lOMoARcPSD| 61159950
NHÓM 2: Các cuộc kháng chiến thời Lý - Trần- Hồ;
Nền văn hóa Đại Việt thời Lý - Trần - Hồ
Phần 1: Các cuộc kháng chiến thời Lý – Trần – Hồ
I. Nhà Lý kháng chiến chống Tống (1075 – 1077)
1. Tóm tắt nguyên nhân
- Giữa thế kỉ XI, nhà Tống (Trung Quốc) gặp phải những khó khăn chồng chất:
Trong nước: ngân khố cạn kiệt, tài chính nguy ngập, nội bộ mâu thuẫn
Vùng biên giới phía Bắc nhà Tống thường xuyên bị các nước Liêu, Hạ quấy nhiễu.
=> Nhà Tống muốn sử dụng chiến tranh để giải quyết nh trạng khủng hoảng, nên đã tiến
hành âm mưu xâm lược Đại Việt.
- Để đánh chiếm Đại Việt, nhà Tống xúi giục vua Champa đánh lên từ phía Nam. biên
giới phía Bắc Đại Việt, nhà Tống ngăn cản việc buôn bán, đi lại của nhân dân hai nước, dụ
dỗ các tù trưởng dân tộc ít người.
2. Diễn biến: chia làm 2 giai đoạn
2.1. Giai đoạn 1 (1075)
- Thường Kiệt đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược ở thế kỉ XI.
- Năm 1075, Nhà đã liên kết các trưởng các tộc người thiểu số vùng rừng núi phía
bắc phối hợp chống giặc (Tông Đản, Thân Cảnh Phúc, Hoàng Kim Mãn, Vi Thủ An).
- Tháng 10-1075, với quan điểm "Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn
mũi nhọn của giặc" (Tiên phát chế nhân),Thường Kiệt cùng Tông Đản chỉ huy hơn 10
vạn quân thuỷ - bộ, chia làm hai đạo tấn công vào đất Tống:
Quân bộ do các tù trưởng Thân Cảnh Phúc, Tông Đản chỉ huy dân binh miền núi đánh vào
châu Ung (Quảng Tây).
Thường Kiệt chỉ huy cánh quân đường thuỷ, đổ bộ vào châu Khâm, châu Liêm (Quảng
Đông). Sau khi tiêu diệt các căn cứ tập kết quân, phá huỷ các kho tàng của giặc, quân
Thường Kiệt tiến về bao vây thành Ung Châu, căn cứ của quân Tống.
- Kết quả: Sau 42 ngày chiến đấu, quân nhà hạ được thành Ung Châu, tướng Tô Giám
nhà Tống phải tự tử. Đạt được mục tiêu, Thường Kiệt chủ động rút quân, chuẩn bị
phòng tuyến chặn địch ở trong nước.
- Ý nghĩa: Trận tập kích này đã đánh một đòn phủ đầu, làm hoang mang quân Tống, đẩy
chúng vào thế bị động
2.1. Giai đoạn 2 (1076 – 1077):
- Cuối năm 1076, một đạo quân lớn gồm 10 vạn bộ binh tinh nhuệ, một vạn ngựa chiến
cùng 20 vạn dân phu do các tướng Quách Quỳ, Triệu Tiết chỉ huy, chuẩn bị tiến vào nước
ta. Một đạo quân khác, do Hoà Mâu dẫn đầu, theo đường biển vào tiếp ứng.
- Tháng 1 - 1077, khoảng 30 vạn quân Tống vượt cửa ải Nam Quan qua Lạng Sơn tiến vào
nước ta. Quân đội nhà Lý đánh những trận nhỏ, nhằm cản bước tiến của chúng.
lOMoARcPSD| 61159950
- Khi tiến đến bờ Bắc sông Như Nguyệt, bị phòng tuyến Như Nguyệt chặn lại, Quách Quỳ
phải đóng quân bên bờ Bắc sông Như Nguyệt, chờ thuỷ quân đến.
- Nhưng lúc đó, thuỷ quân của chúng bị quân Lý Kế Nguyên chặn đánh liên tiếp 10 trận tại
vùng ven biển nên không thể tiến sâu vào để hỗ trợ cho đồng bọn.
- Quân Tống nhiều lần tấn công quân ta. Quân nhà Lý kịp thời phản công mãnh liệt, mưu trí,
đẩy lùi chúng về phía bờ Bắc.
- Thất vọng, Quân Tống chuyển sang thế củng cố, phòng ngự.
- Quân ngày một chán nản, mệt mỏi, chết dần chết mòn. Tương truyền, để động viên,
khích lệ tinh thần chiến đấu của quân sĩ, đêm đêm Lý Thường Kiệt cho người vào một ngôi
đền trên bờ sông, ngâm vang bài thơ thần bất hủ là bài Nam quốc sơn hà
- Cuối mùa xuân 1077, Lý Thường Kiệt mở cuộc tấn công lớn vào trận tuyến của địch.
- Bị đánh úp bất ngờ, Quân Tống thua to, "mười phần chết đến năm sáu" và chúng đã lâm
vào tình thế hết sức khó khăn, tuyệt vọng.
- Thường Kiệt chủ động kết thúc chiến tranh bằng biện pháp mềm dẻo, thương lượng, đề
nghị "giảng hoà". Quách Quỳ chấp nhận ngay. Quân Tống vội vã rút về nước.
3. Ý nghĩa của cuộc kháng chiến chống Tống:
- Củng cố vị thế uy n của Đại Việt trong khu vực giúp thể hiện sức mạnh của một
quốc gia chống lại sự xâm lược của một đế quốc mạnh.
- Cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi vẻ vang. Quân Tống buộc phải từ bỏ mộng xâm lược
Đại Việt. Nền độc lập, tự chủ của Đại Việt được bảo vệ.
- Nghệ thuật quân sự đặc sắc, đánh vào tinh thần quân giặc (bài Nam Quốc Sơn Hà) -
Sự mềm dẻo, linh hoạt khi cần thiết trong trận chiến để giành được chiến thắng.
- Thể hiện tinh thần chiến đấu dũng cảm, kiên cường của nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh
chống xâm lược.
II. Nhà Trần Ba lần kháng chiến chống Mông - Nguyên ( Lần 1 – 1258, lần 2 -1285 lần 3
– 1287- 1288)
1. Cuộc kháng chiến lần thứ 1 chống quân xâm lược Mông (1258)
1.1. Tóm tắt nguyên nhân - Nguyên nhân sâu xa:
Đầu thế kỉ XIII, nhà nước phong kiến Mông Cổ được thành lập. Với một lực lượng
quân đội mạnh và hiếu chiến, vua Mông Cổ liên tiếp xâm lược và thống trị nhiều nước
ở Châu Á, Châu Âu.
