














Preview text:
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CUỘC THI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KĨ THUẬT
DÀNH CHO HỌC SINH TRUNG HỌC
NĂM HỌC 2022 – 2023 Đề tài:
ĐÁNH GIÁ HIỂU BIẾT, NHẬN THỨC VỀ HẠT VI NHỰA VÀ GIẢM
THIỂU RÁC THẢI NHỰA CỦA HỌC SINH THPT TẠI TP. HỒ CHÍ MINH
Lĩnh vực dự thi: Khoa học xã hội và hành vi
Giáo viên hướng dẫn: Huỳnh Tiểu My
Người thực hiện: Nguyễn Tấn Phát
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 01 năm 2023 TÓM TẮT
Ô nhiễm nhựa đã và đang trở thành vấn đề môi trường lớn trên toàn cầu. Lượng rác
thải nhựa, trong đó có vi nhựa thải ra môi trường ngày càng tăng, gây tác hại đến môi
trường, các hệ sinh thái, đặc biệt là hệ sinh thái biển, đi vào chuỗi thức ăn, gây ảnh
hưởng đến sức khỏe con người. Việt Nam là một trong 5 quốc gia có lượng rác thải
nhựa đổ ra biển nhiều nhất trên thế giới. Theo báo cáo của ngành công nghiệp thực
phẩm châu Á (FIA, 2019), đã có khoảng 545.000 tấn chất thải nhựa bị rò rỉ ra đại
dương ở Việt Nam vào năm 2017. Trong đó TPHCM có lượng rác thải đô thị lớn
nhất trên cả nước, mỗi ngày phát sinh khoảng hơn 9000 tấn chất thải rắn sinh hoạt,
trong đó hơn 1500 tấn là rác thải nhựa. Tuy nhiên, chỉ có khoảng 200 tấn được thu
hồi và tái chế, tức là chỉ chiếm 11% lượng rác thải nhựa (Theo báo cáo được công
bố của Tổ chức Hợp tác và Phát triển (OECD), năm 2021). Nhận thức được nguy cơ
đối với môi trường của rác thải nhựa và Để giải quyết những mối đe dọa toàn cầu từ
rác thải nhựa và túi ni lông, năm 2018, Liên hợp quốc đã phát động chủ đề “Giải
quyết ô nhiễm nhựa và ni lông” nhằm tuyên truyền, vận động, kêu gọi mọi người
cùng thay đổi thói quen sử dụng sản phẩm nhựa dùng một lần, giảm thiểu ô nhiễm
môi trường và bảo vệ sức khỏe con người. Tuy nhiên, muốn giải quyết vấn đề ô
nhiễm môi trường nói chung và rác thải nói riêng cần tập trung vào hệ sinh thái giải
pháp bao gồm: văn hóa môi trường, đầu tư cho khoa học, thông tin truyền thông, hạ
tầng công nghệ, và sự thực thi kỷ luật. Thanh niên có sức mạnh to lớn để quyết định
tương lai của Trái Đất. Họ có thể tác động đến sự thay đổi nhờ sử dụng năng lực của
mình với tư cách là công dân, người tiêu dùng, người vận động và người tạo ra sự
thay đổi để dẫn đầu những lối sống thay thế. Từ khắp nơi trên thế giới, nhiều thanh
niên đang tìm kiếm giải pháp đối với những thách thức của thế giới đang phải đối
mặt hiện nay như biến đổi khí hậu, ô nhiễm chất thải nhựa. Vì vậy mục tiêu của
nghiên cứu này là đánh giá sự hiểu biết, nhận thức về hạt vi nhựa cũng như việc giảm
thiểu rác thải nhựa của giới trẻ, đặc biệt lứa tuổi học sinh THPT tại TP.Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu khảo sát 300 học sinh THPT tập trung ở 3 trường THPT Nguyễn Huệ,
THPT Nguyễn Hữu Huân, THPT Dương Văn Thì. Các loại chất thải nhựa hàng ngày
của học sinh THPT TP. Hồ Chí Minh thải ra chủ yếu là chai nước, hộp xốp, cốc nhựa
ống hút, túi ni – lông và thùng xốp. Trong đó tỷ lệ chai nhựa được thải ra là nhiều
nhất. Đề tài đã đánh giá được những hiểu biết về rác thải nhựa, vi nhựa đã ảnh hưởng
đến các loài sinh vật, sức khỏe con người và môi trường của học sinh THPT tại
TP.HCM, trong đó học sinh khối 12 có ý thức nhất, đến học sinh khối 11 và 10.
Tính mới của đề tài:
Đánh giá hiểu biết và nhận thức về vi nhựa và giảm thiểu rác thải nhựa tại các trường
THPT để các em học sinh biết được lượng chất thải nhựa mà các em thải ra mỗi ngày,
hậu quả mà chúng đã gây ra cho các loài sinh vật, môi trường sống xung quanh và
cả sức khỏe của bản thân, gia đình của chính các em. Từ đó, nhận thức được tính cấp
thiết của việc giữ gìn vệ sinh môi trường đặc biệt là giảm thiểu rác thải nhựa, nói
không với nhựa dùng một lần.
