnh, nếu cấp dưới không tuân lệnh thì cấp dưới không
10
trung với vua)Trong quan hệ vua tôi, vua thưởng phạt luôn luôn công minh, tôi trung thành một dạ.
- Phụ tử: (“phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu nghĩa là: cha khiến con chết, con không chết thì con không có hiếu)”)
- Phu phụ: (“phu xướng phụ tùy” nghĩa là: chồng nói ra, vợ phải theo)
Ngũ thường: ngũ là năm, thường là hằng có. Ngũ thường là năm điều phải hằng có trong khi ở đời, gồm: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
- Nhân: Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật.
- Nghĩa: Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải.
- Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người.
- Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai.
- Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy.
Tam tòng: tam là ba; tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải theo, gồm: “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”
- Tại gia tòng phụ: người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha,
- Xuất giá tòng phu: lúc lấy chồng phải theo chồng,
- Phu tử tòng tử: nếu chồng qua đời phải theo con”
Tứ đức: tứ là bốn; đức là tính tốt. Tứ đức là bốn tính nết tốt người phụ nữ phải có, là: công – dung – ngôn – hạnh.
- Công: khéo léo trong việc làm.
- Dung: hòa nhã trong sắc diện.
- Ngôn: mềm mại trong lời nói.
11
- Hạnh: nhu mì trong tính nết.
Người quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân:
- Đạt đạo: Đạo có nghĩa là “con đường”, hay “phương cách” ứng xử mà người quân tử phải thực hiện trong cuộc sống. “Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè” (sách Trung Dung), tương đương với “quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu”. Đó chính là Ngũ thường, hay Ngũ luân. Trong xã hội cách cư xử tốt nhất là “trung dung”. Tuy nhiên, đến Hán nho ngũ luân được tập chung lại chỉ còn ba mối quan hệ quan trọng nhất được gọi là Tam thường hay còn gọi là Tam tòng.
- Đạt đức: Quân tử phải đạt được ba đức: “nhân – trí – dũng”. Khổng Tử nói: “Đức của người quân tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân không lo buồn, người trí không nghi ngại, người dũng không sợ hãi” (sách Luận ngữ). Về sau, Mạnh Tử thay “dũng” bằng “lễ, nghĩa” nên ba đức trở thành bốn đức: “nhân, nghĩa, lễ, trí”. Hán nho thêm một đức là “tín” nên có tất cả năm đức là: “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”. Năm đức này còn gọi là ngũ thường.
- Biết thi, thư, lễ, nhạc: Ngoài các tiêu chuẩn về “đạo” và “đức”, người quân tử còn phải biết “thi, thư, lễ, nhạc”. Tức là người quân tử còn phải có một vốn văn hóa toàn diện.
Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải làm quan, làm chính trị. Nội dung của công việc này được công thức hóa thành “tề gia, trị quốc, thiên hạ bình “. Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ – gia đình, cho đến lớn – trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất thiên
12
hạ). Kim chỉ nam cho mọi hành động của người quân tử trong việc cai trị là hai phương châm:
Nhân trị: Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu người và coi người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Khổng Tử nói: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân – Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác” (sách Luận ngữ). Nhân được coi là điều cao nhất của luân lý, đạo đức, Khổng Tử nói: “Người không có nhân thì lễ mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?” (sách Luận ngữ).
Chính danh: Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi người phải làm đúng chức phận của mình. “Danh không chính thì lời không thuận, lời không thuận tất việc không thành” (sách Luận ngữ). Khổng tử nói với vua Tề Cảnh Công: “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử – Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con” (sách Luận ngữ).
Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho giáo, chúng được tóm gọi lại trong chín chữ: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Và đến lượt mình, chín chữ đó chỉ nhằm phục vụ mục đích cai trị mà thôi.
Quân tử ban đầu có nghĩa là người cai trị, người có đạo đức và biết thi, thư, lễ, nhạc. Tuy nhiên, sau này từ đó còn có thể chỉ những người có đạo đức mà không cần phải có quyền. Ngược lại, những người có quyền mà không có đạo đức thì được gọi là tiểu nhân (như dân thường).
Nho giáo là một học thuyết đạo đức – chính trị xã hội dạy về cách hành xử của một “Chính nhân quân tử” trong xã hội, tức là cách người quân tử tổ chức, cai trị xã hội. Nho giáo lấy
13
việc tạo sự ổn định và sự phát triển làm trọng, bằng cách sử dụng đường lối Đức trị và Lễ trị đã có từ thời Nhà Chu. Để xây dựng đường lối Đức trị và Lễ trị Khổng tử đã xây dựng học thuyết: Nhân – Lễ – Chính danh. Đây là ba phạm trù quan trọng nhất trong học thuyết của Khổng tử. Nhân là nội dung, Lễ là hình thức còn Chính danh là con đường đạt đến điều nhân.
Nội dung cơ bản về tư tưởng của Nho giáo được thể hiện qua 2 cuốn sách kinh điển:
- Tứ thư:
- Luận ngữ: tập hợp lời dạy của Khổng Tử
- Đại học: dạy phép làm người quân tử
- Trung Dung: tư tưởng sống dung hòa, không thiên lệch
- Mạnh Tử: lời của Mạnh Tử - người bảo vệ xuất sắc tư tưởng của Khổng Tử
- Ngũ kinh:
- Kinh Thi: Sưu tầm những bài ca dao, phong dao từ thời thượng cổ đến thời Chu Bình Vương (770 trước công nguyên). Gồm 300 thiên, chia làm 3 phần: Phong (phong tục các nước); Nhã (việc nhà Chu); Tụng (dùng trong việc tế lễ).
- Kinh Thư: 28 chương, ghi chép những lời dạy, các thệ, mệnh của các lãnh chúa, hiền thân từ Nghiêu, Thuấn đến Đông Chu. Đây là sử liệu quý giá về quá trình diễn biến của dân tộc Trung
- Kinh Dịch: Sách viết về lẽ biến hóa của trời đất, vạn vật xét đoán Họa – Phúc – Thành – Suy của đời người. Sách gồm 2 quyển: Kinh gồm 2 quyển có 8 quẻ lớn, 64 quẻ kép, 284 hào,
14
v.v… Truyện gồm 10 thiên lý giải các lẽ biến dịch huyền ảo của tạo hoá.
- Kinh Lễ: Ghi chép lễ nghi, biểu lộ tình cảm tốt, tiết chế dục tình, nuôi dưỡng tình cảm thiêng liêng, phân chia trật tự, thang bậc xã hội. Gồm ba phần: Nghi lễ (quan hôn tang lễ); Chu Lễ (nghi lễ nhà Chu); Lễ ký (ý nghĩa các nghi lễ). Hai phần đầu đã bị thất lạc, chỉ còn phần Lễ ký.
