CSVH CHƯƠNG 5 BÀI 3 - Summary Cơ sở văn hóa Việt Nam | Cơ sở văn hóa Việt Nam | Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố HCM

Chương 5 Bài 3 trong khóa học "Cơ sở văn hóa Việt Nam" tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố HCM tập trung vào khái niệm "tiêu cựu" trong văn hóa Việt Nam. Bài học trình bày về ý nghĩa, giá trị và các phong tục tiêu cựu truyền thống, cùng với sự phát triển và thay đổi của nó trong xã hội hiện đại. Đồng thời, bài học cũng đề cập đến các biện pháp bảo tồn và phát triển giá trị truyền thống của tiêu cựu trong văn hóa Việt Nam.

lOMoARcPSD| 40749825
CSVH CHƯƠNG 5 BÀI 3 - Summary Cơ sở văn hóa Việt
Nam
Cơ sở văn hóa Việt Nam (Đại hc Khoa hc Xã hội và Nhân văn, Đại hc Quc gia
Thành ph H Chí Minh)
lOMoARcPSD| 40749825
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
___________________________________________________
MÔN: CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
CHƯƠNG 5: VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG TNHIÊN
BÀI 3: ỨNG PHÓ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN: Ở VÀ ĐI LẠI
Giảng viên: Nguyễn Thanh Phong
Lớp: 2310DAI012L01
Thành viên:
Phạm Thị Phương Trâm
2256110178
Phạm Nguyễn Nhã Trâm
2256110177
Lê Trần Bảo Uyên
2256110184
Nguyễn Thị Kiều Vy
2256100076
lOMoARcPSD| 40749825
CHƯƠNG 5: VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN
BÀI 3: ỨNG PHÓ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN: Ở VÀ ĐI LẠI
3.1/ỨNG PHÓ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN VÀ ĐI LẠI
Việt Nam cổ truyền, do bản chất nông nghiệp sống định cư nên ít có nhu
cầu di chuyển vì suốt ngày dành thời gian ngoài ruộng đồng, không có thời
gian để đi đây đi đó. Hoạt động đi lại chủ yếu là đi gần - từ nhà ra đồng, từ
nhà lên nương; mà ruộng nước và nương rẫy là nơi không thể đưa xe tới được
nên họ dùng sức người hoặc gia súc để vận chuyển là chính.
ít nhu cầu đi lại như vậy, nên giao thông đường bộ Việt Nam
thời xưa rất kém phát triển. Điển hình là đến thế kỷ XIX mới chỉ có những
con đường nhỏ, phương tiện chủ yếu là bằng đôi chân.
lOMoARcPSD| 40749825
Còn quan lại đi bằng cáng, kiệu
*kiệu
*cáng
Một người phương Tây thể kỷ XVIII mô tả tình hình giao thông ở Việt
Nam là: “ Xứ này không có đường cái lớn, lại chằng chịt ruộng đồng.
Muốn đến Huế cũng như bất cứ nơi nào đều phải đi bằng đường biển hay
đường sông.
*Thương cảng Hội An
“Không phải ngẫu nhiên mà phần lớn đô thị Việt Nam trong lịch sử đều
là những cảng sông cảng biển”. Tại sao vậy ?
lOMoARcPSD| 40749825
Trong khi ở Trung Hoa, sự sang trọng của tầng lớp quyền quý, quý
tộc được thể hiện qua các cỗ xe tam mã, tứ mã thì ở phương Nam
sông nước, thuyền rồng là biểu tượng của quyền uy.
Phương tiện giao thông và chuyên chở trên sông nước ở Việt Nam hết
sức phong phú: thuyền, ghe, xuồng, bè, mảng, phà, tầu (tàu),...