Năm 1257, vua Mông Cquyết định mở cuộc tấn công vào nước Nam Tống (ở phía
Nam Trung Quốc), nhằm xâm chiếm toàn bộ Trung Quốc.
Để đạt được tham vọng đó, Mông Cổ tiến quân xâm lược Đại Việt, rồi từ Đại Việt đánh
thẳng lên phía nam Trung Quốc để phối hợp với các cánh quân từ phía bắc xuống. Thực
hiện kế hoạch "gọng kìm" để tiêu diệt Nam Tống và xâm lược Đại Việt.
- Nguyên nhân trực tiếp:
lOMoARcPSD| 61159950
Trước khi kéo quân vào xâm lược, tướng Mông Cổ cho sứ giả đưa thư để đe dọa dụ
hàng vua Trần. Ba lần sgiả Mông Cđến Thăng Long đều bị vua Trần ra lệnh bắt
giam vào ngục.
1.2. Diễn biến, kết quả
- Tháng 1/1258, 3 vạn quân Mông Cổ tiến vào xâm lược nước ta theo đường sông Thao thì
bị quân ta chặn đánh ở Bình Lệ Nguyên (Vĩnh Phúc)
- Do thế giặc mạnh, vua Trần cho quân rút lui khỏi kinh thành Thăng Long để bảo toàn lực
lượng, thực hiện chủ trương “vườn không nhà trống”.
- Chưa đầy một tháng chiến đóng, quân Mông Cổ rơi vào tình trạng thiếu lương thực chúng
tàn phá, cướp bóc bị nhân dân chống trả quyết liệt làm lực lượng của chúng bị tiêu hao.
- Quân Trần mở cuộc phản công lớn ở Đông Bộ Đầu (bến sông Hồng, Phố Hàng Than ngày
nay)
- Ngày 29/1/1258, quân Mông Cổ thua to phải tháo chạy khỏi thành Thăng Long. Trên đường
rút chạy, quân Mông Cổ bị quân đội nhà Trần truy kích.
- Kết quả: Trong vòng chưa đầy một tháng đã kết thúc thắng lợi.
2. Cuộc kháng chiến lần thứ 2 chống quân xâm lược Nguyên (1285)
2.1. Tóm tắt nguyên nhân
- Hoàn cảnh: Năm 1279, nước Nam Tống bị tiêu diệt, Trung Quốc hoàn toàn bị Mông cổ
thống trị. Vua Nguyên là Hốt Tất Liệt ráo riết thực hiện âm mưu xâm lược Cham-pa Đại
Việt để làm cầu nối xâm lược và thôn tính các nước ở phía nam Trung Quốc.
- Mục đích:
Mở rộng lãnh thổ
Làm bàn đạp tấn công Đông Nam Á
2.2. Sự chuẩn bị của nhà Trần
- Vua Trần triệu tập Hội nghị các vương hầu, quan lại tại Bình Than (Chí Linh, Hải Dương)
để bàn kế đánh giặc.
- Trần Quốc Tuấn - chỉ huy cuộc kháng chiến soạn “Hịch tướng sĩ” đđộng viên tinh thần
chiến đấu của quân đội.
- Đầu năm 1285, vua Trần mở Hội nghị Diên Hồng, mời các bậc phụ lão uy tín trong cả
nước về Thăng Long để họp bàn cách đánh giặc => Tại đây, các cụ bô lão đã cùng thế hiện
ý chí quyết tâm đánh giặc.
2.3. Diễn biến, kết quả:
- Cuối tháng 1 -1285, 50 vạn quân Nguyên do Thoát Hoan tổng chỉ huy tràn vào xâm lược
Đại Việt.
- Sau một số trận chiến vùng biên giới, Trần Quốc Tuấn cho lui quân về Vạn Kiếp (Chí
Linh, Hải Dương). => Quân Thoát Hoan bao vây, tấn công Vạn Kiếp.
- Trước thế giặc mạnh, quân Trần lui về Thăng Long, sau đó rút về Thiên Trường (Nam
Định). Nhân dân ở Thăng Long thực hiện lệnh "vườn không nhà trống" của triều đình.
lOMoARcPSD| 61159950
- Toa Đô được lệnh từ Cham-pa đánh ra NghAn, Thanh Hoá. Thấy thế giặc mạnh, một số
quý tộc nhà Trần đầu hàng giặc. Cuộc kháng chiến gặp rất nhiều khó khăn.
- Cùng lúc đó, Thoát Hoan mở cuộc tấn công lớn đánh xuống phía nam nhằm tạo thành thế
"gọng kìm" để tiêu diệt quân chủ lực, bắt sống vua tôi Nhà Trần
- Trước tình thế nguy cấp, Trần Quốc Tuấn phải ra lệnh rút lui để củng cố lực lượng, chuẩn
bị cho cuộc phản công tiêu diệt quân địch.
- Kế hoạch bị thất bại, Thoát Hoan rút quân về Thăng Long chờ tiếp viện
- Tháng 5- 1285, lợi dụng thời cơ, quân Trần tổ chức phản công, đánh bại quân giặc ở nhiều
nơi như Tây Kết, cửa Hàm Tử (Khoái Châu, Hưng Yên), bến Chương Dương (Thường Tín,
Hà Nội) và tiến vào giải phóng Thăng Long.
- Kết quả: Quân Nguyên đại bại, hốt hoảng tháo chạy, Toa Đô bị chém đầu, Thoát Hoan
chui vào ống đồng về nước, đất nước sạch bóng quân xâm lược.
3. Cuộc kháng chiến lần thứ ba chống quân xâm lược Nguyên (1287 – 1288) 3.1.
Tóm tắt nguyên nhân:
- Hai lần xâm lược Đại Việt đều bị thất bại, vua Nguyên càng tức giận nên quyết tâm đánh
Đại Việt lần thứ ba để trả thù.
- Hốt Tất Liệt đình chỉ cuộc xâm lược Nhật Bản, tập trung lực lượng tiến công Đại Việt. 3.2.
Diễn biến, kết quả
- Sự chuẩn bị của nhà Nguyên: Huy động 30 vạn quân, cử tướng kinh nghiệm hàng
trăm thuyền chiến, 70 thuyền lương, vạn thạch thóc.
- Sự Chuẩn bị kháng chiến của Nhà Trần: Trần Hưng Đạo được cử làm Quốc Công Tiết chế
làm tổng chỉ huy, ông đã đề ra kế hoạch đánh giặc rất chủ động, quân đội ngày đêm
luyện tập.