- Kinh Xuân Thu: Tương truyền do chính Khổng Tử biên soạn. Đó là bộ sử thời Đông Chu. Vừa có tính biên niên sử vừa có tính triết lý chính trị vì có những lời chú giải và phê phán của Khổng Tử. Và cuốn này ông viết: “ Thiên hạ biết tới ta là do Kinh Xuân Thu, thiên hạ kết tội ta cũng do Kinh Xuân Thu”
Nhân là nguyên lý đạo đức cơ bản quy định bản tính con người thể hiện việc quan hệ giữa người và người. Nhân có thể được xét theo hai khía cạnh:
- Về mặt thể, nhân là nhân tính, – cái tính tự nhiên trời cho, khiến con người khác với con vật “nhân giả, nhân giã”, người thực hiện được tính nhân thì mới thực là người. Nhưng nhân là nhân tính không chỉ thể hiện trong mỗi cá nhân mà còn thể hiện ở tính cách nhân loại “Đại đồng”, theo nghĩa “Tứ hải giai huynh đệ”. Hơn nữa, nhân là một trong Tam tài: “Thiên – Địa – Nhân” (thiên thời – địa lợi – nhân hòa). Như vậy, biết được tính nhân, thì biết được tính người, biết được tính vạn vật, biết được lẽ sinh trường biến hóa của trời đất của con người.
- Về mặt dụng, – nhân là lòng thương người, là sửa mình theo lễ, hạn chế dục vọng, ích kỷ, hành động theo trật tự lễ nghi đạo đức. Muốn làm điều tốt và làm điều tốt cho người khác,
15
rằng: “Điều gì muốn thành công cho mình, thì nên giúp người khác thành công”.
Nhân là phạm trù cao nhất của luân lý, đạo đức, là phạm trù trung tâm trong học thuyết đạo đức – chính trị của nho giáo. Nhân tùy thuộc vào phẩm hạnh, năng lực, hòan cảnh mà thể hiện. Trong xã hội luôn tồn tại hai hạng người đối lập nhau: quân tử – tiểu nhân về chính trị, luân lý, đạo đức: “ Kẻ quân tử bất nhân thì cũng có, nhưng chưa bao giờ lại có kẻ tiểu nhân lại có nhân cả”.
“Lễ” đóng vai trò quan trọng nhất trong đời sống đạo đức và đời sống chính trị. Lễ theo quan niệm của Khổng Tử vừa là nghi lễ vừa là tế lễ, vừa là thể chế chính trị vừa là quy phạm đạo đức. Theo các nghĩa rộng chữ lễ đã định ở trên, thì tác dụng của lễ có thể chia ra làm bốn chủ đích như: Là để hàm dưỡng tính tình; là để giữ những tình cảm cho thích hợp đạo trung; là định lẽ phải trái và là tiết chế cái thường tình của con người.
Như vậy, lễ là sự tôn trọng lẫn nhau, ý nghĩa sâu xa của chữ lễ là cách đối nhân xử thế trong đạo làm người, trong đó là cách đối xử kính cẩn với người khác và hàm dưỡng tinh thần cho chính mình.
Khổng tử nói: “Điều gì không phải thì đừng nhìn, không phải lễ thì đừng nghe, không phải lễ thì đừng nói, không phải lễ thì đừng làm”.
Trong nho giáo, Nhân và Lễ không tách rời nhau, chúng có quan hệ mật thiết với nhau. Nhân là nội dung, lễ là hình thức, lễ biểu hiện của nhân. Vì vậy, không thể người có tính nhân
16
mà vô lễ được. Khổng tử nói: “Một ngày biết nén mình theo lễ thì thiên hạ sẽ quay mình về nhân vậy”.
Khổng tử cho rằng thiên hạ bị rối loạn vì vua không ra vua, tôi không ra tôi, cha không ra cha, con không ra con, v.v… Từ đó ông đưa ra học thuyết “Chính danh định phận” làm căn bản cho việc trị quốc.
Chính danh là Danh (tên gọi, chức vụ, địa vị, thứ bậc, v.v…) và Phận (phận sự, nghĩa vụ, quyền lợi) phải phù hợp với nhau. Danh không phù hợp là loạn Danh. Danh và phận của một người trước hết do những mối quan hệ xã hội quy định (ngũ luân (tam cương) và ngũ thường). Để chính Danh, nho giáo không dùng pháp trị mà dùng đức trị, là dùng luân lý, đạo đức điều hành xã hội.
Ý nghĩa sâu xa của chính danh thường thể hiện ở mặt dụng với ba khía cạnh: Trước hết, là phân biệt cho đúng tên gọi. Mỗi sự vật cũng như con người phải thể hiện đúng bản tính của mình, mỗi cái tên bao hàm thái độ, trách nhiệm, bổn phận, v.v… để thực hiện bản tính vốn có của nó. Thứ hai, phân biệt cho đúng danh phận, ngôi vị. Thứ ba, danh mang tính phê phán khẳng định chân lý, phân biệt đúng sai, tốt, xấu, v.v…
Sự phát triển của Nho giáo.
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Khổng Tử (sinh ngày 8/9/479 trước công nguyên) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi ông là người sáng lập ra Nho giáo.
17
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục Kinh gồm có Kinh Thị, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ Kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra quấn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sam, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng cấp còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng tử đến Mạnh Tử hình nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền tần (tức trước thời Tần). Khổng giáo hay “tư tưởng Khổng- Mạnh”. Từ đấy mới hình thành khái niệm Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học; còn Nho giáo mang tính tôn giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu trở thành thánh đường và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực hành.
Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký, Hán Vũ Đế đưa Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư tưởng. Và từ đây, Nho giáo được độc tôn và trở thành hệ tư tưởng chính thông bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa trong suốt 2000 năm. Nho giáo thời ký này được gọi là Hán nho. Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán nho đề cao quyền lực của giai cấp thống trị. Thiên Tử là con trời, dùng “lễ trị” để che đậy “pháp trị”.
18
Đến thời Tống, Đại học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách gối đầu giường của các nhà Nho. Nho giáo thời kí này được gọi là Tống nho, với các tên tuổi như Chu Hy ( thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di. Điểm khác biệt của Tống nho với Nho giáo trước đó là việc bổ sung các yếu tố “tâm linh” (lấy từ Phật giáo) và các yếu tố “siêu hình” (lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị.
Đến đầu thế kỉ XXI, cùng với sự vương dậy về kinh tế là sự mai một về dạo đức tại Trung Quốc, những giá trị của Nho giáo về tu dưỡng, giáo dục con người dần được tôn vinh trở lại. Năm 2004-2020, Chính phủ Trung Quốc có kế hoạch thành lập hơn 1.000 học viên Khổng Tử trên khắp thế giới để quảng bá văn hóa truyền thống Trung Hoa.
Tiểu kết chương 2.
Qua chương 2, chúng ta đã thấy được nội dung cơ bản và sự phát triển của Nho giáo qua các thời kì. Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Khổng Tử đặt ra một loạt tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức… để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội gồm tu thân, hành đạo. Ngoài ra, Nho giáo cũng có những tư tưởng triết học cơ bản góp phần hoàn thiện Nho giáo hơn. Qua mỗi thời kì khách nhau, Nho giáo cũng sẽ biến tấu sao cho phù hợp với thời kì đó. Từ đó, Hán nho và Tống nho ra đời phục vụ cho việc đào tạo và cai trị. Nhưng dần dần, Nho giáo bị mai một do sự phát triển kinh tế.