Thuyền, ghe có rất nhiều loại, chúng được xem linh hồn như con
người. Việt Nam tục vẽ mắt thuyền người ta tin rằng con mắt ấy sẽ
giúp cho thuyền tránh khỏi bị thủy quái làm hại; giúp cho ngư phủ tìm
được nơi nhiều có,…
Qua đó, ta có thể thấy được hình ảnh các con thuyền, con ghe thường
gắn liền với văn hóa Việt Nam thời xưa, chúng luôn xuất hiện trong thơ
ca của người Việt như: “Chớ thấy sóng cả mà rã tay chèo”, “Chết
trong còn hơn sống đục”, “Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau”, “Buôn
tàu bán bè không bằng ăn dè hà tiện”,“Đàn ông vượt biển có đôi -
Đàn bà vượt biển mồ côi một mình”, “Sông sâu còn có kẻ dò - Lòng
người nham hiểm ai đo cho tường”.
lOMoARcPSD| 40749825
Bên cạnh đó, ngành đóng thuyền tàu trong lịch sử nước ta cũng từ đó mà
phát triển, từ thời Đông Sơn, tổ tiên ta đã đóng những con thuyền vói
hình dạng đa dạng, sức chở lớn có thể lênn tới 600-700 người. Thời Lê,
thuyền hạng nặng thường dài khoảng 26-30m, rộng từ 3,6-5m, có từ 34-
50 mái chèo, trọng tài khoảng 35-50 tấn,.. Năm 1820, đại tá hải quân Mỹ
là White đã phải thốt lên: “Người Việt Nam quả là những nhà đóng tàu
thành thạo.”
Chính vì giao thông đường thủy phát triển nên đã ảnh hưởng không
nhỏ đến giao thông đường bộ, gây khó khăn trong việc đi lại. Có lẽ
chính vì vậy mà Việt Nam là một trong những nước biết làm cầu di động
bằng tre gỗ ( cầu phao) hoặc thuyền ghép lại ( cầu thuyền ) sớm nhất thế
giới.
lOMoARcPSD| 40749825
3.2/ Ứng phó với thời tiết, khí hậu: Nhà cửa, kiến trúc
Có câu: “ An cư lạc nghiệp”, đúng như vậy có chỗ ở tốt thì mới có nghề nghiệp tốt.
Đối với người nông nghiệp, NGÔI NHÀ là tổ ấm để đối phó với thời tiết, khí hậu
như nắng mưa, gió bão - là một trong những yếu tố quan trọng nhất đảm bảo cho họ
một cuộc sống định cư ổn định.
Vậy ngôi nhà của Người Việt Nam có những đặc điểm gì ?
1. Do khu vực cư trú là vùng sông nước cho nên ngôi nhà của người Việt
Nam gắn liền với môi trường sông nước.
Những người sống bằng nghề sông nước ( chài lưới, chở đò,..) thường lấy
ngay thuyền, bè làm nhà ở: đó là các nhà thuyền, nhà bè; nhiều gia đình quần
tụ lên các xóm chài, làng chài. vì vậy mà phần lớn sông ngòi đầy thuyền,
những thuyền đó thay cho nhà cửa của họ. Thuyền rất sạch sẽ, ngay cả khi họ
nuôi gia súc ở trong đó.
Nhiều người tuy không sống bằng nghề sông nước nhưng họ cũng làm nhà sàn
trên mặt nước, để ứng phó với ngập lụt quanh năm. Nhà sàn là kiểu nhà rất
phổ biến ở VN từ thời Đông Sơn, nó thích hợp cho cả miền sông nước lẫn
miền núi. Nó không chỉ có tác dụng ứng phó với.
môi trường sông nước ngập lụt quanh năm
thời tiết mưa nhiều dây lũ rừng ở miền cao và ngập
lụt định kỳ ở vùng thấp
khí hậu nhiệt đới có độ ẩm cao
hạn chế và ngăn cản côn trùng, thú dữ
lOMoARcPSD| 40749825
Ngày nay, ở những vùng hay ngập nước như đồng bằng sông Cửu
Long vẫn duy trì kiến trúc nhà sàn.
