










Preview text:
  lOMoAR cPSD| 47882337
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 111 – 120          
ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG BÚT KÝ CỦA NAM CAO  Nguyễn Thị Kiều Oanh1 
1Trường Đại học Cần Thơ  
Thông tin chung:  ABSTRACT  
Ngày nhận bài: 19/10/2017  
Ngày nhận kết quả bình duyệt: Nam Cao is one of the most representative writers of Vietnamese realistic and 
06/12/2017 critical literature between 1930 and 1945. His works in this period majorly Ngày chấp nhận ăng: 04/2018 
focus on the peasant and bourgeois classes in Vietnam. Furthermore, he is also   Title: 
known as the great author of the revolutionary prose of the Anti-French  
Content characteristics of Nam Resistance War in the 1945 - 1954 period. He successfully turned his writing to Cao’s 
records records which express the transformation in mind of unawareness generations Keywords: about the 
revolution, hardships on the path of the warrior, beliefs on the  
Nam Cao, record, revolutionary revolution and revolutionary optimism. Especially, his works also reflect his heroism, 
Vietnamese literature self-recognition and consideration in a new age of Vietnam history. It is clear Từ khóa: that 
all his works contribute to express the revolutionary heroism in Vietnamese Nam Cao, bút ký, chủ nghĩa literature 
after the August Revolution in 1945. anh hùng cách mạng, TÓM TẮT văn học Việt Nam  
Nam Cao là một trong những cây bút tiêu biểu nhất cho khuynh hướng văn học 
hiện thực phê phán 1930 – 1945. Ông ược mệnh danh là nhà văn của nông dân 
và những người trí thức tiểu tư sản nghèo. Không những thế, Nam Cao còn ược 
xem là cây bút xuất sắc của văn xuôi Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp 
(1945 – 1954). Trong ó, thể loại bút ký ược xem là sự chuyển hướng khá thành 
công của nhà văn. Các tác phẩm ề cập ến sự thức tỉnh của một lớp người còn ang 
mơ hồ trong việc “nhận ường”, những khó khăn trên con ường chiến ấu, niềm tin 
và tinh thần lạc quan cách mạng. Đặc biệt, các tác phẩm còn thể hiện sự nhìn 
nhận, tự vấn của bản thân Nam Cao trước thời cuộc mới. Tất cả ã góp phần thể 
hiện chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho diện mạo văn học Việt Nam giai oạn sau 
Cách mạng tháng Tám.   1. GIỚI THIỆU 
ói trong ranh giới giữa nhân phẩm và miếng ăn. Đó 
Mặc dù nổi danh muộn trên văn àn Văn học Việt 
là óng góp của Nam Cao cho văn học giai oạn tiền 
Nam giai oạn 1930 – 1945 nhưng Nam Cao là nhà 
khởi nghĩa. Sau 1945, Nam Cao vẫn tiếp tục sáng 
văn tiêu biểu nhất của khuynh hướng văn học hiện 
tác cho ến hơi thở cuối cùng (1951). Trong ó, bên 
thực phê phán ở giai oạn phát triển cuối cùng (1940 
cạnh việc tiếp tục gom nhặt những khoảnh khắc 
– 1945). Nhắc ến ông, người ta thường nghĩ ến hình 
cuộc sống trong các truyện ngắn như Mò sâm banh, 
ảnh những người trí thức tiểu tư sản nghèo quẩn 
Nỗi truân chuyên của khách má hồng, Đợi chờ, Đôi 
quanh trong những bi kịch giữa ước mơ và gánh 
mắt… nhà văn ã mở rộng phạm vi sáng tác sang một 
nặng cuộc sống ời thường, hoặc hình ảnh những 
số thể loại khác: nhật ký (Ở rừng), bút ký (Đường 
người nông dân nghèo khổ luôn phải vật lộn với cái 
vô Nam, Trên những con ường Việt Bắc, Bốn cây số    lOMoAR cPSD| 47882337
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 111 – 120       
cách một căn cứ ịch…), kịch (Đóng góp)… Trong ó, 
… không òi hỏi tính xác thực ở mức tuyệt ối, tính 
những tác phẩm bút ký của ông ược ánh giá “có giá 
cấp bách về thời sự. Nó i sâu vào thế giới tâm 
trị ặc sắc và tiêu biểu cho văn xuôi kháng chiến thời 
hồn của con người, chú ý ến sự khắc họa tính 
kỳ ầu” (Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn 
cách thông qua một số cốt truyện (tuy không 
Tửu & Trần Hữu Tá, 2004, tr. 1028). Thật vậy, bút ký 
hoàn chỉnh như ở truyện ngắn) và những biện 
của Nam Cao là một “hành trình”, một “chuyến i” 
pháp tưởng tượng, liên tưởng, trữ tình với tất cả 
ến với con ường cách mạng, nhận thức sâu sắc về 
những nét riêng tư ặc sắc (Đỗ Đức Hiểu & cs., 
cách mạng. Từ ó, con người tìm thấy ược niềm tin  2004, tr. 172 - 173). 
yêu, sự lạc quan, gắn bó với cuộc sống, với nhân dân, 
Đối với những tác phẩm bút ký của Nam Cao, ó  ất nước. 
