Đặc điểm nội dung bút ký Nam Cao- Trường Đại học Ngoại ngữ- Đại học Quốc gia Hà Nội

Đặc điểm nội dung bút ký Nam Cao do Trường Đại học Ngoại ngữ- Đại học Quốc gia Hà Nội biên soạn và tổng hợp. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập, củng cố kiến thức và đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!

Thông tin:
11 trang 3 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Đặc điểm nội dung bút ký Nam Cao- Trường Đại học Ngoại ngữ- Đại học Quốc gia Hà Nội

Đặc điểm nội dung bút ký Nam Cao do Trường Đại học Ngoại ngữ- Đại học Quốc gia Hà Nội biên soạn và tổng hợp. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập, củng cố kiến thức và đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!

25 13 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 47882337
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 111 – 120
ĐẶC ĐIỂM NI DUNG BÚT KÝ CA NAM CAO
Nguyn Th Kiu Oanh
1
1
Trường Đại hc Cần Thơ
Thông n chung: ABSTRACT
Ngày nhn bài: 19/10/2017
Ngày nhn kết qu bình duyt: Nam Cao is one of the most representave writers of Vietnamese realisc and
06/12/2017 crical literature between 1930 and 1945. His works in this period majorly Ngày chp nhận ăng: 04/2018
focus on the peasant and bourgeois classes in Vietnam. Furthermore, he is also
Title: known as the great author of the revoluonary prose of the An-French
Content characteriscs of Nam Resistance War in the 1945 - 1954 period. He successfully turned his wring to Cao’s
records records which express the transformaon in mind of unawareness generaons Keywords: about the
revoluon, hardships on the path of the warrior, beliefs on the
Nam Cao, record, revoluonary revoluon and revoluonary opmism. Especially, his works also reect his heroism,
Vietnamese literature self-recognion and consideraon in a new age of Vietnam history. It is clear T khóa: that
all his works contribute to express the revoluonary heroism in Vietnamese Nam Cao, bút , ch nghĩa literature
aer the August Revoluon in 1945. anh hùng cách mng, M TT văn học Vit Nam
Nam Cao mt trong nhng cây bút êu biu nhất cho khuynh hướng văn học
hin thc phê phán 1930 1945. Ông ược mệnh danh nhà văn của nông dân
những người trí thc ểu sản nghèo. Không nhng thế, Nam Cao còn ược
xem là cây bút xut sc của văn xuôi Việt Nam thi k kháng chiến chng Pháp
(1945 1954). Trong ó, thể loại bút ược xem s chuyển hướng khá thành
công của nhà văn. c tác phẩm cập ến s thc tnh ca mt lp người còn ang
mơ hồ trong vic “nhận ường, những khó khăn trên con ường chiến ấu, nim n
nh thn lc quan cách mng. Đặc bit, các tác phm còn th hin s nhìn
nhn, t vn ca bản thân Nam Cao trước thi cuc mi. Tt c ã góp phần th
hin ch nghĩa anh hùng ch mng cho din mo văn học Việt Nam giai oạn sau
Cách mng tháng Tám.
1. GII THIU
Mc ni danh muộn trên văn àn Văn học Vit
Nam giai oạn 1930 1945 nhưng Nam Cao là nhà
văn tiêu biểu nht của khuynh hướng văn học hin
thc phê phán giai oạn phát trin cui cùng (1940
1945). Nhắc ến ông, người ta thường nghĩ ến hình
nh những người trí thc ểu sản nghèo qun
quanh trong nhng bi kch giữa ước gánh
nặng cuc sống ời thường, hoc hình nh những
người nông dân nghèo kh luôn phi vt ln với cái
ói trong ranh giới gia nhân phm và miếng ăn. Đó
là óng góp của Nam Cao cho văn học giai oạn n
khởi nghĩa. Sau 1945, Nam Cao vn ếp tục sáng
tác cho ến hơi th cuối cùng (1951). Trong ó, bên
cạnh vic ếp tc gom nht nhng khonh khc
cuc sng trong các truyn ngắn như sâm banh,
Ni truân chuyên ca khách má hồng, Đợi chờ, Đôi
mt… nhà văn ã mở rng phm vi sáng tác sang mt
s th loi khác: nht ( rng), bút (Đường
vô Nam, Trên những con ường Vit Bc, Bn cây s
lOMoARcPSD| 47882337
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 111 – 120
cách một căn cứ ch…), kch (Đóng góp)… Trong ó,
những tác phm bút ký ca ông ược ánh giá “có giá
trị c sc êu biu cho văn xuôi kháng chiến thi
k ầu” (Đỗ Đức Hiu, Nguyn Hu Chi, Phùng Văn
Tửu & Trn Hu Tá, 2004, tr. 1028). Tht vy, bút ký
ca Nam Cao mt “hành trình”, mt chuyến i”
ến vi con ường cách mng, nhn thc sâu sc v
cách mng. T ó, con người m thấy ược nim n
yêu, s lc quan, gn vi cuc sng, vi nhân dân,
ất nước.
2. NI DUNG
2.1 Khái nim bút ký
Theo T iển thut ng Văn học (Lê Hán, Trần
Đình Sử & Nguyn Khc Phi, 2000), bút ký ược ịnh
nghĩa là:
Th loi thuc loại hình thường quy
tương ng vi truyn ngn… Bút ghi li những
con người s việc nhà văn ã tìm hiu
nghiên cu cùng vi nhng cảm nghĩ của mình
nhm th hin một tưởng nào ó (Lê Hán,
Trần Đình Sử & Nguyn Khc Phi,
2000, tr. 23).
Các nhà nghiên cu này nhìn nhn bút trong
tương quan với truyn ngn v dung lượng. Như vậy,
dung lượng của thường không dài quá, truyn
ti thông n mt cách ngn gn, súc ch, không
s dàn tri, tn mn. Vì vy, bút òi hỏi mt sc
nén nhất ịnh.
V nội dung và ối tượng phn ánh, bút ký ghi nhn
nhng tri nghim cùng vi xúc cm suy nghĩ của
bn thân tác gi v mt s vic, hin tượng nào ó.
Cụ thể, ó những “s vic, con người, cnh vt…
nhà văn mắt thy, tai nghe, thưng trong mt
chuyến i, một ln m hiu nào ó” (Đỗ Đức Hiu &
cs., 2004, tr. 172 - 173). Như vậy, bút không
mang m yếu t cấu ca truyn hay nh xác thc
tuyệt i ca báo chí mà ch dng li mc tương
i, bởi ó nhng thc nghim vi nhng cm xúc
ca tác giả. Do ó, bút ký văn học:
không òi hỏi nh xác thc mc tuyt i, nh
cp bách v thi sự. i sâu vào thế gii tâm
hn của con người, chú ý ến s khc ha nh
cách thông qua mt s ct truyn (tuy không
hoàn chỉnh như truyn ngn) nhng biện
pháp tưởng tượng, liên tưởng, tr nh vi tt c
những nét riêng c sc (Đỗ Đức Hiu & cs.,
2004, tr. 172 - 173).
Đối vi nhng tác phm bút của Nam Cao, ó
chưa hẳn nhng tác phm xut sc nht cho th
loại này nhưng nhìn chung cũng ã góp phần rt ln
cho din mạo bút giai oạn này cũng như văn xuôi
Việt Nam thi k u kháng chiến nói chung. Nhng
tác phm bút kho sát trong bài viết bao gm:
Đường Nam, Những bàn tay p y, Trên những
con ường Vit Bc, T ngược v xuôi, Bn cây s
cách một căn cứ ch, Vui dân công, Vài nét ghi qua
vùng va gii phóng.
2.2 Nhng ni dung ni bt trong bút ký ca
Nam Cao
2.2.1 S thc tnh
Đối vi bút ký, vic “làm ni bt giá tr nhn thc
ý nghĩa hàng ầu” (Đỗ Đức Hiu & cs., 2004, tr. 173).
Hay nói khác hơn “giá trị hàng u ca bút ký là giá
tr nhn thc” (Lê Bá Hán & cs., 2000, tr. 24). Trong
các tác phm bút ký ca Nam Cao, vấn ề nhn thc
cách mạng ược nhà văn c bit chú trng bởi ó
chính tưởng ch o trong thời i lúc by gi.
Nhn thc v cách mạng, trước hết Nam Cao khẳng
nh kh năng ánh thức” i vi nhiu hạng người,
trong ó, nhà văn chú ý ến nhng ối tượng: trí thc
u sản, nhân dân miền ngược, nhng phn t
“khó tr.
Đối vi lớp ngưi trí thức, Nam Cao ã cho thấy
s dch chuyn t “bnh giang hồ” sang i úng
ường. ây, Nam Cao không nhìn nhận trong
tương quan chiều dài lch s nvăn ghi nhn
s thay ổi t ngt trong khong thi gian trước
sau khi bt gp cách mạng. Dưới cái nhìn ca Nam
lOMoARcPSD| 47882337
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 111 – 120
Cao, trong “thời i cái tôi”, phn ln những người
trí thc “nếu không mt “ti nhân” thì cũng
một “nn nhân”” (Nam Cao, Đường vô Nam, trong
Minh Đức, 1999, tr. 348) ca hi thuộc ịa
dưới ách cai tr ca thc dân phong kiến. Đối vi
h, cuc sng by gi chẳng khác nào a ngc
trn gian” nên mt s trí thức tìm ường “thoát ly”.
Trong ó, trước hết, Nam Cao nhn mnh ến hiện
tượng “xê dch” hay “bnh giang hmt thời ã
giấc của bao người trí thc mun thoát khi
cuc sng tù hãm. H:
i chỉ i, i chẳng cn phải ến âu; ch nào
người ta cũng nói ến giang hồ, cũng th dài, rên
lên nỗi thèm i, tuy rằng phn ông vẫn nhà
không có thuốc cai ược cái cơm ngày hai bữa
ca m hay ca v (Nam Cao, Đường Nam,
trong Hà Minh Đức,
1999, tr. 347 - 348).
Hoc nếu có “xê dịch” ưc thì:
phn nhiu các cuc giang h vtca h ch
ến xóm ầu ã cùng ường h sa vào mt ch
Cúc, ch Liên nào ó, học ly mt th bệnh khác
ít người mun th l ra như thổ l cái bnh giang
hồ, nhưng cũng làm họ rên không kém tai hại
thì cũng rất mc là tai hi (Nam Cao, Đường vô
Nam, trong Hà Minh
Đức, 1999, tr. 347 - 348).
Đó là những người “ i” không có mục ích, i” theo
phong trào, nhn thc còn rất hồ nên d dàng
sa chân vào con ường lm lạc khác. Đó không phi
tưởng, cuc sống ích thực, ó ch nơi h
m quên và buông xuôi thc ti. Th hai, ó những
người i có mục ích:
cái ích y hút h i rất chăm chỉ, rt say mê, h
mi miết, can ảm, hăng hái bước, bước không h
try chân trt gi dọc ường, bước chí chết y
kết cục cũng không ến ược những nơi cần
ến, những nơi họ vẫn ịnh tâm rng phải ến. Trái
li, li càng xa ra na (Nam Cao, Đường Nam,
trong Hà Minh
Đức, 1999, tr.348).
ây, Nam Cao cập ến hiện tượng “xê dch” ca
Nguyễn Tuân nhưng không phải vi ý nghĩa mỉa mai,
thông qua ó, nhà văn phê phán nhng người “ăn
theo”, “bám uôi” chủ nghĩa dịch nhưng cuối
cùng “lc mất” ưng v, m mãi không có lối thoát.
Dưới cái nhìn ca Nam Cao, ó chưa hẳn hiện
tượng ph biến nht nhưng cũng chiếm một lượng
không nh nhng con người mất ịnh hướng trong
cuc sống ó du hiệu áng buồn cho mt thế h.
Nhưng từ khi s soi ường ca ánh sáng cách
mng, những con người “lc li” y gi ây ã “thc
tnh hn… ã biết nhìn hn vào s tht ri. Nhng k
i lầm ường thy ngay rng mình phi tr v con
ường úng i” (Nam Cao, Đường Nam, trong
Minh Đức, 1999, tr. 349). Con ường y hoàn
toàn mới, ó “chỗ nguy him”, tuy nhiên “nếu
không vui v thì ít nht cũng bình tĩnh, vững dạ, như
tin chắc chn rng thế nào mình cũng trở v, hoặc
nghĩ bụng: “Mình chng v nữa thì cũng chẳng làm
sao c!”. H i, lòng nh nhõm không bn rn, không
lo lng. Ai cũng bằng lòng ược i” (Nam Cao,
Đường Nam, trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 350).