Một số dạng kiến trúc gắn liền với văn hóa sông nước là chiếc mái cong
phỏng hình thuyền. Nhà rộng, nhà mồ Tây Nguyên đến giờ vẫn làm mái
cong. Tháp Chàm cũng có loại mái cong. Nhưng ngoài ý nghĩa là hình ảnh
con thuyền, không có tác dụng thực tế gì nên về sau mái nhà bình dân
thường làm thẳng cho giản tiện, chỉ có những công trình kiến trúc lớn mới
làm mái cong cầu kì.
2. Để ứng phó với môi trường tự nhiên, tiêu chuẩn ngôi nhà Việt Nam về
mặt cấu trúc là nhà cao cửa rộng .
Cái “ cao” của ngôi nhà VN bao gồm hai yêu cầu: sàn/nền cao so với
mặt đất, có tác dụng ứng phó với lụt lội, ẩm ướt, côn trùng,.. và mái
cao so với sàn/nền nhằm tạo ra khoảng không gian rộng, thoáng mát
để ứng phó với nắng nóng. Mái cao có độ dốc lớn để ứng phó với lượng
mưa nhiều, khiến cho nước thoát nhanh, tránh dột, tránh hư mục mái
nhà.
Cửa không cao là vì để tránh nắng chiếu và tránh mưa hắt, bên cạnh
đó “rộng” để đón gió mát và tránh cái nóng oi của nắng. Nhưng đồng
thời, tránh phải đón gió độc, gió mạnh vào nhà vì vậy mà nhân dân có
kinh nghiệm không bao giờ xây cổng và cửa thẳng hàng ( cổng nhà
thường lệch về phía bên trái ), tuyệt đối tránh không để con đường trước
mặt đâm thẳng vào nhà. Trường hợp bất khả kháng, phải có một tấm bình
phong bằng cây xanh hoặc xây gạch để che chắn.
lOMoARcPSD| 40749825
3. Chọn hướng nhà, chọn đất. Đó là cách tận dụng tối đa thế mạnh của
môi trường tự nhiên để ứng phó với nó.
Hướng nhà tiêu biểu hướng nam. VN gần biển, trong khu vực
gió mùa, trong bốn hướng chỉ có hướng nam ( hoặc đông nam ) là tối ưu -
vừa tránh được cái nóng của phía tây, cái bão từ phía đông, và gió lạnh từ
miền bắc.
Truyền thống văn hóa nông nghiệp đã hình thành một nghề CHỌN ĐẤT
để làm nhà, đặt mộ, gọi là nghề phong thủy .
“ Phong” và “ thủy” là hai yếu tố quan trọng nhất, tạo thành vi khí
hậu cho một ngôi nhà. Phong là gió, động hơn, thuộc dương; Thủy là
nước, tĩnh hơn, thuộc âm.
Theo Ngũ hành, các thế đất được phân thành 5 loại hình đất: hình
thủy ( ngoằn ngoèo), hình hỏa ( nhọn), hình mộc (dài), hình kim
(tròn), hình thổ ( vuông). các kinh độ khi xưa đều được chọn theo
con mắt phong thủy như thành Thăng Long, thành Huế.
Ngọ Môn ( Cố Đô Huế)
lOMoARcPSD| 40749825
Vị thế Kinh Thành Huế
Hoàng Thành Thăng Long
Vị thế Kinh Thành Thăng Long
lOMoARcPSD| 40749825
Ngoài ra, người Viêt rất quan tâm đến việc chọn hàng xóm, láng giềng
vị trí giao thông thuận tiện khi thời kỳ kinh tế hàng hóa phát triển.
4. Cách thức kiến trúc truyền thống nhà Việt Nam thời xưa rất động và
linh hoạt.