chưa hẳn là những tác phẩm xuất sắc nhất cho thể  2. NỘI DUNG 
loại này nhưng nhìn chung cũng ã góp phần rất lớn 
2.1 Khái niệm bút ký 
cho diện mạo bút ký giai oạn này cũng như văn xuôi 
Việt Nam thời kỳ ầu kháng chiến nói chung. Những 
Theo Từ iển thuật ngữ Văn học (Lê Bá Hán, Trần 
tác phẩm bút ký khảo sát trong bài viết bao gồm: 
Đình Sử & Nguyễn Khắc Phi, 2000), bút ký ược ịnh 
Đường vô Nam, Những bàn tay ẹp ấy, Trên những  nghĩa là: 
con ường Việt Bắc, Từ ngược về xuôi, Bốn cây số 
Thể loại thuộc loại hình kí thường có quy mô 
cách một căn cứ ịch, Vui dân công, Vài nét ghi qua 
tương ứng với truyện ngắn… Bút ký ghi lại những 
vùng vừa giải phóng.  
con người và sự việc mà nhà văn ã tìm hiểu 
2.2 Những nội dung nổi bật trong bút ký của 
nghiên cứu cùng với những cảm nghĩ của mình  Nam Cao 
nhằm thể hiện một tư tưởng nào ó (Lê Bá Hán, 
Trần Đình Sử & Nguyễn Khắc Phi, 
2.2.1 Sự thức tỉnh    2000, tr. 23). 
Đối với bút ký, việc “làm nổi bật giá trị nhận thức là 
Các nhà nghiên cứu này nhìn nhận bút ký trong 
ý nghĩa hàng ầu” (Đỗ Đức Hiểu & cs., 2004, tr. 173). 
tương quan với truyện ngắn về dung lượng. Như vậy, Hay nói khác hơn “giá trị hàng ầu của bút ký là giá 
dung lượng của ký thường không dài quá, ủ ể truyền 
trị nhận thức” (Lê Bá Hán & cs., 2000, tr. 24). Trong 
tải thông tin một cách ngắn gọn, súc tích, không có 
các tác phẩm bút ký của Nam Cao, vấn ề nhận thức 
sự dàn trải, tản mạn. Vì vậy, bút ký òi hỏi có một sức 
cách mạng ược nhà văn ặc biệt chú trọng bởi ó  nén nhất ịnh. 
chính là tư tưởng chủ ạo trong thời ại lúc bấy giờ. 
Về nội dung và ối tượng phản ánh, bút ký ghi nhận 
Nhận thức về cách mạng, trước hết Nam Cao khẳng  ị
những trải nghiệm cùng với xúc cảm và suy nghĩ của 
nh khả năng “ ánh thức” ối với nhiều hạng người, 
trong ó, nhà văn chú ý ế
bản thân tác giả về một sự việc, hiện tượng nào ó. 
n những ối tượng: trí thức 
Cụ thể, ó là những “sự việc, con người, cảnh vật… 
tiểu tư sản, nhân dân miền ngược, những phần tử 
mà nhà văn mắt thấy, tai nghe, thường là trong một  “khó trị”. 
chuyến i, một lần tìm hiểu nào ó” (Đỗ Đức Hiểu & 
Đối với lớp người trí thức, Nam Cao ã cho thấy rõ 
cs., 2004, tr. 172 - 173). Như vậy, bút ký không 
sự dịch chuyển từ “bệnh giang hồ” sang “ i úng 
mang ậm yếu tố hư cấu của truyện hay tính xác thực 
ường”. Ở ây, Nam Cao không nhìn nhận trong 
tuyệt ối của ký báo chí mà chỉ dừng lại ở mức tương 
tương quan chiều dài lịch sử mà nhà văn ghi nhận 
ối, bởi ó là những thực nghiệm với những cảm xúc 
sự thay ổi ột ngột trong khoảng thời gian trước và 
của tác giả. Do ó, bút ký văn học: 
sau khi bắt gặp cách mạng. Dưới cái nhìn của Nam    lOMoAR cPSD| 47882337
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 111 – 120       
Cao, trong “thời ại cái tôi”, phần lớn những người  Đức, 1999, tr.348). 
trí thức “nếu không là một “tội nhân” thì cũng là 
Ở ây, Nam Cao có ề cập ến hiện tượng “xê dịch” của 
một “nạn nhân”” (Nam Cao, Đường vô Nam, trong 
Nguyễn Tuân nhưng không phải với ý nghĩa mỉa mai, 
Hà Minh Đức, 1999, tr. 348) của xã hội thuộc ịa 
thông qua ó, nhà văn phê phán những người “ăn 
dưới ách cai trị của thực dân và phong kiến. Đối với 
theo”, “bám uôi” chủ nghĩa xê dịch nhưng cuối 
họ, cuộc sống bấy giờ chẳng khác nào là “ ịa ngục 
cùng “lạc mất” ường về, tìm mãi không có lối thoát. 
trần gian” nên một số trí thức tìm ường ể “thoát ly”. 
Dưới cái nhìn của Nam Cao, ó chưa hẳn là hiện 
Trong ó, trước hết, Nam Cao nhấn mạnh ến hiện 
tượng phổ biến nhất nhưng cũng chiếm một lượng 
tượng “xê dịch” hay “bệnh giang hồ” một thời ã là 
không nhỏ những con người mất ịnh hướng trong 
giấc mơ của bao người trí thức muốn thoát khỏi 
cuộc sống và ó là dấu hiệu áng buồn cho một thế hệ.  cuộc sống tù hãm. Họ: 
Nhưng từ khi có sự soi ường của ánh sáng cách 
… i chỉ ể mà i, i chẳng cần phải ến âu; chỗ nào 
mạng, những con người “lạc lối” ấy giờ ây ã “thức 
người ta cũng nói ến giang hồ, cũng thở dài, rên 
tỉnh hẳn… ã biết nhìn hẳn vào sự thật rồi. Những kẻ 
lên nỗi thèm i, tuy rằng phần ông vẫn ở nhà vì 
i lầm ường thấy ngay rằng mình phải trở về con 
không có thuốc gì cai ược cái cơm ngày hai bữa 
ường úng mà i” (Nam Cao, Đường vô Nam, trong 
của mẹ hay của vợ (Nam Cao, Đường vô Nam, 
Hà Minh Đức, 1999, tr. 349). Con ường ấy là hoàn  trong Hà Minh Đức, 
toàn mới, ó là “chỗ nguy hiểm”, tuy nhiên “nếu  1999, tr. 347 - 348). 