Đó “con ường ra mt trận, con ường cu nước”
(Nam Cao, Đường Nam, trong Minh Đức,
1999, tr. 349). Đó vai trò “khai sáng” của cách
mạng i vi nhân dân Vit Nam lúc by gi. Khi mi
hình thành, cách mng vn là iu ó xa l vi quần
chúng nhân dân, nhưng sao cũng ã mang lại nim
n cho h, giúp h thoát khi cuc sng ngt ngt
bế tc lúc by gi. H bước i trên con ường
h chưa biết tương lai ra sao, nhưng hiện tại ã
tạo nim n, s hy vng vào một tương lai tốt p.
Chính niềm tin ó ã tạo nên sc mạnh nhân dân
dấn bước. Như vy, th thy rng ngay t khi mi
xut hin, cách mạng ã thể hiện vai trò lãnh ạo úng
n kh năng tập hợp ông o lực lượng giúp
nhân dân giành li cuc sng m no, hnh phúc.
Đây là tiếng nói góp phn khẳng ịnh vai trò lãnh o
lOMoARcPSD| 47882337
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 111 – 120
của Đảng Nnước trong công cuộc u tranh
gii phóng dân tc khi xing xích nô l.
Đối vi những ngưi dân “miền ngược”, c th
ây là các dân tc Mán, Mèo, Th, cách mạng ã làm
thay ổi nhn thc và cuc sng ca h. Nếu như
trước ây, họ ch sng co hp trong bn làng ca
dân tc mình, ch tin tưng vào dân tc mình mà
không biết ến thế gii bên ngoài, luôn hoài nghi
vi nhng dân tc khác, sng lạc loài, chưa nhn
thức ược nh dân tc, nh thần yêu nước là gì thì
gi ây:
Cuc cách mạng ã i hn b mt x này i. Đổi c
những con người. Con người mi, n tưởng
chính quyền nước mình, tin tưởng chính mình
những người sng quanh mình, mt hết c
nh e dè, s st… không còn s núi rng. Tỉnh
thành ã trà trộn vi thôn quê và miền xuôi ã hòa
lẫn cùng miền ngược (Nam
Cao, Trên những con ường Vit Bc, trong
Minh Đức, 1999, tr. 490).
Cuc sng m sang trang mới tươi sáng hơn với s
t nhn thc v vai trò ca nhân và nh thn oàn
kết gia cộng ng các dân tc mt mc êu
chung. Cuc sng không n hp trong khuôn
kh cht hp, túng, u muội ã có nhiều iều du
nhp” giao thoa” gia các vùng min, dân tộc.
Đó cũng chính là sức mnh oàn kết mà cách mạng
ã mang lại cho nhng con người nơi núii heo hút
này.
Đối vi nhng phn t “khó trị”, trước hết là lp
“người hèn” (Nam Cao, Đường Nam, trong
Minh Đức, 1999, tr. 352), ó những người có “v
p, con khôn, một gia ình quá êm m, nhiều khi
chính cái chăn nhung ấm áp làm ngưi ta ngi
dy nhng buổi sáng mùa ông giá rét” (Nam Cao,
Đường Nam, trong Minh Đức, 1999, tr. 352).
Đó là những người ăn trắng mặc trơn nhưng “rỗng
tuếch” v nh thn, h ngi nhng s thay i,
nhng biến c, nhng khó khăn vất vả. Hay ó
những “thng mt dy” (Nam Cao, Đưng vô Nam,
trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 353), ó những công
t nhà giàu, c bạc, ăn chơi phung phí, lêu lng, lếu
láo, lười biếng, hc li dt nhưng giờ ây thì họ ã
giác ng“th ra mùi chính tr. Sau cách mng,
Nam Cao lại tưởng như ang mơ” khi gặp li h,
by gi ã trở thành “anh v quc quân” li chun b
xung phong “ến vào Nam”, hoc tr thành lãnh ạo
giúp làng cuc sng tốt ẹp hơn: “làm vic rất
hăng, cấm c bc, bài tr trộm cướp, m các lớp
bình dân, thúc y việc tăng gia sản xut” (Nam Cao,
Đường Nam, trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 355).
Như vậy, th thy nh cht nhân văn của cách
mạng, óviệc cm hóa con người, giúp con người
nhn thức ưc v trí ca bản thân cũng như vai trò
của mình i với t nước. Một con người ích khi
có óng góp cho công cuc chung của ất nước. Cách
mng không phân bit tng lp, giai cp, không truy
cu li lầm, giúp con người phát huy ược kh năng
cũng như tạo iều kiện ể con người hướng thiện. Đó
iều rất áng quý, xóa i mọi mc cảm, nh kiến
v thân phn, v giai cp vn ã tồn ti lâu i.
Như vậy, th thy rằng, dưới cái nhìn ca Nam
Cao, cách mạng là con ường úng ắn nhân dân dấn
bước bi không ch giúp con người thoát khi
cuộc ời ang ngừng tr, mt “kiếp sng thm hại”
sâu xa hơn, nó mang m nh nhân văn, khơi gợi
nhng bn cht tốt p ca con người, kêu gi s oàn
kết xây dng mt xã hi mi tốt ẹp hơn. Đó là con
ường xứng áng la chọn “c mt dân tộc lên
ường” (Nam
Cao, Trên những con ường Vit Bc, trong Minh
Đức, 1999, tr. 495).
2.2.2 Khó khăn, gian khổ ca những người làm
cách mng
Trong cuộc u tranh cách mng, những người lính
c H luôn phi i mt vi muôn vàn khó khăn, gian
khổ khc lit bao gm s thiếu thn v vt cht,
những căn bệnh chc ch, s him tr của a hình,
k thù luôn rình rp và ba vây, cái chết nhan nhản
trước mt. Trong bút ca Nam Cao, những khó
lOMoARcPSD| 47882337
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 111 – 120
khăn ấy chưa hiện lên tht chi ết sống ộng
nhưng phần nào cũng ã phác họa cho người c thấy
ược mt s khó khăn của cuộc ời những người làm
cách mng.
Đó thể những êm phải ng ường, ng rng,
phải i nng dầm mưa ri b những căn bnh st
rét quái ác hành h hay cướp i sinh mạng khi chân
chưa với tới ưc miền ất ha:
Mt bui chiu nng gắt, chúng tôi ã gặp mt
cơn mưa chết người… Chúng tôi chen chúc nhau
trong một căn lều hẹp bên ường, dưới chân một
cái èo cao. Lều dột lung tung. Đứng ch nào
cũng b nước r xuống u. Qun áo chúng tôi
dn dn b ướt m. Nn nhà b lm lên, bn
không kém chung ln. Chúng tôi ứng trong
ó, ướt át nhp nháp, mt bi thm và lòng bc
tc (Nam Cao, Vui dân công, trong Minh
Đức, 1999, tr. 533).
S bc tc y không phi là s hi tâm chuyn ý
ri b chăn m nệm êm vào sinh ra t s
căm tức i vi k thù, bọn cướp nước, vì chúng mà
cuộc i chúng ta mi kh ến thế. Cho nên, người
chiến sĩ cách mạng càng gian kh bao nhiêu thì h
càng quyết tâm chiến u by nhiêu. Đó cũng như
ng lực giúp con người vượt qua nhng th thách
ếp tc chiến ấu.
Bên cạnh ó, Nam Cao thể hin s cm phục i vi
nh thần vượt khó ca những người cách mng. Bi
với nhà văn, những gian nan vt v y tưởng
chng như không thể vượt qua nhưng những con
người qu cm ấy ã làm ược, không ch nht thời
mà là trường k:
Ai ã i lại nhiu trên những con ường Vit Bc,
những con ường vượt núi, xuyên rng, lun khe,
li sui, lên xuống hàng trăm cái dốc, mũi chạm
t chân sp khô thì lại ược dm xuống nước
ai ã từng i lại nhiều như vậy, u phi ngc
nhiên v cái tài chịu ng và s c gng của dân
mình vượt nhng khó khăn (Nam Cao, Trên
những con ường Vit Bc, trong Minh Đức,
1999, tr. 496 - 497).
Và bản thân Nam Cao ã phải tri qua nhng oạn
ường gian nan như thế, t Trên nhng con ường
Vit Bắc” ến T ngược v xuôi, trên ường i chứng
kiến nhng cnh “Vui dân công”, ến ni có lúc:
mắt hơi hoa lên một chút. Áo ẫm m hôi. C thì
khô cháy. Không th vào nhà xin nước ung, tôi
nht nhng qu trám trng rng nhan nhn
dưới chân ăn. Trám trắng chan chát, l l, chng
ly gì làm ngon lắm, nhưng nuốt xong, còn chút
v ngt lng l trong cổ. Cũng một cách cho
khát (Nam Cao, Trên nhng con ường Vit Bc,
trong Hà Minh
Đức, 1999, tr. 493).
Nam Cao Vit Bc tng cng “vừa úng một năm
hai tháng mười mt ngày” (Nam Cao, T ngược v
xuôi, trong Hà Minh Đức, 1999, tr.
502):
en i, già i, nhưng lại rn rỏi hơn. Giao
nước cũng chẳng st siếc gì. Cái thân th
hương, cái tâm hồn ch mt chiu u ám cũng
làm hết, không ng li sc chng chọi
ngang bướng y (Nam Cao, T ngược v xuôi,
trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 502 - 503).
Đặc bit, Nam Cao dp chng kiến c t ni
cc kh những oàn dân công di chuyển nhng nhà
máy t những vùng ch tm chiếm. Đó những con
người bình thường bao gm nhiu thế h, t già, tr,
thanh niên, ph n chân yếu tay mm phi s dng
toàn b sc lc và trí lực phc v công vic vn tải
tưởng chng bt kh thi:
Tây va nhảy dù hôm trước thì hôm sau, những
xưởng máy hàng ba bốn trăm người làm ã biến
dn dn tng b phn của i… Anh em công
nhân xut lc gp bn ln ngày thường tháo,
chuyn chôn giu. H qun qut suốt ngày
êm, ăn vội vàng, ng qua loa, b c ánh răng rửa
mt. C mt nhà máy lên ườngvượt hàng trăm
lOMoARcPSD| 47882337
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 111 – 120
cây số núi rừng i nơi khác (Nam Cao, Trên
những con ường Vit Bc, trong Minh Đức,
1999, tr. 497 - 498).
Nhưng quả tht “La th vàng, gian nan th sc”,
những lúc như thế người ta mi công nhn con
người kh năng “dời non lp bhoc “tát cn
biển ông”, việc vn ti nhng trang thiết b nng
nhc y cng thêm vi s trc tr ca ịa hình khiến
cho công việc càng khó khăn bội phn, nguy him
ba vây:
Có nhng cái dc kh s, ch một người vi một
cái ba cũng ã phải u vào từng cái cây kéo
người lên. Làm thế nào mà khiêng ược nhng
ch như thế này? Đứng vào âu khiêng, nếu
mà tut chân hay tut tay mt cái thì tránh sao
khi b gang sắt è giập xương hay gãy cẳng?
Người ta phi dịch i từng bước mt, va dch
va chèn, va dùng xng cuốc ào bực dịch
thêm bước na. Phải ến bốn, năm người phc
dch cho mt b y ch nng chng na t.
Nếu nặng hơn thì li càng nhiu s vt v Hàng
my chc tn sắt ã qua oạn ường này và ã vượt
hàng trăm cây số (Nam Cao, Trên những con
ường Vit Bc, trong Minh Đức, 1999, tr.
497 - 498).
th nói, sc mnh m tàng của con người Vit
Nam vô cùng to ln. Mi khi có gic ngoi xâm, sc
mnh y tri dy sn sàng nhn chìm bọn cướp
nước. Đó sức mnh tng hp ca khối ại oàn kết
dân tc, t hậu phương ến n tuyến, t thế h này
sang thế h khác. Do ó, Nam Cao ã không ngoa khi
cho rằng: “dường như chng một cái khó i
vi chúng ta. Cái cn làm, cái gì muốn làm, chúng
ta u cho làm ược, c làm cho bằng ược” (Nam
Cao, Trên những con ường Vit Bc, trong Hà Minh
Đức,
1999, tr. 497).
2.2.3 Nim n và nh thn lc quan cách mng –
biu hin ca ch nghĩa anh hùng cách
mng
Đây ặc iểm ni bt nht trong nhng tác phm
bút ca Nam Cao bởi ó những trang viết th
hin nim phn khi, hân hoan ca mt tâm hồn
ược tái sinh t cõi u ám. ó, chúng ta không bt
gp nhng ni tuyt vng, s lo lng, hoang mang,
bất ịnh trong cuộc ời mà hu hết th hin ni niềm
vui sướng khi ược sng trong mt cuộc i mi.