- Quân Nguyên bắt đầu xâm lược: Cuối 12/1287, quân Nguyên ồ ạt tiến vào nước ta theo hai
đường:
Đường bộ: do Thoát Hoan chỉ huy, vượt qua biên giới đánh vào Lạng Sơn, Bắc Giang.
Đường biển: do Ô Nhi chỉ huy ngược sông Bạch Đằng hội quân với Thoát Hoan. a.
Trận Vân Đồn tiêu diệt đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ
- Quân của Ô Mã Nhi được giao nhiệm vụ bảo vệ đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ. -
Lợi dụng quân của Ô Mã Nhi kéo về Vạn Kiếp, Trần Khánh Dư bố trí trận địa mai phục.
- Khi đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ tiến qua Vân Đồn bị quân của Trần Khánh Dư
từ nhiều phía đổ ra tấn công.
- Kết quả: phần lớn thuyền lương của địch bị đắm số còn lại bị quân Trần chiếm. b. Chiến
thắng Bạch Đằng:
- Tháng 1/1288, Thoát Hoan tiến vào Thăng Long, nhân dân thực hiện “vườn không, nhà
trống”
=> Quân giặc ra sức càn quét, cướp lương thực nhưng đều bị nhân dân đuổi đánh, đẩy
chúng vào thế bị động, cạn kiệt lương thực.
- Trước tình thế nguy khốn, Thoát Hoan quyết định rút quân lên Vạn Kiếp từ đây rút về
nước theo hai đường thủy, bộ.
lOMoARcPSD| 61159950
- Ta quyết định phản công, chọn sông Bạch Đằng làm trận quyết chiến và tiến hành việc bố
trí trận mai phục ở sông Bạch Đằng.
- Đầu tháng 4 - 1288, đoàn thuyền của Ô Nhi rút về theo đường thuỷ trên sông Bạch
Đằng. Gặp trận địa bãi cọc mai phục của nhà Trần tại đây. Toàn bộ cánh thuỷ binh giặc bị
tiêu diệt, Ô Mã Nhi bị bắt sống.
- Cánh quân bộ, do Thoát Hoan chỉ huy, từ Vạn Kiếp theo hướng Lạng Sơn rút chạy về
Quảng Tây (Trung Quốc). Trên đường tháo lui, chúng bị quân dân ta tập kích liên tiếp.
- Kết quả: Cuộc kháng chiến lần thứ ba chống quân Nguyên đã kết thúc thắng lợi vẻ vang.
4. Ý nghĩa cuộc kháng chiến 3 lần chống quân Mông – Nguyên
- Đập tan tham vọng và ý chí xâm lược Đại Việt của đế chế Nguyên-Mông.
- Bảo vệ được độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền quốc gia của dân tộc
- Nâng cao lòng tự hào dân tộc, tự cường chính đáng cho dân tộc ta, vị thế của Đại Việt
- Thể hiện sức mạnh của dân tộc, đánh bại mọi kẻ thù xâm lược
- Góp phần xây đắp truyền thống quân sự, truyền thống chiến đấu của một nước nhỏ nhưng
luôn phải chống lại những kẻ thù mạnh hơn nhiều lần đến xâm lược - Để lại bài học
về tinh thần đoàn kết, lấy dân làm gốc.
- Góp phần ngăn chặn quân Nguyên xâm lược nhiều nước khác như Nhật Bản mưu đồ
thôn tính miền đất còn lại ở châu Á của Hốt Tất Liệt.
III. Cuộc kháng chiến nhà Hồ chống lại quân Minh (1406-1407)
1. Hoàn cảnh
- Cuối thế kỉ XIV, nhà Trần suy yếu. Các cuộc khởi nghĩa nông dân chống lại triều đình liên
tiếp nổ ra.
- Năm 1400, Hồ Quý Ly phế truất vua Trần và lên ngôi vua lập ra nhà Hồ, đổi tên nước thành
Đại Ngu => nhà Hồ được thành lập.
- Cuối thế kỉ XIV, nhận thấy Đại Ngu rơi vào khủng hoảng. Nhà Minh chuẩn bị lực lượng
xâm lược xâm chiếm.
2. Diễn biến, kết quả
- Tháng 11/1406, lấy cớ phù Trần, diệt Hồ, nhà Minh đã huy động một lực lượng lớn gồm
20 vạn quân cùng với hàng chục vạn dân phu, do tướng Trương Phụ cầm đầu, chia làm hai
cánh tràn vào biên giới nước ta.
- Quân Minh lần lượt đánh bại quân nhà Hồ ở một số địa điểm thuộc Lạng Sơn. Hồ Quý Ly
phải lui về đóng ở bờ nam sông Nhị (sông Hồng), lấy thành Đa Bang (Ba Vì, Hà Nội) làm
trung tâm phòng ngự.
- Ngày 22 - 1 - 1407, sau khi đánh bại quân nhà Hồ Đa Bang, quân Minh đánh chiếm Đông
Đô (Thăng Long). Quân nhà Hồ phải lui về cố thủ ở thành Tây Đô.
- Tháng 4 -1407, quân Minh tấn công vào Tây Đô, Hồ Quý Ly chạy vào Hà Tĩnh bị bắt
vào cuối tháng 6 - 1407.
lOMoARcPSD| 61159950
- Kết quả: Cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược của nhà Hồ hoàn toàn thất bại, đất
nước rơi vào ách đô hô c
ủa nhà Minh
3. Nguyên nhân thất bại:
- Do những chính sách của nhà Hồ không được nhân dân ủng hộ.
- Không đoàn kết được sức dân để tạo nên một cuộc chiến tranh nhân dân.
- Không đề ra đường lối kháng chiến đúng đắn, quá chú trọng phòng tuyến quân sự và lực
lượng quân đội chính quy
Phần 2: Văn hóa Đại Việt Lý - Trần - Hồ
Tôn giáo, tín ngưỡng
-
Các nhà nước Trần đã chủ trương một chính sách khoan
dung hòa hợp chung sống hòa bình giữa các tín ngưỡng tôn
giáo như tín ngưỡng dân gian, Phật, Đạo, Nho. Đó chính hiện
tượng Tam giáo đồng nguyên
-
Thời Lý – Trần, Phật giáo trở thành quốc giáo.
-
Đến thế kỷ XIV, Nho giáo ngày càng phát triển cùng với giáo dục
thi cử và nhu cầu tuyển chọn nhân tài.
-
Nho giáo phát triển dần lấn át Phật giáo chiếm địa vị độc tôn
ở thế kỷ XV.