không vui vẻ thì ít nhất cũng bình tĩnh, vững dạ, như 
Hoặc nếu có “xê dịch” ược thì: 
tin chắc chắn rằng thế nào mình cũng trở về, hoặc  nghĩ bụ
phần nhiều các cuộc “giang hồ vặt” của họ chỉ 
ng: “Mình chẳng về nữa thì cũng chẳng làm 
ến xóm cô ầu ã cùng ường ể họ sa vào một chị 
sao cả!”. Họ i, lòng nhẹ nhõm không bịn rịn, không 
Cúc, chị Liên nào ó, học lấy một thứ bệnh khác 
lo lắng. Ai cũng bằng lòng vì ược i” (Nam Cao,  ít ngườ Đườ
i muốn thổ lộ ra như thổ lộ cái bệnh giang 
ng vô Nam, trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 350). 
hồ, nhưng cũng làm họ rên không kém và tai hại 
Đó là “con ường ra mặt trận, con ường cứu nước” 
thì cũng rất mực là tai hại (Nam Cao, Đường vô 
(Nam Cao, Đường vô Nam, trong Hà Minh Đức,  Nam, trong Hà Minh 
1999, tr. 349). Đó là vai trò “khai sáng” của cách  Đức, 1999, tr. 347 - 348). 
mạng ối với nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ. Khi mới 
Đó là những người “ i” không có mục ích, “ i” theo 
hình thành, cách mạng vẫn là iều gì ó xa lạ với quần 
chúng nhân dân, nhưng dù sao cũng ã mang lạ
phong trào, nhận thức còn rất mơ hồ nên dễ dàng  i niềm 
sa chân vào con ường lầm lạc khác. Đó không phải 
tin cho họ, giúp họ thoát khỏi cuộc sống ngột ngạt 
là lý tưởng, là cuộc sống ích thực, ó chỉ là nơi ể họ 
và bế tắc lúc bấy giờ. Họ bước i trên con ường mà 
tìm quên và buông xuôi thực tại. Thứ hai, ó là những 
họ chưa biết tương lai ra sao, nhưng hiện tại nó ã  người i có mục ích: 
tạo niềm tin, sự hy vọng vào một tương lai tốt ẹp. 
Chính niềm tin ó ã tạo nên sức mạnh ể nhân dân 
cái ích ấy hút họ i rất chăm chỉ, rất say mê, họ 
dấn bước. Như vậy, có thể thấy rằng ngay từ khi mới 
mải miết, can ảm, hăng hái bước, bước không hề 
xuất hiện, cách mạng ã thể hiện vai trò lãnh ạo úng 
trầy chân trật gối ở dọc ường, bước chí chết ấy 
ắn và khả năng tập hợp ông ảo lực lượng ể giúp 
mà kết cục cũng không ến ược những nơi cần  ế
nhân dân giành lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc. 
n, những nơi họ vẫn ịnh tâm rằng phải ến. Trái 
Đây là tiếng nói góp phần khẳng ịnh vai trò lãnh ạo 
lại, lại càng xa ra nữa (Nam Cao, Đường vô Nam,  trong Hà Minh    lOMoAR cPSD| 47882337
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 111 – 120       
của Đảng và Nhà nước trong công cuộc ấu tranh 
trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 353), ó là những công 
giải phóng dân tộc khỏi xiềng xích nô lệ. 
tử nhà giàu, cờ bạc, ăn chơi phung phí, lêu lỏng, lếu 
Đối với những người dân “miền ngược”, cụ thể ở 
láo, lười biếng, học lại dốt nhưng giờ ây thì họ ã 
ây là các dân tộc Mán, Mèo, Thổ, cách mạng ã làm 
“giác ngộ” và “thở ra mùi chính trị”. Sau cách mạng, 
thay ổi nhận thức và cuộc sống của họ. Nếu như 
Nam Cao lại tưởng như “ ang mơ” khi gặp lại họ, 
trước ây, họ chỉ sống co hẹp trong bản làng của 
bấy giờ ã trở thành “anh vệ quốc quân” lại chuẩn bị 
dân tộc mình, chỉ tin tưởng vào dân tộc mình mà 
xung phong “tiến vào Nam”, hoặc trở thành lãnh ạo 
không biết ến thế giới bên ngoài, luôn hoài nghi 
giúp làng xã có cuộc sống tốt ẹp hơn: “làm việc rất 
với những dân tộc khác, sống lạc loài, chưa nhận 
hăng, cấm cờ bạc, bài trừ trộm cướp, mở các lớp 
thức ược tính dân tộc, tinh thần yêu nước là gì thì 
bình dân, thúc ẩy việc tăng gia sản xuất” (Nam Cao,  giờ ây: 
Đường vô Nam, trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 355). 