Nim hạnh phúc ó những khi ược hòa vào cuc
sng gian nan, vt v ca ng bào trong công cuộc
u tranh cách mng. Cho nên, dù cuc sng có gian
nan, khó nhc nhưng tràn y nim vui s lạc quan.
Theo ó, cuộc u tranh không hin lên ác lit vi
nhng mất mát au thương, sinh li tử biệt ó
nhng trang văn thấm m tâm hồn tươi mới, reo vui
trước s i thay ca thi cuc, của ất nước. Vì vậy,
ó những trang bút thấm ượm ch nghĩa anh
hùng cách mạng. Trong ó, những người “anh hùng
ây không ai khác hơn ó tp th nhân dân Vit
Nam, t miền xuôi ến miền ngược, t nông thôn ến
thành th, t trí thc ti nông dân, t anh trai ến ch
gái, t em ến c già, tt c to thành mt lực
lượng hùng hu, thng nhất cùng hướng ra mt trn.
Ch nghĩa anh hùng cách mạng trong bút Nam
Cao biu hiện trước hết nh thần xem thường
những khó khăn gian khổ. Trong vt v, con người
tìm ược tình yêu thương, m áp ca nh ngưi, nh
dân tộc, tình ồng chí. Khi ó, khó khăn trở thành
“dịp” ể con người sum vy bên nhau:
Ng ường cũng một cái vui. Gia nhng người
ng chí không quen li rt thân, m vô cùng.
H bắc á, t la, thổi cơm. Ăn cơm ri, vẫn la,
vừa ỡ mui, va vui. La lp lòe. Mt cuc cm
tri hàng ba bốn trăm người. Nhưng thật nh
những người mt nhc nm ngi l nh quanh
tôi, không thy kh (Nam Cao, Vui dân công,
trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 532).
lOMoARcPSD| 47882337
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 111 – 120
Tht vy, hình nh những con người xa l th tp
hp ngi cnh bên nhau, cùng chia ngt s bùi,
cùng sng trong cnh “rng hoang sương mui”
nhng khonh khc mà trong hàng my mươi năm
trước nào ai biết ược. Cho nên, ó là s sum vy
trong thiếu thn, cc nhọc nhưng những ngưi
cách mng không cm thy “kh. Con người ta
thy kh khi giữa ám ông nhưng cảm thy lạc loài.
Nhưng ây không còn s lc loài. Mọi người trò
chuyn, quan tâm ln nhau giống như người chung
mt h, mt làng. Chính tình người nhân ái ã làm
m li biết bao trái tim tưởng ã nguội lạnh ang
thèm khát ược tái sinh và bùng cháy. Và gi ây họ ã
thực s ng cháy. H quan nim: “Cuc kháng
chiến càng gn thng li thì càng cht vật, nhưng
càng cht vt thì li càng thng li” (Nam Cao, Vui
dân công, trong Minh Đức, 1999, tr. 532). Nhn
thức ược mi quan h bin chng y nên dù có trải
qua trăm ngàn khó khăn, tốn bao nhiêu m hôi c
mt thm chí c xương máu họ cũng không ngn
ngi.
Bên cạnh ó, ó còn cái nhìn thi vị v nhng con
người cn lao trong nhng cuc hành quân gian kh:
Hàng trăm người khiêng gánh nhiều như mối
sau mt trận mưa rào t trên ồi xung, to
ra trên dc thành hai, ba dòng un éo. Những
dòng người như chạy thi vi nhng dòng nước
cũng thi nhau lao xuống dc, thành nhng dòng
uốn éo… Đến lưng chừng èo, chỉ còn mt lối i,
những dòng người chp li nhau. C một thác
người xung, mạnh hơn thác nước… (Nam Cao,
Vui dân công, trong Minh Đức, 1999, tr. 534).
S dng bin pháp so sánh cùng vi góc nhìn ca
người họa sĩ, Nam Cao ã làm nên một bc tranh v
oàn dân công ang vận ti mang màu sc lãng mạn.
Đó như là mt cuc diu hành ch không phi mt
cuộc hành quân. Nhưng không vì thếtác gi t
tách mình ra khi cuc sng gian kh thi v a
cuc sng, Nam Cao tng khẳng ịnh:
Tôi không ghét bng thi v hóa cuộc i. Nhưng
thật nh t hi kháng chiến, mc du nhng tàn
phá, chết chóc chia lìa cc k au n, b mặt
nước mình vn có v tươi trẻ, vui mạnh hơn lên
(Nam Cao, Trên nhng con ường Vit Bc, trong
Hà Minh Đức, 1999, tr. 495).
Chính thế, t những khó khăn gian khổ y, con
người cn phải tìm ược niềm vui vng tâm bước
ếp trên chặng ường chông gai y th thách y. Nếu
ch biết bi quan, ly phin thì khó khăn chỉ làm thêm
chùng bước. Do ó, sức mnh của dòng “thác người”
ấy ã khiến cho “Chúng tôi không th nào su thm
nữa… Thác vui xuống ã làm trời t nhiên n
sáng bừng lên. Màu núi thêm tươi lòng chúng tôi
phấn khi” (Nam Cao, Vui dân công, trong Hà Minh
Đức, 1999, tr. 534). Vi ch nói giàu hình nh,
Nam Cao ã cho thấy ược tâm trng phn khi, nim
hân hoan, nhn thc nh khôi, mi m v con ường
cách mng. không khc họa “cái bi” làm ng
lc chiến u khc họa “cái ẹp” gieo nim n
vào công cuc chiến ấu.
Th hai, con người cách mạng xem thường s nguy
him và vn gi ược s iềm tĩnh trong chiến tranh.
Dân tc Vit Nam vn yêu chung cuc sng hòa
bình nên bng mi cách h luôn m cách duy trì và
gi vng cuc sng bình yên, an lành:
Cánh ng rt thái bình. Lúa xanh rn, lúa có òng
òng hay ã chín hn, bông nặng trĩu. Đã lác ác
người i gặt… Người i buôn n ào trong các ch,
tp nập trên các con ường, tươi cười trong quán
nước, hàng cơm (Nam Cao, T ngược v xuôi,
trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 503 - 504).
Trong nhng bc tranh cuc sng y không có gam
màu xám ca s chết chóc tang thương mà tràn
y màu sắc tươi xanh của s sng, ca niềm vui thái
bình, an lạc nghip. Bc tranh sinh hoạt ời
thường y dù ch trong chc lát nhưng cũng làm
cho con người tin yêu hơn vào cuc sng ếp tục
bám ất, bám làng giành li s sng cho bản thân,
lOMoARcPSD| 47882337
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 111 – 120
gia ình cả t nước. Nhưng cuộc sng ấy cũng
không hẳn bình yên bi s quy phá ca k thù:
Hai người nhy c xung sông. Một người bám
ly mt si dây buc vào thuyn, c chy quanh
cái thuyền tránh làn n ca máy bay. Nước bn
tóe lên chung quanh. Nhưng h không chết.
Thuyền cũng không trúng n. Trong khi y,
cánh ng vn gặt. Người i ường vn c i. Ông
giáo trường bên c chính t vn choang
choang (Nam Cao, T ngược v xuôi, trong
Minh Đức, 1999, tr. 504 - 505).
Đó tinh thần “sng chung với lũ” của nhân dân
vùng ch tm chiếm. Sng trong nguy him, con
người càng mnh m và chiến u càng kiên cường,
quyết lit. Hình nh y gợi cho người c như một trò
chơi “cút bắtca tr con, nó không mang nh ác
lit, thm khốc ngược lại, ó như chuyện vui
thường ngày ược kể. Con người vn luôn gi vững
ược nh thn trong nhng cơn chấn ng, nguy biến,
như thế mi chiến ấu ến cùng trong cuc chiến
trường k vi k thù ln mạnh. Đó chính sức
mnh song không k thù nào th tàn
phá nổi. Nói như Nam Cao:
Cái ngh lc ca dân tc ta mt th ngh lc
bình tĩnh, lặng l, m tàng. Nó không n tung
ra mt cách ầm ĩ như trái phá, cốt mìn.
không chuyển t rung trời như núi lửa.
dòng sông cần cù, êm ngày mài giũa ôi bờ to
cho mình một con ường rng mãi ra, êm ngày
bồi p nhng cánh bãi phì nhiêu ngày càng
bát ngát. Nó biu l ra ngoài mt cách gin d
thn nhiên, gần như không tự biết (Nam Cao,
Trên những con ường Vit Bc, trong Minh
Đức, 1999, tr. 496).
Th ba, con người cách mng luôn nim n
tưởng vào một tương lai tươi sáng hơn, tốt ẹp hơn.
Trước hết, ó là niềm n vào sc mnh ca dân tộc:
“Dường như chẳng một cái khó i vi chúng
ta. Cái gì cn làm, cái gì mun làm, chúng ta ều cho
làm ược, c làm cho bng ược” (Nam Cao, Trên
những con ường Vit Bc, trong Minh Đức,
1999, tr. 497). Chính s kiên trì, cn cù nhn ni,
nh thần oàn kết cùng vượt khó khăn gian khổ ã
tạo nên sc mnh ấy. Nam Cao ã phát hin ra phm
cht quý báu y của con người Vit Nam, càng trong
gian kh thì sc sng càng mãnh liệt, ang ln
lên, rt di dào. Nay mai, nhng xing xích tháo
tung ri, chúng ta s ln rt mau rt mnh(Nam
Cao, Đường vô Nam, trong Hà Minh Đức, 1999, tr.
358). Đó một sc sng do dai, bn b sinh sôi
ny n:
nhng cái y nếu người ta ct ngọn i,
s mc lên rt nhiu cành. Nếu người ta ct mt
cái cành của i, sẽ mọc mười cái cành khác.
Sc sng mnh m, cần có ể vt ra, một ô thị
của chúng ta b phá hy hay b thi, hàng chục
năm mầm ô thị khác mc ra. Sc sng quá di
dào, không bao gi chu vùi dp c. Tôi có th
oán trước rng nhng mầm ô thị mi mc hin
nay s thành những ô thị ln ngày mai. Ngay
trong cnh tàn phá chiến tranh, ngay trong cơn
rung chuyn bão táp nhng mầm non ã nhú, b
mt ca Việt Nam tương lai ã lờ m hin
(Nam Cao, Trên nhng con ưng Vit Bc, trong
Hà Minh Đức, 1999, tr. 500).
Vi cái nhìn của con người mới bước chân vào con
ường cách mạng, Nam Cao ã sớm ếp thu ược
tưởng cách mạng cũng như không ngn ngi th
hin nim n yêu, hân hoan v mt cuc i mi mà
cách mng mang lại. Đó không phải s ếp thu
th ng mt chiều ược úc kết t nhng tri
nghim thc tế của nhà văn. Chính thế, nhng
trang bút ca Nam Cao “là nhng ha sinh
ng, tràn ngp không khí lc quan, nhng hình
nh gin dị, ẹp ẽ v ch nghĩa anh hùng, tất c toát
lên v p sc mnh nh thn ca b i, nhân dân
trong chiến dch” (Đỗ Đức Hiu & cs., 2004, tr.
1028).
lOMoARcPSD| 47882337
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 111 – 120
2.2.4 Tinh thn t vn
Nhn xét v con người ca Nam Cao, Nguyn Đăng
Mạnh ã viết rng:
ông không phi thần thánh gì, nghĩa cũng
cái ưu cái khuyết thường thy nhng
người trí thc ểu tư sản. Sau này khi ã tham gia
cách mạng, ông cũng không phải ã thanh toán
ược mi thói tt ca mình. Nhưng iều áng quý
ông luôn lấy làm xu h v nhng ch hèn
kém ca mình và quyết u tranh vi bản thân
vươn lên cái úng, cái p, cái tt (Nguyễn Đăng
Mạnh, 2006, tr. 236).
Nhn xét y ca Nguyễn Đăng Mạnh úng với c hai
giai oạn sáng tác ca Nam Cao. Nếu ntrước cách
mng, Nam Cao th hin gián ếp nh thn t vn
thông qua vic khc ha bn thân mình trong hình
nh các nhân vt vi nhng nh cách yếu kém thì
sau cách mng, Nam Cao trc ếp “t thú” bng
chính nhng phát ngôn ngh thut của mình. Điều
này hoàn toàn phù hp vi ặc im ca bút ký bởi ó
nơi ghi nhận giãi bày nhng cm xúc ca tác
gi. ây, chủ yếu Nam Cao cập ến s chuyn biến
trong tưởng cũng như những hn chế ca bn
thân trên con ường dn thân làm cách mng.