19
Chương 3: Quá trình thâm nhập, phát triển và những đặc điểm của Nho giáo tại Việt Nam.
Quá trình thâm nhập của Nho giáo vào Việt Nam.
Năm 179 TCN, Âu Lạc rơi vào ách đô hộ của nhà Triệu và bị chia cắt, mở đầu một thời kỳ đen tối kéo dài hơn 1000 năm đầy đau thương tủi nhục trong lịch sử nước ta, thường gọi là thời kỳ Bắc thuộc. Năm 111 TCN, nhà Hán thôn tính Nam Việt và biến Âu Lạc thành đất đai của nhà Hán, Âu Lạc bị chia thành 3 quận thuộc bộ Giao Chỉ là: Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Để nô dịch nhân dân ta về tư tưởng, ngay từ thời Tây Hán, 2 viên thái thú Tích Quang và Nhâm Diên đã tích cực “dựng học hiệu” để dạy lễ nghĩa, tức mở trường dạy Nho học và truyền bá phong tục Hán tộc, Nho giáo vào Việt Nam chính thức từ đây và “Phong tục văn minh của đất Lĩnh Nam bắt đầu từ hai thái thú ấy” .
Từ năm thứ 8 đến thứ 25 sau Công nguyên, do vụ loạn Vương Mãng và các cuộc khởi nghĩa nông dân ở Sơn Đông mà “đông đảo kẻ sĩ nhà Hán lánh nạn, di cư sang Giao Châu góp phần truyền bá đạo Nho bằng cách mở trường kiếm sống. Sang thời Đông Hán, số trường học nhiều hơn trước, tại các trung tâm châu trị, quận trị như Luy Lâu, Long Biên, Tư Phố,
20
Cư Phong đều có các trường để truyền bá Nho giáo, theo học ngoài con em của những người Hán cai trị và di cư, những người giàu có, hào mục địa phương có hợp tác với chính quyền đô hộ, trong đó một số người học giỏi, đỗ đạt và được bổ làm quan như Trương Trọng, Lý Tiến, Lý Cầm… Đến thời Sĩ Nhiếp làm thái thú Giao Chỉ thì việc học Nho ở nước ta đã tương đối phổ biến, Sĩ Nhiếp là người có tài kinh bang tế thế, tài năng, đức độ, thông hiểu kinh sách và tích cực truyền bá Nho giáo và Đạo giáo vào Việt Nam, các nhà Nho Việt Nam đời sau rất kính trọng Sĩ Nhiếp, tôn là “Sĩ vương” và xem là ông tổ của nền học vấn phương Nam - “Nam giao học tổ”, miền đất Giao Châu dưới quyền cai trị của ông là một xã hội ổn định và thịnh vượng. Trải qua Lưỡng Tấn, Tống, Tề, Lương, do bên kia loạn lạc mà bên này việc học không thấy ghi những tiến bộ nào mới.
Trên dưới 1000 năm Bắc thuộc, Nho giáo tuy có phát triển song vẫn chưa xâm nhập được vào mọi tầng lớp xã hội và còn hạn chế, giới Nho sĩ bản địa vẫn còn ít ỏi và chưa trở thành lực lượng xã hội đáng kể.
Năm 938, với chiến thắng vĩ đại của Ngô Quyền chôn vùi quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, lịch sử dân tộc Việt Nam đã bước sang trang mới – thời kỳ độc lập. Công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước ở thời kỳ đầu mới giành được độc lập diễn ra vô cùng khó khăn, phức tạp do vậy Nho giáo cũng chưa có điều kiện dựa vào triều đình để duy trì và phát triển ảnh hưởng của mình.
Thời Lý việc củng cố nhà nước quân chủ tập quyền và trật tự xã hội, phát triển văn hóa, giáo dục trở thành một nhu cầu
21
cấp bách, giúp cho giai cấp phong kiến Việt Nam bước đầu xây dựng và củng cố trật tự xã hội, tạo ra một nền giáo dục có hệ thống và thúc đẩy các ngành văn hóa, học thuật phát triển. Nho giáo với chủ trương tôn quân, đề cao việc tề gia, trị quốc có tôn ty, trật tự đã tỏ ra thích hợp với thực tiễn lịch sử đó nên được giai cấp phong kiến Việt Nam đề cao, đặc biệt trên các lĩnh vực chính trị, văn hóa, tư tưởng, giúp cho giai cấp phong kiến Việt Nam bước đầu xây dựng và củng cố trật tự xã hội, tạo ra một nền giáo dục có hệ thống và thúc đẩy các ngành văn hóa, học thuật phát triển. Trong bài Chiếu dời đô, Lý Thái Tổ đã khéo léo vận dụng tư tưởng Mệnh trời của Nho giáo vào việc trị nước: “Trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân” để mưu nghiệp lớn, làm cho vận nước lâu dài, phong tục cường thịnh, vua Lý Thái Tông cho rằng xã hội thời Đường Ngu là xã hội lý tưởng, tốt đẹp đáng phải noi theo, việc truyền bá Nho giáo bắt đầu được tiến hành khá sôi nổi và có tổ chức về mặt nhà nước. Theo lệnh của Thánh Tông hoàng đế, mùa thu năm 1070, nhà Lý cho xây Văn Miếu, tạc tượng Chu Công, Khổng Tử và Tứ phối (Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử) và vẽ hình 72 hiền nhân để 4 mùa cúng tế. Mùa xuân năm Ất Mão (1075), Lý Nhân Tông xuống chiếu mở kỳ thi Nho học để tuyển chọn người tài, bổ sung cho đội ngũ quan lại, gọi là Minh kinh bác học, Lê Văn Thịnh đỗ đầu, được cho vào hầu vua học. Năm 1076, vua Lý tiếp tục cho lập Quốc Tử Giám trường đại học đầu tiên ở nước ta và lựa chọn những người khoa bảng vào dạy ở đây.
Bằng sự khôn khéo của Trần Thủ Độ, việc chuyển giao quyền lực từ nhà Lý sang nhà Trần được tiến hành một cách êm dịu, trong điều kiện phải củng cố quyền lực nhà nước và tổ
22
chức cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông, vấn đề đạo lý cương thường, nghĩa quân thần, trật tự trên dưới chặt chẽ được đề cao. Việc học tập, thi cử dưới triều Trần được triển khai khá rầm rộ, tầng lớp Nho sĩ ngày càng trở thành lực lượng xã hội đáng kể, thông qua con đường khoa cử tham gia vào bộ máy nhà nước và hoạt động tích cực trên nhiều lĩnh vực. Cuối đời Trần, Nho giáo bắt đầu mạnh lên, Nho giáo tiến lên chiếm địa vị độc tôn dưới triều Lê.