Như vậy, có thể thấy tính chất nhân văn của cách 
Cuộc cách mạng ã ổi hẳn bộ mặt xứ này i. Đổi cả 
mạng, ó là việc cảm hóa con người, giúp con người 
những con người. Con người mới, tin tưởng ở 
nhận thức ược vị trí của bản thân cũng như vai trò 
chính quyền nước mình, tin tưởng ở chính mình 
của mình ối với ất nước. Một con người có ích khi 
và những người sống quanh mình, mất hết cả 
có óng góp cho công cuộc chung của ất nước. Cách 
tính e dè, sợ sệt… không còn sợ núi rừng. Tỉnh 
mạng không phân biệt tầng lớp, giai cấp, không truy 
thành ã trà trộn với thôn quê và miền xuôi ã hòa 
cứu lỗi lầm, giúp con người phát huy ược khả năng 
lẫn cùng miền ngược (Nam 
cũng như tạo iều kiện ể con người hướng thiện. Đó 
Cao, Trên những con ường Việt Bắc, trong Hà 
là iều rất áng quý, nó xóa i mọi mặc cảm, ịnh kiến  Minh Đức, 1999, tr. 490). 
về thân phận, về giai cấp vốn ã tồn tại lâu ời. 
Cuộc sống mở sang trang mới tươi sáng hơn với sự 
Như vậy, có thể thấy rằng, dưới cái nhìn của Nam 
tự nhận thức về vai trò của cá nhân và tinh thần oàn 
Cao, cách mạng là con ường úng ắn ể nhân dân dấn 
kết giữa cộng ồng các dân tộc vì một mục tiêu 
bước bởi nó không chỉ giúp con người thoát khỏi 
chung. Cuộc sống không còn bó hẹp trong khuôn 
“cuộc ời ang ngừng trệ”, một “kiếp sống thảm hại” 
khổ chật hẹp, tù túng, u muội mà ã có nhiều iều “du 
mà sâu xa hơn, nó mang ậm tính nhân văn, khơi gợi 
nhập” và “giao thoa” giữa các vùng miền, dân tộc. 
những bản chất tốt ẹp của con người, kêu gọi sự oàn 
Đó cũng chính là sức mạnh oàn kết mà cách mạng 
kết ể xây dựng một xã hội mới tốt ẹp hơn. Đó là con 
ã mang lại cho những con người nơi núi ồi heo hút 
ường xứng áng ể lựa chọn ể “cả một dân tộc lên  này.  ường” (Nam 
Đối với những phần tử “khó trị”, trước hết là lớp 
Cao, Trên những con ường Việt Bắc, trong Hà Minh 
“người hèn” (Nam Cao, Đường vô Nam, trong Hà  Đức, 1999, tr. 495). 
Minh Đức, 1999, tr. 352), ó là những người có “vợ  ẹ
2.2.2 Khó khăn, gian khổ của những người làm 
p, con khôn, một gia ình quá êm ềm, nhiều khi 
chính là cái chăn nhung ấm áp nó làm người ta ngại  cách mạng  
dậy những buổi sáng mùa ông giá rét” (Nam Cao, 
Trong cuộc ấu tranh cách mạng, những người lính 
Đường vô Nam, trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 352). 
cụ Hồ luôn phải ối mặt với muôn vàn khó khăn, gian 
Đó là những người ăn trắng mặc trơn nhưng “rỗng 
khổ khốc liệt bao gồm sự thiếu thốn về vật chất, 
tuếch” về tinh thần, họ ngại những sự thay ổi, 
những căn bệnh chực chờ, sự hiểm trở của ịa hình, 
những biến cố, những khó khăn vất vả. Hay ó là 
kẻ thù luôn rình rập và bủa vây, cái chết nhan nhản 
những “thằng mất dạy” (Nam Cao, Đường vô Nam, 
trước mắt. Trong bút ký của Nam Cao, những khó    lOMoAR cPSD| 47882337
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 111 – 120       
khăn ấy chưa hiện lên thật chi tiết và sống ộng 
những con ường Việt Bắc, trong Hà Minh Đức, 
nhưng phần nào cũng ã phác họa cho người ọc thấy  1999, tr. 496 - 497). 
ược một số khó khăn của cuộc ời những người làm 
Và bản thân Nam Cao ã phải trải qua những oạn  cách mạng. 
ường gian nan như thế, từ “Trên những con ường 
Đó có thể là những êm phải ngủ ường, ngủ rừng, 
Việt Bắc” ến “Từ ngược về xuôi”, trên ường i chứng 
phải ội nắng dầm mưa ể rồi bị những căn bệnh sốt 
kiến những cảnh “Vui dân công”, ến nỗi có lúc: 
rét quái ác hành hạ hay cướp i sinh mạng khi chân 
mắt hơi hoa lên một chút. Áo ẫm mồ hôi. Cổ thì 
chưa với tới ược miền ất hứa: 
khô cháy. Không thể vào nhà xin nước uống, tôi 
Một buổi chiều nắng gắt, chúng tôi ã gặp một 
nhặt những quả trám trắng rụng nhan nhản ở 
cơn mưa chết người… Chúng tôi chen chúc nhau 
dưới chân ăn. Trám trắng chan chát, lờ lợ, chẳng 
trong một căn lều hẹp bên ường, dưới chân một 
lấy gì làm ngon lắm, nhưng nuốt xong, còn chút 
cái èo cao. Lều dột lung tung. Đứng chỗ nào 
vị ngọt lững lờ trong cổ. Cũng là một cách cho 
cũng bị nước rỏ xuống ầu. Quần áo chúng tôi 
ỡ khát (Nam Cao, Trên những con ường Việt Bắc, 
dần dần bị ướt ẫm. Nền nhà bị lầm lên, bẩn  trong Hà Minh 
không kém gì chuồng lợn. Chúng tôi ứng trong  Đức, 1999, tr. 493). 