Đối vi bn thân Nam Cao, ông nhìn nhn s thay
ổi trong tưởng ca mình theo chiều hướng ch
cc. Nếu như trước ây, thế gii quan trong sáng tác
ca Nam Cao ch yếu cuc sng qun quanh,
nghèo túng, bế tc của người trí thc u tư sản và
người nông dân nghèo thì gi ây, tác gi khẳng ịnh:
“Chưa bao giờ tôi thấy i thanh xuân ến thế
không khí ngon lành ến thế(Nam Cao, Vui dân
công, trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 531 - 532). Thế
gii quan của nhà văn bây gi không còn hp
trong phm vi mt vài ối tượng riêng l nào mà nhà
văn hướng ến mt thế gii m áp tình người. ó
sự bình ẳng và thương yêu ln nhau:
T khi xy ra kháng chiến, dịp thay i ch
rt nhiu, tôi mi tìm ra iều này tht m lòng, là
bt c ch o trên ất nước Vit Nam, chúng
ta u những người thân thuc của chúng ta…
Không ến ch nào chúng ta b cái cảnh quê
người t khách. Trái li, âu ta cũng cảm giác
một nơi thân thuộc
(Nam Cao, Trên những con ưng Vit Bc, trong
Hà Minh Đức, 1999, tr. 489).
Hòa mình vào cuc sng chiến u gian kh, Nam
Cao nhn thc rằng ó mới chính bn cht ca
cuc sống, nơi áng sống và nên sng. Bi ó
nhà văn cảm thy không b lập, không ơn c,
không s phân biệt giàu nghèo, ng cp. ó, con
người biết thương yêu ùm bọc ln nhau, cùng
chung mt nhim v, tưởng, chung mt ếng nói.
Tiếng gọi ng chí” nghe thân thương m áp biết
bao, như xóa i khoảng cách hàng nghìn năm trước
ó, như kéo li gn nhng con người vn xa l nhưng
vẫn chung ci ngun con Rng cháu Tiên.
Chính vì thế, thế gii quan trong sáng tác ca Nam
Cao sau cách mạng không còn hướng ến mt vài
cảnh i bt hạnh ó là cảnh i gian nan kh cực
nhưng vui tươi ca những con người ang “bay theo
ường dân tộc ang bay” (Chế Lan Viên). Vic t nhn
thức ược s thay ổi v tư tưởng như thế không phi
hiếm hoi i với các nhà văn tiền cách mng, tuy
nhiên, nhn thc mức nông sâu nh cp thiết
trong giai oạn nhận ưng y là một bước ngot rt
lớn ối vi c mt thế h nhà văn bấy gi.
Khi bước chân vào con ường sương gió, Nam Cao
nhiu ln “t phê bình” bn thân khi thy mình còn
thiếu sót thua kém. Đó thể nhng lúc “t
chế giu” mình khi nhìn nhn li mt chặng ời ã qua
khi Nam Cao nhắc ến
“bnh dịch”: “Chính tôi cũng chỉ mt trong
bọn ó thôi. Tôi nhắc lại ây ể cười, như người ta
cười khi nhắc ến nhng cái lm lỗi, iên r ca chính
mình mt thời ã qua ri” (Nam Cao, Đường Nam,
trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 349). Cái cười ó vừa
v quê quê, va v hối cãi nhưng cũng không
kém hóm hỉnh bi t nh trêu ùa mình.
lOMoARcPSD| 47882337
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 111 – 120
Nhưng không chỉ thế, khi dn thân sâu vào cuộc
i cách mng, Nam Cao còn nhn ra nhiu yếu kém
ca bản thân, trong ó chủ yếu nhà văn tự nhn
mình là “k nhát, “hèn” vì cm thy lo s khi sng
trong chiến tranh. Đó thể ni lo khi mt thân
một mình bôn ba trong êm ngay sát trong lòngch.
Tác gi cm thy mi nguy luôn chc ch nên s hãi:
“Rõ tht anh chàng nhát gan va mt ch an
toàn ến! Tôi t i tôi như vy” (Nam Cao, Bn cây
s cách một căn c ch, trong Hà Minh Đức, 1999,
tr. 514), khi thy dân chúng “ln” v làng lấy
lương thực hàng hóa i tản một cách thn
nhiên vui v thì Tôi li càng thy tôi hèn”
(Nam Cao, Bn cây s cách một căn cứ ch, trong
Minh Đức, 1999, tr. 514). Hay như cảm giác bn
thân “lc hu” so vi thi cuc khi t miền ngược
tr v min xuôi:
…v gia h, tôi thy tôi mt thng nhút nhát.
Và lc hu” bi “Mi v ến Sơn, tôi ã hỏi người
ta thứ. Đêm ngủ ây ược không? Chúng
ến thế nào? Nếu gp chúng thì nên chạy
như thế nào? Nên i bộ hay i ò? Đi êm hay i ngày?
(Nam Cao, T ngược v xuôi, trong Hà Minh
Đức, 1999, tr. 503).
Nhưng âu biết rằng “Đồng bào miền xuôi ã i sâu
vào kháng chiến. Tàu bay, ếng súng, gic ớp
làng… ã thành chuyện hàng ngày” (Nam Cao, T
ngược v xuôi, trong Minh Đức, 1999, tr. 503).
Đó như là mt ếng cười trêu ùa hóm hnh ca nhà
văn ối vi bản thân. Nhưng thực chất ó là cảm giác
chân tht nht ca tác gi khi tri qua nhng
khonh khc sống ộng như thế. Đó một iều th
cm thông chia s ược. Bn thân Nam Cao ã
không t “tâng bc” hay “v vi” thêm v bản thân
khi ứng trước nhng khó khăn, nguy hiểm trong
cuc chiến. T ó, cho ta cái nhìn v nhà văn ở góc
ời tư thật hơn, gần gũi hơn mà không phải thi v hóa
hình nh tác gi.
Đặc biệt hơn cả, trên trang viết ca Nam Cao, ta bt
gp những suy tư, trăn trở v vai trò ca người cầm
bút ối vi cuộcu tranh cách mng:
Nhưng không hiểu sao tôi vn thy tui ti thế
nào y. Cây bút ca tôi bt lc. không khc
ra lửa ạn như cây súng. ì ch chy theo
phong trào mãi mà không kp. Các bn tôi cũng
u thấy na ná như tôi. Họ thy rng bàn tay h,
nếu chưa cầm súng mt phen thì cm bút cũng
vụng v (Nam Cao, Đường Nam, trong
Minh Đức, 1999, tr. 357).
Nam Cao t cho mình là k bt lc dng trong
cuc chiến máu la của ất nước. Bi lúc y, cuc
sng vận ng gp gáp và sôi ni, ch có cầm khí
chiến u mi theo kp nhng trang s mới, còn ngòi
bút luôn i sau ể ghi chép li mt thời ã qua. Điều ó
thể hiện ược tm lòng ca con người năng ng
mun làm ch cuc sng, hăng hái hòa mình bắt kp
nhp sng mi.
Vic th hin cm xúc ca tác gi trong bút một
iều hiển nhiên, nhưng việc phơi bày những hn chế
ca mình mt cách chân thành trên trang viết thì
mấy ai ã làm ược. Nhưng Nam Cao ã làm ược. Ông
không ngn ngi “vch áo cho người xem lưng” bởi
theo nhà văn, ó không phải là một iều gì xu mà nó
th hin quan niệm cũng như nhận thc v sai lm
sửa i. th nói, nói lên ược khuyết iểm của
người khác ã dũng cảm, nhưng nói lên ược hn
chế ca chính mình mt s dũng cảm hơn. Nam
Cao ã chiến thắng ược tư tưởng hn hẹp. Điều ó thể
hin bản lĩnh của con người dám nghĩ, dám làm,
dám u tranh vi cái xu cho tn ti trong
chính bn thân mình. Nhng biu hin “t vn” trên
th hiện úng bản cht của giai oạn nhận ường,
thấy ược cuộc ời thay ổi, trước hết phi thy ược s
thay ổi trong bn thân mình.
3. KT LUN
“Sống ã rồi hãy viết(Nam Cao, Đường Nam,
trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 357), ó là tuyên ngôn
ngh thut của Nam Cao giai oạn sau Cách mng
lOMoARcPSD| 47882337
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 111 – 120
tháng Tám. Bản thân nhà văn ã tuân thủ theo quan
nim này khi viết nhng trang bút . Đó những
tri nghim mà bn thân tác gi ã nếm trải trên con
ường u tranh cách mng. Nh ó, nhà văn mới thu
hiu thêm nhng mng hin thực trước ây bản
thân chưa ược biết ến. Đó là những trang viết chân
thật, sinh ng, những rung ng trong trái m tâm
hn ca một con người mới trước thi cuc mi,
nhng suy nghĩ chín chắn hơn cách nhìn i n
yêu, lc quan hơn. Tất c ã góp phần th hin ch
nghĩa anh hùng tưởng lc quan cách mng
trong văn học Việt Nam giai oạn sau Cách mng
tháng Tám. Đó óng góp quan trọng ca bút nói
riêng sáng tác ca Nam Cao nói chung trong giai
oạn ầu của văn học cách mng.
TÀI LIU THAM KHO
Đỗ Đức Hiu, Nguyn Hu Chi, Phùng Văn Tửu
& Trn Hu Tá (ch biên). (2004). T iển Văn học
(b mi). TP HCM: Nhà xut bn Thế gii.
Hà Minh Đức. (1961). Nam Cao nhà văn hiện thc
xut sc. Hà Ni: Nhà xut bản Văn hóa.
Hà Minh Đức (sưu tầm, gii thiu). (1999). Nam
Cao toàn tp, tp III. Hà Ni: Nhà xut bn Văn
học.
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử & Nguyn Khc Phi
( ng ch biên). (2000). T iển thut ng văn
hc. Ni: Nhà xut bản Đại hc Quc gia Hà
Ni.
Nguyễn Đăng Mạnh. (2006). Nhà văn Việt Nam
hiện i, Chân dung & phong cách. Ni: Nhà
xut bản Văn học.
Phan C Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyn Trác, Nguyễn
Hoành Khung, Chí Dũng & Hà Văn Đức.
(1999). Văn học Vit Nam 1900 - 1945. Hà Ni:
Nhà xut bn Giáo dc.
| 1/11

Preview text:

lOMoAR cPSD| 47882337
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 111 – 120
ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG BÚT KÝ CỦA NAM CAO Nguyễn Thị Kiều Oanh1
1Trường Đại học Cần Thơ
Thông tin chung: ABSTRACT
Ngày nhận bài: 19/10/2017
Ngày nhận kết quả bình duyệt: Nam Cao is one of the most representative writers of Vietnamese realistic and
06/12/2017 critical literature between 1930 and 1945. His works in this period majorly Ngày chấp nhận ăng: 04/2018
focus on the peasant and bourgeois classes in Vietnam. Furthermore, he is also
Title:
known as the great author of the revolutionary prose of the Anti-French
Content characteristics of Nam Resistance War in the 1945 - 1954 period. He successfully turned his writing to Cao’s
records records which express the transformation in mind of unawareness generations Keywords: about the
revolution, hardships on the path of the warrior, beliefs on the

Nam Cao, record, revolutionary revolution and revolutionary optimism. Especially, his works also reflect his heroism,
Vietnamese literature self-recognition and consideration in a new age of Vietnam history. It is clear Từ khóa: that
all his works contribute to express the revolutionary heroism in Vietnamese Nam Cao, bút ký, chủ nghĩa literature
after the August Revolution in 1945. anh hùng cách mạng, TÓM TẮT văn học Việt Nam
Nam Cao là một trong những cây bút tiêu biểu nhất cho khuynh hướng văn học
hiện thực phê phán 1930 – 1945. Ông ược mệnh danh là nhà văn của nông dân
và những người trí thức tiểu tư sản nghèo. Không những thế, Nam Cao còn ược
xem là cây bút xuất sắc của văn xuôi Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp
(1945 – 1954). Trong ó, thể loại bút ký ược xem là sự chuyển hướng khá thành
công của nhà văn. Các tác phẩm ề cập ến sự thức tỉnh của một lớp người còn ang
mơ hồ trong việc “nhận ường”, những khó khăn trên con ường chiến ấu, niềm tin
và tinh thần lạc quan cách mạng. Đặc biệt, các tác phẩm còn thể hiện sự nhìn
nhận, tự vấn của bản thân Nam Cao trước thời cuộc mới. Tất cả ã góp phần thể
hiện chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho diện mạo văn học Việt Nam giai oạn sau
Cách mạng tháng Tám.