Tính khoa học của đề tài:
Kiến thức về ảnh hưởng của một số chất hóa học có trong hạt vi nhựa tác động lên
sức khỏe con người, đặc biệt là hệ hô hấp gây ra một số bệnh nguy hiểm như gây độc
tế bào máu, phù mạch, tắc nghẽn và tăng áp lực động mạch phổi, một số vấn đề sinh
sản, béo phì, chậm phát triển ở trẻ em,.. Qua đó ta ý thức và nhận thức đúng đắn hơn
về tính cấp thiết trong việc giảm thiểu rác thải nhựa ra môi trường đồng thời có trách
nhiệm hơn để cùng chung tay bảo vệ Trái Đất - hành tinh xanh của chúng ta.
Tính thực tiễn của đề tài:
Con người ăn uống, hít thở mỗi ngày, việc biết và hiểu được những hậu quả
mà vi nhựa, rác thải nhựa ảnh hưởng đến nơi mình đang sống và học tập, đặc biệt là
đối tượng học sinh – thế hệ tương lai của đất nước. Giúp cho ý thức của học sinh nói
riêng và người dân nói chung về bảo vệ môi trường, nhất là việc giảm thiểu rác thải
nhựa trở nên thiết thực hơn.
Tính cộng đồng của đề tài:
Thành phố Hồ Chí Minh là nơi tập trung đông dân với số lượng trường học
lớn, lượng rác thải, phương tiện giao thông, khu công nghiệp xung quanh các trường
học tương đối nhiều. Việc giáo dục cho những chủ nhân tương lai của đất nước về
bảo vệ môi trường là hết sức cần thiết. Nghiên cứu đánh giá hiểu biết về vi nhựa,
giảm thiểu rác thải nhựa vừa giúp bảo vệ sức khỏe cho các em, vừa nâng cao ý thức
bảo vệ môi trường. Việc giúp học sinh nhận thức được bảo vệ bầu môi trường chung
là trách nhiệm của mỗi cá nhân khi tham gia bất cứ lĩnh vực nào là việc làm cần thiết.
Thông qua áp dụng những kiến thức đã học từ sách vở, các em có thể áp dụng để cải
tạo môi trường sống. Từ đó, hình thành thói quen, suy nghĩ khám phá kiến thức để
giải quyết những vấn đề phát sinh trong cuộc sống. Khi hạn chế được quá trình phát
sinh rác thải từ lớp học, gia đình giúp bảo vệ môi trường, học sinh sẽ nâng cao nhận
thức bảo vệ môi trường thông qua các hành động thiết thực khác.
A. Lí do chọn đề tài
Hằng năm, khoảng 8 triệu tấn rác thải nhựa đổ ra biển, tương đương cứ mỗi
phút lại có một xe tải chở đầy rác đổ ra biển. Việt Nam là một trong năm quốc gia có
lượng rác thải nhựa đổ ra biển nhiều nhất trên thế giới. Theo báo cáo của ngành công
nghiệp thực phẩm châu Á (FIA 2019), đã có khoảng 545.000 tấn chất thải nhựa bị rò
rỉ ra đại dương ở Việt nam vào năm 2017. Chất thải rắn đặc biệt là rác thải nhựa đã
tác động không nhỏ đến sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc giá, đến hoạt
động hàng hải, du lịch cũng như nguy cơ ảnh hưởng gián tiếp đến sức khỏe con người.
Nhựa và các sản phẩm từ nhựa có mặt ở hầu hết các đồ dùng trong gia đình,
đặc biệt ở các nước đang và kém phát triển, do nhựa có các ưu điểm như độ bền cao,
dễ dàng gia công và đặc biệt là giá thành rẻ. Cùng với sự thống trị của nhựa trong
cuộc sống loài người thì rác thải nhựa cũng gây nhiều ảnh hưởng nghiêm trọng cho
môi trường và hệ sinh thái. Theo thống kê của Liên hợp Quốc năm 2018, trên 50%
tổng lượng rác thải nhựa ra đại dương là từ các nước nằm trong khu vực Biển Đông
như Trung Quốc, Indonesia, Philippine và Việt Nam. Trong bối cảnh chung đó, Việt
Nam là nước có lượng rác thải nhựa xả ra biển nhiều thứ 4 trên thế giới. Khối lượng
rác thải nhựa từ Việt Nam ra Biển Đông dao động khoảng 1,8 triệu tấn/ năm, tương
đương 6% tổng lượng rác thải nhựa ra biển của thế giới. Tuy nhiên, phần lớn người
dân dường như vẫn chưa có ý thức về những nguy hại từ ô nhiễm rác thải nhựa cũng
như chưa có những hành động cần thiết để bảo vệ môi trường biển. Do đặc điểm cấu
trúc là các polyme tổng hợp nhân tạo (polystyrene, polyester, polyethylene...), rác
thải nhựa là một dạng chất thải có tốc độ phân hủy trong môi trường biển rất chậm.