Nắm được chính quyền từ tay nhà Trần, dưới quyền Hồ Quý Ly, Nho học được khuyến khích phát triển mạnh mẽ hơn, số trường dạy Nho học tăng lên nhanh chóng và mở đến tận châu, huyện, nhà nước cấp ruộng để nuôi thầy, cấp tiền để mở lớp và mua sách. Sang thế kỷ XV, thời Lê Sơ Nho giáo giành được vị trí độc tôn trong đời sống chính trị và tinh thần của nước Đại Việt, không chỉ việc học tập, thi cử theo khuôn mẫu Nho học, mà cả lĩnh vực văn học, nghệ thuật mang nội dung Nho học cũng phát triển mạnh, Lê Lợi cho mở trường ở kinh thành và các địa phương để dạy cho con cái quý tộc và cả tầng lớp thứ dân. Lê Thánh Tông là vị vua am hiểu Tống Nho sâu sắc và nâng Nho giáo lên địa vị cao nhất, ông cho xây lại Văn Miếu và lập nhà Thái học, quy định thể lệ thi cử để tuyển dụng đội ngũ quan lại, việc học tập và thi cử theo Nho học ngày càng đi vào quy củ, năm 1484 định lệ dựng bia đá ở Văn Miếu để lưu danh các vị tiến sĩ từ khóa thi năm 1442 trở đi, việc khuyến khích học hành và thi cử theo Nho học từ thời Lê Sơ về sau đã tạo ra một tầng lớp Nho sĩ đông đảo, đa dạng, phức tạp ở triều đình và các địa phương trên cả nước. Hệ tư tưởng Nho giáo được quán triệt trong nhiều chủ trương, chính sách của nhà nước phong kiến, qua đó thấm vào mọi lĩnh vực
23
văn hóa, đạo đức của xã hội đương thời. Cuối thời Lê Sơ, chế độ phong kiến Việt Nam lâm vào khủng hoảng trầm trọng, triều đình rệu rã, lòng dân ly tán do những cuộc chiến tranh giành quyền lực kéo dài giữa Lê và Mạc, Trịnh và Nguyễn, kéo theo sự sa sút của Nho giáo.
3.1.6. Nho Giáo thời nhà Nguyễn.
Cuộc đại phá quân Thanh đã đưa nhà Tây Sơn lên cầm quyền và vẫn lấy Nho giáo làm quốc giáo. Sau khi lên nắm quyền, vua Quang Trung đã hạ chiếu yêu cầu Nguyễn Thiếp đứng đầu viện Sùng Chính phải chấn chỉnh Nho học, quyết định lấy chữ Nôm làm văn tự chính thống của quốc gia. Để củng cố địa vị thống trị của mình, vua quan nhà Nguyễn ra sức phục hồi và phát triển Nho giáo, vua Gia Long, Minh Mạng, Tự Đức, Thiệu Trị đều là những người trực tiếp truyền bá Nho giáo và đào tạo Nho sĩ. Các nội dung như mệnh trời, tam cương, ngũ thường, trung hiếu, tiết nghĩa được đề cao theo hướng duy tâm và khắc nghiệt hơn. Gia Long ban hành bộ “Hoàng triều luật lệ” để bảo vệ tam cương, ngũ thường, trong đó phạt tội bất trung, bất hiếu, tàn khốc hơn cả bộ luật Hồng Đức dưới triều Lê. Năm 1858, quân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, mở đầu cho cuộc xâm lược Việt Nam, sau hàng ước 1884, giai cấp phong kiến triều Nguyễn trở thành tay sai cho Pháp và tiếp tục cấu kết với bọn đế quốc để nô dịch nhân dân ta, Nho giáo vẫn tiếp tục được tồn tại và các kỳ thi Nho giáo vẫn được duy trì cho đến đầu thế kỷ XX mới chấm dứt. Triều Nguyễn là triều đại cuối cùng trên đất nước ta khẳng định địa vị quốc giáo của Nho giáo.
Nho giáo Việt Nam ở những triều đại trước còn mang tính tích cực, hợp lý thì Nho giáo triều Nguyễn trở nên tiêu cực,
24
bảo thủ và lỗi thời, nên sự suy tàn là một tất yếu trước những thách thức mới của lịch sử.
Sự phát triển của Nho giáo tại Việt Nam.
Tính từ khi bắt đầu du nhập cho đến lúc suy vong, Nho giáo đã có lịch sử 1900 năm truyền bá ở Việt Nam. Thời Bắc thuộc, trong những thế kỷ đầu công nguyên, các quan cai trị người Hán như Tích Quang (1-5), Nhâm Diên (29-33), Sĩ Nhiếp (187- 226), Đỗ Tuệ Độ (đầu thế kỷ V) đã ra sức truyền bá Nho giáo ở Giao Châu. Tuy nhiên, thời kỳ này Nho giáo chỉ lưu hành trong bọn thống trị dân phương Bắc. Trong thời kì Bắc thuộc (bắt đầu từ năm 179 trước Công Nguyên (TCN) và kéo dài đến năm 938, nhìn chung, Nho giáo du nhập vào Việt Nam chủ yếu theo gót giày quân xâm lược phong kiến phương Bắc và giao lưu văn hoá. Song dù là hình thái Nho giáo nào đi nữa thì ngay từ đầu, với dân tộc Việt và trong tâm thức nhiều người Việt, Nho giáo là công cụ của kẻ xâm lược, là kẻ thù của dân tộc Việt và người Việt. Phần lớn người Việt Nam xa lánh, căm ghét và đặc biệt là, “chống Nho giáo, chống Hán hoá đã trở thành một bộ phận, một mục tiêu của sự nghiệp đấu tranh chống quân xâm lược phương Bắc, bảo vệ nền độc lập dân tộc của nhân dân ta trong suốt thời kỳ Bắc thuộc”.
Từ đó, chúng ta thấy được nho giáo chưa thật sự bám rễ và ảnh hưởng nhiều đến đòi sống xã hội và con người Việt. Ở thời kì này, Nho giáo chưa phát triển.
Đến thế kỷ X, sau chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền, khi người Việt bước sang kỷ nguyên độc lập, tự chủ và bắt đầu xây dựng nền văn minh Đại Việt trong khuôn khổ của một nhà
25
nước quân chủ tập quyền. Xã hội Việt Nam lúc này mới đặt ra những yêu cầu đối với sự tồn tại và phát triển của Nho giáo ở Việt Nam nhằm củng cố quyền lực trung ương, duy trì trật tự xã hội. Các triều đại phong kiến đầu tiên của Việt Nam chủ động khai thác những yếu tố mạnh của Nho Giáo để thích hợp cho việc tổ chức và quản lý đất nước. Tuy nhiên, ở các thời kì này Nho Giáo vẫn chưa ăn sâu vào tư tưởng của người dân.
Ở các triều đại quân chủ đầu tiên sau khi Việt Nam giành độc lập, Nho giáo vẫn chưa có vai trò đáng kể trong đời sống chính trị, tinh thần của xã hội Việt Nam.
- Nhà Lý – Nhà Trần.
- Nhà Lý.
- Năm 1070, nhà Lý cho xây dựng Văn Miếu.
- Năm 1075 thì mở khoa thi Nho giáo đầu tiên với tên gọi “Thi minh kinh bác học” và “Nho học tam trường”.