-
Các tín ngưỡng dân gian cổ truyền như tín ngưỡng thần linh, vật
linh, tục thờ Mẫu, tục sùng bái anh hùng, pha trộn với Đạo giáo
đã được tự do phát triển và khuyến khích.
Giáo dục
-
Giai đoạn đầu của quốc gia phong kiến độc lập, Nho giáo tuy
chưa mạnh nhưng nó đã cùng với chữ Hán tồn tại trong xã hội
Đại Việt.
-
Năm 1070, nhà Lý cho dựng Văn Miếu, đúc tượng Chu Công và
mở Quốc tử giám để dạy học cho con của vua và các quý tộc.
-
Năm 1075, triều đình mở khoa thi đầu tiên đtuyển chọn nhân
tài. Sang thời Trần, nhà nước chính quy hóa, tạo quy củ và nề nếp
cho việc học hành, thi cử. Quốc học viện được thành lập để đào
tạo nhân tài.
-
Thể lệ thi cử, học vị được quy định, nhà Trần đặt danh hiệu tam
khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa) dành cho ba người
đỗ đầu trong các kỳ Nhiều nhà nho nổi tiếng đã xuất hiện như:
Mạc Đĩnh Chi, Trương Hán Siêu, Phạm Mạnh, Chu Văn An,
Nguyễn Hiền, Lê Văn Hưu…
Khoa Cử
-
Triều 3 khoa thi. Năm 1195, nhà mở khoa thi Tam
giáo.
lOMoARcPSD| 61159950
-
Thời Trần tất cả 14 khoa thi (10 khoa chính thức 4 khoa
phụ), có học vị Thái học sinh.
-
Năm 1374, tổ chức thi Đình cho các tiến sĩ. 3 người đỗ đầu
được gọi là Tam khôi
-
Khoa cử được tiếp tục dưới triều Hồ (2 khoa). Nguyễn Trãi
người thi đỗ Thái học sinh
-
Năm 1400. Hồ Hán Thương đã tiếp tục cải cách thi cử, đưa thêm
vào môn toán và viết chữ.
Văn học
-
2 dòng văn học chính: văn học Phật giáo văn học yêu
nước dân tộc.
-
Tiêu biểu có các tác phẩm: Nam quốc sơn hà của Lý Thường
Kiệt, Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn, Hịch tướng sĩ của Trần
Hưng Đạo, Phú Bạch Đằng của Trương Hán Siêu…
-
Thơ ca thời Trần còn nội dung ca ngợi thiên nhiên, đất nước
biểu hiện bằng các bài thơ của Trần Nhân Tông, Trần Thánh
Tông, Chu Văn An…(ví dụ: Buổi chiều đứng ở phủ Thiên
Trường trông ra của Trần Thánh Tông)
-
Bên cạnh đó, văn hóa dân gian cũng phát triển mạnh, với ca dao,
tục ngữ truyền miệng, thể hiện bản sắc và trí tuệ của người Việt.
-
Chữ Nôm lúc bấy giờ được gọi là “Quốc ngữ”, “ Quốc âm”
Nghệ thuật, kiến trúc
-
Thành tựu nổi bật về kiến trúc của văn hóa Lý Trần – Hồ việc
xây dựng các cung điện, thành lũy của nhà vua...
Thành Thăng Long là công trình kiến trúc lớn thời Lý – Trần
Ngoài ra, còn nổi lên các công trình kiến trúc Phật giáo, hàng
ngàn ngôi chùa được xây dựng.
Những chùa nổi tiếng có quy mô lớn và trang trí độc đáo là:
chùa Diên Hựu (chùa Một Cột), chùa Phật Tích, chùa Quỳnh
Lâm, chùa Yên Tử…
Thành nhà Hồ (An Tôn, Vinh Lộc, Thanh Hóa), còn gọi
Tây Đô, là công trình kiến trúc đồ sộ và độc đáo bằng đá, xây
dựng thời cuối Trần tồn tại qua 6 thế kỷ.
-
Điêu khắc đúc tạo hình thời Lý-Trần có các loại tượng, chuông,
vạc, các bức phù điêu.
-
Ngoài các tượng Chu ng, Không Tử, Tứ Phối được bày trong
Văn Miếu, phổ biến các tượng Phật, nổi tiếng nhất pho tượng
đá A di đà chùa Phật Tích pho Di Lặc bằng đồng chùa
Quỳnh Lâm.
-
Các bức phù điêu đời Lý- Trần phần lớn đều chạm khắc các hình
tượng Phật giáo (toà sen, đề, sóng nước), hình tượng các tiên
nữ múa hát, các hình tượng rồng uốn khúc
lOMoARcPSD| 61159950
Mỹ thuật, Âm nhạc
-
Có các đồ gốm, dáng hình đơn giản, thanh thoát.
-
Nghệ thuật biểu diễn ca múa nhạc thời Lý- Trần phát triển phong
phú, chịu ảnh hưởng của cả nghệ thuật Nam Á và Đông
Á
-
Nghệ nhân sử dụng các nhạc cụ như sáo, tiêu, chũm choẹ, trống
cơm, các loại đàn cầm, đàn tỳ bà, đàn thất huyền...
-
Chèo, tuồng được nhiều người ưa chuộng
-
Múa rối nước là môn nghệ thuật đặc sắc, phát triển từ đời Lý
-
Trong các lễ hội, có nhiều trò vui tạp kỹ mang tính dân gian như
đấu vật, chọi gà, cờ người, bơi chải, đánh đu, leo dây, đá cầu,...
Khoa học, kỹ thuật
-
Toán học được sử dụng trong đo đạc ruộng đất và xây dựng.
-
Thiên văn học ra đời với những tên tuổi tiêu biểu như Đặng Lộ
Trần Nguyên Đán.
-
Y học dân tộc phát triển với sự xuất hiện của Tuệ Tĩnh “ông tổ
nghề thuốc nam”
-
Sử học đã đóng vai trò quan trọng trong giáo dục, nhiều sử gia
nổi tiếng xuất hiện: Lê Văn Hưu, Vũ Quỳnh, Phan Phu Tiên, Hồ
Tông Thốc.
-
Khoa học quân sự đạt đến đỉnh cao với sự xuất hiện 2 tác phẩm
nổi tiếng của Trần Hưng Đạo: Binh thư yếu lược, Vạn kiếp tông
bí truyền thư.