Thông thường những mảnh rác thải nhựa lớn sẽ bị phân nhỏ ra dưới các tác động cơ
học thành các hạt nhựa nhỏ có kích thước dưới 5 mm (gọi là microplastic). Phải mất
đến hàng trăm năm thậm chí cả hàng nghìn năm để một mảnh rác thải nhựa bị phân
hủy hoàn toàn trong điều kiện tự nhiên. Với đặc tính bền vững trong tự nhiên như
vậy, rác thải nhựa đang gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho hệ sinh thái biển,
ảnh hưởng trực tiếp tới sự sống của các loài sinh vật phù du, cá biển, các loài rùa
biển cũng như các loài chim biển. Các loài thủy sinh như tôm, cá, nghêu, vẹm, hàu…
có thể nhầm tưởng vi nhựa là thức ăn của chúng và vô tình ăn phải. Sự tích lũy vi
nhựa trong cơ thể sinh vật có thể gây ra các mối nguy về sức khỏe của chúng như
làm giảm việc tiêu thụ - tiêu hóa thức ăn, tăng áp lực oxi hóa và gây tổn thương cơ
quan tiêu hóa. Hơn thế, do đặc tính kỵ nước của nhựa, chúng có khả năng hấp phụ
trên bề mặt một lượng lớn các chất ô nhiễm khác như kim loại nặng hay các hợp chất
hữu cơ khó phân hủy (ví dụ PCBs, PAHs, thuốc trừ sâu ... . Việc sử dụng các loại
thực phẩm bị ô nhiễm nhựa có thể dẫn đến những quan ngại về những hợp chất độc
hại hấp phụ trên bề mặt nhựa có thể tích lũy trong cơ thể người và qua thời gian dài
có khả năng gây ra những ảnh hưởng về sức khỏe. Chính vì vô số ảnh hưởng không
nhỏ từ ô nhiễm rác thải nhựa nên việc nghiên cứu về hiểu biết, nhận thức về vi nhựa,
rác thải nhựa tại các trường THPT của thành phố Hồ Chí Minh là rất cần thiết. Đề tài
này hướng đến đối tượng học sinh THPT trong phạm vi thành phố Hồ Chí Minh –
những người đã có đủ nhận thức về vấn đề ô nhiễm môi trường tác động trực tiếp
đến các em mạnh mẽ như thế nào. Từ đó giúp các em có ý thức về việc bảo vệ môi
trường đặc biệt là lượng rác thải mà bản thân và gia đình các em thải ra mỗi ngày.
Ngoài ra nó còn là hồi chuông cảnh báo cho tất cả các vị phụ huynh về việc trẻ em
được sống trong một môi trường trong lành thật sự cần thiết và quan trọng trong việc
phát triển trí tuệ của trẻ, không kém gì việc được cung cấp các điều kiện giáo dục tốt.
B. Câu hỏi nghiên cứu; Vấn đề nghiên cứu; Giả thuyết khoa học
I. Câu hỏi nghiên cứu
- Hiểu biết của các em học sinh THPT về hạt vi nhựa, nhận thức của các em về ảnh
hưởng của vi nhựa đến đời sống của loài sinh vật trên Trái Đất, môi trường sống và
đặc biệt là sức khỏe của chính bản thân các em như thế nào?
- Đánh giá, so sánh hiểu biết, nhận thức về hạt vi nhựa và giảm thiểu rác thải nhựa ở
học sinh THPT các khối 10,11,12?
II. Vấn đề nghiên cứu
- Khảo sát sự hiểu biết của các em học sinh THPT về hạt vi nhựa, nhận thức của các
em về ảnh hưởng của vi nhựa đến đời sống của loài sinh vật trên Trái Đất, môi trường
sống và đặc biệt là sức khỏe của chính bản thân các em.Từ đó các em hiểu được tính
cấp thiết của việc bảo vệ môi trường và điều chỉnh hành vi của bản thân để chung
tay bảo vệ hành tinh xanh của chúng ta.
- Đánh giá, so sánh được mức độ hiểu biết, nhận thức về hạt vi nhựa và giảm thiểu
rác thải nhựa ở học sinh THPT các khối 10,11,12 đề từ đó đưa ra các giải pháp giáo
dục và tuyên truyền phù hợp với từng lứa tuổi và nhận thức của các em.
III. Giả thuyết khoa học
Việc nắm bắt và đánh giá hiểu biết của học sinh về các hạt vi nhựa, giảm thiểu
rác thải nhựa có ý nghĩa to lớn trong việc giúp nhà trường, cơ quan chức năng đưa ra
các giải pháp giáo dục, tuyên truyền để bảo vệ sức khỏe của học sinh và mọi người.
Học sinh sẽ hiểu được ý nghĩa sâu sắc của việc hạn chế sử dụng đồ nhựa 1 lần, việc
phân loại rác tại nguồn,…. qua đó giáo dục cho học sinh ý thức bảo vệ môi trường
để hạn chế lượng vi nhựa phát thải ra môi trường mỗi ngày, góp phần giữ gìn môi
trường sống, đặc biệt là môi trường biển.
C. Thiết kế và phương pháp nghiên cứu
I. Tại sao là vi nhựa (Microplastics)?
Microplastics là một thuật ngữ còn khá xa lạ tại Việt Nam. Cho đến hiện nay,
vẫn chưa có từ điển liên quan đến Tiếng Việt đưa ra định nghĩa chính xác cho thuật
ngữ này. Theo định nghĩa của Cục Đại dương và khí quyển quốc gia - NOAA
(National Oceanic and Atmospheric Administration), microplastics được hiểu là
những miếng nhựa rất nhỏ có chiều dài dưới 5 mm, có thể nhìn bằng mắt thường và
gây ra tác động tiêu cực đến đại dương, sinh vật dưới nước cũng như môi trường.