Chất động,linh hoạt thể hiện ở lối kết cấu khung. Cốt lõi của một ngôi
nhà là một bộ khung chịu lực tạo nên bởi các bộ phận liên kết với nhau
trong một không gian ba chiều:
Theo chiều đứng, trọng lực của ngôi nhà phân bố đều vào các
cột và dồn xuống các viên đá tảng kê chân cột.
Theo chiều ngang, các cột được nối với nhau bằng các kẻ tạo nên
các kèo.
Theo chiều dọc, các vì kèo được nối với nhau bằng các xà.
Tất cả các chi tiết của ngôi nhà được liên kết với nhau bằng mộng.
thể hiểu rằng mộng là một cặp ghép hình với phần lồi ra và một phần lõm
vào. Kỹ thuật ghép mộng được áp dụng cho mọi đồ mộc truyền thống, từ
nhà đến giường tủ, bàn ghế,.. tạo nên sự liên kết rất chắc chắn lại còn
động và rất linh hoạt.
5. Hình thức cấu trúc mang đặc điểm của truyền thống văn hóa dân tộc .
Môi trường sông nước phản ánh qua cách làm nhà sàn với vách
nghiêng và mái cong.
Truyền thống thờ cúng tổ tiên và hiếu khách cho nên ngôi nhà VN dành
ưu tiên gian giữa cho hai mục đích này: phía trong là nơi đạt bàn thờ gia
tiên, phía ngoài là bộ bàn ghế tiếp khách.
Tuân thủ theo nguyên tắc coi trọng số lẻ trong văn hóa nông nghiệp
như cổng tam quan, bậc tam cấp, ba gian, năm gian, lối tam tòa, thành C
Loa, thành Huế có kiến trúc ba vòng, … . Ở nhà cho người chết ( nhà mồ
các dân tộc VIỆT BẮC, Tây Nguyên, thì làm cầu thang số bậc chẵn,
vì chẵn là số âm ( âm = tĩnh, chết)
lOMoARcPSD| 40749825
KẾT LUẬN:
Nhìn chung, chỉ trong một việc ở, ta cũng thấy nguyên
lí âm-dương và ý muốn hướng tới một cuộc sống hài
hòa chi phối con người Việt Nam một cách trọn vẹn:
vị trí nhà, hướng nhà, các liên kết theo cấu trúc ghép
mộng âm-dương, hình thức kiến trúc coi trong số lẻ
cũng đều là những việc từ triết lý âm-dương mà ra cả.
| 1/12

Preview text:

lOMoAR cPSD| 40749825
CSVH CHƯƠNG 5 BÀI 3 - Summary Cơ sở văn hóa Việt Nam
Cơ sở văn hóa Việt Nam (Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) lOMoAR cPSD| 40749825
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
___________________________________________________
MÔN: CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
CHƯƠNG 5: VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN
BÀI 3: ỨNG PHÓ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN: Ở VÀ ĐI LẠI
Giảng viên: Nguyễn Thanh Phong Lớp: 2310DAI012L01 Thành viên: Phạm Thị Phương Trâm 2256110178 Phạm Nguyễn Nhã Trâm 2256110177 Lê Trần Bảo Uyên 2256110184 Nguyễn Thị Kiều Vy 2256100076 lOMoAR cPSD| 40749825
CHƯƠNG 5: VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN
BÀI 3: ỨNG PHÓ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN: Ở VÀ ĐI LẠI
3.1/ỨNG PHÓ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN VÀ ĐI LẠI
Việt Nam cổ truyền, do bản chất nông nghiệp sống định cư nên ít có nhu
cầu di chuyển
vì suốt ngày dành thời gian ngoài ruộng đồng, không có thời
gian để đi đây đi đó. Hoạt động đi lại chủ yếu là đi gần - từ nhà ra đồng, từ
nhà lên nương; mà ruộng nước và nương rẫy là nơi không thể đưa xe tới được
nên họ dùng sức người hoặc gia súc để vận chuyển là chính.