ó, ướt át và nhớp nháp, mặt bi thảm và lòng bực 
Nam Cao ở Việt Bắc tổng cộng “vừa úng một năm 
tức (Nam Cao, Vui dân công, trong Hà Minh 
hai tháng mười một ngày” (Nam Cao, Từ ngược về  Đức, 1999, tr. 533). 
xuôi, trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 
Sự bực tức ấy không phải là sự hồi tâm chuyển ý vì  502): 
rời bỏ chăn ấm nệm êm ể vào sinh ra tử mà là sự 
… có en i, có già i, nhưng lại rắn rỏi hơn. Giao 
căm tức ối với kẻ thù, bọn cướp nước, vì chúng mà 
nước cũng chẳng sốt siếc gì. Cái thân thể cò 
cuộc ời chúng ta mới khổ ến thế. Cho nên, người 
hương, cái tâm hồn chỉ một chiều u ám cũng ủ 
chiến sĩ cách mạng càng gian khổ bao nhiêu thì họ 
làm rũ hết, không ngờ lại có sức chống chọi 
càng quyết tâm chiến ấu bấy nhiêu. Đó cũng như là 
ngang bướng ấy (Nam Cao, Từ ngược về xuôi, 
ộng lực giúp con người vượt qua những thử thách 
trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 502 - 503). 
ể tiếp tục chiến ấu. 
Đặc biệt, Nam Cao có dịp chứng kiến và ặc tả nỗi 
Bên cạnh ó, Nam Cao thể hiện sự cảm phục ối với 
cực khổ những oàn dân công di chuyển những nhà 
tinh thần vượt khó của những người cách mạng. Bởi 
máy từ những vùng ịch tạm chiếm. Đó là những con 
với nhà văn, những gian nan vất vả ấy là tưởng 
người bình thường bao gồm nhiều thế hệ, từ già, trẻ, 
chừng như không thể vượt qua nhưng những con 
thanh niên, phụ nữ chân yếu tay mềm phải sử dụng 
người quả cảm ấy ã làm ược, không chỉ nhất thời 
toàn bộ sức lực và trí lực ể phục vụ công việc vận tải  mà là trường kỳ: 
tưởng chừng bất khả thi: 
Ai ã i lại nhiều trên những con ường Việt Bắc, 
Tây vừa nhảy dù hôm trước thì hôm sau, những 
những con ường vượt núi, xuyên rừng, luồn khe, 
xưởng máy hàng ba bốn trăm người làm ã biến 
lội suối, lên xuống hàng trăm cái dốc, mũi chạm 
dần dần từng bộ phận của nó i… Anh em công 
ất và chân sắp khô thì lại ược dầm xuống nước 
nhân xuất lực gấp bốn lần ngày thường ể tháo, 
– ai ã từng i lại nhiều như vậy, ều phải ngạc 
chuyển và chôn giấu. Họ quần quật suốt ngày 
nhiên về cái tài chịu ựng và sự cố gắng của dân 
êm, ăn vội vàng, ngủ qua loa, bỏ cả ánh răng rửa 
mình ể vượt những khó khăn (Nam Cao, Trên 
mặt. Cả một nhà máy lên ường… vượt hàng trăm    lOMoAR cPSD| 47882337
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 111 – 120       
cây số núi rừng ể i nơi khác (Nam Cao, Trên 
2.2.3 Niềm tin và tinh thần lạc quan cách mạng – 
những con ường Việt Bắc, trong Hà Minh Đức, 
biểu hiện của chủ nghĩa anh hùng cách  1999, tr. 497 - 498).  mạng 
Nhưng quả thật “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”, 
Đây là ặc iểm nổi bật nhất trong những tác phẩm 
có những lúc như thế người ta mới công nhận con 
bút ký của Nam Cao bởi ó là những trang viết thể 
người có khả năng “dời non lấp bể” hoặc “tát cạn 
hiện niềm phấn khởi, hân hoan của một tâm hồn 
biển ông”, việc vận tải những trang thiết bị nặng 
ược tái sinh từ cõi u ám. Ở ó, chúng ta không bắt 
nhọc ấy cộng thêm với sự trắc trở của ịa hình khiến 
gặp những nỗi tuyệt vọng, sự lo lắng, hoang mang, 
cho công việc càng khó khăn bội phần, nguy hiểm 
bất ịnh trong cuộc ời mà hầu hết thể hiện nỗi niềm  bủa vây: 
vui sướng khi ược sống trong một cuộc ời mới. 
Niềm hạnh phúc ó là những khi ược hòa vào cuộc 
Có những cái dốc khổ sở, chỉ một người với một 
cái ba lô cũng ã phải u vào từ
sống gian nan, vất vả của ồng bào trong công cuộc  ng cái cây ể kéo  ngườ ấ
i lên. Làm thế nào mà khiêng ược ở những 
u tranh cách mạng. Cho nên, dù cuộc sống có gian 
chỗ như thế này? Đứng vào âu mà khiêng, nếu 
nan, khó nhọc nhưng tràn ầy niềm vui và sự lạc quan.  Theo ó, 
mà tuột chân hay tuột tay một cái thì tránh sao 
cuộc ấu tranh không hiện lên ác liệt với 
khỏi bị gang sắt è giập xương hay gãy cẳng? 
những mất mát au thương, sinh li tử biệt mà ó là  Ngườ
những trang văn thấm ẫm tâm hồn tươi mới, reo vui 
i ta phải dịch i từng bước một, vừa dịch  trướ
vừa chèn, vừa dùng xẻng cuốc ào bực ể dịch 
c sự ổi thay của thời cuộc, của ất nước. Vì vậy,  thêm bướ ó là nhữ
c nữa. Phải ến bốn, năm người phục 
ng trang bút ký thấm ượm chủ nghĩa anh 
hùng cách mạng. Trong ó, những người “anh hùng” 
dịch cho một bộ máy chỉ nặng chừng nửa tạ.  ở
Nếu nặng hơn thì lại càng nhiều sự vất vả… Hàng 
 ây không ai khác hơn ó là tập thể nhân dân Việt 
Nam, từ miền xuôi ến miền ngược, từ nông thôn ến 
mấy chục tấn sắt ã qua oạn ường này và ã vượt 
thành thị, từ trí thức tới nông dân, từ anh trai ến chị 
hàng trăm cây số (Nam Cao, Trên những con 
ường Việt Bắc, trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 
gái, từ em bé ến cụ già, tất cả tạo thành một lực  lượ 497 - 498). 
ng hùng hậu, thống nhất cùng hướng ra mặt trận. 