Microplastics thường được các nhà nghiên cứu gọi bằng tên gọi khác là vi
nhựa.Trong khi hầu hết chúng ta đều có ý thức về túi nhựa. Cũng như các loại nhựa
sử dụng một lần khác. Hạt vi nhựa tạo ra một dạng ô nhiễm nhựa ít rõ ràng hơn. Tuy
nhiên, vi nhựa có ở khắp mọi nơi: trong nước uống, không khí và thực phẩm mà
chúng ta tiêu thụ. Các nhà nghiên cứu dự đoán rằng vào năm 2040 sẽ có hơn 600
triệu tấn chất thải vi nhựa trong các đại dương của chúng ta. Vi nhựa cũng nguy hiểm,
nếu không muốn nói là hơn rác thải nhựa thông thường. Có nhiều tác động độc hại
đối với sinh vật sống và môi trường. Sự tương tác của vi nhựa với đất làm gián đoạn
các chức năng của nó. Hủy hoại sức khỏe và giết chết các sinh vật sống trên trái đất.
Nó cũng là nguyên nhân dẫn đến sự tuyệt chủng của một số sinh vật biển. Và chúng
ta còn lâu mới miễn nhiễm với tai họa của những hạt nhựa nhỏ bé này. Vì các nghiên
cứu đã chỉ ra vi nhựa gây tổn hại sức khỏe con người bằng cách phá hủy các tế bào của con người.
Hình 1: Hậu quả của vi nhựa
II. Thiết kế mẫu phiếu khảo sát trên google form
Thiết kế mẫu phiếu khảo sát các tiêu chí đánh giá hiểu biết, nhận thức về các hạt vi
nhựa và giảm thiểu rác thải nhựa của học sinh tại TP. Hồ Chí Minh.
- Các loại rác thải nhựa của học sinh THPT ở TP. Hồ Chí Minh thải ra hằng ngày.
- Nguồn gốc và thời gian phân hủy của nhựa.
- Những tác động của vi nhựa, rác thải nhựa đối với môi trường sống.
- Những giải pháp mà học sinh đã biết và áp dụng để giảm thiểu rác thải nhựa.
- Đề xuất những những phải mới để giảm thiểu việc sử dụng nhựa và rác thải nhựa.
III. Khảo sát, đánh giá hiểu biết, nhận thức của học sinh THPT về hạt vi nhựa,
giảm thiểu rác thải nhựa tại TP.Hồ Chí Minh
1. Phương pháp thu thập tài liệu
Trong nghiên cứu này, chúng em đã thu thập, tổng hợp và phân tích các tài liệu, sách
báo, tạp chí và các số liệu liên quan đến nội dung nghiên cứu bài báo.
2. Phương pháp điều tra khảo sát trực tuyến
Sử dụng bảng phiếu câu hỏi trực tuyến để đánh giá hiểu biết, nhận thức của học sinh
về về các hạt vi nhựa và giảm thiểu rác thải nhựa của học sinh tại TP. Hồ Chí Minh.
Thực hiện lấy mẫu phiếu điều tra ngẫu nhiên trong 3 nhóm học sinh được chọn là
học sinh các khối: 10, 11,12.
D. Tiến hành nghiên cứu
I. Kế hoạch thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học
I. Kế hoạch thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học Tt Nội dung công việc Phân công Thời gian Địa điểm
1 Đọc thu thập tài liệu, Nguyễn Tấn Phát Trường trung học phổ chọn hướng nghiên cứu 1/9 - 14/9 thông Dương Văn Thì 2 Xây dựng ý tưởng Nguyễn Tấn Phát Trường trung học phổ
15/9 - 21/9 thông Dương Văn Thì
3 Viết đề cương và bảo Nguyễn Tấn Phát Trường trung học phổ vệ đề cương
22/9 - 30/9 thông Dương Văn Thì
4 Thu thập số liệu về Nguyễn Tấn Phát Trường trung học phổ
mức độ hiểu biết, nhận thông Dương Văn Thì thức về vi nhựa, giảm
thiểu rác thải nhựa của 1/10 – 9/1 học sinh THPT ở khu vực TP. Hồ Chí Minh.
5 Phân tích, tính toán trên Nguyễn Tấn Phát Trường trung học phổ
những số liệu thu thập
15/12 - 5/1 thông Dương Văn Thì được.
6 Viết báo cáo tiến độ đề Nguyễn Tấn Phát Trường trung học phổ tài
20/12 - 5/1 thông Dương Văn Thì II. Kết quả
2.1. Một số khái niệm
- Chất thải là vật chất ở thể rắn, lỏng, khí hoặc ở dạng khác được thải ra từ hoạt động
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác.
- Chất thải rắn là chất thải ở thể rắn hoặc bùn thải.
- Rác thải: Các chất liệu, vật thể hoặc sản phẩm mà người sử dụng vứt bỏ đi sau khi
chúng đã được sử dụng, bị hư hỏng hay vì buộc phải vứt bỏ đi vì lý do nào đó khác.
