
















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61591627
Câu 3:Tại sao Pháp cấu kết với Tây Ban Nha tấn công xâm lược Việt Nam?
1. Nguyên nhân Tây Ban Nha liên quân với Pháp trong việc xâm lược Việt Nam
Cái chết của giám mục Diag và ảnh hưởng của hoàng hậu Eugénie
Có người cho rằng việc quyết định can thiệp vào Đông Dương, liên quân giữa Pháp và
Tây Ban Nha đã do một phần ảnh hưởng của hoàng hậu Eugénie và vì cái chết của giám
mục Tây Ban Nha Diag. Họ cho rằng giám mục Diag, đại diện giáo hội miền trung ương
Bắc Kỳ bị chém ở Nam Định ngày 20-7-1857 đã làm hoàng hậu xúc động. Từ thưở thiếu
thời bà đã quen biết giám mục Diag ở Andalonsie. Bà có nhiều kỉ niệm về tình thân hữu,
lòng mộ đạo và tự ái dân tộc đối với giám mục này.Ít lâu sau lại một giám mục Tây Ban
Nha khác là Meichior cũng bị xử tử ở Bắc Kỳ ngày 28-7-1858. Những cái chết trên đã ảnh
hưởng đến bà nhiều và đương nhiên nhà vua cũng bị lung lạc theo những biến chuyển tinh thần đó.
Song sự thực, quyết định nhà vua đã có từ trước từ khi các vị này chết và hội đồng
nội các đã họp để thảo luận về vấn đề này từ 16-7-1857 nghĩa là trước cái chết của Diag
bốn ngày, không kể thời gian đưa tin từ Bắc kỳ về Pháp cũng khá lâu với những phương
tiện thời bấy giờ. Nhưng cái chết của hai giám mục này chính là cái cớ để Chính phủ Tây
Ban Nha đồng ý bắt tay với Pháp trong việc xâm lược Việt Nam cũng như đã khiến Pháp
liên kết được Tây Ban Nha.
Từ lí do tôn giáo….
Mấy tháng sau khi hội đồng nội các Pháp chấp thuận viễn chinh. Ngày 25-111857,
Đô đốc Rigôn Đờ Gionuiy (Rigault de Genouilly), tư lệnh lực lượng Hải quân
Pháp ở Viễn Đông đã nhận được lệnh mở một cuộc hành quân biểu dương lực lượng ở
Nam Kỳ (họ thường lẫn Nam Kỳ và An Nam). Tháng 12 năm 1857, Oalétxki (Walewski)
đã gửi cho bộ Hải Quân biết cái tinh thần mà viên tư lệnh lực lượng Pháp ở Đông Dương phải hành động.
Song lúc bấy giờ quân Pháp phải can thiệp vào Trung Hoa nên mãi đến sau khi
hòa ước Thiên Tân (27-6-1858) lực lượng Pháp mới đến Việt Nam. Trong thời gian chờ
đợi này đã có thêm nhiều nhà truyền giáo tử vì đạo trong đó có 2 vị giám mục Tây Ban Nha Diag1 và Meichior2.
Cái chết của hai vị này đã khiến Pháp liên kết được với Tây Ban Nha để can thiệp
vào Đông Dương. Đề nghị này được đề cập đến vào 1-12-1857 và được Chính phủ Tây Ban Nha chấp thuận.
Chính nữ hoàng Idaben II (Isabelle II) tuyên bố trong một buổi lễ rằng: “Những
vụ tàn sát mà các nhà truyền giáo xứ ta ở Á Châu là nạn nhân đã buộc tôi phải liên minh
với Pháp để mở một cuộc viễn chinh ở Nam Kỳ. Hải quân và bộ binh ta đã biểu lộ truyền
thống của nó và để nhớ lại những cuộc thám hiểm mà quân đội Tây Ban Nha luôn luôn
tỏ ra xuất sắc bảo vệ quyền lợi và danh dự của tổ quốc và vương quyền”. 3 lOMoAR cPSD| 61591627
Theo tướng O’Donnel, chủ tịch hội đồng nội các tuyên bố ngày 29-12-1858 thì
đây là một cuộc liên minh rất cao thượng và bất vụ lợi vì giữa Pháp và Tây Ban Nha
không có một hiệp ước công hay thủ nào cả.
Ngày 11-3-1859 bộ trưởng Ngoại giao Tây Ban Nha trả lời một dân biểu đối lập
trước nghị viện: “Nước láng giềng và thân hữu mà chúng ta, đang có những liên lạc chặt
chẽ và lớn lao, đã thấy và đã có chung lí do với chúng ta trong sự cần thiết gửi lực lượng
sang Nam Kỳ. Thật là tự nhiên khi binh sĩ chúng ta sát cánh với các binh sĩ nước bạn đó
để đạt tới cùng một mục đích. Không có một hiệp ước nào, hiệp ước chẳng có gì cần
thiết. Không có và không còn có hiệp ước nào nữa: Người ta đã cho rằng binh sĩ chúng
ta đã đóng vai trò phụ, thứ yếu, thuộc hạ nhưng điều này không đúng. Quân đội Tây Ban
Nha và Pháp đứng cạnh nhau, chính phủ của Hoàng đế Pháp và chính phủ của nữ hoàng
Tây Ban Nha chẳng bao giờ nghĩ đến việc hạ cờ Tây Ban
Nha xuống dưới cờ nào cả…”.1
Trước khi xuất quân tướng Fernando de Norzagaray ra nhật lệnh cho đoàn quân viễn chinh như sau:
“Binh sĩ ! Một phần của quân đội Phi luật tần và hải quân đã liên-binh với hải
quân và quân đội lừng lẫy, can đảm Pháp quốc để dự cuộc viễn chinh trả thù cho đạo và
các nhà truyền giáo của chúng ta ở xứ An-Nam, nơi mà mai đây sẽ phất phới cờ Pháp
và cờ Tây Ban Nha, lí do tốt lành và bàn tay thượng đế sẽ dẫn dắt các người. Nó được
nói lên bởi danh dự và nền văn minh và cả dân tộc sẽ trông ở các ngươi sự bình tĩnh của
lương tâm. Dù ở địa vị nào mà biến cố sẽ đưa đến các ngươi, hãy làm tròn bổn phận và
trong lúc cần đến sự thử thách giá trị và sự cố gắng của các ngươi bên cạnh các bạn
đồng minh sẽ chiến đấu với các ngươi như anh em… Các ngươi hãy nhớ rằng các ngươi
là con cháu của các vị anh hùng Cid và Fernand Corlès. Các binh sĩ! Hãy hoan hô Nữ Hoàng !”.