- Năm 1076, nhà Lý đã cho lập Quốc tử giám ngay giữa kinh thành.
- Năm 1156, nhà Lý cho lập miếu riêng để thờ Khổng Tử (trước đó, Văn Miếu thờ chung cả Chu Công và Khổng Tử).
- Nhà Lý.
- Nhà Lý – Nhà Trần.
Với việc tổ chức khoa cử, nhà Lý đã mở đầu cho lịch sử khoa cử Việt Nam kéo dài hơn 800 năm, qua đây tuyển chọn những nhân tài cho bộ máy nhà nước, nêu cao vị trí Nho học, thúc đẩy việc truyền bá và phát triển Nho học. Tuy vậy, ở thời Lý, việc học tập và thi cử chưa được tổ chức thường xuyên và chưa có quy chế rõ ràng. Kể từ thời Lý trở đi, sự phát triển tri thức khoa học và sáng tạo nghệ thuật của người Việt đã có một bước tiến rõ rệt, biểu hiện trên các lĩnh vực lý luận chính trị và pháp quyền, văn học và sử học. Nho giáo với tư cách
26
một học thuyết chính trị - đạo đức từng bước thâm nhập vào lĩnh vực tư tưởng văn hóa trong đời sống xã hội, tạo ra những tiền đề cần thiết để tiếp tục phát triển mạnh mẽ dưới thời Trần và các thế kỷ sau. Các văn bản còn lưu giữ được từ thời này cho thấy các bậc vua quan và nho sĩ dưới thời Lý sử dụng các điển tích và khuôn mẫu theo quan niệm của Nho giáo, coi đó như là những bài học kinh nghiệm, những mực thước trong việc trị nước, yên dân để xây dựng một xã hội thái bình, thịnh trị. Các phạm trù đạo đức của Nho giáo, như trung, hiếu, nhân, nghĩa... đã được vận dụng vào lĩnh vực chính trị và ngày càng trở thành chuẩn mực đạo đức cho hành vi của con người trong xã hội.
Đến thời Trần, do yêu cầu cai trị quốc gia, yêu cầu tuyển lựa nhân tài để bổ dụng cho bộ máy nhà nước, giáo dục Nho học được đẩy mạnh, số người tiến thân bằng con đường cử nghiệp ngày càng nhiều hơn, giới Nho sĩ đông đảo hơn trước.
- Năm 1227, nhà Trần mở khoa thi Tam giáo. Từ đó, các khoa thi được tổ chức đều đặn và thường xuyên hơn.
- Năm 1232, nhà Trần mở khoa thi Thái học sinh (sau đổi thành Tiến sĩ).
- Năm 1246 về sau, tổ chức quy củ, cứ 7 năm một kỳ.
- Các loại trường học ngày càng mở rộng và thu hút được nhiều đối tượng từ các nơi đến học.
Giáo dục Nho học giữ vị trí chủ đạo trong nền giáo dục đất nước. Tầng lớp Nho sĩ trở nên đông đảo và tích cực tham gia các công việc chính trị của đất nước, phấn đấu cho lý tưởng của Nho giáo, phát triển những quan điểm về các mặt chính trị, xã hội, đạo đức, làm cho sinh hoạt tư tưởng và văn hóa
27
nước nhà khá náo nhiệt. Bên cạnh đó, vào cuối đời Trần, xã hội Việt Nam bước vào khủng hoảng, sự phát triển quá mức của đạo Phật đã gây ra những hậu quả xã hội nặng nề, như tầng lớp quý tộc lợi dụng danh nghĩa tôn giáo ra sức xây chùa, đúc tượng; nhà chùa chiếm hữu nhiều ruộng đất, tiêu phí nhiều tiền của, tăng ni ngày một đông đến mức chiếm quá nửa dân số. Khi đó đã xuất hiện khuynh hướng công kích Phật giáo từ phía các Nho sĩ và ngày một trở nên mạnh mẽ, rầm rộ. Cuộc đấu tranh công kích Phật giáo vừa nhằm khẳng định địa vị cho Nho giáo trong đời sống văn hóa - tư tưởng, vừa được coi là cuộc đấu tranh triệt để để chuẩn bị về mặt lực lượng xã hội và tư tưởng cho tầng lớp Nho sĩ bước lên vũ đài chính trị; đồng thời báo hiệu sự sa sút của Phật giáo không chỉ trong thực tế, mà còn trong lĩnh vực tư tưởng. Từ đây, Phật giáo không còn giữ vị trí quan trọng trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng như trước nữa, mà Nho giáo dần tiến đến nắm giữ vị trí chủ đạo trong sinh hoạt tư tưởng tại Việt Nam.
Thời nhà Lý – Trần, Nho giáo phát triển mạnh, chiếm ưu thế trong cung đình và đi sâu vào sinh hoạt tinh thần của Đại Việt trên nhiều mặt. Giáo dục Nho học giữ vị trí chủ đạo trong nền giáo dục đất nước. Tầng lớp nho sĩ trở nên đông đảo và tích cực tham gia các công việc chính trị của đất nước, phấn đấu cho lý tưởng của Nho giáo, phát triển những quan điểm về các mặt chính trị, xã hội, đạo đức, làm cho sinh hoạt tư tưởng và văn hóa nước nhà khá náo nhiệt.
Các vua Lê rất sùng đạo Nho, dùng đường lối này làm tư tưởng chính thống để cai trị quốc gia.
28
- Trong 10 năm chống giặc Minh, các nhà Nho Việt Nam tập hợp dưới thời vua Lê Lợi đã có nhiều đóng góp to lớn.
- Năm 1435, Lê Thái Tông sai Thiếu bảo Lê Quốc Hưng chọn ngày làm lễ cúng Khổng Tử ở Văn Miếu để bày tỏ sự tôn sùng nho học.
- Năm 1442 mở khoa thi tiến sĩ được xem là mốc quan trọng xác lập vị trí độc tôn của Nho học ở Việt Nam.
- Sang thời Lê Thánh Tông, Nho giáo đạt tới đỉnh cao thịnh vượng.
Trong giáo dục và thi cử, Nho giáo chiếm nội dung chủ yếu. Nho giáo thời Hậu Lê áp dụng theo kiểu nhà Tống, còn gọi là Tống Nho. Chọn những người tài để truyền bá Nho giáo trong xã hội. Thời Lê Mạt, Nho giáo suy. Nhiều nhà nho xuất sắc (như Nguyễn Bỉnh Khiêm) lui về ở ẩn.
Ở thời kì này, Nho giáo lên vị trí hàng đầu trong đời sống văn hóa tinh thần của thời đại. Khiến muôn người tin theo đời sống tư tưởng với Nho giáo.