Rác thải được phân làm nhiều loại dựa trên đặc tính của chúng như: rác thải nhựa,
rác thải giấy, rác thải kim loại, rác thải khí hay dựa trên tính chất hóa học: rác thải
vô cơ hay rác thải hữu cơ, rác có thể phân hủy hoặc không thể phân hủy.
- Chất thải nhựa có nguồn gốc chủ yếu từ các hoạt động sinh hoạt, tiêu dùng của
người dân; từ hoạt động sản xuất của các cơ sở sản xuất, kinh doanh trên đất liền và
các nguồn thải trên biển bao gồm các hoạt động vận tải, đánh bắt, sự cố thiên nhiên,
chất thải trôi nổi trên biển và các hoạt động khác. Tại Việt Nam, cũng như trên thế
giới, gần 50% sản phẩm nhựa được thiết kế, sản xuất phục vụ mục đích sử dụng một
lần và sau đó thải bỏ. Trong tổng lượng chất thải nhựa thải bỏ, chỉ có một phần được
thu hồi - tái chế, một phần được xử lý bằng biện pháp thiêu đốt hoặc chôn lấp. Trong
thành phần chất thải rắn sinh hoạt tại các đô thị của Việt Nam trung bình có từ 3,4%
- 10,6% là nhựa và ni-lông.
- Vi nhựa được định nghĩa bởi nhiều nghiên cứu khác nhau, theo đó vi nhựa là những
mảnh nhựa có các kiểu hình dạng: dạng sợi, dạng mảnh, dạng hạt, viên nhỏ… rất
nhỏ bé, khó có thể quan sát bằng mắt thường. Hiện nay, chưa có định nghĩa chính
thức về kích thước hạt vi nhựa nhưng có thể coi vi nhựa (microbeads/microplastics)
là những mẩu nhựa có kích thước nhỏ hơn 5mm. Hai loại vi nhựa đang làm ô nhiễm
đại dương thế giới là vi nhựa sơ cấp và vi nhựa thứ cấp:
+ Vi nhựa sơ cấp (nguyên phát): Là những hạt nhựa nhỏ thải trực tiếp ra môi trường,
có thể được chủ ý sử dụng trong các sản phẩm như mỹ phẩm, chất tẩy rửa. Chúng
cũng có thể phát sinh do sự mài mòn của lốp xe hoặc hàng dệt may trong quá trình giặt.
+ Vi nhựa thứ cấp (thứ phát): Là vi nhựa có nguồn gốc từ sự phân hủy của các mảnh
nhựa lớn thành các mảnh nhựa nhỏ hơn. Theo thời gian, dưới tác động của các quá
trình vật lý, hóa học và sinh học có thể làm giảm tính toàn vẹn cấu trúc các mảnh
vụn nhựa, dẫn đến sự phân mảnh.
2.2. Các loại chất thải nhựa của học sinh THPT tại các trường THPT ở TP. Hồ
Chí Minh thải ra hàng ngày
Theo quan sát sơ bộ về các loại chất thải nhựa mà học sinh THPT tại các trường ở
TP. Hồ Chí Minh thường thải ra hàng ngày là chai nước, hộp xốp, cốc nhựa, ống hút
nhựa, túi ni- lông, vỏ bim bim,... Sau đó chúng em đã tiến hành khảo sát và thu được
kết quả được biểu thị ở hình 1. 300 255 243 250 250 h 200 177 in c s 153 ọ 147 g h 150 123 lượn 100 Số 57 50 45 50 0 Chai nước Hộp xốp Ống hút nhựa Túi nilon Thùng Có Ít sử dụng
Hình 1: Các loại chất thải nhựa hàng ngày của học sinh THPT ở TP. Hồ Chí Minh
2.3. Nhận thức về nguồn gốc của nhựa, vi nhựa; thời gian phân hủy của nhựa
- Vật liệu nhựa không chỉ là một nguyên liệu đồng nhất mà bao gồm rất nhiều loại
với các tính chất khác nhau và tính ứng dụng riêng. Vật liệu nhựa là các hợp chất có
nguồn gốc từ nguyên liệu hóa thạch như dầu mỏ, khí tự nhiên, than đá. Sau khi được
sử dụng, vật liệu nhựa có khả năng tái chế để hoàn thành một vòng tuần hoàn của
sản phẩm nhựa. Ngoài các nguyên liệu hóa thạch để làm vật liệu nhựa thì các nguyên
liệu sinh học mà điển hình là tinh bột ngô, khoai, sắn,... cũng có thể làm thành vật
liệu nhựa. Tuy nhiên, hiện nay trên thế giới, nguyên liệu được sử dụng làm vật liệu
nhựa trên thế giới hầu hết có nguồn gốc từ nguyên liệu hóa thạch . Quy trình sản xuất
sản phẩm nhựa được thể hiện trong (hình 2).
Hình 2: Sơ đồ quy trình sản xuất sản phẩm nhựa
Vi nhựa sơ cấp phát sinh từ một số nguồn chiếm ưu thế bao gồm: hạt/viên nhựa, dệt
may tổng hợp, bào mòn lốp xe, vạch kẻ đường, lớp phủ hàng hải, các sản phẩm chăm
sóc cá nhân, bụi đô thị. Các nguồn này xuất phát từ các hoạt động thương mại hoặc
sinh hoạt cả trên đất liền và trên biển (Hình 3).