Vậy đã quá rõ lí do chung của cái bắt tay giữa Tây Ban Nha và thực dân Pháp
chính là lí do tôn giáo, chính sách “cấm đạo” và “giết đạo” của triều đình nhà Nguyễn
chính là duyên cớ để Pháp – Tây Ban Nha liên quân với nhau trong việc xâm lược Việt
Nam. Theo như lời tuyên bố của tướng O’Donnel đây là một cuộc liên minh rất cao
thượng và bất vụ lợi vì giữa Pháp và Tây Ban Nha không có một hiệp ước công hay thủ
nào cả. Sự bất vụ lợi như lời của tướng O’Donnel khi mà thực tế tiến trình xảy ra sau đó
nó đi ngược lại lời tuyên bố của vị tướng này, vả lại chi phí mà Tây Ban Nha bỏ ra cho
cuộc chiến tranh này không hề nhỏ. Liệu có sự bất vụ lợi ở đây hay chăng?
…. Đến lợi ích vật chất, thậm chí chia đất.
Chúng ta cần xem xét lực lượng tham chiến của Tây Ban Nha nhằm tìm ra cái lợi
ích mà Tây Ban Nha đạt được từ việc sẵn sàng cấu kết, liên quân với Pháp trong việc xâm lược Việt Nam.
Trận Đà Nẵng (31-8-1858): Lực lương liên quân Pháp-Tây Ban Nha lúc này gồm: lOMoAR cPSD| 61591627
Ngày 31/8/1858 liên quân Pháp-Tây Ban Nha đến vịnh Đà Nẵng dưới quyền chỉ
huy của phó đô đốc Rigôn Đờ Gionuiy (Rigault de Genouilly) và Đại tá lục quân Tây Ban Nha Conzarole.
Hạm đội gồm có 14 tàu: soái hạm Némésis, 2 chiến hạm chạy hơi Phlégéthon và
Primauguet, cùng một tàu hơi Tây Ban Nha El cano, các pháo hạm: Avalanche,
Dragonne, Fusée, almer Mitraille; các vận hạm: Durance, Gironde, Saone, Meurte và Por Dogne.
Quân đổ bộ ngoài các đại đội hải quân còn có hai tiểu đoàn bộ binh, một pháo đội
của hải quân và một đơn vị lính Tagals từ Phi-luật-tân gửi đến đặt dưới quyền chỉ huy
của đại tá Lanzarote. Tổng cộng tất cả vào khoảng 2.000 quân Pháp và 500 lính thuộc địa Tây Ban Nha.
Trận đánh thành Gia Định (17-2-1859)
Lực lượng liên quân Pháp và Tây Ban Nha lúc này gồm:
2 chiến hạm lớn: Philégéthon và Primaugnet
3 pháo hạm: Alarme, Avalanche và Dragonne
3 hải vận hạm: Durance, Meurthe, Saône và một tàu hơi Tây Ban Nha El Cano.
Lực lượng đổ bổ gồm có 2 đại đội bộ binh hải quân Pháp do Trung tá Rebaud chỉ
huy, 2 đại đội bộ binh Tây Ban Nha do trung tá Palanca chỉ huy, 1 chi đội Pháo binh do
đại úy Lacour và một đơn vị công binh do đại úy Gallimard chỉ huy. Tất cả gồm có hai nghàn binh sĩ.
Trở lại Đà Nẵng
Mục đích các cuộc tấn công vào Việt Nam của người Pháp lúc này chưa phải là
chiếm đất. Họ vẫn hi vọng triều đình ta nhượng bộ và ký các hiệp ước có lợi cho họ. Lực
lượng viễn chinh Pháp lại không đủ để chiếm giữ và bành trướng thế lực ở cả hai nơi:
Gia Định và Đà Nẵng nên Rigôn Đờ Gionuiy (Rigault de Genouilly) đã quyết định để
lại một lực lượng nhỏ ở Gia Định còn tất cả lại kéo ra Đà Nẵng. Lực lượng ở lại gồm có
4 chiến hạm (Primauguet, Dutance, Avalanche,và Dragonne), 2 đại đội bộ binh (1 Pháp
và 1 Tây Ban Nha) 1 chi đội hải quân để sử dụng trọng pháo do Trung tá Jauréguiberry
chỉ huy đóng đồn chính là đồn Hữu binh cũ (Khánh-hội) để giữ bến tàu và vài đồn phụ
(mỗi đồn dăm tên lính) để bảo vệ một làng tập trung các người đã cộng tác với Pháp (ở
vào khu vực sở Ba Son ngày nay) chống lại sự trả thù của quân và dân Việt Nam.
Trận đánh Đại đồn Chí Hòa (13-2-1861)
Đô đốc Charner được cử làm tư lệnh lực lượng viễn chinh Pháp ở Nam Kỳ, có
toàn quyền hành động về quân sự cũng như về ngoại giao để hoàn thành nhiệm vụ mà
hoàng đế giao phó. Phụ tá cho Charner có phó đô đốc Laffon de Ladé–bat làm Tổng
tham mưu trưởng và Phó đô đốc Pagiơ (Page) chỉ huy một phân đoàn hải quân. Sácne
(Charner) có gần 70 tàu chiến gồm: soái hạm Hoàng Hậu Eugénie, 6 chiến hạm lớn:
Renommé, Primanguet, Laplace, Monge, Duchayla và Fórbin, 11 tàu hơi (hoặc chạy
bằng bánh xe hoặc bằng cánh quạt), bốn pháo hạm hạng nhất: Mitraille, Alarme,
Avalanche, Dragonne; 13 pháo hạm nhỏ; 17 vận hạm và 1 tàu quân y. Ngoài ra còn có
một số chiến thuyền mua tại Hồng Kông, hoặc đã được đặt tên Pháp như: Déroulède, lOMoAR cPSD| 61591627
Echo, Didon, Amphitrite hoặc vẫn mang tên cũ như: Hong-kong, Lily, Shramrock, Jajareo…
Lực lượng đổ bộ gồm 900 thủy thủ võ trang lập thành một trung đoàn có 9 Đại đội,
800 binh sĩ thuộc trung đoàn III và IV thủy quân lục chiến, Tiểu đoàn II Khinh binh, 10
khẩu đại bác (gồm 1 pháo đội rưỡi) do trung tá Crouzot chỉ huy, một phân đội công binh
do thiếu tá Alijé de Mati – gnicourt chỉ huy và đơn vị lính Phi-châu. Tất cả đặt dưới quyền
tướng Vassoigne. Tổng cộng quân số lên đến gần 3.000 người.