-
Hồ Nguyên Trừng đã sáng chế ra súng thần (hỏa pháo cải
tiến) và thuyền cổ lâu (thuyền chiến lớn có hai tầng)

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61159950
NHÓM 2: Các cuộc kháng chiến thời Lý - Trần- Hồ;
Nền văn hóa Đại Việt thời Lý - Trần - Hồ
Phần 1: Các cuộc kháng chiến thời Lý – Trần – Hồ I.
Nhà Lý kháng chiến chống Tống (1075 – 1077) 1. Tóm tắt nguyên nhân
- Giữa thế kỉ XI, nhà Tống (Trung Quốc) gặp phải những khó khăn chồng chất: •
Trong nước: ngân khố cạn kiệt, tài chính nguy ngập, nội bộ mâu thuẫn •
Vùng biên giới phía Bắc nhà Tống thường xuyên bị các nước Liêu, Hạ quấy nhiễu.
=> Nhà Tống muốn sử dụng chiến tranh để giải quyết tình trạng khủng hoảng, nên đã tiến
hành âm mưu xâm lược Đại Việt.
- Để đánh chiếm Đại Việt, nhà Tống xúi giục vua Champa đánh lên từ phía Nam. Ở biên
giới phía Bắc Đại Việt, nhà Tống ngăn cản việc buôn bán, đi lại của nhân dân hai nước, dụ
dỗ các tù trưởng dân tộc ít người.
2. Diễn biến: chia làm 2 giai đoạn 2.1. Giai đoạn 1 (1075)
- Lý Thường Kiệt đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược ở thế kỉ XI.
- Năm 1075, Nhà Lý đã liên kết các tù trưởng các tộc người thiểu số ở vùng rừng núi phía
bắc phối hợp chống giặc (Tông Đản, Thân Cảnh Phúc, Hoàng Kim Mãn, Vi Thủ An).
- Tháng 10-1075, với quan điểm "Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn
mũi nhọn của giặc" (Tiên phát chế nhân), Lý Thường Kiệt cùng Tông Đản chỉ huy hơn 10
vạn quân thuỷ - bộ, chia làm hai đạo tấn công vào đất Tống:
• Quân bộ do các tù trưởng Thân Cảnh Phúc, Tông Đản chỉ huy dân binh miền núi đánh vào châu Ung (Quảng Tây).
• Lý Thường Kiệt chỉ huy cánh quân đường thuỷ, đổ bộ vào châu Khâm, châu Liêm (Quảng
Đông). Sau khi tiêu diệt các căn cứ tập kết quân, phá huỷ các kho tàng của giặc, quân Lý
Thường Kiệt tiến về bao vây thành Ung Châu, căn cứ của quân Tống.
- Kết quả: Sau 42 ngày chiến đấu, quân nhà Lý hạ được thành Ung Châu, tướng Tô Giám
nhà Tống phải tự tử. Đạt được mục tiêu, Lý Thường Kiệt chủ động rút quân, chuẩn bị
phòng tuyến chặn địch ở trong nước.
- Ý nghĩa: Trận tập kích này đã đánh một đòn phủ đầu, làm hoang mang quân Tống, đẩy
chúng vào thế bị động
2.1. Giai đoạn 2 (1076 – 1077):
- Cuối năm 1076, một đạo quân lớn gồm 10 vạn bộ binh tinh nhuệ, một vạn ngựa chiến
cùng 20 vạn dân phu do các tướng Quách Quỳ, Triệu Tiết chỉ huy, chuẩn bị tiến vào nước
ta. Một đạo quân khác, do Hoà Mâu dẫn đầu, theo đường biển vào tiếp ứng.
- Tháng 1 - 1077, khoảng 30 vạn quân Tống vượt cửa ải Nam Quan qua Lạng Sơn tiến vào
nước ta. Quân đội nhà Lý đánh những trận nhỏ, nhằm cản bước tiến của chúng. lOMoAR cPSD| 61159950
- Khi tiến đến bờ Bắc sông Như Nguyệt, bị phòng tuyến Như Nguyệt chặn lại, Quách Quỳ
phải đóng quân bên bờ Bắc sông Như Nguyệt, chờ thuỷ quân đến.
- Nhưng lúc đó, thuỷ quân của chúng bị quân Lý Kế Nguyên chặn đánh liên tiếp 10 trận tại
vùng ven biển nên không thể tiến sâu vào để hỗ trợ cho đồng bọn.
- Quân Tống nhiều lần tấn công quân ta. Quân nhà Lý kịp thời phản công mãnh liệt, mưu trí,
đẩy lùi chúng về phía bờ Bắc.
- Thất vọng, Quân Tống chuyển sang thế củng cố, phòng ngự.
- Quân sĩ ngày một chán nản, mệt mỏi, chết dần chết mòn. Tương truyền, để động viên,
khích lệ tinh thần chiến đấu của quân sĩ, đêm đêm Lý Thường Kiệt cho người vào một ngôi
đền trên bờ sông, ngâm vang bài thơ thần bất hủ là bài Nam quốc sơn hà
- Cuối mùa xuân 1077, Lý Thường Kiệt mở cuộc tấn công lớn vào trận tuyến của địch.
- Bị đánh úp bất ngờ, Quân Tống thua to, "mười phần chết đến năm sáu" và chúng đã lâm
vào tình thế hết sức khó khăn, tuyệt vọng.
- Lý Thường Kiệt chủ động kết thúc chiến tranh bằng biện pháp mềm dẻo, thương lượng, đề
nghị "giảng hoà". Quách Quỳ chấp nhận ngay. Quân Tống vội vã rút về nước.
3. Ý nghĩa của cuộc kháng chiến chống Tống:
- Củng cố vị thế và uy tín của Đại Việt trong khu vực và giúp thể hiện sức mạnh của một
quốc gia chống lại sự xâm lược của một đế quốc mạnh.
- Cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi vẻ vang. Quân Tống buộc phải từ bỏ mộng xâm lược
Đại Việt. Nền độc lập, tự chủ của Đại Việt được bảo vệ.
- Nghệ thuật quân sự đặc sắc, đánh vào tinh thần quân giặc (bài Nam Quốc Sơn Hà) -
Sự mềm dẻo, linh hoạt khi cần thiết trong trận chiến để giành được chiến thắng.
- Thể hiện tinh thần chiến đấu dũng cảm, kiên cường của nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh chống xâm lược. II.
Nhà Trần Ba lần kháng chiến chống Mông - Nguyên ( Lần 1 – 1258, lần 2 -1285 lần 3 – 1287- 1288)
1. Cuộc kháng chiến lần thứ 1 chống quân xâm lược Mông (1258)
1.1. Tóm tắt nguyên nhân - Nguyên nhân sâu xa:
• Đầu thế kỉ XIII, nhà nước phong kiến Mông Cổ được thành lập. Với một lực lượng
quân đội mạnh và hiếu chiến, vua Mông Cổ liên tiếp xâm lược và thống trị nhiều nước ở Châu Á, Châu Âu.