1. GIỚI THIỆU
ói trong ranh giới giữa nhân phẩm và miếng ăn. Đó
Mặc dù nổi danh muộn trên văn àn Văn học Việt
là óng góp của Nam Cao cho văn học giai oạn tiền
Nam giai oạn 1930 – 1945 nhưng Nam Cao là nhà
khởi nghĩa. Sau 1945, Nam Cao vẫn tiếp tục sáng
văn tiêu biểu nhất của khuynh hướng văn học hiện
tác cho ến hơi thở cuối cùng (1951). Trong ó, bên
thực phê phán ở giai oạn phát triển cuối cùng (1940
cạnh việc tiếp tục gom nhặt những khoảnh khắc
– 1945). Nhắc ến ông, người ta thường nghĩ ến hình
cuộc sống trong các truyện ngắn như Mò sâm banh,
ảnh những người trí thức tiểu tư sản nghèo quẩn
Nỗi truân chuyên của khách má hồng, Đợi chờ, Đôi
quanh trong những bi kịch giữa ước mơ và gánh
mắt… nhà văn ã mở rộng phạm vi sáng tác sang một
nặng cuộc sống ời thường, hoặc hình ảnh những
số thể loại khác: nhật ký (Ở rừng), bút ký (Đường
người nông dân nghèo khổ luôn phải vật lộn với cái
vô Nam, Trên những con ường Việt Bắc, Bốn cây số lOMoAR cPSD| 47882337
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 111 – 120
cách một căn cứ ịch…), kịch (Đóng góp)… Trong ó,
… không òi hỏi tính xác thực ở mức tuyệt ối, tính
những tác phẩm bút ký của ông ược ánh giá “có giá
cấp bách về thời sự. Nó i sâu vào thế giới tâm
trị ặc sắc và tiêu biểu cho văn xuôi kháng chiến thời
hồn của con người, chú ý ến sự khắc họa tính
kỳ ầu” (Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn
cách thông qua một số cốt truyện (tuy không
Tửu & Trần Hữu Tá, 2004, tr. 1028). Thật vậy, bút ký
hoàn chỉnh như ở truyện ngắn) và những biện
của Nam Cao là một “hành trình”, một “chuyến i”
pháp tưởng tượng, liên tưởng, trữ tình với tất cả
ến với con ường cách mạng, nhận thức sâu sắc về
những nét riêng tư ặc sắc (Đỗ Đức Hiểu & cs.,
cách mạng. Từ ó, con người tìm thấy ược niềm tin 2004, tr. 172 - 173).
yêu, sự lạc quan, gắn bó với cuộc sống, với nhân dân,
Đối với những tác phẩm bút ký của Nam Cao, ó ất nước.
chưa hẳn là những tác phẩm xuất sắc nhất cho thể 2. NỘI DUNG
loại này nhưng nhìn chung cũng ã góp phần rất lớn
2.1 Khái niệm bút ký
cho diện mạo bút ký giai oạn này cũng như văn xuôi
Việt Nam thời kỳ ầu kháng chiến nói chung. Những
Theo Từ iển thuật ngữ Văn học (Lê Bá Hán, Trần
tác phẩm bút ký khảo sát trong bài viết bao gồm:
Đình Sử & Nguyễn Khắc Phi, 2000), bút ký ược ịnh
Đường vô Nam, Những bàn tay ẹp ấy, Trên những nghĩa là:
con ường Việt Bắc, Từ ngược về xuôi, Bốn cây số
Thể loại thuộc loại hình kí thường có quy mô
cách một căn cứ ịch, Vui dân công, Vài nét ghi qua
tương ứng với truyện ngắn… Bút ký ghi lại những
vùng vừa giải phóng.
con người và sự việc mà nhà văn ã tìm hiểu
2.2 Những nội dung nổi bật trong bút ký của
nghiên cứu cùng với những cảm nghĩ của mình Nam Cao
nhằm thể hiện một tư tưởng nào ó (Lê Bá Hán,
Trần Đình Sử & Nguyễn Khắc Phi,
2.2.1 Sự thức tỉnh 2000, tr. 23).
Đối với bút ký, việc “làm nổi bật giá trị nhận thức là
Các nhà nghiên cứu này nhìn nhận bút ký trong
ý nghĩa hàng ầu” (Đỗ Đức Hiểu & cs., 2004, tr. 173).
tương quan với truyện ngắn về dung lượng. Như vậy, Hay nói khác hơn “giá trị hàng ầu của bút ký là giá
dung lượng của ký thường không dài quá, ủ ể truyền
trị nhận thức” (Lê Bá Hán & cs., 2000, tr. 24). Trong
tải thông tin một cách ngắn gọn, súc tích, không có
các tác phẩm bút ký của Nam Cao, vấn ề nhận thức
sự dàn trải, tản mạn. Vì vậy, bút ký òi hỏi có một sức
cách mạng ược nhà văn ặc biệt chú trọng bởi ó nén nhất ịnh.
chính là tư tưởng chủ ạo trong thời ại lúc bấy giờ.
Về nội dung và ối tượng phản ánh, bút ký ghi nhận
Nhận thức về cách mạng, trước hết Nam Cao khẳng ị
những trải nghiệm cùng với xúc cảm và suy nghĩ của
nh khả năng “ ánh thức” ối với nhiều hạng người,
trong ó, nhà văn chú ý ế
bản thân tác giả về một sự việc, hiện tượng nào ó.
n những ối tượng: trí thức
Cụ thể, ó là những “sự việc, con người, cảnh vật…
tiểu tư sản, nhân dân miền ngược, những phần tử
mà nhà văn mắt thấy, tai nghe, thường là trong một “khó trị”.
chuyến i, một lần tìm hiểu nào ó” (Đỗ Đức Hiểu &
Đối với lớp người trí thức, Nam Cao ã cho thấy rõ
cs., 2004, tr. 172 - 173). Như vậy, bút ký không
sự dịch chuyển từ “bệnh giang hồ” sang “ i úng
mang ậm yếu tố hư cấu của truyện hay tính xác thực
ường”. Ở ây, Nam Cao không nhìn nhận trong
tuyệt ối của ký báo chí mà chỉ dừng lại ở mức tương
tương quan chiều dài lịch sử mà nhà văn ghi nhận
ối, bởi ó là những thực nghiệm với những cảm xúc
sự thay ổi ột ngột trong khoảng thời gian trước và
của tác giả. Do ó, bút ký văn học:
sau khi bắt gặp cách mạng. Dưới cái nhìn của Nam lOMoAR cPSD| 47882337
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 111 – 120
Cao, trong “thời ại cái tôi”, phần lớn những người Đức, 1999, tr.348).
trí thức “nếu không là một “tội nhân” thì cũng là
Ở ây, Nam Cao có ề cập ến hiện tượng “xê dịch” của
một “nạn nhân”” (Nam Cao, Đường vô Nam, trong
Nguyễn Tuân nhưng không phải với ý nghĩa mỉa mai,
Hà Minh Đức, 1999, tr. 348) của xã hội thuộc ịa
thông qua ó, nhà văn phê phán những người “ăn
dưới ách cai trị của thực dân và phong kiến. Đối với
theo”, “bám uôi” chủ nghĩa xê dịch nhưng cuối
họ, cuộc sống bấy giờ chẳng khác nào là “ ịa ngục
cùng “lạc mất” ường về, tìm mãi không có lối thoát.
trần gian” nên một số trí thức tìm ường ể “thoát ly”.
Dưới cái nhìn của Nam Cao, ó chưa hẳn là hiện
Trong ó, trước hết, Nam Cao nhấn mạnh ến hiện
tượng phổ biến nhất nhưng cũng chiếm một lượng
tượng “xê dịch” hay “bệnh giang hồ” một thời ã là
không nhỏ những con người mất ịnh hướng trong
giấc mơ của bao người trí thức muốn thoát khỏi
cuộc sống và ó là dấu hiệu áng buồn cho một thế hệ. cuộc sống tù hãm. Họ:
Nhưng từ khi có sự soi ường của ánh sáng cách
… i chỉ ể mà i, i chẳng cần phải ến âu; chỗ nào
mạng, những con người “lạc lối” ấy giờ ây ã “thức
người ta cũng nói ến giang hồ, cũng thở dài, rên
tỉnh hẳn… ã biết nhìn hẳn vào sự thật rồi. Những kẻ
lên nỗi thèm i, tuy rằng phần ông vẫn ở nhà vì
i lầm ường thấy ngay rằng mình phải trở về con
không có thuốc gì cai ược cái cơm ngày hai bữa
ường úng mà i” (Nam Cao, Đường vô Nam, trong
của mẹ hay của vợ (Nam Cao, Đường vô Nam,
Hà Minh Đức, 1999, tr. 349). Con ường ấy là hoàn trong Hà Minh Đức,
toàn mới, ó là “chỗ nguy hiểm”, tuy nhiên “nếu 1999, tr. 347 - 348).
không vui vẻ thì ít nhất cũng bình tĩnh, vững dạ, như
Hoặc nếu có “xê dịch” ược thì:
tin chắc chắn rằng thế nào mình cũng trở về, hoặc nghĩ bụ
phần nhiều các cuộc “giang hồ vặt” của họ chỉ
ng: “Mình chẳng về nữa thì cũng chẳng làm
ến xóm cô ầu ã cùng ường ể họ sa vào một chị
sao cả!”. Họ i, lòng nhẹ nhõm không bịn rịn, không
Cúc, chị Liên nào ó, học lấy một thứ bệnh khác
lo lắng. Ai cũng bằng lòng vì ược i” (Nam Cao, ít ngườ Đườ
i muốn thổ lộ ra như thổ lộ cái bệnh giang
ng vô Nam, trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 350).
hồ, nhưng cũng làm họ rên không kém và tai hại
Đó là “con ường ra mặt trận, con ường cứu nước”
thì cũng rất mực là tai hại (Nam Cao, Đường vô
(Nam Cao, Đường vô Nam, trong Hà Minh Đức, Nam, trong Hà Minh
1999, tr. 349). Đó là vai trò “khai sáng” của cách Đức, 1999, tr. 347 - 348).
mạng ối với nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ. Khi mới
Đó là những người “ i” không có mục ích, “ i” theo
hình thành, cách mạng vẫn là iều gì ó xa lạ với quần
chúng nhân dân, nhưng dù sao cũng ã mang lạ
phong trào, nhận thức còn rất mơ hồ nên dễ dàng i niềm
sa chân vào con ường lầm lạc khác. Đó không phải
tin cho họ, giúp họ thoát khỏi cuộc sống ngột ngạt
là lý tưởng, là cuộc sống ích thực, ó chỉ là nơi ể họ
và bế tắc lúc bấy giờ. Họ bước i trên con ường mà
tìm quên và buông xuôi thực tại. Thứ hai, ó là những
họ chưa biết tương lai ra sao, nhưng hiện tại nó ã người i có mục ích:
tạo niềm tin, sự hy vọng vào một tương lai tốt ẹp.
Chính niềm tin ó ã tạo nên sức mạnh ể nhân dân
cái ích ấy hút họ i rất chăm chỉ, rất say mê, họ
dấn bước. Như vậy, có thể thấy rằng ngay từ khi mới
mải miết, can ảm, hăng hái bước, bước không hề
xuất hiện, cách mạng ã thể hiện vai trò lãnh ạo úng
trầy chân trật gối ở dọc ường, bước chí chết ấy
ắn và khả năng tập hợp ông ảo lực lượng ể giúp
mà kết cục cũng không ến ược những nơi cần ế
nhân dân giành lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
n, những nơi họ vẫn ịnh tâm rằng phải ến. Trái
Đây là tiếng nói góp phần khẳng ịnh vai trò lãnh ạo
lại, lại càng xa ra nữa (Nam Cao, Đường vô Nam, trong Hà Minh lOMoAR cPSD| 47882337
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 111 – 120
của Đảng và Nhà nước trong công cuộc ấu tranh
trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 353), ó là những công
giải phóng dân tộc khỏi xiềng xích nô lệ.
tử nhà giàu, cờ bạc, ăn chơi phung phí, lêu lỏng, lếu
Đối với những người dân “miền ngược”, cụ thể ở
láo, lười biếng, học lại dốt nhưng giờ ây thì họ ã
ây là các dân tộc Mán, Mèo, Thổ, cách mạng ã làm
“giác ngộ” và “thở ra mùi chính trị”. Sau cách mạng,
thay ổi nhận thức và cuộc sống của họ. Nếu như
Nam Cao lại tưởng như “ ang mơ” khi gặp lại họ,
trước ây, họ chỉ sống co hẹp trong bản làng của
bấy giờ ã trở thành “anh vệ quốc quân” lại chuẩn bị
dân tộc mình, chỉ tin tưởng vào dân tộc mình mà
xung phong “tiến vào Nam”, hoặc trở thành lãnh ạo
không biết ến thế giới bên ngoài, luôn hoài nghi
giúp làng xã có cuộc sống tốt ẹp hơn: “làm việc rất
với những dân tộc khác, sống lạc loài, chưa nhận
hăng, cấm cờ bạc, bài trừ trộm cướp, mở các lớp
thức ược tính dân tộc, tinh thần yêu nước là gì thì
bình dân, thúc ẩy việc tăng gia sản xuất” (Nam Cao, giờ ây:
Đường vô Nam, trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 355).