Vì ít có nhu cầu đi lại như vậy, nên giao thông đường bộ ở Việt Nam
thời xưa rất kém phát triển
. Điển hình là đến thế kỷ XIX mới chỉ có những
con đường nhỏ, phương tiện chủ yếu là bằng đôi chân. lOMoAR cPSD| 40749825
Còn quan lại đi bằng cáng, kiệu *kiệu *cáng
Một người phương Tây thể kỷ XVIII mô tả tình hình giao thông ở Việt
Nam là: “ Xứ này không có đường cái lớn, lại chằng chịt ruộng đồng.
Muốn đến Huế cũng như bất cứ nơi nào đều phải đi bằng đường biển hay đường sông.”

*Thương cảng Hội An
“Không phải ngẫu nhiên mà phần lớn đô thị Việt Nam trong lịch sử đều
là những cảng sông cảng biển”. Tại sao vậy ?
lOMoAR cPSD| 40749825
Trong khi ở Trung Hoa, sự sang trọng của tầng lớp quyền quý, quý
tộc được thể hiện qua các cỗ xe tam mã, tứ mã thì ở phương Nam
sông nước, thuyền rồng là biểu tượng của quyền uy.
Phương tiện giao thông và chuyên chở trên sông nước ở Việt Nam hết
sức phong phú: thuyền, ghe, xuồng, bè, mảng, phà, tầu (tàu),...
Thuyền, ghe có rất nhiều loại, chúng được xem là có linh hồn như con
người.
Việt Nam có tục vẽ mắt thuyền người ta tin rằng con mắt ấy sẽ
giúp cho thuyền tránh khỏi bị thủy quái làm hại; giúp cho ngư phủ tìm được nơi nhiều có,…
Qua đó, ta có thể thấy được hình ảnh các con thuyền, con ghe thường
gắn liền với văn hóa Việt Nam thời xưa, chúng luôn xuất hiện trong thơ
ca của người Việt như: “Chớ thấy sóng cả mà rã tay chèo”, “Chết
trong còn hơn sống đục”, “Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau”, “Buôn
tàu bán bè không bằng ăn dè hà tiện”,“Đàn ông vượt biển có đôi -
Đàn bà vượt biển mồ côi một mình”, “Sông sâu còn có kẻ dò - Lòng
người nham hiểm ai đo cho tường”.
lOMoAR cPSD| 40749825
Bên cạnh đó, ngành đóng thuyền tàu trong lịch sử nước ta cũng từ đó mà
phát triển, từ thời Đông Sơn, tổ tiên ta đã đóng những con thuyền vói
hình dạng đa dạng, sức chở lớn có thể lênn tới 600-700 người. Thời Lê,
thuyền hạng nặng thường dài khoảng 26-30m, rộng từ 3,6-5m, có từ 34-
50 mái chèo, trọng tài khoảng 35-50 tấn,.. Năm 1820, đại tá hải quân Mỹ
là White đã phải thốt lên: “Người Việt Nam quả là những nhà đóng tàu thành thạo.”
Chính vì giao thông đường thủy phát triển nên đã ảnh hưởng không
nhỏ đến giao thông đường bộ, gây khó khăn trong việc đi lại
. Có lẽ
chính vì vậy mà Việt Nam là một trong những nước biết làm cầu di động
bằng tre gỗ ( cầu phao) hoặc thuyền ghép lại ( cầu thuyền ) sớm nhất thế giới. lOMoAR cPSD| 40749825
3.2/ Ứng phó với thời tiết, khí hậu: Nhà cửa, kiến trúc
Có câu: “ An cư lạc nghiệp”, đúng như vậy có chỗ ở tốt thì mới có nghề nghiệp tốt.
Đối với người nông nghiệp, NGÔI NHÀ là tổ ấm để đối phó với thời tiết, khí hậu
như nắng mưa, gió bão - là một trong những yếu tố quan trọng nhất đảm bảo cho họ
một cuộc sống định cư ổn định.