Quay dòng lịch sử, vào thế kỉ XVI – XVIII là thời kì loạn lạc, đất nước bị chia cắt, nhân dân rơi vào lầm than do chiến tranh diễn ra liên miên. Trong khốn cùng như vậy, Nho giáo dần mất dần vị trí độc tôn. Song song với việc tiến hành phục hồi Nho giáo, Nhà Nguyễn đã chủ trương độc tôn Nho giáo. Nhà Nguyễn đã tìm đến Nho giáo như một công cụ đắc lực cho việc trị nước. Trong bối cảnh đó, Nhà Nguyễn ra sức chấn hưng Nho Giáo. Trong các đời Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, Nho Giáo Việt Nam giữ vai trò độc tôn trong xã hội, từ chính trị đến giáo dục. Văn Miếu và Quốc Tử Giám cũng được lập ra tại Huế. Quốc Tử Giám chỉ dành riêng cho con em
29
tôn thất đến học, nhưng nó có vai trò khích lệ việc học cũng như quá trình truyền bá và phục hưng Nho giáo lúc bấy giờ. Xuất phát từ thực tiễn đất nước Nho giáo từng được độc tôn dưới triều Lê Sơ và cho đến khi nhà Nguyễn nắm quyền thống trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam, Nho giáo vẫn luôn luôn chiếm ưu thế hàng đầu trong đời sống văn hoá tinh thần của xã hội. Sự độc tôn Nho giáo dưới triều Nguyễn là tất yếu lịch sử. Thế nhưng đến cuối đời Tự Đức, thì Nho Giáo lại lâm cảnh khó khăn, nền giáo dục Nho Giáo bắt đầu bị thử thách. Và kết quả là: Năm 1918, khoa thi hương cuối cùng của nền thi cử Nho Giáo Việt Nam đã được tổ chức. Năm 1919 cũng là khoa thi hội cuối cùng của nền giáo dục Nho Giáo Việt Nam. Nền giáo dục Nho Giáo tại Việt Nam đã chính thức cáo chung. Bởi Người Pháp truyền bá vào Việt Nam một nền giáo dục mới, văn hóa mới.
Từ đó, thì giáo dục Nho học hoàn toàn bị đóng cửa. Số người đọc được chữ Nho ngày càng ít. Số người hiểu được triết lý của Nho Giáo lại càng ít hơn.
Đề cương văn hoá Việt Nam năm 1943 của Đảng Cộng sản Đông Dương do Trường Chinh khởi thảo chủ trương đập tan những quan niệm cũ kỹ của Nho giáo gây ảnh hưởng tai hại ở Việt Nam làm cho thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thắng. Nho giáo không còn là hệ tư tưởng chính thống của tầng lớp lãnh đạo xã hội. Nho giáo không còn tồn tại nữa nhưng nó vẫn ảnh hưởng lâu dài trong văn hóa người Việt. Từ cuối thế kỷ 20, việc Việt Nam chuyển đổi sang kinh tế thị trường và hội nhập thế giới đã làm nảy sinh những nguy cơ lớn đối với Văn hóa Việt Nam. Nguy cơ bên trong là sự xói mòn và băng hoại giá trị văn hoá truyền thống. Trước nguy cơ
30
đó, nhiều người Việt Nam tìm cách hướng về bảo lưu các giá trị truyền thống, tạo ra những cơ hội cho Nho giáo tái sinh. Nho giáo ở Việt Nam trong tương lai sẽ có thêm khởi sắc và phát triển một cách rộng rãi, truyền bá đến nhiều người hơn. Giống như phương châm giáo dục hiện nay “Tiên học lễ, hậu học văn” chính là một yếu tố của Nho giáo.
Đặc điểm của Nho giáo tại Việt Nam.
Nho giáo có ảnh hưởng lớn tại các nước Đông Á như : Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc và Việt Nam. Nho giáo gắn liền với tên tuổi của những người sáng lập là Khổng Tử và các nhân vật kế tục như Mạnh Tử , Tuân Tử, Đổng Trọng Thư, Tư Mã Thiên..,
Ở Việt Nam, Nho giáo được truyền bá vào Giao Châu từ rất sớm bởi những người Trung Quốc, mà phần lớn là quan lại của chính quyền đô hộ, cho nên thái độ tiếp nhận của người Việt rất dè dặt. Vì thế, vị trí của Nho giáo trong xã hội vẫn rất khiêm tốn. Mặt khác, suốt thời Bắc thuộc, Nho giáo phát triển giữa 2 xu hướng tâm lí xã hội:
+ Người Hán muốn Hán hóa Giao Châu
+ Người Việt chống lại việc Hán hóa
Sau thời kì Bắc thuộc, dưới các triều đại Ngô, Đinh,Tiền, Lê, Nho giáo cũng chưa phát triển. Đến nhà Lý, dù vương triều này trọng dụng Phật giáo nhưng khi quản lý xã hội, giai cấp cầm quyền lại dựa vào Nho giáo. Dưới thời nhà Trần, Phật giáo tỏ ra bất lực, tầng lớp Nho sĩ đông hơn khiến Nho giáo ngày càng phát triển, có vị thế trong xã hội. Từ năm 1442 trở đi, chế độ khoa cử ổn định, nho sĩ ngày càng đông lên trong xã hội, Nho giáo chiếm vị trí độc tôn, chi phối nhiều lĩnh vực của
31
đời sống xã hội. Tuy nhiên, đến thế kỉ XVIII, Nho giáo suy thoái.
Là 1 thành tố của văn hóa Việt Nam, Nho giáo có một ảnh hưởng rất lớn đối với diện mạo cũng như nội dung các thành tố văn hóa khác. Với gốc gác du mục của mình, yếu tố đáng chú ý nhất là Nho giáo luôn muốn tạo nên một xã hội ổn định.
+ Ở Việt Nam, nhu cầu duy trì sự ổn định không chỉ có ở dân mà ở cả triều đình, không chỉ trong đối nội mà cả trong đối ngoại.
+ Ở Trung Hoa, các triều đại phong kiến chỉ dùng nho giáo để giữ yên ngai vàng, còn bên ngoài thì luôn chủ trương bành trướng, xâm lăng (phát triển trong đối ngoại)
Khai thác những yếu tố là thế mạnh của Nho giáo:
+ Học cách tổ chức triều đình và hệ thống pháp luật
+ Hệ thống thi cử tuyển chọn người tài được vận dung từ thời Lý, hoàn thiện vào thời Trần và hoàn chỉnh vào thời Lê.
+ Sử dụng chữ Hán làm văn tự chính thức trong giao dịch hành chính, trên cơ sở chữ Hán đã sáng tạo ra chữ Nôm trong sáng tác văn chương
Nho giáo bị biến đổi nhiều ở Việt Nam để phù hợp với truyền thống văn hóa dân tộc, muốn duy trì sự ổn định cần tạo ra sự phụ thuộc bộ máy quan lại vào triều đình, Nho giáo đã sử dụng 2 biện pháp:
+ Biện pháp kinh tế: nhẹ lương nặng bổng, quan lại không phải sống bằng lương mà bằng bổng lộc.