Hình 3: Các nguồn chính phát sinh vi nhựa sơ cấp từ các hoạt động trên đất liền và trên biển
Bên cạnh đó là các nguồn trên biển phát sinh vi nhựa. Các hoạt động chủ yếu trên
biển làm phát sinh vi nhựa là hàng hải, du lịch và khai thác hải sản. Nguồn chính của
vi nhựa sơ cấp trên biển là sự xuất hiện của hạt keo nhựa do sự thất thoát vô tình của
hàng hóa. Một nguồn khác ít hơn là do sử dụng các sản phẩm chăm sóc cá nhân và
mỹ phẩm của các hành khách trên tàu du lịch. Sự bào mòn, hỏng hóc của các dụng
cụ khai thác thủy sản và các thiết bị khác cũng dẫn đến sự phát sinh nhiều vi nhựa thứ cấp.
Hình 4: Các nguồn trên biển phát sinh vi nhựa sơ cấp và thứ cấp
Túi ni-lông là một sản phẩm nhựa nên chúng em đã tiến hành điều tra nhận thức cơ
bản của học sinh THPT về nguyên liệu để sản xuất ra túi ni- lông. Câu hỏi này đã
được đề cập trong phần nhận thức của phiếu khảo sát dưới dạng câu hỏi đóng một
lựa chọn. Kết quả nghiên cứu khảo sát được thể hiện ở hình 3.
Trong số 300 học sinh được khảo sát, có 218 học sinh, chiếm tỷ lệ cao nhất đạt 72,6%
nhận thức được túi ni- lông có nguồn gốc từ nhựa. 13,2% số sinh viên biết được
nguyên liệu đầu tiên để sản xuất ra túi ni-lông là dầu mỏ, khí đốt. 14,2% còn lại tương
ứng với 41 học sinh không rõ nguyên liệu để sản xuất ra túi ni- lông là gì và đây cũng
là một con số khá lớn, chiếm tới gần ¼ số học sinh được khảo sát không biết về
nguyên liệu để sản xuất túi ni-lông.
Điều này cho thấy nhận thức của học sinh về nguồn gốc để sản xuất ra túi ni-lông
vẫn còn ở mức tương đối thấp. 3.60% 14.20% 13.20% 18.00% 72.60% 78.40% Dầu mỏ, khí đốt Nhựa Không rõ Dầu mỏ, khí đốt Nhựa Không rõ
Hình 5: Kết quả điều tra nhận thức của Hình 6: Kết quả điều tra nhận thức của học
học sinh về nguồn gốc của túi nylon.
sinh về nguồn gốc của các hạt vi nhựa
Bảng 1. Nhận thức của học sinh ở các trường THPT ở TP Hồ Chí Minh về thời
gian phân hủy của túi Nylon Học 5-10 10-100 100-200 Rất lâu Không quan sinh năm năm năm tâm các SL % SL % SL % SL % SL % Tổng khối 10 3 3% 7 7% 12 12% 76 76% 2 2% 100 11 0 0% 0 0% 3 3% 88 88% 9 9% 100 12 0 0% 0 0% 3 3% 90 90% 7 7% 100
Tổng 3 1% 7 2.3% 18 6% 254 84.7% 18 6% 300
Qua bảng 1 về nhận thức của học sinh THPT TP. Hồ Chí Minh về thời gian phân
hủy túi ni - lông có thể thấy trong tổng số 300 học sinh được phỏng vấn, có 84,7%
học sinh nhận thức đúng về thời gian phân hủy túi ni- lông là rất lâu. Trong đó, 90%
học sinh khối 12 được phỏng vấn có nhận thức đúng về thời gian phân hủy của túi
ni-lông. Tiếp đến là 88% học sinh khối 11 có nhận thức đúng về thời gian phân hủy
của túi ni – lông và 76% học sinh khối 10 có nhận thức đúng.
Trong tổng số các học sinh được phỏng vấn, có 6% học sinh không quan tâm tới thời
gian phân hủy của túi ni- lông tương ứng với 18 học sinh. Tiếp đến là 1%, 2,3% và
6% học sinh tương ứng với 3, 7 và 18 học sinh cho rằng thời gian phân hủy túi ni –
lông chỉ mất 5 - 10 năm, 10 - 100 năm và 100 – 200 năm. Tổng số học sinh có nhận
thức chưa đúng về thời gian phân hủy của túi ni – lông chiếm 6% tổng số học sinh
được khảo sát của toàn trường. Những học sinh nhận thức sai này chủ yếu là khối 10
chiếm khoảng 24% số học sinh được phỏng vấn mỗi khối. Vậy có 18 học sinh có
nhận thức sai về thời gian phân hủy túi ni- lông cho thấy sự bàng quan của các bạn
về thời gian phân hủy của túi ni- lông và theo kết quả khảo sát thì các bạn đó không
quan tâm về hệ lụy tiếp theo đối với môi trường sống nếu sử dụng quá nhiều túi ni – lông.