• Năm 1257, vua Mông Cổ quyết định mở cuộc tấn công vào nước Nam Tống (ở phía
Nam Trung Quốc), nhằm xâm chiếm toàn bộ Trung Quốc.
• Để đạt được tham vọng đó, Mông Cổ tiến quân xâm lược Đại Việt, rồi từ Đại Việt đánh
thẳng lên phía nam Trung Quốc để phối hợp với các cánh quân từ phía bắc xuống. Thực
hiện kế hoạch "gọng kìm" để tiêu diệt Nam Tống và xâm lược Đại Việt.
- Nguyên nhân trực tiếp: lOMoAR cPSD| 61159950
 Trước khi kéo quân vào xâm lược, tướng Mông Cổ cho sứ giả đưa thư để đe dọa và dụ
hàng vua Trần. Ba lần sứ giả Mông Cổ đến Thăng Long đều bị vua Trần ra lệnh bắt giam vào ngục. 1.2. Diễn biến, kết quả
- Tháng 1/1258, 3 vạn quân Mông Cổ tiến vào xâm lược nước ta theo đường sông Thao thì
bị quân ta chặn đánh ở Bình Lệ Nguyên (Vĩnh Phúc)
- Do thế giặc mạnh, vua Trần cho quân rút lui khỏi kinh thành Thăng Long để bảo toàn lực
lượng, thực hiện chủ trương “vườn không nhà trống”.
- Chưa đầy một tháng chiến đóng, quân Mông Cổ rơi vào tình trạng thiếu lương thực chúng
tàn phá, cướp bóc bị nhân dân chống trả quyết liệt làm lực lượng của chúng bị tiêu hao.
- Quân Trần mở cuộc phản công lớn ở Đông Bộ Đầu (bến sông Hồng, Phố Hàng Than ngày nay)
- Ngày 29/1/1258, quân Mông Cổ thua to phải tháo chạy khỏi thành Thăng Long. Trên đường
rút chạy, quân Mông Cổ bị quân đội nhà Trần truy kích.
- Kết quả: Trong vòng chưa đầy một tháng đã kết thúc thắng lợi.
2. Cuộc kháng chiến lần thứ 2 chống quân xâm lược Nguyên (1285) 2.1. Tóm tắt nguyên nhân
- Hoàn cảnh: Năm 1279, nước Nam Tống bị tiêu diệt, Trung Quốc hoàn toàn bị Mông cổ
thống trị. Vua Nguyên là Hốt Tất Liệt ráo riết thực hiện âm mưu xâm lược Cham-pa và Đại
Việt để làm cầu nối xâm lược và thôn tính các nước ở phía nam Trung Quốc. - Mục đích: • Mở rộng lãnh thổ
• Làm bàn đạp tấn công Đông Nam Á 2.2.
Sự chuẩn bị của nhà Trần
- Vua Trần triệu tập Hội nghị các vương hầu, quan lại tại Bình Than (Chí Linh, Hải Dương)
để bàn kế đánh giặc.
- Trần Quốc Tuấn - chỉ huy cuộc kháng chiến soạn “Hịch tướng sĩ” để động viên tinh thần
chiến đấu của quân đội.
- Đầu năm 1285, vua Trần mở Hội nghị Diên Hồng, mời các bậc phụ lão có uy tín trong cả
nước về Thăng Long để họp bàn cách đánh giặc => Tại đây, các cụ bô lão đã cùng thế hiện
ý chí quyết tâm đánh giặc. 2.3. Diễn biến, kết quả:
- Cuối tháng 1 -1285, 50 vạn quân Nguyên do Thoát Hoan tổng chỉ huy tràn vào xâm lược Đại Việt.
- Sau một số trận chiến ở vùng biên giới, Trần Quốc Tuấn cho lui quân về Vạn Kiếp (Chí
Linh, Hải Dương). => Quân Thoát Hoan bao vây, tấn công Vạn Kiếp.
- Trước thế giặc mạnh, quân Trần lui về Thăng Long, sau đó rút về Thiên Trường (Nam
Định). Nhân dân ở Thăng Long thực hiện lệnh "vườn không nhà trống" của triều đình. lOMoAR cPSD| 61159950
- Toa Đô được lệnh từ Cham-pa đánh ra Nghệ An, Thanh Hoá. Thấy thế giặc mạnh, một số
quý tộc nhà Trần đầu hàng giặc. Cuộc kháng chiến gặp rất nhiều khó khăn.
- Cùng lúc đó, Thoát Hoan mở cuộc tấn công lớn đánh xuống phía nam nhằm tạo thành thế
"gọng kìm" để tiêu diệt quân chủ lực, bắt sống vua tôi Nhà Trần
- Trước tình thế nguy cấp, Trần Quốc Tuấn phải ra lệnh rút lui để củng cố lực lượng, chuẩn
bị cho cuộc phản công tiêu diệt quân địch.
- Kế hoạch bị thất bại, Thoát Hoan rút quân về Thăng Long chờ tiếp viện
- Tháng 5- 1285, lợi dụng thời cơ, quân Trần tổ chức phản công, đánh bại quân giặc ở nhiều
nơi như Tây Kết, cửa Hàm Tử (Khoái Châu, Hưng Yên), bến Chương Dương (Thường Tín,
Hà Nội) và tiến vào giải phóng Thăng Long.
- Kết quả: Quân Nguyên đại bại, hốt hoảng tháo chạy, Toa Đô bị chém đầu, Thoát Hoan
chui vào ống đồng về nước, đất nước sạch bóng quân xâm lược.
3. Cuộc kháng chiến lần thứ ba chống quân xâm lược Nguyên (1287 – 1288) 3.1. Tóm tắt nguyên nhân:
- Hai lần xâm lược Đại Việt đều bị thất bại, vua Nguyên càng tức giận nên quyết tâm đánh
Đại Việt lần thứ ba để trả thù.
- Hốt Tất Liệt đình chỉ cuộc xâm lược Nhật Bản, tập trung lực lượng tiến công Đại Việt. 3.2. Diễn biến, kết quả
- Sự chuẩn bị của nhà Nguyên: Huy động 30 vạn quân, cử tướng có kinh nghiệm và hàng
trăm thuyền chiến, 70 thuyền lương, vạn thạch thóc.
- Sự Chuẩn bị kháng chiến của Nhà Trần: Trần Hưng Đạo được cử làm Quốc Công Tiết chế
và làm tổng chỉ huy, ông đã đề ra kế hoạch đánh giặc rất chủ động, quân đội ngày đêm luyện tập.