+ Biện pháp tinh thần: trọng đức khinh tài
32
Nho giáo có rất nhiều điểm mâu thuẫn, nếu chưa tính đến Nho giáo các đời sau, Nho giáo nguyên thủy chứa đựng rất nhiều mâu thuẫn về nguyên tắc; ví dụ, Khổng Tử nói "dân làm gốc" nhưng lại gọi dân là "tiểu nhân",... Việc tìm ra các đặc điểm của Nho giáo để giải thích các mâu thuẫn đó yêu cầu nghiên cứu về quá trình hình thành Nho giáo, tức là tìm về nguồn gốc của Nho giáo. Nho giáo là sản phẩm của hai nền văn hóa: văn hóa du mục và văn hóa nông nghiệp. Chính vì thế nó mang đặc điểm của hai loại hình văn hóa này.
Tính “quốc tế”: là một trong những đặc tính khác biệt của văn hóa du mục so với văn hóa nông nghiệp, thể hiện ở mục tiêu cao nhất của người quân tử là “bình thiên hạ”
Tính “phi dân chủ”: và hệ quả của nó là tư tưởng “bá quyền”, coi khinh các dân tộc khác, coi mình là trung tâm, coi thường người dân, đặc biệt là phụ nữ.
Tính “trọng sức mạnh”: được thể hiện ở chữ “dũng”
Tính “nguyên tắc”: được thể hiện ở học thuyết "chính danh". Tất cả phải có tôn ti, tất cả phải làm việc theo đúng bổn phận của mình.
Tính "hài hòa": là một đặc tính của văn hóa nông nghiệp, trái ngược với tính trọng sức mạnh của văn hóa du mục. Biểu hiện cho tính hài hòa là việc đề cao chữ "Nhân" và nguyên lý "Nhân trị".
Tính "dân chủ": là đặc tính khác biệt với văn hóa du mục. Tính dân chủ còn được thể hiện ở cách cư xử "trung dung"
33
trong "ngũ luân". Trong các quan hệ đó, đều thể hiện tính hai chiều, bình đẳng: Vua sáng, tôi trung; cha hiền, con hiếu; anh tốt, em nhường; bạn bè tin cậy.
Tính “trọng tình người”: đây vốn là truyền thống lâu đời của văn hóa phương Nam, nên khi tiếp nhận Nho giáo, người Việt Nam tôn trọng chữ “Nhân” hơn cả. “Nhân” gắn liền với “Nghĩa” (Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân – Nguyễn Trãi). Trong Nho giáo Việt Nam, việc trọng tình được bổ sung bằng truyền thống dân chủ của văn hóa nông nghiệp
Nhờ có truyền thống ấy, dù Nho giáo có giữ vị trí độc tôn cũng không dám loại trừ Phật giáo và hủy bỏ cái gốc của Việt Nam là Đạo mẫu.
Tư tưởng “trung quân”: Nho giáo Trung Hoa rất coi trọng tư tưởng “trung quân” ,tư tưởng yêu nước thì không được đề cập đến. Còn người Việt Nam tiếp thu tư tưởng “trung quân” của Nho giáo trên tinh thần yêu nước và tinh thần dân tộc, từ đó thấy được “trung quân” gắn liền với ‘ái quốc”
Xu hướng “trọng văn”: Nho giáo nguyên thủy do chịu ảnh hưởng của văn hóa nông nghiệp phương nam nên rất coi trọng văn, kẻ sĩ, trong khi Trung Hoa chỉ coi quan văn như quan võ. Người Việt dù luôn phải đối phó với chiến tranh nhưng ít quan tâm đến các kì thi võ mà chỉ ham học chữ, thi văn. ( Một kho vàng không bằng một nang chữ )
Thái độ với nghề buôn: Nho giáo Trung Hoa khuyến khích làm giàu nếu nó không trái với lễ. Còn ở Việt Nam, với văn hóa nông nghiệp, với tính cộng đồng và tính tự trị , lại có truyền thống khinh rẻ nghề buôn khiến cho nghề buôn không thể phát triển
34
Nho giáo Việt Nam được cải tiến cho phù hợp với hoàn cảnh và truyền thống của mình, rồi cấu trúc lại một cách tài tình như thế là vì giữa Nho giáo Trung Hoa và văn hóa Việt Nam có nét tương đồng. Những nét tương đồng đó không phải ngẫu nhiên, đó không phải là những cái gì khác mà là tinh hoa của văn hoá nông nghiệp phương Nam. Nho giáo nguyên thuỷ đã tiếp thu, nên khi vào Việt Nam, Nho giáo luôn phảng phất cái vừa lạ vừa quen rất đặc biệt. Như vậy, với tất cả những đặc điểm trên, Nho giáo Việt Nam là một thứ Nho giáo mang bản sắc riêng khá độc đáo.
Nho giáo đã tác động sâu sắc đến xã hội và con người Việt Nam với sự tồn tại hàng nghìn năm. Nhưng, sự phát triển của Nho giáo Việt Nam là có hạn. Nó chỉ đạt đến mức độ tầm tầm, vừa phải, chưa tạo được lý luận riêng, chưa xuất hiện các học phái khác nhau. Phương pháp tư duy của nó thiên về bảo thủ, giáo điều. Nhiều nhà nghiên cứu cận hiện đại Việt Nam đã phải bất bình và phê phán điều đó. Nhưng, đó là kết quả của hàng loạt nguyên nhân chi phối.
Tiểu kết chương 3.
Qua chương 3, chúng ta thấy Nho giáo du nhập vào Việt Nam qua con đường xâm lược. Nhưng sau đó Nho giáo được Việt Nam tiếp nhận để tổ chức và cai quản nhà nước. Qua từng thời kì Nho giáo ở Việt Nam phát triển khách nhau. Nổi bật trong đó, Nho giáo ở thời Nhà Lý và thời Nhà Trần vô cùng phát triển, tạo nên nhiều dấu ấn cho thời kì của mình. Đến thời Pháp thuộc, Nho giáo dần biến mất do sự ảnh hưởng của văn hóa Phương Tây. Khi Nho giáo du nhập vào Việt Nam, nó đã hình thành thành đặc điểm riêng của Nho giáo Việt Nam. Việt Nam không sử dụng chữ Nho của Trung Hoa mà sử dụng chữ Nôm. Dù vẫn bị ảnh hưởng nhiều từ Nho giáo Trung Hoa,
35
nhưng Nho giáo Việt Nam đã được cải tiến sao cho phù hợp với hoàn cảnh và truyền thồng của mình. Nhưng, sự phát triển của Nho giáo Việt Nam là có hạn. Nó chỉ đạt đến mức độ tầm tầm, vừa phải, chưa tạo được lý luận riêng, chưa xuất hiện các học phái khác nhau. Phương pháp tư duy còn bảo thủ, giáo điều và điều đó trở thành điều bị phê phán. Nhưng đây cũng là kết quả của hàng loạt những nguyên nhân chi phối.