Vậy ngôi nhà của Người Việt Nam có những đặc điểm gì ?
1. Do khu vực cư trú là vùng sông nước cho nên ngôi nhà của người Việt
Nam gắn liền với môi trường sông nước.
Những người sống bằng nghề sông nước ( chài lưới, chở đò,..) thường lấy
ngay thuyền, bè làm nhà ở: đó là các nhà thuyền, nhà bè; nhiều gia đình quần
tụ lên các xóm chài, làng chài. vì vậy mà phần lớn sông ngòi đầy thuyền,
những thuyền đó thay cho nhà cửa của họ. Thuyền rất sạch sẽ, ngay cả khi họ
nuôi gia súc ở trong đó.
Nhiều người tuy không sống bằng nghề sông nước nhưng họ cũng làm nhà sàn
trên mặt nước,
để ứng phó với ngập lụt quanh năm. Nhà sàn là kiểu nhà rất
phổ biến ở VN từ thời Đông Sơn, nó thích hợp cho cả miền sông nước lẫn
miền núi. Nó không chỉ có tác dụng ứng phó với.

môi trường sông nước ngập lụt quanh năm
thời tiết mưa nhiều dây lũ rừng ở miền cao và ngập
lụt định kỳ ở vùng thấp

khí hậu nhiệt đới có độ ẩm cao
hạn chế và ngăn cản côn trùng, thú dữ lOMoAR cPSD| 40749825
Ngày nay, ở những vùng hay ngập nước như đồng bằng sông Cửu
Long vẫn duy trì kiến trúc nhà sàn.

Một số dạng kiến trúc gắn liền với văn hóa sông nước là chiếc mái cong
phỏng hình thuyền. Nhà rộng, nhà mồ Tây Nguyên đến giờ vẫn làm mái
cong. Tháp Chàm cũng có loại mái cong.
Nhưng ngoài ý nghĩa là hình ảnh
con thuyền, không có tác dụng thực tế gì nên về sau mái nhà bình dân
thường làm thẳng cho giản tiện, chỉ có những công trình kiến trúc lớn mới làm mái cong cầu kì.
2. Để ứng phó với môi trường tự nhiên, tiêu chuẩn ngôi nhà Việt Nam về
mặt cấu trúc là nhà cao cửa rộng .
Cái “ cao” của ngôi nhà VN bao gồm hai yêu cầu: sàn/nền cao so với
mặt đất, có tác dụng ứng phó với lụt lội, ẩm ướt, côn trùng,.. và mái
cao so với sàn/nền nhằm tạo ra khoảng không gian rộng, thoáng mát
để ứng phó với nắng nóng
. Mái cao có độ dốc lớn để ứng phó với lượng
mưa nhiều, khiến cho nước thoát nhanh, tránh dột, tránh hư mục mái nhà.
Cửa không cao là vì để tránh nắng chiếu và tránh mưa hắt, bên cạnh
đó “rộng” để đón gió mát và tránh cái nóng oi của nắng.
Nhưng đồng
thời, tránh phải đón gió độc, gió mạnh vào nhà vì vậy mà nhân dân có
kinh nghiệm không bao giờ xây cổng và cửa thẳng hàng ( cổng nhà
thường lệch về phía bên trái ), tuyệt đối tránh không để con đường trước
mặt đâm thẳng vào nhà. Trường hợp bất khả kháng, phải có một tấm bình
phong bằng cây xanh hoặc xây gạch để che chắn. lOMoAR cPSD| 40749825
3. Chọn hướng nhà, chọn đất. Đó là cách tận dụng tối đa thế mạnh của
môi trường tự nhiên để ứng phó với nó.
Hướng nhà tiêu biểu là hướng nam. Vì VN ở gần biển, trong khu vực
gió mùa, trong bốn hướng chỉ có hướng nam ( hoặc đông nam ) là tối ưu -
vừa tránh được cái nóng của phía tây, cái bão từ phía đông, và gió lạnh từ miền bắc.