Như vậy, có thể thấy tính chất nhân văn của cách
Cuộc cách mạng ã ổi hẳn bộ mặt xứ này i. Đổi cả
mạng, ó là việc cảm hóa con người, giúp con người
những con người. Con người mới, tin tưởng ở
nhận thức ược vị trí của bản thân cũng như vai trò
chính quyền nước mình, tin tưởng ở chính mình
của mình ối với ất nước. Một con người có ích khi
và những người sống quanh mình, mất hết cả
có óng góp cho công cuộc chung của ất nước. Cách
tính e dè, sợ sệt… không còn sợ núi rừng. Tỉnh
mạng không phân biệt tầng lớp, giai cấp, không truy
thành ã trà trộn với thôn quê và miền xuôi ã hòa
cứu lỗi lầm, giúp con người phát huy ược khả năng
lẫn cùng miền ngược (Nam
cũng như tạo iều kiện ể con người hướng thiện. Đó
Cao, Trên những con ường Việt Bắc, trong
là iều rất áng quý, nó xóa i mọi mặc cảm, ịnh kiến Minh Đức, 1999, tr. 490).
về thân phận, về giai cấp vốn ã tồn tại lâu ời.
Cuộc sống mở sang trang mới tươi sáng hơn với sự
Như vậy, có thể thấy rằng, dưới cái nhìn của Nam
tự nhận thức về vai trò của cá nhân và tinh thần oàn
Cao, cách mạng là con ường úng ắn ể nhân dân dấn
kết giữa cộng ồng các dân tộc vì một mục tiêu
bước bởi nó không chỉ giúp con người thoát khỏi
chung. Cuộc sống không còn bó hẹp trong khuôn
“cuộc ời ang ngừng trệ”, một “kiếp sống thảm hại”
khổ chật hẹp, tù túng, u muội mà ã có nhiều iều “du
mà sâu xa hơn, nó mang ậm tính nhân văn, khơi gợi
nhập” và “giao thoa” giữa các vùng miền, dân tộc.
những bản chất tốt ẹp của con người, kêu gọi sự oàn
Đó cũng chính là sức mạnh oàn kết mà cách mạng
kết ể xây dựng một xã hội mới tốt ẹp hơn. Đó là con
ã mang lại cho những con người nơi núi ồi heo hút
ường xứng áng ể lựa chọn ể “cả một dân tộc lên này. ường” (Nam
Đối với những phần tử “khó trị”, trước hết là lớp
Cao, Trên những con ường Việt Bắc, trong Hà Minh
“người hèn” (Nam Cao, Đường vô Nam, trong Hà Đức, 1999, tr. 495).
Minh Đức, 1999, tr. 352), ó là những người có “vợ ẹ
2.2.2 Khó khăn, gian khổ của những người làm
p, con khôn, một gia ình quá êm ềm, nhiều khi
chính là cái chăn nhung ấm áp nó làm người ta ngại cách mạng
dậy những buổi sáng mùa ông giá rét” (Nam Cao,
Trong cuộc ấu tranh cách mạng, những người lính
Đường vô Nam, trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 352).
cụ Hồ luôn phải ối mặt với muôn vàn khó khăn, gian
Đó là những người ăn trắng mặc trơn nhưng “rỗng
khổ khốc liệt bao gồm sự thiếu thốn về vật chất,
tuếch” về tinh thần, họ ngại những sự thay ổi,
những căn bệnh chực chờ, sự hiểm trở của ịa hình,
những biến cố, những khó khăn vất vả. Hay ó là
kẻ thù luôn rình rập và bủa vây, cái chết nhan nhản
những “thằng mất dạy” (Nam Cao, Đường vô Nam,
trước mắt. Trong bút ký của Nam Cao, những khó lOMoAR cPSD| 47882337
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 111 – 120
khăn ấy chưa hiện lên thật chi tiết và sống ộng
những con ường Việt Bắc, trong Hà Minh Đức,
nhưng phần nào cũng ã phác họa cho người ọc thấy 1999, tr. 496 - 497).
ược một số khó khăn của cuộc ời những người làm
Và bản thân Nam Cao ã phải trải qua những oạn cách mạng.
ường gian nan như thế, từ “Trên những con ường
Đó có thể là những êm phải ngủ ường, ngủ rừng,
Việt Bắc” ến “Từ ngược về xuôi”, trên ường i chứng
phải ội nắng dầm mưa ể rồi bị những căn bệnh sốt
kiến những cảnh “Vui dân công”, ến nỗi có lúc:
rét quái ác hành hạ hay cướp i sinh mạng khi chân
mắt hơi hoa lên một chút. Áo ẫm mồ hôi. Cổ thì
chưa với tới ược miền ất hứa:
khô cháy. Không thể vào nhà xin nước uống, tôi
Một buổi chiều nắng gắt, chúng tôi ã gặp một
nhặt những quả trám trắng rụng nhan nhản ở
cơn mưa chết người… Chúng tôi chen chúc nhau
dưới chân ăn. Trám trắng chan chát, lờ lợ, chẳng
trong một căn lều hẹp bên ường, dưới chân một
lấy gì làm ngon lắm, nhưng nuốt xong, còn chút
cái èo cao. Lều dột lung tung. Đứng chỗ nào
vị ngọt lững lờ trong cổ. Cũng là một cách cho
cũng bị nước rỏ xuống ầu. Quần áo chúng tôi
ỡ khát (Nam Cao, Trên những con ường Việt Bắc,
dần dần bị ướt ẫm. Nền nhà bị lầm lên, bẩn trong Hà Minh
không kém gì chuồng lợn. Chúng tôi ứng trong Đức, 1999, tr. 493).
ó, ướt át và nhớp nháp, mặt bi thảm và lòng bực
Nam Cao ở Việt Bắc tổng cộng “vừa úng một năm
tức (Nam Cao, Vui dân công, trong Hà Minh
hai tháng mười một ngày” (Nam Cao, Từ ngược về Đức, 1999, tr. 533).
xuôi, trong Hà Minh Đức, 1999, tr.
Sự bực tức ấy không phải là sự hồi tâm chuyển ý vì 502):
rời bỏ chăn ấm nệm êm ể vào sinh ra tử mà là sự
… có en i, có già i, nhưng lại rắn rỏi hơn. Giao
căm tức ối với kẻ thù, bọn cướp nước, vì chúng mà
nước cũng chẳng sốt siếc gì. Cái thân thể cò
cuộc ời chúng ta mới khổ ến thế. Cho nên, người
hương, cái tâm hồn chỉ một chiều u ám cũng ủ
chiến sĩ cách mạng càng gian khổ bao nhiêu thì họ
làm rũ hết, không ngờ lại có sức chống chọi
càng quyết tâm chiến ấu bấy nhiêu. Đó cũng như là
ngang bướng ấy (Nam Cao, Từ ngược về xuôi,
ộng lực giúp con người vượt qua những thử thách
trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 502 - 503).
ể tiếp tục chiến ấu.
Đặc biệt, Nam Cao có dịp chứng kiến và ặc tả nỗi
Bên cạnh ó, Nam Cao thể hiện sự cảm phục ối với
cực khổ những oàn dân công di chuyển những nhà
tinh thần vượt khó của những người cách mạng. Bởi
máy từ những vùng ịch tạm chiếm. Đó là những con
với nhà văn, những gian nan vất vả ấy là tưởng
người bình thường bao gồm nhiều thế hệ, từ già, trẻ,
chừng như không thể vượt qua nhưng những con
thanh niên, phụ nữ chân yếu tay mềm phải sử dụng
người quả cảm ấy ã làm ược, không chỉ nhất thời
toàn bộ sức lực và trí lực ể phục vụ công việc vận tải mà là trường kỳ:
tưởng chừng bất khả thi:
Ai ã i lại nhiều trên những con ường Việt Bắc,
Tây vừa nhảy dù hôm trước thì hôm sau, những
những con ường vượt núi, xuyên rừng, luồn khe,
xưởng máy hàng ba bốn trăm người làm ã biến
lội suối, lên xuống hàng trăm cái dốc, mũi chạm
dần dần từng bộ phận của nó i… Anh em công
ất và chân sắp khô thì lại ược dầm xuống nước
nhân xuất lực gấp bốn lần ngày thường ể tháo,
– ai ã từng i lại nhiều như vậy, ều phải ngạc
chuyển và chôn giấu. Họ quần quật suốt ngày
nhiên về cái tài chịu ựng và sự cố gắng của dân
êm, ăn vội vàng, ngủ qua loa, bỏ cả ánh răng rửa
mình ể vượt những khó khăn (Nam Cao, Trên
mặt. Cả một nhà máy lên ường… vượt hàng trăm lOMoAR cPSD| 47882337
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 111 – 120
cây số núi rừng ể i nơi khác (Nam Cao, Trên
2.2.3 Niềm tin và tinh thần lạc quan cách mạng –
những con ường Việt Bắc, trong Hà Minh Đức,
biểu hiện của chủ nghĩa anh hùng cách 1999, tr. 497 - 498). mạng
Nhưng quả thật “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”,
Đây là ặc iểm nổi bật nhất trong những tác phẩm
có những lúc như thế người ta mới công nhận con
bút ký của Nam Cao bởi ó là những trang viết thể
người có khả năng “dời non lấp bể” hoặc “tát cạn
hiện niềm phấn khởi, hân hoan của một tâm hồn
biển ông”, việc vận tải những trang thiết bị nặng
ược tái sinh từ cõi u ám. Ở ó, chúng ta không bắt
nhọc ấy cộng thêm với sự trắc trở của ịa hình khiến
gặp những nỗi tuyệt vọng, sự lo lắng, hoang mang,
cho công việc càng khó khăn bội phần, nguy hiểm
bất ịnh trong cuộc ời mà hầu hết thể hiện nỗi niềm bủa vây:
vui sướng khi ược sống trong một cuộc ời mới.
Niềm hạnh phúc ó là những khi ược hòa vào cuộc
Có những cái dốc khổ sở, chỉ một người với một
cái ba lô cũng ã phải u vào từ
sống gian nan, vất vả của ồng bào trong công cuộc ng cái cây ể kéo ngườ ấ
i lên. Làm thế nào mà khiêng ược ở những
u tranh cách mạng. Cho nên, dù cuộc sống có gian
chỗ như thế này? Đứng vào âu mà khiêng, nếu
nan, khó nhọc nhưng tràn ầy niềm vui và sự lạc quan. Theo ó,
mà tuột chân hay tuột tay một cái thì tránh sao
cuộc ấu tranh không hiện lên ác liệt với
khỏi bị gang sắt è giập xương hay gãy cẳng?
những mất mát au thương, sinh li tử biệt mà ó là Ngườ
những trang văn thấm ẫm tâm hồn tươi mới, reo vui
i ta phải dịch i từng bước một, vừa dịch trướ
vừa chèn, vừa dùng xẻng cuốc ào bực ể dịch
c sự ổi thay của thời cuộc, của ất nước. Vì vậy, thêm bướ ó là nhữ
c nữa. Phải ến bốn, năm người phục
ng trang bút ký thấm ượm chủ nghĩa anh
hùng cách mạng. Trong ó, những người “anh hùng”
dịch cho một bộ máy chỉ nặng chừng nửa tạ. ở
Nếu nặng hơn thì lại càng nhiều sự vất vả… Hàng
ây không ai khác hơn ó là tập thể nhân dân Việt
Nam, từ miền xuôi ến miền ngược, từ nông thôn ến
mấy chục tấn sắt ã qua oạn ường này và ã vượt
thành thị, từ trí thức tới nông dân, từ anh trai ến chị
hàng trăm cây số (Nam Cao, Trên những con
ường Việt Bắc,
trong Hà Minh Đức, 1999, tr.
gái, từ em bé ến cụ già, tất cả tạo thành một lực lượ 497 - 498).
ng hùng hậu, thống nhất cùng hướng ra mặt trận.