Bảng 2: Nhận thức của học sinh về tác hại của chất thải nhựa đối với môi trường Tác động với môi Rất ảnh Ảnh hưở Bình Ít ảnh Không ảnh trườ ng ng hưởng thường hưởng hưởng SL % SL % SL % SL % SL %
Suy giảm đa dạng 191 63.8% 59 19.5% 17 5.5% 5 1.8% 28 9.4% sinh học Giết chết cá, rùa 249 83.2% 41 13.7% 6 1.9% 2 0.6% 2 0.6% Suy giảm cảnh 216 72% 71 23.6% 7 2.5% 2 0.6% 4 1.2% quan Lũ lụt, hạn hán 191 63.7% 71 23.8% 14 5% 12 3.8% 12 3.8% Xói mòn đất 177 59% 75 24.8% 27 8.7% 14 5% 7 2.5%
Qua bảng 2 cho thấy, nhận thức của học sinh THPT về tác động của chất thải nhựa
tới suy giảm cảnh quan được học sinh đánh giá là “rất ảnh hưởng” có nghĩa là những
tác động này là rõ nét nhất. Có tới 216 học sinh được phỏng vấn, chiếm khoảng 72%
tổng số học sinh đánh giá chất thải nhựa rất ảnh hưởng tới cảnh quan, cảnh quan sẽ
bị xấu đi và chúng ta nhìn thấy rõ ràng những sự thay đổi đó. Tiếp đến là tác động
của chất thải nhựa tới suy giảm đa dạng sinh học, điển hình là sẽ giết chết các loại
cá, rùa biển khi ăn phải túi ni-lông, chai nhựa thì chúng có thể bị tắc nghẽn ruột do
không tiêu hóa được có thể dẫn đến chết các loài cá, rùa; tỷ lệ học sinh đánh giá chất
thải nhựa rất ảnh hưởng tới đa dạng sinh học là 63,8%, giết chết cá, rùa,… ở mức
trên 83,2% đây là một con số khá cao.
Tuy nhiên có 9,4% tương ứng với 28 học sinh được phỏng vấn cho rằng rác thải nhựa
không gây ảnh hưởng gì đến suy giảm đa dạng sinh học và 0,6% tương ứng với 2
học sinh cho rằng chúng không ảnh hưởng tới việc có thể giết chết cá và rùa, điều
này cho thấy nhận thức của những học sinh này chưa đúng đắn về tác động của chất
thải nhựa tới hệ sinh thái và cụ thể là hệ sinh thái dưới nước trước những tác động
của chất thải nhựa. Theo TS Joseph Pfaller - Đại học Florida (Mỹ), trưởng nhóm
nghiên cứu cho biết: “Túi ni- lông ở trong đại dương dưới tác động của các loài vi
khuẩn, tảo, nhựa sẽ có mùi thức ăn rất giống với tự nhiên. Hơn nữa, túi Ni-lông trôi
nổi trên đại dương nhìn như sứa biển vì vậy túi ni-lông giống cả về hình dạng và mùi
hương nên các động vật ở đại dương (cá voi, chim biển,...), đặc biệt là rùa biển, dễ vô tình nuốt phải”.
Hình 7: Rác thải nhựa trong đại dương
2.5. Ý thức của học sinh THPT tại TP.Hồ Chí Minh với vấn đề chất thải nhựa
trong nhà trường hiện nay.
Để đánh giá được các hành động của học sinh với vấn đề chất thải nhựa hiện nay
trong nhà trường, chúng em đã tiến hành điều tra chia đối tượng theo nhóm học sinh
khối 10, khối 11 và khối 12 thu được kết quả thể hiện trong hình 4.
Qua hình 4 có thể dễ dàng nhận thấy tỉ lệ học sinh sử dụng bình nước cá nhân đang
có sự gia tăng mạnh trong nhóm học sinh khối 11,12. Với nhóm học sinh khối 10
năm có 22 học sinh, còn học sinh khối 11 có 35 bạn mang, học sinh khối 12 có 38
bạn sử dụng bình nước cá nhân. Tỷ lệ học sinh có ý thức giảm thiểu sử dụng ít nhất
1 túi ni- lông/ ngày cũng tăng rõ rệt qua 3 khối khối 12, 10 và 11. Cũng có thể dễ
dàng nhận thấy nhóm học sinh khối 11 có tỉ lệ giảm thiểu việc sử dụng ít nhất 1 túi
ni- lông/ngày nhiều nhất. 100% 90% 27.00% 21.80% 37.10% 80% 70% 17.10% 60% 50% 51% 27.90% 40% 30% 38.00% 20% 35.00% 22.00% 10% 0% Khối 10 Khối 11 Khối 12
mang bình nước cá nhân đi học
bỏ vỏ chai nhựa đúng nơi quy định
giảm thiểu việc sử dụng ít nhất một túi nhựa/ngày
Hình 8: Hành động của học sinh trong việc giảm thiểu rác thải nhựa IV. KẾT LUẬN
Qua những kết quả bước đầu của đề tài, chúng em xin đưa ra một số kết luận sau:
- Các loại chất thải nhựa hàng ngày của học sinh THPT TP. Hồ Chí Minh thải ra chủ
yếu là chai nước, hộp xốp, cốc nhựa ống hút, túi ni – lông và thùng xốp. Trong đó tỷ
lệ chai nhựa được thải ra là nhiều nhất, có 255 học sinh thải ra trung bình ít nhất mỗi
ngày 1 chai nhựa, chủ yếu là chai nước mua từ quán nước, căn tin. Tiếp đến là hộp
xốp đựng thức ăn, các em mua vào để ăn sáng, ống hút nhựa từ các loại thức uống
giải khát. Các loại túi ni – lông có số lượng thải ra ít hơn so với sinh viên không thải,
đây là một điều đáng mừng. Và cần tăng tỉ lệ học sinh không thải chất thải nhựa ra
môi trường hơn là tỷ lệ học sinh có thải chất thải nhựa ra môi trường.