Charner cũng xin với nhà cầm quyền Tây Ban Nha ở Phi-luật-tân gửi thêm 150 kỵ binh
Việc thêm viện binh Tây Ban Nha này đã gây vài khó khăn trong việc bang giao
Pháp và Tây Ban Nha vì trước kia Tây Ban Nha liên minh với Pháp hoàn toàn vì lí do
tôn giáo, nay thấy Pháp chiếm đóng lãnh thổ nên họ có ý đòi hỏi những quyền lợi vật
chất. Đô đốc Charner đã phải gửi cho Palanca, Tư lệnh lực lượng Tây Ban Nha ở Gia
Định một văn thư đại ý: “Tây Ban Nha là đồng minh chứ không phải là thuộc hạ. Nhưng
không phải vì thế mà đặt ra vấn đề chia đất Sài Gòn. Hơn nữa theo lệnh Hoàng đế
Napoléon thì Tây Ban Nha có thể thấy ở Bắc kỳ sự đền bù vì những hi sinh cao cả của
họ”6(Charner ý nói khi đánh ra Bắc sẽ có đất chia cho Tây Ban Nha. Điều này chứng tỏ
rằng âm mưu của Pháp không phải chỉ lấy Nam Kỳ mà thôi).
Hòa ước Nhâm Tuất (5-6-1862):
Chính giữa lúc phong trào kháng chiến trong nhân dân đang dâng lên cao như vũ
bão làm cho quân giặc hoảng hốt và phải xin nghị hòa, thì triều Nguyễn đã không huy
động quân và dân ta đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi nước, trái lại kí Hòa ước 56-1862.
Đại tá Palanca không thấy đề cập đến việc nhượng đất cho Tây Ban Nha đã phản
đối và Bonnard tuyên bố rằng “Nếu Tây Ban Nha muốn bồi thường thì họ phải chiếm Bắc Kỳ”.
Hòa ước ngày 5-6-1862 (thường gọi là hòa ước Nhâm Tuất) do Phan Thanh Giản
và Lâm Duy Hiệp kí với Bonnard và Palanca gồm 12 khoản đại ý, trong đó xin đề cập
riêng đến những khoản lợi ích của Tây Ban Nha nhưng không thấy đề cập đến việc
nhượng đất cho Tây Ban Nha, trong đó có những khoản chính liên quan như:
Khoản 1: Hiệp ước này mở đầu một kỷ nguyên thân hữu giữa Pháp, Tây Ban Nha và nước Nam.
Khoản 2: Sự tự do theo đạo Thiên Chúa sẽ được ban hành trên toàn cõi nước Nam.
Khoản 3: Ba tỉnh miền Đông là Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và Đảo Côn
Lôn được nhượng cho nước Pháp. Nước Nam không được ngăn trở tàu buôn Pháp mượn
đường sang buôn bán với Căm-bốt và cũng phải để tàu chiến Pháp được tự do vào thám
hiểm trên các sông ngòi của nước này.
Khoản 5: Các thương gia Pháp và Tây Ban Nha vào buôn bán ở Đà Nẵng, Quảng
Yên phải bảo đảm được an ninh và hoàn toàn tự do. Họ sẽ đóng đủ các thứ thuế cho nước
Nam. Ngược lại các thương gia nước Nam sang Pháp và Tây Ban Nha cũng được hưởng
quyền lợi tương tự. Khi nước Nam nhượng cho các cường quốc khác các đặc quyền thì
Pháp và Tây Ban Nha cũng được hưởng tương tự. lOMoAR cPSD| 61591627
Khoản 8: Nước Nam phải trả cho Pháp và Tây Ban Nha tiền bồi thường kinh phí
là 4 triệu đồng trong mười năm, mỗi năm 400.000 đồng, trao tận tay cho đại diện Pháp ở Gia Định .
Ngày 17-2-1859, liên quân Pháp-Tây Ban Nha chiếm được Sài Gòn. Lúc này cuộc
“Chiến tranh thuốc phiện” ở Trung Quốc đang bước vào giai đoạn cuối. Ngày 2910-
1860, “Hòa ước” kết thúc chiến tranh được ký tại Bắc Kinh. Pháp càng rảnh tay và có
thêm binh lực mở rộng phạm vi chiếm đóng ở Nam Kỳ, mặc dù Tây Ban Nha bắt đầu rút
quân về Philippin. Bước sang năm 1861, Pháp lần lượt đánh chiếm Mỹ Tho, Bà Rịa,
Biên Hòa, Vĩnh Long, tạo cơ sở đàm phán trên thế mạnh, buộc nhà Nguyễn phải
“nhường” cho Pháp 3 tỉnh miền Đông là Mỹ Tho, Gia Định, Biên Hòa và đảo Côn Sơn;
tiếp đó lại “nhường” thêm 3 tỉnh miền Tây là Vĩnh Long, Châu Đốc, Hà Tiên. Năm 1867,
toàn bộ xứ Nam Kỳ coi như nằm trong sự kiểm soát của Pháp. Bước chân xâm lược của
Pháp không dừng lại ở đây mà vẫn tiến lên phía Tây và phía Bắc, lần lượt thôn tính toàn
bộ Đông Dương. Tuy nhiên, cũng phải “loay hoay” mãi tới năm 1897, tức 4 thập kỷ sau
khi nổ súng đánh chiếm Đà Nẵng (1858) thực dân Pháp mới chính thức thiết lập được
bộ máy Tổng cai trị (Gouvernement general) trên lãnh thổ thuộc địa.