KẾT LUẬN
Nho giáo đã được sáng tạo bởi Khổng Tử vào thời Tây Chu và nó vẫn còn giữ được rất nhiều giá trị cho đến nay. Khổng Tử có tên thật là Khâu được sinh vào năm 551 TCN và mất vào năm 479 TCN. Cả cuộc đời của ông chỉ gắn bó với việc dạy học và soạn sách. Chính vì vậy ông đã để lại cho những thế hệ sau hai bộ "Ngũ Kinh" và "Tứ Thư" đầy giá trị. Nho giáo được sáng tạo để rèn giũa đức tính con người. Ngoài ra Nho giáo còn được trọng dụng để tổ chức và cai trị nhà nước. Đây chính là lý do mà Nho giáo vẫn giữ dấu ấn quan trọng cho đến ngày nay. Nho giáo vô cùng phát triển ở nhiều quốc gia tại Châu Á, nhưng tùy vào thời kì khác nhau tùy vào các quốc gia khác nhau mà Nho giáo đã biến tấu sao cho thích hợp hơn với chủ thể sử dụng.
Việt Nam chúng ta cũng bị ảnh hưởng của Nho giáo. Ban đầu, Nho giáo du nhập vào Việt Nam qua con đường xâm lược. Người Việt coi Nho giáo như một kẻ địch cần tiêu diệt. Sau đó Nho giáo tại Việt Nam phát triển hơn là do các triều đại ở Việt Nam được hình thành và họ tự động tiếp thu Nho giáo, sử dụng Nho giáo trong việc tổ chức, cai trị nhà nước. Dần dần, Nho giáo đi sâu vào Việt Nam. Không chỉ có hoàng thất mà ngay cả nhân dân ta đã được tiếp cận với Nho giáo,
36
tạo nên một dấu ấn riêng của nền Nho giáo Việt Nam. Nho giáo ở Việt Nam không còn chỉ dùng để tổ chức, cai trị nhà nước mà còn được dùng để chiêu mộ các nhân tài cống hiến cho đất nước qua các hội thi. Nho giáo đã du nhập vào Việt Nam rồi biến tấu đi để phù hợp với truyền thống văn hoá của nơi đây. Chữ Nôm được ra đời từ đó. Nhưng dần dần, Nho giáo ở Việt Nam biến mất do nền văn hoá phương Tây du nhập vào. Dưới sự sụp đổ của Nhà Nguyễn_Nhà nước phong kiến cuối cùng ở Việt Nam, Nho giáo cũng theo đó mà sụp đổ theo. Nhưng ở đâu đó trong nền văn hoá, truyền thống của chúng ta hiện nay vẫn luôn tồn tại bóng dáng của Nho giáo đã đi sâu vào xương máu người Việt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- PGS, Viện Sĩ. Trần Ngọc Thêm, Giáo trình “Cơ sở văn hóa Việt Nam”, Nhà xuất bản giáo dục (1999).
- Cổng thông tin điện tử Trung tâm nghiên cứu tôn giáo đương đại. Ngày truy cập 01/12/2021
Link:http://www.trungtamtongiao.vn/su-phat-trien-cua-nho- giao-thoi-ky-ly-tran/867
- Cổng thông tin điện tử Công ty Luật TNHH Minh Khuê. Ngày truy cập: 02/12/2021.
Link:https://luatminhkhue.vn/noi-dung-nguon-goc-dac-diem- cua-nho-giao.aspx
37
- Cổng thông tin điện tử Hoathanhques. Ngày truy cập: 02/12/2021.
Link:https://hoathanhques.blogspot.com/2012/11/ban-ve-nho- giao-2.html
- Cổng thông tin điện tử Hongloantq75. Ngày truy cập: 02/12/2021.
Link:https://hongloantq75.violet.vn/entry/nho-giao-khong-tu- 3567371.html
- Cổng thông tin điện tử Wikipedia. Ngày truy cập 01/12/2021.
Link:https://vi.wikipedia.org/wiki/Nho_gi%C3%A1o
- Cổng thông tin điện tử Wikipedia. Ngày truy cập 01/12/2021.
Link:https://vi.wikipedia.org/wiki/Nho_gi%C3%A1o_Vi%E1%BB
%87t_Nam#C%C3%A1c_tri%E1%BB%81u_%C4%91%E1%BA
%A1i_qu%C3%A2n_ch%E1%BB%A7_%C4%91%E1%BA
%A7u_ti%C3%Aan
- Cổng thông tin điện tử Duybiotech’s Blog. Ngày truy cập: 02/12/2021.
Link:https://duybiotech.wordpress.com/2010/07/08/tư-tưởng- cơ-bản-của-triết-học-nho-giao-sự-ảnh-hưởng-va-vận-dụng- nho-giao-ở-việt-nam/
- Cổng thông tin điện tử Công ty Luật TNHH Minh Khuê. Ngày truy cập: 02/12/2021.
Link:https://luatminhkhue.vn/noi-dung-nguon-goc-dac-diem- cua-nho-giao.aspx
38
- Cổng thông tin điện tử Lý Tưởng. Ngày truy cập: 02/12/2021.
Link:https://lytuong.net/noi-dung-co-ban-triet-hoc-nho- giao/#nhung_tu_tuong_triet_hoc_co_ban
- Cổng thông tin điện tử Triết Học. Ngày truy cập: 02/12/2021.
Link:http://triethoc.edu.vn/vi/chuyen-de-triet-hoc/triet-hoc- dong-phuong/noi-dung-co-ban-nhat-cua-nho-giao-qua-lich-su- cua-no_674.html
- Cổng thông tin điện tử 123docz. Ngày truy cập 02/12/2021.
Link:https://toc.123docz.net/document/435460-i-qua-trinh- phat-trien-cua-nho-giao.htm.
- Cổng thông tin điện tử Triết Học. Ngày truy cập: 02/12/2021.
Link:http://triethoc.edu.vn/vi/chuyen-de-triet-hoc/tu-tuong- viet-nam/nho-giao-du-nhap-viet-nam_579.html
- Cổng thông tin điện tử Viện Triết Học. Ngày truy cập 02/12/2021.
Link:http://philosophy.vass.gov.vn/phuong-dong/Ve-qua-trinh- Nho-giao-du-nhap-vao-Viet-Nam-tu-dau-cong-nguyen-den-the- ky-XIX-36.0.html
- Cổng thông tin điện tử Di tích lịch sử văn hóa Hà Nội. Ngày truy cập 01/12/2021.
Link:http://ditichlichsu-vanhoahanoi.com/co-so-van-hoa-viet- nam/van-hoa-ung-xu-voi-moi-truong-xa-hoi/nho-giao-va-van- hoa-viet-nam/
39
PHỤ LỤC
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ NHO GIÁO
( https://vi.wikipedia.org/wiki/Nho_gi%C3%A1o )
40
( https://www.nguyendu.com.vn/vi/anh-huong-cua-nho-giao- trong-tu-tuong-nguyen-du- 8C04134B053B500089B8823B664EAA80.html )
( https://vi.wikipedia.org/wiki/Nho_gi%C3%A1o_Vi%E1%BB
%87t_Nam )
41
(http://m.tapchikhxh.vass.gov.vn/anh-huong-cua-nho-giao- trong-van-hoa-viet-nam-n50206.html )
(https://vnexpress.net/phat-hien-ban-thao-co-nhat-ve-nho- giao-4169642.html)
42
(https://vi.wikipedia.org/wiki/Nho_gi%C3%A1o)
43