Có thể nói, sức mạnh tiềm tàng của con người Việt
Chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong bút ký Nam
Cao biểu hiện trước hết ở tinh thần xem thường
Nam vô cùng to lớn. Mỗi khi có giặc ngoại xâm, sức
những khó khăn gian khổ. Trong vất vả, con người
mạnh ấy trỗi dậy và sẵn sàng nhấn chìm bọn cướp nước. Đó là sứ
tìm ược tình yêu thương, ấm áp của tình người, tình
c mạnh tổng hợp của khối ại oàn kết
dân tộc, tình ồng chí. Khi ó, khó khăn trở thành
dân tộc, từ hậu phương ến tiền tuyến, từ thế hệ này
“dịp” ể con người sum vầy bên nhau:
sang thế hệ khác. Do ó, Nam Cao ã không ngoa khi
cho rằng: “dường như chẳng có một cái gì khó ối
Ngủ ường cũng là một cái vui. Giữa những người
với chúng ta. Cái gì cần làm, cái gì muốn làm, chúng
ồng chí không quen mà lại rất thân, ấm vô cùng.
ta ều cho là làm ược, và cố làm cho bằng ược” (Nam
Họ bắc á, ốt lửa, thổi cơm. Ăn cơm rồi, vẫn ể lửa,
Cao, Trên những con ường Việt Bắc, trong Hà Minh
vừa ỡ muỗi, vừa vui. Lửa lập lòe. Một cuộc cắm Đức,
trại hàng ba bốn trăm người. Nhưng thật tình 1999, tr. 497).
những người mệt nhọc nằm ngồi lố nhố ở quanh
tôi, không thấy khổ (Nam Cao, Vui dân công,
trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 532). lOMoAR cPSD| 47882337
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 111 – 120
Thật vậy, hình ảnh những con người xa lạ có thể tập
Tôi không ghét gì bằng thi vị hóa cuộc ời. Nhưng
hợp và ngồi cạnh bên nhau, cùng chia ngọt sẻ bùi,
thật tình từ hồi kháng chiến, mặc dầu những tàn
cùng sống trong cảnh “rừng hoang sương muối” là
phá, chết chóc chia lìa cực kỳ au ớn, bộ mặt
những khoảnh khắc mà trong hàng mấy mươi năm
nước mình vẫn có vẻ tươi trẻ, vui mạnh hơn lên
trước nào ai biết ược. Cho nên, dù ó là sự sum vầy
(Nam Cao, Trên những con ường Việt Bắc, trong
trong thiếu thốn, cực nhọc nhưng những người
Hà Minh Đức, 1999, tr. 495).
cách mạng không cảm thấy “khổ”. Con người ta
Chính vì thế, từ những khó khăn gian khổ ấy, con
thấy khổ khi ở giữa ám ông nhưng cảm thấy lạc loài.
người cần phải tìm ược niềm vui ể vững tâm bước
Nhưng ở ây không còn sự lạc loài. Mọi người trò
tiếp trên chặng ường chông gai ầy thử thách ấy. Nếu
chuyện, quan tâm lẫn nhau giống như người chung
chỉ biết bi quan, lụy phiền thì khó khăn chỉ làm thêm
một họ, một làng. Chính tình người nhân ái ã làm
chùng bước. Do ó, sức mạnh của dòng “thác người”
ấm lại biết bao trái tim tưởng ã nguội lạnh và ang
ấy ã khiến cho “Chúng tôi không thể nào sầu thảm
thèm khát ược tái sinh và bùng cháy. Và giờ ây họ ã
nữa… Thác vui ổ xuống ã làm trời ột nhiên như
thực sự bùng cháy. Họ quan niệm: “Cuộc kháng
sáng bừng lên. Màu núi thêm tươi và lòng chúng tôi
chiến càng gần thắng lợi thì càng chật vật, nhưng
phấn khởi” (Nam Cao, Vui dân công, trong Hà Minh
càng chật vật thì lại càng thắng lợi” (Nam Cao, Vui
Đức, 1999, tr. 534). Với cách nói giàu hình ảnh,
dân công, trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 532). Nhận
Nam Cao ã cho thấy ược tâm trạng phấn khởi, niềm
thức ược mối quan hệ biện chứng ấy nên dù có trải
hân hoan, nhận thức tinh khôi, mới mẻ về con ường
qua trăm ngàn khó khăn, tốn bao nhiêu mồ hôi nước
cách mạng. Nó không khắc họa “cái bi” ể làm ộng
mắt thậm chí cả xương máu họ cũng không ngần
lực chiến ấu mà khắc họa “cái ẹp” ể gieo niềm tin ngại.
vào công cuộc chiến ấu.
Bên cạnh ó, ó còn là cái nhìn thi vị về những con
Thứ hai, con người cách mạng xem thường sự nguy
người cần lao trong những cuộc hành quân gian khổ: hiểm và vẫn giữ ược sự iềm tĩnh trong chiến tranh.
Hàng trăm người khiêng gánh – nhiều như mối
Dân tộc Việt Nam vốn yêu chuộng cuộc sống hòa
sau một trận mưa rào – từ trên ồi ổ xuống, tảo
bình nên bằng mọi cách họ luôn tìm cách duy trì và
ra ở trên dốc thành hai, ba dòng uốn éo. Những
giữ vững cuộc sống bình yên, an lành:
dòng người như chạy thi với những dòng nước
Cánh ồng rất thái bình. Lúa xanh rờn, lúa có òng
cũng thi nhau lao xuống dốc, thành những dòng
òng hay ã chín hẳn, bông nặng trĩu. Đã lác ác có
uốn éo… Đến lưng chừng èo, chỉ còn một lối i,
người i gặt… Người i buôn ồn ào trong các chợ,
những dòng người chập lại nhau. Cả một thác
tấp nập trên các con ường, tươi cười trong quán
người xuống, mạnh hơn thác nước… (Nam Cao,
nước, hàng cơm (Nam Cao, Từ ngược về xuôi,
Vui dân công, trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 534).
trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 503 - 504).
Sử dụng biện pháp so sánh cùng với góc nhìn của
Trong những bức tranh cuộc sống ấy không có gam
người họa sĩ, Nam Cao ã làm nên một bức tranh về
màu xám của sự chết chóc và tang thương mà tràn
oàn dân công ang vận tải mang màu sắc lãng mạn.
ầy màu sắc tươi xanh của sự sống, của niềm vui thái
Đó như là một cuộc diễu hành chứ không phải một
bình, an cư lạc nghiệp. Bức tranh sinh hoạt ời
cuộc hành quân. Nhưng không vì thế mà tác giả tự
thường ấy dù chỉ là trong chốc lát nhưng cũng ủ làm
tách mình ra khỏi cuộc sống gian khổ ể thi vị hóa
cho con người tin yêu hơn vào cuộc sống và tiếp tục
cuộc sống, Nam Cao từng khẳng ịnh:
bám ất, bám làng ể giành lại sự sống cho bản thân, lOMoAR cPSD| 47882337
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 111 – 120
gia ình và cả ất nước. Nhưng cuộc sống ấy cũng
những con ường Việt Bắc, trong Hà Minh Đức,
không hẳn bình yên bởi sự quấy phá của kẻ thù:
1999, tr. 497). Chính sự kiên trì, cần cù và nhẫn nại,
Hai người nhảy cả xuống sông. Một người bám
tinh thần oàn kết cùng vượt khó khăn gian khổ ã
lấy một sợi dây buộc vào thuyền, cứ chạy quanh
tạo nên sức mạnh ấy. Nam Cao ã phát hiện ra phẩm
cái thuyền ể tránh làn ạn của máy bay. Nước bắn
chất quý báu ấy của con người Việt Nam, càng trong
tóe lên ở chung quanh. Nhưng họ không chết.
gian khổ thì sức sống càng mãnh liệt, nó “ ang ộ lớn
Thuyền cũng không trúng ạn. Trong khi ấy, ở
lên, rất dồi dào. Nay mai, những xiềng xích tháo
cánh ồng vẫn gặt. Người i ường vẫn cứ i. Ông
tung rồi, chúng ta sẽ lớn rất mau và rất mạnh” (Nam
giáo ở trường bên ọc chính tả vẫn choang
Cao, Đường vô Nam, trong Hà Minh Đức, 1999, tr.
choang (Nam Cao, Từ ngược về xuôi, trong Hà
358). Đó là một sức sống dẻo dai, bền bỉ sinh sôi
Minh Đức, 1999, tr. 504 - 505). nảy nở:
Đó là tinh thần “sống chung với lũ” của nhân dân
Có những cái ấy nếu người ta cắt ngọn nó i, nó
vùng ịch tạm chiếm. Sống trong nguy hiểm, con
sẽ mọc lên rất nhiều cành. Nếu người ta cắt một
người càng mạnh mẽ và chiến ấu càng kiên cường,
cái cành của nó i, nó sẽ mọc mười cái cành khác.
quyết liệt. Hình ảnh ấy gợi cho người ọc như một trò
Sức sống mạnh mẽ, cần có ể vọt ra, một ô thị cũ
chơi “cút bắt” của trẻ con, nó không mang tính ác
của chúng ta bị phá hủy hay bị thối, hàng chục
liệt, thảm khốc mà ngược lại, ó như là chuyện vui
năm mầm ô thị khác mọc ra. Sức sống quá dồi
thường ngày ược kể. Con người vẫn luôn giữ vững
dào, không bao giờ chịu ể vùi dập cả. Tôi có thể
ược tinh thần trong những cơn chấn ộng, nguy biến,
oán trước rằng những mầm ô thị mới mọc hiện
có như thế mới chiến ấu ến cùng trong cuộc chiến
nay sẽ thành những ô thị lớn ngày mai. Ngay
trường kỳ với kẻ thù lớn mạnh. Đó chính là sức
trong cảnh tàn phá chiến tranh, ngay trong cơn
mạnh vô song mà không có kẻ thù nào có thể tàn
rung chuyển bão táp những mầm non ã nhú, bộ
phá nổi. Nói như Nam Cao:
mặt của Việt Nam tương lai ã lờ mờ hiện
(Nam Cao, Trên những con ường Việt Bắc, trong
Cái nghị lực của dân tộc ta là một thứ nghị lực
Hà Minh Đức, 1999, tr. 500).
bình tĩnh, lặng lẽ, tiềm tàng. Nó không nổ tung
ra một cách ầm ĩ như trái phá, cốt mìn. Nó
Với cái nhìn của con người mới bước chân vào con
không chuyển ất rung trời như núi lửa. Nó là
ường cách mạng, Nam Cao ã sớm tiếp thu ược tư
dòng sông cần cù, êm ngày mài giũa ôi bờ ể tạo
tưởng cách mạng cũng như không ngần ngại thể
cho mình một con ường rộng mãi ra, êm ngày
hiện niềm tin yêu, hân hoan về một cuộc ời mới mà
bồi ắp những cánh bãi phì nhiêu và ngày càng
cách mạng mang lại. Đó không phải là sự tiếp thu
bát ngát. Nó biểu lộ ra ngoài một cách giản dị và
thụ ộng một chiều mà nó ược úc kết từ những trải
thản nhiên, gần như không tự biết (Nam Cao,
nghiệm thực tế của nhà văn. Chính vì thế, những
Trên những con ường Việt Bắc, trong Hà Minh
trang bút ký của Nam Cao “là những ký họa sinh Đức, 1999, tr. 496).
ộng, tràn ngập không khí lạc quan, có những hình
ảnh giản dị, ẹp ẽ về chủ nghĩa anh hùng, tất cả toát
Thứ ba, con người cách mạng luôn có niềm tin
lên vẻ ẹp và sức mạnh tinh thần của bộ ội, nhân dân
tưởng vào một tương lai tươi sáng hơn, tốt ẹp hơn.
trong chiến dịch” (Đỗ Đức Hiểu & cs., 2004, tr.
Trước hết, ó là niềm tin vào sức mạnh của dân tộc: 1028).