- Quân Nguyên bắt đầu xâm lược: Cuối 12/1287, quân Nguyên ồ ạt tiến vào nước ta theo hai đường:
• Đường bộ: do Thoát Hoan chỉ huy, vượt qua biên giới đánh vào Lạng Sơn, Bắc Giang.
• Đường biển: do Ô Mã Nhi chỉ huy ngược sông Bạch Đằng hội quân với Thoát Hoan. a.
Trận Vân Đồn tiêu diệt đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ
- Quân của Ô Mã Nhi được giao nhiệm vụ bảo vệ đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ. -
Lợi dụng quân của Ô Mã Nhi kéo về Vạn Kiếp, Trần Khánh Dư bố trí trận địa mai phục.
- Khi đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ tiến qua Vân Đồn bị quân của Trần Khánh Dư
từ nhiều phía đổ ra tấn công.
- Kết quả: phần lớn thuyền lương của địch bị đắm số còn lại bị quân Trần chiếm. b. Chiến
thắng Bạch Đằng:
- Tháng 1/1288, Thoát Hoan tiến vào Thăng Long, nhân dân thực hiện “vườn không, nhà trống”
=> Quân giặc ra sức càn quét, cướp lương thực nhưng đều bị nhân dân đuổi đánh, đẩy
chúng vào thế bị động, cạn kiệt lương thực.
- Trước tình thế nguy khốn, Thoát Hoan quyết định rút quân lên Vạn Kiếp và từ đây rút về
nước theo hai đường thủy, bộ. lOMoAR cPSD| 61159950
- Ta quyết định phản công, chọn sông Bạch Đằng làm trận quyết chiến và tiến hành việc bố
trí trận mai phục ở sông Bạch Đằng.
- Đầu tháng 4 - 1288, đoàn thuyền của Ô Mã Nhi rút về theo đường thuỷ trên sông Bạch
Đằng. Gặp trận địa bãi cọc mai phục của nhà Trần tại đây. Toàn bộ cánh thuỷ binh giặc bị
tiêu diệt, Ô Mã Nhi bị bắt sống.
- Cánh quân bộ, do Thoát Hoan chỉ huy, từ Vạn Kiếp theo hướng Lạng Sơn rút chạy về
Quảng Tây (Trung Quốc). Trên đường tháo lui, chúng bị quân dân ta tập kích liên tiếp.
- Kết quả: Cuộc kháng chiến lần thứ ba chống quân Nguyên đã kết thúc thắng lợi vẻ vang.
4. Ý nghĩa cuộc kháng chiến 3 lần chống quân Mông – Nguyên
- Đập tan tham vọng và ý chí xâm lược Đại Việt của đế chế Nguyên-Mông.
- Bảo vệ được độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền quốc gia của dân tộc
- Nâng cao lòng tự hào dân tộc, tự cường chính đáng cho dân tộc ta, vị thế của Đại Việt
- Thể hiện sức mạnh của dân tộc, đánh bại mọi kẻ thù xâm lược
- Góp phần xây đắp truyền thống quân sự, truyền thống chiến đấu của một nước nhỏ nhưng
luôn phải chống lại những kẻ thù mạnh hơn nhiều lần đến xâm lược - Để lại bài học
về tinh thần đoàn kết, lấy dân làm gốc.
- Góp phần ngăn chặn quân Nguyên xâm lược nhiều nước khác như Nhật Bản và mưu đồ
thôn tính miền đất còn lại ở châu Á của Hốt Tất Liệt. III.
Cuộc kháng chiến nhà Hồ chống lại quân Minh (1406-1407) 1. Hoàn cảnh
- Cuối thế kỉ XIV, nhà Trần suy yếu. Các cuộc khởi nghĩa nông dân chống lại triều đình liên tiếp nổ ra.
- Năm 1400, Hồ Quý Ly phế truất vua Trần và lên ngôi vua lập ra nhà Hồ, đổi tên nước thành
Đại Ngu => nhà Hồ được thành lập.
- Cuối thế kỉ XIV, nhận thấy Đại Ngu rơi vào khủng hoảng. Nhà Minh chuẩn bị lực lượng xâm lược xâm chiếm.
2. Diễn biến, kết quả
- Tháng 11/1406, lấy cớ phù Trần, diệt Hồ, nhà Minh đã huy động một lực lượng lớn gồm
20 vạn quân cùng với hàng chục vạn dân phu, do tướng Trương Phụ cầm đầu, chia làm hai
cánh tràn vào biên giới nước ta.
- Quân Minh lần lượt đánh bại quân nhà Hồ ở một số địa điểm thuộc Lạng Sơn. Hồ Quý Ly
phải lui về đóng ở bờ nam sông Nhị (sông Hồng), lấy thành Đa Bang (Ba Vì, Hà Nội) làm trung tâm phòng ngự.
- Ngày 22 - 1 - 1407, sau khi đánh bại quân nhà Hồ ở Đa Bang, quân Minh đánh chiếm Đông
Đô (Thăng Long). Quân nhà Hồ phải lui về cố thủ ở thành Tây Đô.
- Tháng 4 -1407, quân Minh tấn công vào Tây Đô, Hồ Quý Ly chạy vào Hà Tĩnh và bị bắt vào cuối tháng 6 - 1407. lOMoAR cPSD| 61159950
- Kết quả: Cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược của nhà Hồ hoàn toàn thất bại, đất
nước rơi vào ách đô hô c ̣ ủa nhà Minh
3. Nguyên nhân thất bại:
- Do những chính sách của nhà Hồ không được nhân dân ủng hộ.
- Không đoàn kết được sức dân để tạo nên một cuộc chiến tranh nhân dân.
- Không đề ra đường lối kháng chiến đúng đắn, quá chú trọng phòng tuyến quân sự và lực
lượng quân đội chính quy
Phần 2: Văn hóa Đại Việt Lý - Trần - Hồ
Tôn giáo, tín ngưỡng
- Các nhà nước Lý – Trần đã chủ trương một chính sách khoan
dung hòa hợp và chung sống hòa bình giữa các tín ngưỡng tôn
giáo như tín ngưỡng dân gian, Phật, Đạo, Nho. Đó chính là hiện
tượng Tam giáo đồng nguyên
- Thời Lý – Trần, Phật giáo trở thành quốc giáo.
- Đến thế kỷ XIV, Nho giáo ngày càng phát triển cùng với giáo dục
thi cử và nhu cầu tuyển chọn nhân tài.