Như vậy xét về tiến trình tham gia xâm lược Việt Nam, ban đầu lực lượng quân
đội tham chiến của Tây Ban Nha chiếm ¼ tổng số quân tham chiến, có lúc lên tới ½. Ý
muốn của Tây Ban Nha chính là đất đai ở Bắc Kì nhưng lợi ích đạt được trong cuộc
chiến tranh này chỉ là tự do truyền đạo, thuận lợi buôn bán, chiến phí bồi thường nhưng
không thấy Pháp đề cập đến vấn đề chia đất cho nên khi đụng chạm đến việc phân chia
lợi ích hai nước này bắt đầu nảy sinh mâu thuẫn và hồi kết của khúc đoạn liên quân chính
là từ năm 1860 Tây Ban Nha bắt đầu rút quân về Phi-líp-pin. 2. Kết luận
Ở đây, một lần nữa, căn cứ vào nghiên cứu những tư liệu hiện có trong tầm tay,
chúng tôi đưa ra một số kết luận tổng quát, nhằm tự tìm cho mình một cơ sở khoa học để
lý giải những vấn đề đã nêu ở trên:
Thứ nhất: Tây Ban Nha và Pháp liên quân với nhau vì trong số các giáo sĩ nước
ngoài bị triều đình Huế giam giữ, giết hại hồi đó có một số người Tây Ban Nha. Chính vì
chung mục đích nên cái bắt tay với Pháp là lẽ tất yếu, vấn đề sớm hay muộn là “anh nào”
mở lời trước và Pháp đã tìm được các lí do để mở lời mời Tây Ban Nha mở một cuộc xâm
lược vũ trang ở Việt Nam.
Thứ hai: Nữ hoàng Tây Ban Nha Idaben II (Isabelle II) tuyên bố trong một buổi
lễ rằng: “Những vụ tàn sát mà các nhà truyền giáo xứ ta ở Á Châu là nạn nhân đã buộc
tôi phải liên minh với Pháp để mở một cuộc viễn chinh ở Nam Kỳ…”. Có hay chăng đó
chỉ là một lời tuyên bố để động viên binh sĩ, động viên tinh thần và hợp pháp hóa lí do
mở cuộc viễn chinh, hoặc theo tướng O’Donnel, chủ tịch hội đồng nội các tuyên bố ngày
29-12-1858 thì đây là một cuộc liên minh rất cao thượng và bất vụ lợi vì giữa Pháp và
Tây Ban Nha không có một hiệp ước công hay thủ nào cả. Thực tế “Trên thế giới này
không có đồng minh vĩnh viễn hay kẻ thù vĩnh viễn chỉ có lợi ích quốc gia mới là vĩnh
viễn” (Winston Churchill-Cựu thủ tướng nước Anh). Xem xét quá trình hai nước này liên
quân với nhau và đôi lúc vì lợi ích đã bắt đầu xuất hiện nhỏ giọt một số mâu thuẫn tay
đôi. Việc Tây Ban Nha điều động biết bao nhiêu binh sĩ và con số là không hề nhỏ (trận lOMoAR cPSD| 61591627
mở màn ở Đà Nẵng ngày 1-9-1858 có tới 500 lính thuộc địa Tây Ban Nha trong khi đó
quân Pháp là 2.000) trong việc liên quân lẽ tất nhiên phải thu được lợi nhuận với lOMoAR cPSD| 61591627
công sức chi ra, thậm chí đất đai được chia như thế nào. Tư bản Tây Ban Nha cũng
nhiều lần dòm ngó các vùng Đồ Sơn, Quảng Yên ngoài Bắc, nên Nữ hoàng Tây Ban
Nha là Idaben II (Isabelle II) sẵn sàng cấu kết với Pháp trong cuộc viễn chinh này để
kiếm lợi. Tây Ban Nha liên quân với Pháp để kiếm lợi, chia đất nhất là lợi ích từ Bắc
Kỳ là nguyên nhân chủ yếu Tây Ban Nha sẵn sàng cấu kết, tiếp tay với Pháp trong
việc xâm lược Việt Nam.
Câu 4: Tại sao khi thất bại tại Đà Nẵng , Pháp tấn công Gia Định?
Thấy không chiếm được Đà Nẵng, Pháp quyết định đưa quân vào Gia Định. Gia Định
và Nam Kì là vựa lúa của Việt Nam, có vị trí chiến lược quan trọng." Đây chính là lí do
Pháp quyết định chuyển hướng tấn công vào Gia Định
Câu 5: Tại sao quân đội triều đình thất bại trong trận Kỳ Hòa?
Câu 6: Vì sao Pháp tiến đánh Bắc Kì mà không phải Trung kì?
Câu 7: Tại sao Pháp quyết định tấn công Bắc Kì lần 2?
- Thực dân Pháp tấn công Bắc Kì lần thứ hai với cớ Triều đình Huế vi phạm Hiệp ước
1874, giao thiệp với nhà Thanh, ngày 3 – 4 – 1882, quân Pháp do Ri-vi-e chỉ huy đã
kéo ra Hà Nội khiêu khích, ngày 25 – 4 – 1882, Ri-vi-e gửi tối hậu thư cho Tổng đốc
thành Hà Nội là Hoàng Diệu buộc phải nộp thành, không đợi trả lời, Pháp mở cuộc
tiến công và chiếm thành Hà Nội, cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt từ sáng đến trưa,
Hoàng Diệu thắt cổ tự vẫn.
- Lấy cớ triều đình Huế vi phạm Hiệp ước năm 1874, tiếp tục giao thiệp với nhà Thanh,
Pháp đem quân xâm lược Bắc Kì lần thứ hai.
- Ngày 3 – 4 – 1882, quân Pháp do Ri-vi-e chỉ huy đã kéo ra Hà Nội khiêu khích.
- Ngày 25 – 4 – 1882, Ri-vi-e gửi tối hậu thư cho Tổng đốc thành Hà Nội là Hoàng Diệu
buộc phải nộp thành. Không đợi trả lời, Pháp mở cuộc tiến công và chiếm thành Hà
Nội, cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt từ sáng đến trưa, Hoàng Diệu thắt cổ tự vẫn.
- Triều đình Huế vội cầu cứu nhà Thanh, cử người ta Hà Nội thương thuyết với Pháp;
ra lệnh quân ta phải rút lên mạn ngược => quân Thanh ồ ạt kéo sang nước ta, đóng ở nhiều nơi.