- Số lượng các em học sinh khối 12 mang chai nước cá nhân đi học chiếm cao nhất
trong 3 khối, 90% học sinh khối 12 có nhận thức đúng đắn nhất về thời gian phân
hủy chất thải nhựa có thời gian phân hủy rất lâu, từ 500- 1000 năm mới có thể phân
hủy hết được. Các em 12 được học tập và tham gia các buổi ngoại khóa về hoạt động
bảo vệ môi trường nhiều hơn các em khối 10, 11 nên đã ý thức trong việc mang bình
nước cá nhân đi học. Tuy nhiên việc bỏ rác, phân loại rác theo hướng dẫn và hạn chế
sử dụng túi nhựa tỉ lệ vẫn còn thấp, cần tiếp tục tuyên truyền, giáo dục các em để
giảm thiểu tối đa lượng rác thải nhựa ra môi trường.
Sau khi đánh giá những hiểu biết và nhận thức của học sinh THPT về hạt vi nhựa và
giảm thiểu rác thải nhựa, chúng em đưa ra một số giải pháp như sau:
1. Để nâng cao nhận thức cũng như trách nhiệm của học sinh trong việc giảm
thiểu rác thải nhựa, nhà trường cần có những buổi tuyên truyền sâu, rộng hơn nữa về
tác hại của chất thải nhựa tới môi trường và tới sức khỏe cộng đồng.
2. Cùng với đó trong các buổi sinh hoạt của các câu lạc bộ có thể đưa chuyên
đề: Tái sử dụng túi ni- lông, tái sử dụng trong gia đình: đựng đồ dùng, lót thùng rác...;
Thu gom, giặt sạch túi ni – lông để đem cho những người có nhu cầu sử dụng như:
người bán hàng, tiệm tạp hóa, người thu mua phế liệu. Tuyên truyền cho học sinh
không thải bỏ bừa bãi ra đường phố, cống rãnh, không tự ý đốt, chôn lấp túi ni – lông...
3. Xây dựng nội quy cho trường học, lớp học để học sinh “nói không với đồ nhựa dùng một lần”.
4. Tạo ra các hoạt động ngoại khóa giúp học sinh tham gia sưu tầm thông tin về
rác thải nhựa cũng như vi nhựa, từ đó khơi nguồn ý tưởng giúp học sinh tự tìm ra
những giải pháp thiết thực để giảm thiểu và thay thế chúng.
5. Đoàn thanh niên hoặc các liên chi đoàn có thể tạo ra nhiều hoạt động, thử
thách như đi chợ không sử dụng túi ni-lông, thi đua sáng tạo, tái chế rác thải nhựa.
6. Các giáo viên lồng ghép chủ đề về giảm thiểu chất thải nhựa trong các tiết
học để học sinh cùng thảo luận từ đó nâng cao nhận thức và thay đổi hành động để
giảm thiểu việc sử dụng, thải bỏ chất thải nhựa.
E. Tài liệu tham khảo
1. Unesco, Current situation of plastic waste in Cu Lao Cham Biosphere Reserve -
Hoi An, Youth innovation for ocean, 14/07/2020.
2. Ministry of natural resources and environment, Environmental Protection law, 2020.
3. Vi nhựa: Những vấn đề môi trường, sinh thái và sức khỏe con người
4. Võ Văn Chí, Võ Thị Ngọc Quyên. Ô nhiễm vi nhựa ở sò huyết (Anadara
Granosa) phân bố ở đầm Thị Nại, tỉnh Bình Định. Tạp chí Khoa học và Công nghệ-
Đại học Đà Nẵng, 2022, 21-25.
5. Nguyễn Trung Thắng. Thực trạng chính sách pháp luật về quản lý ô nhiễm vi
nhựa tại Việt Nam. Hà Nội. IUCN: Văn phòng Quốc gia Việt Nam, 2021.
6. Đỗ Văn Mạnh. Phân tích đặc tính của rác thải vi nhựa trong trầm tích bãi biển
vùng duyên hải Việt Nam: Nghiên cứu ban đầu tại Đà Nẵng. Bản B của Tạp chí
Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 2021, 63.11ĐB.
7. Lê Quỳnh Anh. Nghiên cứu thành phần vi nhựa và một số kim loại nặng trong
nước rỉ rác từ bãi chôn lấp chất thải rắn sinh hoạt. 2021. PhD Thesis. Đại học Quốc Gia Hà Nội.
8. Đặng Thị Hà. Ô nhiễm vi nhựa trong một số loài thủy sinh thu thập tại tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. 2021.
9. Gia Quốc. Ô nhiễm rác thải nhựa trên biển việt nam: thực trạng và giải pháp.