Có thể nói, sức mạnh tiềm tàng của con người Việt 
Chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong bút ký Nam 
Cao biểu hiện trước hết ở tinh thần xem thường 
Nam vô cùng to lớn. Mỗi khi có giặc ngoại xâm, sức 
những khó khăn gian khổ. Trong vất vả, con người 
mạnh ấy trỗi dậy và sẵn sàng nhấn chìm bọn cướp  nước. Đó là sứ
tìm ược tình yêu thương, ấm áp của tình người, tình 
c mạnh tổng hợp của khối ại oàn kết 
dân tộc, tình ồng chí. Khi ó, khó khăn trở thành 
dân tộc, từ hậu phương ến tiền tuyến, từ thế hệ này 
“dịp” ể con người sum vầy bên nhau: 
sang thế hệ khác. Do ó, Nam Cao ã không ngoa khi 
cho rằng: “dường như chẳng có một cái gì khó ối 
Ngủ ường cũng là một cái vui. Giữa những người 
với chúng ta. Cái gì cần làm, cái gì muốn làm, chúng 
ồng chí không quen mà lại rất thân, ấm vô cùng. 
ta ều cho là làm ược, và cố làm cho bằng ược” (Nam 
Họ bắc á, ốt lửa, thổi cơm. Ăn cơm rồi, vẫn ể lửa, 
Cao, Trên những con ường Việt Bắc, trong Hà Minh 
vừa ỡ muỗi, vừa vui. Lửa lập lòe. Một cuộc cắm  Đức, 
trại hàng ba bốn trăm người. Nhưng thật tình  1999, tr. 497). 
những người mệt nhọc nằm ngồi lố nhố ở quanh 
tôi, không thấy khổ (Nam Cao, Vui dân công, 
trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 532).    lOMoAR cPSD| 47882337
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 111 – 120       
Thật vậy, hình ảnh những con người xa lạ có thể tập 
Tôi không ghét gì bằng thi vị hóa cuộc ời. Nhưng 
hợp và ngồi cạnh bên nhau, cùng chia ngọt sẻ bùi, 
thật tình từ hồi kháng chiến, mặc dầu những tàn 
cùng sống trong cảnh “rừng hoang sương muối” là 
phá, chết chóc chia lìa cực kỳ au ớn, bộ mặt 
những khoảnh khắc mà trong hàng mấy mươi năm 
nước mình vẫn có vẻ tươi trẻ, vui mạnh hơn lên 
trước nào ai biết ược. Cho nên, dù ó là sự sum vầy 
(Nam Cao, Trên những con ường Việt Bắc, trong 
trong thiếu thốn, cực nhọc nhưng những người 
Hà Minh Đức, 1999, tr. 495). 
cách mạng không cảm thấy “khổ”. Con người ta 
Chính vì thế, từ những khó khăn gian khổ ấy, con 
thấy khổ khi ở giữa ám ông nhưng cảm thấy lạc loài. 
người cần phải tìm ược niềm vui ể vững tâm bước 
Nhưng ở ây không còn sự lạc loài. Mọi người trò 
tiếp trên chặng ường chông gai ầy thử thách ấy. Nếu 
chuyện, quan tâm lẫn nhau giống như người chung 
chỉ biết bi quan, lụy phiền thì khó khăn chỉ làm thêm 
một họ, một làng. Chính tình người nhân ái ã làm 
chùng bước. Do ó, sức mạnh của dòng “thác người” 
ấm lại biết bao trái tim tưởng ã nguội lạnh và ang 
ấy ã khiến cho “Chúng tôi không thể nào sầu thảm 
thèm khát ược tái sinh và bùng cháy. Và giờ ây họ ã 
nữa… Thác vui ổ xuống ã làm trời ột nhiên như 
thực sự bùng cháy. Họ quan niệm: “Cuộc kháng 
sáng bừng lên. Màu núi thêm tươi và lòng chúng tôi 
chiến càng gần thắng lợi thì càng chật vật, nhưng 
phấn khởi” (Nam Cao, Vui dân công, trong Hà Minh 
càng chật vật thì lại càng thắng lợi” (Nam Cao, Vui 
Đức, 1999, tr. 534). Với cách nói giàu hình ảnh, 
dân công, trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 532). Nhận 
Nam Cao ã cho thấy ược tâm trạng phấn khởi, niềm 
thức ược mối quan hệ biện chứng ấy nên dù có trải 
hân hoan, nhận thức tinh khôi, mới mẻ về con ường 
qua trăm ngàn khó khăn, tốn bao nhiêu mồ hôi nước 
cách mạng. Nó không khắc họa “cái bi” ể làm ộng 
mắt thậm chí cả xương máu họ cũng không ngần 
lực chiến ấu mà khắc họa “cái ẹp” ể gieo niềm tin  ngại. 
vào công cuộc chiến ấu. 
Bên cạnh ó, ó còn là cái nhìn thi vị về những con 
Thứ hai, con người cách mạng xem thường sự nguy 
người cần lao trong những cuộc hành quân gian khổ: hiểm và vẫn giữ ược sự iềm tĩnh trong chiến tranh. 