- Pháp nhanh chóng chiếm một số nơi khác như Hòn Gai, Nam Định và các tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Kì. lOMoAR cPSD| 61591627
- Ở Hà Nội, nhân dân tự tay đốt nhà, tạo thành bức tường lửa chặn bước tiến của quân giặc.
- Tại các nơi khác, nhân dân tích cực đắp đập, cắm kè trên sông, làm hầm chông, cạm
bẫy để ngăn bước tiến của quân Pháp.
- Ngày 19 – 5 – 1883, quân ta giành thắng lợi lớn trong trận Cầu Giấy lần thứ hai, Rivi- e bị giết tại trận.
- Chiến thắng Cầu Giấy lần thứ hai làm cho quân Pháp thêm hoang mang, dao động,
chúng định bỏ chạy nhưng triều đình Huế lại chủ trương thương lượng với Pháp hi
vọng chúng sẽ rút quân.
Câu 8: 1. Tại sao khởi nghĩa Yên Thế thất bại? Trong những nguyên nhân thất bại,
nguyên nhân nào là chủ yếu?
2. Hãy giải thích vì sao quân triều đình thất bại ở chiến sự Gia Định
1. khởi nghĩa Yên Thế thất bại vì:
-Tư tưởng lãnh đạo của Đề Thám (chủ hòa) không hợp với nhiều nghĩa quân (chủ chiến).
-Nhiều nghĩa quân đã bị trói buộc vào tình trạng tá điền không công cũng gây
nên sự rạn nứt trong nội bộ của nghĩa quân.
-Nghĩa quân Yên Thế chưa lấy được lòng dân do đôi khi nghĩa quân vẫn cướp bóc, sách nhiễu dân chúng.
-Thiếu cộng tác với các phong trào chống Pháp khác tại Việt Nam lúc đó.
-Do Pháp cấu kết với lực lượng phong kiến.
Nguyên nhân chủ yếu:(mình đánh dấu đậm nhé)
2.quân triều đình thất bại ở chiến sự Gia Định vì:
-quân pháp thắng lợi ở Gia Định(1859) vì triều đình Nguyễn khong kiên quyết đấu tranh
làm thực dân pháp có thời gian củng cố lực lượng
-Gia Định xa Trung Quốc sẽ tránh được sự can thiệp của nhà Thanh.
-Xa kinh đô Huế sẽ tránh được sự tiếp viện của triều đình Huế.
-Chiếm được Gia Định coi như chiếm được kho lúa gạo của triều đình Huế gây khó khăn cho triều đình. lOMoAR cPSD| 61591627
-Đánh xong Gia Định sẽ theo đường sông Cửu Long, đánh ngược lên Cam-pu-chia (Cao
Miên) làm chủ lưu vực sông Mê Kông.
Câu 9: So sánh khởi nghĩa yên thế và phong trào cần vương? Giống nhau •
Đều là phong trào yêu nước có sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia • Đều bị thất bại
Câu 10: Tại sao phong trào Cần Vương lại làm châm công cuộc Bình Định?
Phong trào Cần Vương đã làm chậm lại quá trình bình định Việt Nam của thực dân pháp vì : -
Sau khi triều đình từ bỏ, Pháp vẫn vướng chân bởi các cuộc khởi nghĩa nhân dân nổra liên tục -
Các cuộc khởi nghĩa tuy diễn ra lẻ tẻ, chưa phát triển thành phong trào mạnh
mẽnhưng làm Pháp tổn thất về lương thực, thuốc men, đạn dược, quân số...
- Pháp thay vì nhanh chóng bình định thì phải đi từng nơi dập tắt bạo loạn -
Các cuộc khởi nghĩa Ba Đình, Bãi Sậy, Hương Khê để lại các kinh nghiệm
chonhững cuộc khởi nghĩa sau làm nhân dân ta có thể tránh được 1 số sai lầm mà tiếp tục tiến lên 9
Câu 13: Vì sao sau khi chiếm Nam kì , thực dân Pháp đánh chiếm Bắc kì? lOMoAR cPSD| 61591627
Câu 14: Vì sao tới năm 1873 Phap mới tấn công Bắc Kì?
Tới năm 1873 thực dân Pháp mới đánh ra Bắc Kỳ và mục tiêu chính -
Thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ 1873 xâm chiếm Bắc Kì, mở rộng
chiến tranhxâm lược ra cả nước. -
Sau khi đánh chiếm 6 tỉnh Nam Kì, quân Pháp phải đối mặt với nhiều cuộc
khỏinghĩa: Phan Trung Trực, Pham Liêm, Phan Tôn… ( Pháp cần bình
định lại các vùng đã chiếm đóng. -
1870 chiến tranh Pháp – Phổ, Pháp – Ý bùng nổ. - 1871 Công xã Paris của công nhân nổ ra.
( tình hình nước Pháp khó khăn, thường xuyên phải duy trì 1 lực lượng quân đội mạnh
ở biên giới với nước Phổ -
Sang năm 1873, dù chưa phải là lức thuận lợi để tiến đánh Bắc Kì nhưng
Pháp quyếtđịnh đánh ra Bắc kì vì nhận thấy quân Anh và quân Đức lúc đó
đang có động thái xâm lược Bắc Kì. -
Theo một số ý kiến khác:
+ Pháp đã thám hiểm con đường Mekong vượt lên Vân Nam nhưng bị thất bại. + 1867
vào Tây Nam Trung Quốc qua sông hồng một tên bán vũ khí (Jeam Dupuy) cho Trung
Quốc chống lại chính quyền Trung Quốc đã vận chuyển thành công vũ khí từ sông Hồng
lên Trung Quốc và người này đã báo với Pháp( từ đó Pháp có ý định chiếm Bắc kì biến
Bắc kì trở thành bàn đạp, căn cứ quân sự.
+ Vì Bắc kì có nguồn khoáng sản, mỏ, tài nguyên phong phú Pháp cần dùng nhiên liệu
để cung cấp cho các cuộc chiến và cũng do sự nhòm ngó của quân Anh, Đức, quân Mãn Thanh.