“Dường như chẳng có một cái gì khó ối với chúng
ta. Cái gì cần làm, cái gì muốn làm, chúng ta ều cho
là làm ược, và cố làm cho bằng ược” (Nam Cao, Trên lOMoAR cPSD| 47882337
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 111 – 120
2.2.4 Tinh thần tự vấn
ta ều có những người thân thuộc của chúng ta…
Nhận xét về con người của Nam Cao, Nguyễn Đăng
Không ến chỗ nào chúng ta bị cái cảnh quê Mạnh ã viết rằng:
người ất khách. Trái lại, ở âu ta cũng có cảm giác
là ở một nơi thân thuộc
… ông không phải thần thánh gì, nghĩa là cũng
(Nam Cao, Trên những con ường Việt Bắc, trong
có ủ cái ưu cái khuyết thường thấy ở những Hà Minh Đứ ngườ c, 1999, tr. 489).
i trí thức tiểu tư sản. Sau này khi ã tham gia
cách mạng, ông cũng không phải ã thanh toán
Hòa mình vào cuộc sống chiến ấu gian khổ, Nam
ược mọi thói tật của mình. Nhưng iều áng quý
Cao nhận thức rằng ó mới chính là bản chất của
là ông luôn lấy làm xấu hổ về những chỗ hèn
cuộc sống, là nơi áng sống và nên sống. Bởi vì ở ó
kém của mình và quyết ấu tranh với bản thân ể
nhà văn cảm thấy không bị cô lập, không ơn ộc,
vươn lên cái úng, cái ẹp, cái tốt (Nguyễn Đăng
không có sự phân biệt giàu nghèo, ẳng cấp. Ở ó, con Mạnh, 2006, tr. 236).
người biết thương yêu và ùm bọc lẫn nhau, cùng
chung một nhiệm vụ, lý tưởng, chung một tiếng nói.
Nhận xét ấy của Nguyễn Đăng Mạnh úng với cả hai giai oạ
Tiếng gọi “ ồng chí” nghe thân thương và ấm áp biết
n sáng tác của Nam Cao. Nếu như trước cách
bao, như xóa i khoảng cách hàng nghìn năm trước
mạng, Nam Cao thể hiện gián tiếp tinh thần tự vấn
ó, như kéo lại gần những con người vốn xa lạ nhưng
thông qua việc khắc họa bản thân mình trong hình ả
vẫn có chung cội nguồn là con Rồng cháu Tiên.
nh các nhân vật với những tính cách yếu kém thì
Chính vì thế, thế giới quan trong sáng tác của Nam
sau cách mạng, Nam Cao trực tiếp “tự thú” bằng
Cao sau cách mạng không còn hướng ến một vài
chính những phát ngôn nghệ thuật của mình. Điều
cảnh ời bất hạnh mà ó là cảnh ời gian nan khổ cực
này hoàn toàn phù hợp với ặc iểm của bút ký bởi ó là nơi ghi nhậ
nhưng vui tươi của những con người ang “bay theo
n và giãi bày những cảm xúc của tác
ường dân tộc ang bay” (Chế Lan Viên). Việc tự nhận
giả. Ở ây, chủ yếu Nam Cao ề cập ến sự chuyển biến
trong tư tưởng cũng như nhữ
thức ược sự thay ổi về tư tưởng như thế không phải ng hạn chế của bản
hiếm hoi ối với các nhà văn tiền cách mạng, tuy
thân trên con ường dấn thân làm cách mạng.
nhiên, nhận thức ở mức ộ nông sâu và tính cấp thiết
Đối với bản thân Nam Cao, ông nhìn nhận sự thay
trong giai oạn nhận ường này là một bước ngoặt rất
ổi trong tư tưởng của mình theo chiều hướng tích
lớn ối với cả một thế hệ nhà văn bấy giờ.
cực. Nếu như trước ây, thế giới quan trong sáng tác
Khi bước chân vào con ường sương gió, Nam Cao
của Nam Cao chủ yếu là cuộc sống quẩn quanh,
nhiều lần “tự phê bình” bản thân khi thấy mình còn
nghèo túng, bế tắc của người trí thức tiểu tư sản và ngườ
thiếu sót và thua kém. Đó có thể là những lúc “tự
i nông dân nghèo thì giờ ây, tác giả khẳng ịnh: “Chưa bao giờ
chế giễu” mình khi nhìn nhận lại một chặng ời ã qua
tôi thấy ời thanh xuân ến thế và không khí ngon lành ế khi Nam Cao nhắc ến
n thế” (Nam Cao, Vui dân
“bệnh xê dịch”: “Chính tôi cũng chỉ là một trong
công, trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 531 - 532). Thế
bọn ó thôi. Tôi nhắc lại ây ể mà cười, như người ta
giới quan của nhà văn bây giờ không còn bó hẹp
cười khi nhắc ến những cái lầm lỗi, iên rồ của chính
trong phạm vi một vài ối tượng riêng lẻ nào mà nhà văn hướng ế
mình một thời ã qua rồi” (Nam Cao, Đường vô Nam,
n một thế giới ấm áp tình người. Ở ó có trong Hà Minh Đứ sự
c, 1999, tr. 349). Cái cười ó vừa
bình ẳng và thương yêu lẫn nhau:
có vẻ quê quê, vừa có vẻ hối cãi nhưng cũng không
Từ khi xảy ra kháng chiến, có dịp thay ổi chỗ ở
kém hóm hỉnh bởi tự mình trêu ùa mình.
rất nhiều, tôi mới tìm ra iều này thật ấm lòng, là
ở bất cứ chỗ nào trên ất nước Việt Nam, chúng lOMoAR cPSD| 47882337
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 111 – 120
Nhưng không chỉ có thế, khi dấn thân sâu vào cuộc
Đặc biệt hơn cả, trên trang viết của Nam Cao, ta bắt
ời cách mạng, Nam Cao còn nhận ra nhiều yếu kém
gặp những suy tư, trăn trở về vai trò của người cầm
của bản thân, trong ó chủ yếu là nhà văn tự nhận
bút ối với cuộc ấu tranh cách mạng:
mình là “kẻ nhát”, “hèn” vì cảm thấy lo sợ khi sống
Nhưng không hiểu sao tôi vẫn thấy tui tủi thế
trong chiến tranh. Đó có thể là nỗi lo khi một thân
nào ấy. Cây bút của tôi bất lực. Nó không khạc
một mình bôn ba trong êm ngay sát trong lòng ịch.
ra lửa và ạn như cây súng. Nó ì ạch chạy theo
Tác giả cảm thấy mối nguy luôn chực chờ nên sợ hãi:
phong trào mãi mà không kịp. Các bạn tôi cũng
“Rõ thật là anh chàng nhát gan vừa ở một chỗ an
ều thấy na ná như tôi. Họ thấy rằng bàn tay họ,
toàn ến! Tôi tự cười tôi như vậy” (Nam Cao, Bốn cây
nếu chưa cầm súng một phen thì cầm bút cũng
số cách một căn cứ ịch, trong Hà Minh Đức, 1999,
vụng về (Nam Cao, Đường vô Nam, trong Hà
tr. 514), ể khi thấy dân chúng “lẻn” về làng ể lấy Minh Đức, 1999, tr. 357).
lương thực và hàng hóa i tản cư một cách thản
Nam Cao tự cho mình là kẻ bất lực và vô dụng trong
nhiên và vui vẻ thì “Tôi lại càng thấy tôi là hèn”
cuộc chiến máu lửa của ất nước. Bởi lúc ấy, cuộc
(Nam Cao, Bốn cây số cách một căn cứ ịch, trong
sống vận ộng gấp gáp và sôi nổi, chỉ có cầm vũ khí
Hà Minh Đức, 1999, tr. 514). Hay như cảm giác bản
chiến ấu mới theo kịp những trang sử mới, còn ngòi
thân “lạc hậu” so với thời cuộc khi từ miền ngược
bút luôn i sau ể ghi chép lại một thời ã qua. Điều ó trở về miền xuôi:
thể hiện ược tấm lòng của con người năng ộng
…về giữa họ, tôi thấy tôi là một thằng nhút nhát.
muốn làm chủ cuộc sống, hăng hái hòa mình bắt kịp
Và lạc hậu” bởi “Mới về ến Sơn, tôi ã hỏi người nhịp sống mới.
ta ủ thứ. Đêm ngủ ở ây có ược không? Chúng nó
Việc thể hiện cảm xúc của tác giả trong bút ký là một
tiến thế nào? Nếu gặp chúng nó thì nên chạy iề như thế
u hiển nhiên, nhưng việc phơi bày những hạn chế
nào? Nên i bộ hay i ò? Đi êm hay i ngày? (Nam Cao,
của mình một cách chân thành trên trang viết thì
Từ ngược về xuôi, trong Hà Minh Đứ
mấy ai ã làm ược. Nhưng Nam Cao ã làm ược. Ông c, 1999, tr. 503).
không ngần ngại “vạch áo cho người xem lưng” bởi
Nhưng âu biết rằng “Đồng bào miền xuôi ã i sâu
theo nhà văn, ó không phải là một iều gì xấu mà nó
vào kháng chiến. Tàu bay, tiếng súng, giặc cướp
thể hiện quan niệm cũng như nhận thức về sai lầm
làng… ã thành chuyện hàng ngày” (Nam Cao, Từ
và sửa ổi. Có thể nói, nói lên ược khuyết iểm của
ngược về xuôi, trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 503).
người khác ã là dũng cảm, nhưng nói lên ược hạn
Đó như là một tiếng cười trêu ùa hóm hỉnh của nhà
chế của chính mình là một sự dũng cảm hơn. Nam
văn ối với bản thân. Nhưng thực chất ó là cảm giác
Cao ã chiến thắng ược tư tưởng hạn hẹp. Điều ó thể
chân thật nhất của tác giả khi trải qua những
hiện bản lĩnh của con người dám nghĩ, dám làm,
khoảnh khắc sống ộng như thế. Đó là một iều có thể
dám ấu tranh với cái xấu dù cho nó tồn tại trong
cảm thông và chia sẻ ược. Bản thân Nam Cao ã
chính bản thân mình. Những biểu hiện “tự vấn” trên
không tự “tâng bốc” hay “vẽ vời” thêm về bản thân
thể hiện úng bản chất của giai oạn nhận ường, ể
khi ứng trước những khó khăn, nguy hiểm trong
thấy ược cuộc ời thay ổi, trước hết phải thấy ược sự
cuộc chiến. Từ ó, cho ta cái nhìn về nhà văn ở góc ộ
thay ổi trong bản thân mình.
ời tư thật hơn, gần gũi hơn mà không phải thi vị hóa 3. KẾT LUẬN hình ảnh tác giả.
“Sống ã rồi hãy viết” (Nam Cao, Đường vô Nam,
trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 357), ó là tuyên ngôn
nghệ thuật của Nam Cao giai oạn sau Cách mạng lOMoAR cPSD| 47882337
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 111 – 120
tháng Tám. Bản thân nhà văn ã tuân thủ theo quan
niệm này khi viết những trang bút ký. Đó là những
trải nghiệm mà bản thân tác giả ã nếm trải trên con
ường ấu tranh cách mạng. Nhờ ó, nhà văn mới thấu
hiểu thêm những mảng hiện thực mà trước ây bản
thân chưa ược biết ến. Đó là những trang viết chân
thật, sinh ộng, những rung ộng trong trái tim và tâm
hồn của một con người mới trước thời cuộc mới,
những suy nghĩ chín chắn hơn và cách nhìn ời tin
yêu, lạc quan hơn. Tất cả ã góp phần thể hiện chủ
nghĩa anh hùng và tư tưởng lạc quan cách mạng
trong văn học Việt Nam giai oạn sau Cách mạng
tháng Tám. Đó là óng góp quan trọng của bút ký nói
riêng và sáng tác của Nam Cao nói chung trong giai
oạn ầu của văn học cách mạng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu
& Trần Hữu Tá (chủ biên). (2004). Từ iển Văn học
(bộ mới). TP HCM: Nhà xuất bản Thế giới.
Hà Minh Đức. (1961). Nam Cao nhà văn hiện thực
xuất sắc. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn hóa.
Hà Minh Đức (sưu tầm, giới thiệu). (1999). Nam
Cao toàn tập, tập III. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học.
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử & Nguyễn Khắc Phi
( ồng chủ biên). (2000). Từ iển thuật ngữ văn
học. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
Nguyễn Đăng Mạnh. (2006). Nhà văn Việt Nam
hiện ại, Chân dung & phong cách. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học.
Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn
Hoành Khung, Lê Chí Dũng & Hà Văn Đức.
(1999). Văn học Việt Nam 1900 - 1945. Hà Nội:
Nhà xuất bản Giáo dục.