Hàng trăm người khiêng gánh – nhiều như mối 
Dân tộc Việt Nam vốn yêu chuộng cuộc sống hòa 
sau một trận mưa rào – từ trên ồi ổ xuống, tảo 
bình nên bằng mọi cách họ luôn tìm cách duy trì và 
ra ở trên dốc thành hai, ba dòng uốn éo. Những 
giữ vững cuộc sống bình yên, an lành: 
dòng người như chạy thi với những dòng nước 
Cánh ồng rất thái bình. Lúa xanh rờn, lúa có òng 
cũng thi nhau lao xuống dốc, thành những dòng 
òng hay ã chín hẳn, bông nặng trĩu. Đã lác ác có 
uốn éo… Đến lưng chừng èo, chỉ còn một lối i, 
người i gặt… Người i buôn ồn ào trong các chợ, 
những dòng người chập lại nhau. Cả một thác 
tấp nập trên các con ường, tươi cười trong quán 
người xuống, mạnh hơn thác nước… (Nam Cao, 
nước, hàng cơm (Nam Cao, Từ ngược về xuôi, 
Vui dân công, trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 534). 
trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 503 - 504). 
Sử dụng biện pháp so sánh cùng với góc nhìn của 
 Trong những bức tranh cuộc sống ấy không có gam 
người họa sĩ, Nam Cao ã làm nên một bức tranh về 
màu xám của sự chết chóc và tang thương mà tràn 
oàn dân công ang vận tải mang màu sắc lãng mạn. 
ầy màu sắc tươi xanh của sự sống, của niềm vui thái 
Đó như là một cuộc diễu hành chứ không phải một 
bình, an cư lạc nghiệp. Bức tranh sinh hoạt ời 
cuộc hành quân. Nhưng không vì thế mà tác giả tự 
thường ấy dù chỉ là trong chốc lát nhưng cũng ủ làm 
tách mình ra khỏi cuộc sống gian khổ ể thi vị hóa 
cho con người tin yêu hơn vào cuộc sống và tiếp tục 
cuộc sống, Nam Cao từng khẳng ịnh: 
bám ất, bám làng ể giành lại sự sống cho bản thân,    lOMoAR cPSD| 47882337
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 111 – 120       
gia ình và cả ất nước. Nhưng cuộc sống ấy cũng 
những con ường Việt Bắc, trong Hà Minh Đức, 
không hẳn bình yên bởi sự quấy phá của kẻ thù: 
1999, tr. 497). Chính sự kiên trì, cần cù và nhẫn nại, 
Hai người nhảy cả xuống sông. Một người bám 
tinh thần oàn kết cùng vượt khó khăn gian khổ ã 
lấy một sợi dây buộc vào thuyền, cứ chạy quanh 
tạo nên sức mạnh ấy. Nam Cao ã phát hiện ra phẩm 
cái thuyền ể tránh làn ạn của máy bay. Nước bắn 
chất quý báu ấy của con người Việt Nam, càng trong 
tóe lên ở chung quanh. Nhưng họ không chết. 
gian khổ thì sức sống càng mãnh liệt, nó “ ang ộ lớn 
Thuyền cũng không trúng ạn. Trong khi ấy, ở 
lên, rất dồi dào. Nay mai, những xiềng xích tháo 
cánh ồng vẫn gặt. Người i ường vẫn cứ i. Ông 
tung rồi, chúng ta sẽ lớn rất mau và rất mạnh” (Nam 
giáo ở trường bên ọc chính tả vẫn choang 
Cao, Đường vô Nam, trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 
choang (Nam Cao, Từ ngược về xuôi, trong Hà 
358). Đó là một sức sống dẻo dai, bền bỉ sinh sôi 
Minh Đức, 1999, tr. 504 - 505).  nảy nở: 
Đó là tinh thần “sống chung với lũ” của nhân dân 
Có những cái ấy nếu người ta cắt ngọn nó i, nó 
vùng ịch tạm chiếm. Sống trong nguy hiểm, con 
sẽ mọc lên rất nhiều cành. Nếu người ta cắt một 
người càng mạnh mẽ và chiến ấu càng kiên cường, 
cái cành của nó i, nó sẽ mọc mười cái cành khác. 
quyết liệt. Hình ảnh ấy gợi cho người ọc như một trò 
Sức sống mạnh mẽ, cần có ể vọt ra, một ô thị cũ 
chơi “cút bắt” của trẻ con, nó không mang tính ác 
của chúng ta bị phá hủy hay bị thối, hàng chục 
liệt, thảm khốc mà ngược lại, ó như là chuyện vui 
năm mầm ô thị khác mọc ra. Sức sống quá dồi 
thường ngày ược kể. Con người vẫn luôn giữ vững 
dào, không bao giờ chịu ể vùi dập cả. Tôi có thể 
ược tinh thần trong những cơn chấn ộng, nguy biến, 
oán trước rằng những mầm ô thị mới mọc hiện 
có như thế mới chiến ấu ến cùng trong cuộc chiến 
nay sẽ thành những ô thị lớn ngày mai. Ngay 
trường kỳ với kẻ thù lớn mạnh. Đó chính là sức 
trong cảnh tàn phá chiến tranh, ngay trong cơn 
mạnh vô song mà không có kẻ thù nào có thể tàn 
rung chuyển bão táp những mầm non ã nhú, bộ 
phá nổi. Nói như Nam Cao: 
mặt của Việt Nam tương lai ã lờ mờ hiện 
(Nam Cao, Trên những con ường Việt Bắc, trong 
Cái nghị lực của dân tộc ta là một thứ nghị lực 
Hà Minh Đức, 1999, tr. 500). 