+ Pháp muốn dùng vũ lực để tấn công Bắc kì đẻ buộc nhà Nguyễn đồng ý nhượng nốt1
3 tỉnh miền tây nam kì ( đánh Bắc Kì để củng cố Nam Kì.0 lOMoAR cPSD| 61591627
+ Mục tiêu cuối cùng là ngược sông Hồng lên vùng Vân Nam Trung Quốc, Trung Quốc
là cái đích đến cuối cùng của Thực dân Pháp.
Câu 15: Trách nhiệm của Nhà nguyễn trong việc để mất nước vào tay Pháp?
Trước đây, do nhận thức vấn đề chưa đầy đủ, đã từng có những đánh giá khá nặng nề
về triều Nguyễn, như cho là “ phản động toàn diện”, là “ cõng rắn cắn gà nhà” , để rồi
cam tâm bán nước cho giặc.
Giờ đây, với cái nhìn mới, cùng với sự phân tích các sự kiện lịch sử một cách khoa học
khách quan, đã có một số ý kiến tương đối nhất trí về cách đánh giá nhà Nguyễn trong lịch sử.
Trước hết cần phải đặt triều Nguyễn cũng như sự xâm lược của tư bản phương Tây nói
chung trong đó có tư bản Pháp vốn có nhiều quan hệ với Việt Nam từ sớm thông qua
các hoạt động liên tục và ngấm ngầm trong nhân dân của đội giáo sĩ và thương nhân
kiêm gián điệp – trong bối cảnh chung của lịch sử thế giới là cuộc chạy đua ráo riết giữa
các nước tư bản chủ nghĩa săn tìm các thuộc địa. Khu vực Đông Nam Á trong đó có
Việt Nam, với các điều kiện đất rộng, người đông, tài nguyên phong phú luôn luôn là
đối tượng dòm ngó, săn lùng, là miếng mồi ngon cho bọn tư bản háu lợi. Việt Nam cùng
các nước trong khu vực phải đối đầu với nguy cơ xâm lược và cuối cùng trước sức tấn
công quyết liệt của bè lũ tư bản phương Tây có ưu thế tuyệt đối về vũ khí đều lần lượt
bị chúng thôn tính, chỉ trừ Thái Lan.
Đối với Việt Nam, ngoài nguyên nhân khách quan được nêu trên, còn có một nguyên
nhân chủ quan mà các nước trong khu vực đều không có. Đó là việc Nguyễn Ánh trên
con đường lưu vong trước sức tấn công của nghĩa quân Tây Sơn, đã phải bám víu vào
tư bản Pháp háu lợi đang cùng tư bản các nước khác chạy đua tìm kiếm thuộc địa trong khu vực Viễn Đông.
Bên cạnh đó việc Gia Long tranh thủsự viện trợ của Pháp cũng là một cơ hội tốt cho
Pháp để ngày càng tăng cường chú ý đến Việt Nam, tìm cách xâm nhập ngày càng sâu1 1
sắc bằng hai con đường truyền giáo và buôn bán để đến khi có thời cơ thì hành động. lOMoAR cPSD| 61591627
Một nguyên nhân tuy rằng chủ quan, nhưng hoàn toàn ngoài ý muốn của Nguyễn Ánh
khi tranh thủ sự giúp đỡ quân sự của giặc Pháp.
Nguyên nhân chủ quan và khách quan là như vậy, nhưng các nguyên nhân đó hoàn toàn
không quyết định việc nước ta bị tư bản Pháp thôn tính. Mà việc mất nước Việt Nam
vào tay Pháp vào giữa thế kỷ XIX lại do trách nhiệm chủ quan của triều đình nhà
Nguyễn – nói triều đình nhà Nguyễn lúc này không phải chỉ có những ông vua mà là cả
cái bộ máy quần thần quan liêu, bảo thủ nặng nề.
Có ý kiến cho rằng việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp là do trình độ dân trí của
ta thấp kém so với thực dân Pháp, văn minh nông nghiệp Á Đông lạc hậu so với văn
minh công nghiệp phương Tây. Khẳng định như vậy, không phản ánh đúng trách nhiệm
chủ quan của nhà Nguyễn trong việc bảo vệ đất nước, điều đó chẳng khác nào là định
mệnh, bất khả kháng. Đánh giá như vậy, chẳng khác nào việc mất nước là tất yếu, yếu
thua mạnh, người văn minh chiến thắng người lạc hậu.
Để làm rõ trách nhiệm chủ quan của nhà Nguyễn trong việc để mắt nước vào cuối thế
kỉ XIX, phải thấy được việc mất nước là một quá trình từ không tất yếu cuối cùng
chuyển sang tất yếu. Điều này có nghĩa là, ngay từ khi bắt đầu xâm lược Việt Nam
(1858), khả năng đánh bại Pháp dưới sự lãnh đạo của triều đình không phải là không
có, mà do chính sách sai lầm của triều đình đã làm cho các khả năng đề kháng và chiến
thắng của quân ta ngày càng hao mòn, khiến địch ngày càng lấn lướt, từng bước thôn tính nước ta.
Dẫn chứng cho điều này là trong thời kì đầu khi Pháp xâm lược cũng đã vấp ngã trước
sự kháng cự quyết liệt của quân dân ta dưới ngọn cờ của triều đình, có lúc chúng tính
chuyện rút quân về nước trong lúc gặp nguy nan. Thế nhưng càng về sau, quá trình
chiến đấu bị giảm sút, suy yếu dần đã bộc lộ sự bất lực và yếu hèn của triều đình. Triều
đình Nguyễn chỉ sau một thời kỳ ngắn lãnh đạo nhân dân để chiến đấu rõ ràng không
ngoài mục đích giữ ngai vàng của dòng họđã nhanh chóng trượt dài trên con1
2 đường nội bộ, cầu hòa để có thể đối phó
với phong trào đấu tranh của nhân dân cả nước ngày càng phát triển do hàng loạt lOMoAR cPSD| 61591627
chính sách sai lầm của nhà cầm quyền, triệt để bóc lột nhân dân đến xương tủy để
phục vụ cho cuộc sống xa hoa phung phí của bè lũ, kết hợp với thẳng tay đàn áp nhân dân các địa phương.