Truyền thống văn hóa nông nghiệp đã hình thành một nghề CHỌN ĐẤT
để làm nhà, đặt mộ, gọi là nghề phong thủy .
“ Phong” và “ thủy” là hai yếu tố quan trọng nhất, tạo thành vi khí
hậu cho một ngôi nhà. Phong là gió, động hơn, thuộc dương; Thủy là
nước, tĩnh hơn, thuộc âm.
Theo Ngũ hành, các thế đất được phân thành 5 loại hình đất: hình
thủy ( ngoằn ngoèo), hình hỏa ( nhọn), hình mộc (dài), hình kim
(tròn), hình thổ ( vuông). các kinh độ khi xưa đều được chọn theo
con mắt phong thủy như thành Thăng Long, thành Huế.

Ngọ Môn ( Cố Đô Huế) lOMoAR cPSD| 40749825
Vị thế Kinh Thành Huế
Hoàng Thành Thăng Long
Vị thế Kinh Thành Thăng Long lOMoAR cPSD| 40749825
Ngoài ra, người Viêt rất quan tâm đến việc chọn hàng xóm, láng giềng
và vị trí giao thông thuận tiện khi thời kỳ kinh tế hàng hóa phát triển.
4. Cách thức kiến trúc truyền thống nhà Việt Nam thời xưa rất động và linh hoạt.
Chất động,linh hoạt thể hiện ở lối kết cấu khung. Cốt lõi của một ngôi
nhà là một bộ khung chịu lực tạo nên bởi các bộ phận liên kết với nhau
trong một không gian ba chiều:
Theo chiều đứng, trọng lực của ngôi nhà phân bố đều vào các
cột và dồn xuống các viên đá tảng kê chân cột.
Theo chiều ngang, các cột được nối với nhau bằng các kẻ tạo nên các kèo.
Theo chiều dọc, các vì kèo được nối với nhau bằng các xà.
Tất cả các chi tiết của ngôi nhà được liên kết với nhau bằng mộng. Có
thể hiểu rằng mộng là một cặp ghép hình với phần lồi ra và một phần lõm
vào. Kỹ thuật ghép mộng được áp dụng cho mọi đồ mộc truyền thống, từ
nhà đến giường tủ, bàn ghế,.. tạo nên sự liên kết rất chắc chắn lại còn
động và rất linh hoạt.
5. Hình thức cấu trúc mang đặc điểm của truyền thống văn hóa dân tộc .
Môi trường sông nước phản ánh qua cách làm nhà sàn với vách
nghiêng và mái cong
.
Truyền thống thờ cúng tổ tiên và hiếu khách cho nên ngôi nhà VN dành
ưu tiên gian giữa cho hai mục đích này: phía trong là nơi đạt bàn thờ gia
tiên, phía ngoài là bộ bàn ghế tiếp khách.
Tuân thủ theo nguyên tắc coi trọng số lẻ trong văn hóa nông nghiệp
như cổng tam quan, bậc tam cấp, ba gian, năm gian, lối tam tòa, thành Cổ
Loa, thành Huế có kiến trúc ba vòng, … . Ở nhà cho người chết ( nhà mồ
các dân tộc VIỆT BẮC, Tây Nguyên, thì làm cầu thang có số bậc chẵn,
vì chẵn là số âm ( âm = tĩnh, chết) lOMoAR cPSD| 40749825 KẾT LUẬN:
Nhìn chung, chỉ trong một việc ở, ta cũng thấy nguyên
lí âm-dương và ý muốn hướng tới một cuộc sống hài
hòa chi phối con người Việt Nam một cách trọn vẹn:
vị trí nhà, hướng nhà, các liên kết theo cấu trúc ghép
mộng âm-dương, hình thức kiến trúc coi trong số lẻ
cũng đều là những việc từ triết lý âm-dương mà ra cả.