- Nho giáo phát triển dần lấn át Phật giáo và chiếm địa vị độc tôn ở thế kỷ XV.
- Các tín ngưỡng dân gian cổ truyền như tín ngưỡng thần linh, vật
linh, tục thờ Mẫu, tục sùng bái anh hùng, pha trộn với Đạo giáo
đã được tự do phát triển và khuyến khích. Giáo dục
- Giai đoạn đầu của quốc gia phong kiến độc lập, Nho giáo tuy
chưa mạnh nhưng nó đã cùng với chữ Hán tồn tại trong xã hội Đại Việt.
- Năm 1070, nhà Lý cho dựng Văn Miếu, đúc tượng Chu Công và
mở Quốc tử giám để dạy học cho con của vua và các quý tộc.
- Năm 1075, triều đình mở khoa thi đầu tiên để tuyển chọn nhân
tài. Sang thời Trần, nhà nước chính quy hóa, tạo quy củ và nề nếp
cho việc học hành, thi cử. Quốc học viện được thành lập để đào tạo nhân tài.
- Thể lệ thi cử, học vị được quy định, nhà Trần đặt danh hiệu tam
khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa) dành cho ba người
đỗ đầu trong các kỳ Nhiều nhà nho nổi tiếng đã xuất hiện như:
Mạc Đĩnh Chi, Trương Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh, Chu Văn An,
Nguyễn Hiền, Lê Văn Hưu… Khoa Cử
- Triều Lý có 3 khoa thi. Năm 1195, nhà Lý có mở khoa thi Tam giáo. lOMoAR cPSD| 61159950
- Thời Trần có tất cả 14 khoa thi (10 khoa chính thức và 4 khoa
phụ), có học vị Thái học sinh.
- Năm 1374, có tổ chức thi Đình cho các tiến sĩ. 3 người đỗ đầu được gọi là Tam khôi
- Khoa cử được tiếp tục dưới triều Hồ (2 khoa). Nguyễn Trãi là
người thi đỗ Thái học sinh
- Năm 1400. Hồ Hán Thương đã tiếp tục cải cách thi cử, đưa thêm
vào môn toán và viết chữ. Văn học
- Có 2 dòng văn học chính: văn học Phật giáo và văn học yêu
nước dân tộc.
- Tiêu biểu có các tác phẩm: Nam quốc sơn hà của Lý Thường
Kiệt, Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn, Hịch tướng sĩ của Trần
Hưng Đạo, Phú Bạch Đằng của Trương Hán Siêu…
- Thơ ca thời Trần còn có nội dung ca ngợi thiên nhiên, đất nước
biểu hiện bằng các bài thơ của Trần Nhân Tông, Trần Thánh
Tông, Chu Văn An…(ví dụ: Buổi chiều đứng ở phủ Thiên
Trường trông ra của Trần Thánh Tông)
- Bên cạnh đó, văn hóa dân gian cũng phát triển mạnh, với ca dao,
tục ngữ truyền miệng, thể hiện bản sắc và trí tuệ của người Việt.
- Chữ Nôm lúc bấy giờ được gọi là “Quốc ngữ”, “ Quốc âm”
Nghệ thuật, kiến trúc
- Thành tựu nổi bật về kiến trúc của văn hóa Lý – Trần – Hồ là việc
xây dựng các cung điện, thành lũy của nhà vua...
• Thành Thăng Long là công trình kiến trúc lớn thời Lý – Trần
• Ngoài ra, còn nổi lên các công trình kiến trúc Phật giáo, hàng
ngàn ngôi chùa được xây dựng.
• Những chùa nổi tiếng có quy mô lớn và trang trí độc đáo là:
chùa Diên Hựu (chùa Một Cột), chùa Phật Tích, chùa Quỳnh Lâm, chùa Yên Tử…
• Thành nhà Hồ (An Tôn, Vinh Lộc, Thanh Hóa), còn gọi là
Tây Đô, là công trình kiến trúc đồ sộ và độc đáo bằng đá, xây
dựng thời cuối Trần tồn tại qua 6 thế kỷ.
- Điêu khắc và đúc tạo hình thời Lý-Trần có các loại tượng, chuông,
vạc, các bức phù điêu.
- Ngoài các tượng Chu Công, Không Tử, Tứ Phối được bày trong
Văn Miếu, phổ biến là các tượng Phật, nổi tiếng nhất là pho tượng
đá A di đà ở chùa Phật Tích và pho Di Lặc bằng đồng ở chùa Quỳnh Lâm.
- Các bức phù điêu đời Lý- Trần phần lớn đều chạm khắc các hình
tượng Phật giáo (toà sen, lá đề, sóng nước), hình tượng các tiên
nữ múa hát, các hình tượng rồng uốn khúc lOMoAR cPSD| 61159950
Mỹ thuật, Âm nhạc
- Có các đồ gốm, dáng hình đơn giản, thanh thoát.
- Nghệ thuật biểu diễn ca múa nhạc thời Lý- Trần phát triển phong
phú, chịu ảnh hưởng của cả nghệ thuật Nam Á và Đông Á
- Nghệ nhân sử dụng các nhạc cụ như sáo, tiêu, chũm choẹ, trống
cơm, các loại đàn cầm, đàn tỳ bà, đàn thất huyền...
- Chèo, tuồng được nhiều người ưa chuộng
- Múa rối nước là môn nghệ thuật đặc sắc, phát triển từ đời Lý
- Trong các lễ hội, có nhiều trò vui tạp kỹ mang tính dân gian như
đấu vật, chọi gà, cờ người, bơi chải, đánh đu, leo dây, đá cầu,... Khoa học, kỹ thuật
- Toán học được sử dụng trong đo đạc ruộng đất và xây dựng.
- Thiên văn học ra đời với những tên tuổi tiêu biểu như Đặng Lộ và Trần Nguyên Đán.
- Y học dân tộc phát triển với sự xuất hiện của Tuệ Tĩnh “ông tổ nghề thuốc nam”
- Sử học đã đóng vai trò quan trọng trong giáo dục, nhiều sử gia
nổi tiếng xuất hiện: Lê Văn Hưu, Vũ Quỳnh, Phan Phu Tiên, Hồ Tông Thốc.
- Khoa học quân sự đạt đến đỉnh cao với sự xuất hiện 2 tác phẩm
nổi tiếng của Trần Hưng Đạo: Binh thư yếu lược, Vạn kiếp tông bí truyền thư.
- Hồ Nguyên Trừng đã sáng chế ra súng thần cơ (hỏa pháo cải
tiến) và thuyền cổ lâu (thuyền chiến lớn có hai tầng)