Bên ngoài thì kẻ thù đang ra sức đẩy mạnh âm mưu thôn tính, mà bên trong thì giữa
người cầm quyền với nhân lại không cố kết một lòng, thậm chí có lúc kẻ cầm quyền đã
sẵng sàng chìa tay ra hợp tác với kẻ thù dân tộc để có thêm điều kiện đàn áp phong trào
quần chúng. Họ đi từ sai lầm này đến sai lầm khác, quá cảnh giác với bọn thực dân nên
đã tiến hành chính sách cấm đạo, bế quan tỏa cảng, không tổ chức toàn dân chống giặc,
mà còn quá nhu nhược, thẳng tay đàn áp phong trào quần chúng, bóc lột nhân dân…
Những chính sách bảo thủ, lạc hậu của triều Nguyễn là nguyên nhân kìm hãm sự phát
triển của đất nước và sức sáng tạo của nhân dân. Đến khi thất bại trước cuộc vũ trang
xâm lược của thực dân Pháp thì triều Nguyễn lại đổ lỗi cho khách quan và lấy việc ký
hiệp ước làm lối thoát duy nhất. Thực ra trách nhiệm của triều Nguyễn trong việc làm
mất nước ta vào tay thực dân Pháp là điều không thể chối cải được.
Ngoài ra lại dựa vào nhà Thanh để chống Pháp. Song nhà Nguyễn đã thỏa hiệp với thực
dân Pháp trên số phận của Đại Nam, đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác (Hòa
ước năm Nhâm Tuất 1862, Hòa ước Giáp Tuất năm 1874 và cuối cùng là Hòa ước
Patơnốt năm 1884). Với Hòa ước 1884, Đại Nam hoàn toàn mất độc lập, bị xóa tên trên
bản đồ thế giới, trở thành thuộc địa của Pháp, bị Pháp đô hộ.
Nhận định tình hình nước ta khi Pháp phát động chiến tranh xâm lược, có thể khẳng
định chế độ phong kiến Việt nam đang ngày càng suy yếu, lực lượng vật chất và tinh
thần của nhân dân đang bị triều Nguyễn hủy hoại, chỉ có thể cứu vãn nguy cơ mất nươc
nếu nhà cầm quyền sớm biết mở đường cho xã hội tiến lên theo hướng mới, tăng cường
năng lực vật chất và tinh thần trong nhân dân để có đủ khả năng bảo vệ đất nước. Muốn
vậy, chỉ có thể thực hiện được bằng cách điều chỉnh các mối sung đột1
3 giữa địa chủ với nông dân, giữa giai cấp
phong kiến ngoan cố với thành phần tư sản chớm nở, chấn chỉnh quân đội, thu phục
và cố kết nhân tâm, một yêu cầu mà nhà Nguyễn với tất cả những tồn tại và hạn chế
của nó hoàn toàn không có khả năng đáp ứng. lOMoAR cPSD| 61591627
Kết quả, thực dân Pháp đã vượt qua những khó khăn của chúng để cuối cùng thôn tính
hoàn toàn Việt Nam. Trách nhiệm của triều Nguyễn trong việc để mất nước ta vào tay
thực dân Pháp vào cuối thế kỉ XIX là hiển nhiên, không thể chối cải.
Nước ta có thể tránh được cuộc xâm lăng của thực dân Pháp không? Có hai quan điểm
trái ngược nhau về vấn đề này:
Quan điểm thứ nhất là chúng ta không thể tránh khỏi việc rơi vào vòng đô hộ của chủ
nghĩa thực dân vì thực dân hóa là xu thế lúc bấy giờ, nhiều dân tộc ở Á, Phi đều không tránh nổi.
Quan điểm thứ hai là Việt Nam có thể tránh được việc bị Pháp xâm lược, có thể chống
xâm lược thắng lợi bởi dân ta có truyền thống đoàn kết, yêu nước chống ngoại xâm.
Hơn nữa, Đại Nam là nước có tầm cỡ trung bình, tương đối phát triển trong khu vực
còn nước Pháp ở xa và có không ít khó khăn…
Thực tế việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp vào cuối thế kỉ XIX, chính một sử
gia Pháp (Charles Gosselin) cho rằng: “Những vị Hoàng đế An Nam phải chịu trách
nhiệm về sự đỗ vỡ và xuống dốc của đất nước họ. Dân xứ này, quan lại, binh lính xứng
đáng có quyền được những người cầm đầu có giá trị hơn thế. Chính quyền họ đã mù
quáng vì không có dự liệu, không chuẩn bị gì hết”.
Cố Thủ Tướng Phạm Văn Đồng nhận định: “Hồi tưởng cuộc chiến đấu anh dũng vô
song của dân tộc ta ở Nam Bộ lúc bấy giờ…giá như triều đình lúc bấy giờ không ở trong
tay bọn vua chúa nhà Nguyễn phản bội và đầu hàng, mà ở trong tay những người kế tục
sự nghiệp của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn…thì phong trào kháng Pháp lúc bấy giờ ở Nam
Bộ chắc còn mạnh mẽ hơn nhiều, nhất là đã được lãnh đạo thống nhất 1
và kiên trì đấu tranh cho đến thắng lợi, đồng thời phong trào ấy chắc được sự ủng hộ4
kiên quyết của cả nước, như vậy đất Đồng Nai anh dũng từ đó đã trở nên bức thành
đồng ngăn chặn bọn cướp nước phương Tây xâm phạm đất nước ta ở Nam Bộ, và do
đó đã bảo vệ vẹn toàn độc lập và thống nhất của Tổ quốc” lOMoAR cPSD| 61591627
Cũng nói về sai lầm của triều Nguyễn, có ý kiến cho rằng “ sai lầm của Tự Đức và một
số đình thần là không thể tha thứ”, “Lịch sử có thể “thông cảm” với An Dương Vương
vì “nỏ thần vô ý trao tay giặc” khiến đất nước rơi vào ách thống trị của phong kiến
phương Bắc hơn 1000 năm, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần làm cho “chính sự phiền
hà” dẫn đến đại họa nước ta rơi vào ách thống trị của nhà Minh suốt 20 năm. An Dương
Vương và cha con Hồ Quý Ly đã chiến đấu tới phút cuối cùng vì nền độc lập dân tộc.
Kết cục người thì nhanh chóng nhận ra sai lầm của chính mình không thể sống nhìn đất
nước bị kẻ thù giày xéo, người thì trở thành chiến tù lưu đầy nơi viễn xứ. Riêng đối với
nhà Nguyễn thì không phải trong trường hợp này, nó đã từng bước đầu hàng rồi làm tay
sai cho kẻ thù thống trị nhân dân ta.
Đánh giá về triều Nguyễn, trong “Lịch sử nước ta” (năm 1941), lãnh tụ Hồ Chí Minh
đã viết: “Bị Tây Sơn đuổi chạy ra nước ngoài. Nhờ Tây qua cứu, tính bài giải vây. Nay
ta mất nước thế này, cũng là vua Nguyễn rước Tây vào nhà. Khác gì cõng rắn cắn gà,
rước voi giày mả, thật là ngu si. "Ngàn năm gấm vóc giang san, bị vua họ Nguyễn đem
hàng cho Tây! Tội kia càng đắp càng đầy, sự tình càng nghĩ càng cay đắng lòng”.
Giai đoạn triều Nguyễn với nhiều vấn đề đan xen giữa những tiến bộ và hạn chế, thậm
chí những mảng đen trắng không rõ ràng, là giai đoạn phức tạp trong lịch sử dân tộc.
Chúng ta cần có quan điểm khách quan, “công minh lịch sử” trong việc đánh giá mặt
tích cực, cũng như mặt tiêu cực về triều Nguyễn. Trong đánh giá phải có quan điểm1 5
lịch sử và quan điểm giai cấp.Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, Việt Nam từ những lOMoAR cPSD| 61591627
năm đầu thế kỉ XIX đã bị đặt vào tình trạng khủng hoảng vai trò lãnh đạo, triều Nguyễn
bằng những chính sách phản động đã tự thủ tiêu vai trò lãnh đạo của mình, đối lập sâu
sắc với nhân dân cả nước, ngày càng lún sâu vào con đường nhượng bộ, cầu hòa và cuối
cùng cấu kết với kẻ thù dân tộc trong việc đàn áp, bóc lột nhân dân cả nước. Đó là trách
nhiệm, cũng là tội lớn của nhà Nguyễn trước dân tộc, trước lịch sử.
2. Nhận xét, đánh giá.
Qua sự phân tích trên chúng ta có thể thấy được triều Nguyễn là triều đại phong kiến
cuối cùng trong lịch sử dân tộc Việt Nam, cũng là triều đại có công lẫn có “tội”.
Cái “công” ở đây được thể hiện ở việc trong suốt 143 năm tồn tại triều Nguyễn cũng có
những đóng góp nhất định cho dân tộc đó là dưới triều Nguyễn đất nước được thống
nhất từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, chính triều Nguyễn đã biên soạn những bộ sử
học đồ sộ và xây dựng nên những công trình kiến trúc mà hiện nay được công nhận là
di sản văn hóa thế giới.
Đó là mặt tích cực còn mặt tiêu cực của triều đại phong kiến cuối cùng này được thể
hiện ở cái “tội” trước lịch sử dân tộc như chính triều Nguyễn đã làm cho tiềm lực của
đất nước ngày càng kiệt dần trước âm mưu xâm lược xâm thực dân Pháp.
Dù một điều không thể phủ nhận là các vua Nguyễn cũng đã có nhiều cố gắng trong
việc tìm kiếm và thực hiện những biện pháp nhằm củng cố triều đại và bảo vệ quốc gia.
Nhưng các vua nhà Nguyễn lại lựa chọn đường lối không phù hợp với xu thế và yêu
cầu của xã hội Việt Nam đặt ra, để rồi không phát huy được khối đại đoàn kết dân tộc.
Nhưng cũng phải nhìn nhận một cách khách quan rằng chế độ phong kiến Việt Nam lúc
đó đã khủng hoảng sâu sắc, khủng hoảng về mọi mặt khó có thể chống đỡ nổi trước âm
mưu và hành động xâm lược của một đế quốc hùng mạnh – Pháp. Nhưng chính giai cấp
phong kiến phải chịu về sự suy yếu này, trong triều kẻ bàn hòa, người bàn đánh, khi
giặc đánh tới kinh thành mà còn mơ hồ không có cách đối phó, để rồi dần dần nước ta
bị rơi hoàn toàn vào tay Pháp.1 lOMoAR cPSD| 61591627
Còn người đứng đầu – vua Tự Đức tuy có ý cải cách đưa đất nước thoát khỏi tình trạng
lạc hậu, nhưng lại thiếu quyết đoán luôn luôn trong chờ vào ý kiến của quan lại trong
triều, để rồi những cải cách của các nhà yêu nước như Nguyễn Trường Tộ với 58 bản
điều trần nhưng cũng bị lãng quên trong ngăn tủ.
Yêu nước nhưng không có biện pháp đúng đắn, sáng tạo để giữ nước, cuối cùng chính
triều Nguyễn đặc biệt là vua Tự Đức đã làm cho việc mất nước từ không tất yếu trở
thành tất yếu. Đây là trách nhiệm mà cũng là “tội”, mà triều đại phong kiến cuối cùng
này phải chịu trước dân tộc trước dân tộc.
Câu 16: Từ thất bại của khởi nghĩa yên thế và những cuộc khởi nghĩa cùng thời em hãy
chỉ ra những hạn chế của phong trào yêu nước cuối thê kỉ XIX?
Hạn chế của phong trào yêu nước cuối thế kỉ 19:
+ Lực lượng tham gia đông nhưng hạn chế về tầng lớp.
+ Diễn ra lẻ tẻ từ Bắc vào Nam, không có liên kết với nhau.
+ Chỉ đấu tranh vũ trang, chưa kết hợp với các yếu tố khác, chưa thuyết phục được nhận thức của nhân dân.
Câu 17: Tại sao nói cuộc khởi nghĩa Hương Khê là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất trong phong trào Cần Vương?
Khởi nghĩa Hương Khê là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất trong phong trào Cần Vương, vì:
- Quy mô, địa bàn hoạt động rộng lớn, gồm 4 tỉnh bắc Trung Kì: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình.
- Trình độ tổ chức quy củ: gồm 15 quân thứ, mỗi quân thứ có từ 100 đến 500 người do
các tướng lĩnh tài ba chỉ huy.
- Thời gian tồn tại dài nhất, 11 năm từ năm 1885 đến năm 1896.
- Khởi nghĩa thất bại đánh dấu mốc kết thúc của phong trào đấu tranh chống Pháp dưới ngọn cờ Cần Vương. 1