bình tĩnh, lặng lẽ, tiềm tàng. Nó không nổ tung 
ra một cách ầm ĩ như trái phá, cốt mìn. Nó 
Với cái nhìn của con người mới bước chân vào con 
không chuyển ất rung trời như núi lửa. Nó là 
ường cách mạng, Nam Cao ã sớm tiếp thu ược tư 
dòng sông cần cù, êm ngày mài giũa ôi bờ ể tạo 
tưởng cách mạng cũng như không ngần ngại thể 
cho mình một con ường rộng mãi ra, êm ngày 
hiện niềm tin yêu, hân hoan về một cuộc ời mới mà 
bồi ắp những cánh bãi phì nhiêu và ngày càng 
cách mạng mang lại. Đó không phải là sự tiếp thu 
bát ngát. Nó biểu lộ ra ngoài một cách giản dị và 
thụ ộng một chiều mà nó ược úc kết từ những trải 
thản nhiên, gần như không tự biết (Nam Cao, 
nghiệm thực tế của nhà văn. Chính vì thế, những 
Trên những con ường Việt Bắc, trong Hà Minh 
trang bút ký của Nam Cao “là những ký họa sinh  Đức, 1999, tr. 496). 
ộng, tràn ngập không khí lạc quan, có những hình 
ảnh giản dị, ẹp ẽ về chủ nghĩa anh hùng, tất cả toát 
Thứ ba, con người cách mạng luôn có niềm tin 
lên vẻ ẹp và sức mạnh tinh thần của bộ ội, nhân dân 
tưởng vào một tương lai tươi sáng hơn, tốt ẹp hơn. 
trong chiến dịch” (Đỗ Đức Hiểu & cs., 2004, tr. 
Trước hết, ó là niềm tin vào sức mạnh của dân tộc:  1028). 
“Dường như chẳng có một cái gì khó ối với chúng 
ta. Cái gì cần làm, cái gì muốn làm, chúng ta ều cho 
là làm ược, và cố làm cho bằng ược” (Nam Cao, Trên    lOMoAR cPSD| 47882337
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 111 – 120       
2.2.4 Tinh thần tự vấn 
ta ều có những người thân thuộc của chúng ta… 
Nhận xét về con người của Nam Cao, Nguyễn Đăng 
Không ến chỗ nào chúng ta bị cái cảnh quê  Mạnh ã viết rằng: 
người ất khách. Trái lại, ở âu ta cũng có cảm giác 
là ở một nơi thân thuộc 
… ông không phải thần thánh gì, nghĩa là cũng 
(Nam Cao, Trên những con ường Việt Bắc, trong 
có ủ cái ưu cái khuyết thường thấy ở những  Hà Minh Đứ ngườ c, 1999, tr. 489). 
i trí thức tiểu tư sản. Sau này khi ã tham gia 
cách mạng, ông cũng không phải ã thanh toán 
Hòa mình vào cuộc sống chiến ấu gian khổ, Nam 
ược mọi thói tật của mình. Nhưng iều áng quý 
Cao nhận thức rằng ó mới chính là bản chất của 
là ông luôn lấy làm xấu hổ về những chỗ hèn 
cuộc sống, là nơi áng sống và nên sống. Bởi vì ở ó 
kém của mình và quyết ấu tranh với bản thân ể 
nhà văn cảm thấy không bị cô lập, không ơn ộc, 
vươn lên cái úng, cái ẹp, cái tốt (Nguyễn Đăng 
không có sự phân biệt giàu nghèo, ẳng cấp. Ở ó, con  Mạnh, 2006, tr. 236). 
người biết thương yêu và ùm bọc lẫn nhau, cùng 
chung một nhiệm vụ, lý tưởng, chung một tiếng nói. 
Nhận xét ấy của Nguyễn Đăng Mạnh úng với cả hai  giai oạ
Tiếng gọi “ ồng chí” nghe thân thương và ấm áp biết 
n sáng tác của Nam Cao. Nếu như trước cách 
bao, như xóa i khoảng cách hàng nghìn năm trước 
mạng, Nam Cao thể hiện gián tiếp tinh thần tự vấn 
ó, như kéo lại gần những con người vốn xa lạ nhưng 
thông qua việc khắc họa bản thân mình trong hình  ả
vẫn có chung cội nguồn là con Rồng cháu Tiên. 
nh các nhân vật với những tính cách yếu kém thì 
Chính vì thế, thế giới quan trong sáng tác của Nam 
sau cách mạng, Nam Cao trực tiếp “tự thú” bằng 
Cao sau cách mạng không còn hướng ến một vài 
chính những phát ngôn nghệ thuật của mình. Điều 
cảnh ời bất hạnh mà ó là cảnh ời gian nan khổ cực 
này hoàn toàn phù hợp với ặc iểm của bút ký bởi ó  là nơi ghi nhậ
nhưng vui tươi của những con người ang “bay theo 
n và giãi bày những cảm xúc của tác 
ường dân tộc ang bay” (Chế Lan Viên). Việc tự nhận 
giả. Ở ây, chủ yếu Nam Cao ề cập ến sự chuyển biến 
trong tư tưởng cũng như nhữ
thức ược sự thay ổi về tư tưởng như thế không phải  ng hạn chế của bản 
hiếm hoi ối với các nhà văn tiền cách mạng, tuy 
thân trên con ường dấn thân làm cách mạng. 
nhiên, nhận thức ở mức ộ nông sâu và tính cấp thiết 
Đối với bản thân Nam Cao, ông nhìn nhận sự thay 
trong giai oạn nhận ường này là một bước ngoặt rất 
ổi trong tư tưởng của mình theo chiều hướng tích 
lớn ối với cả một thế hệ nhà văn bấy giờ. 
cực. Nếu như trước ây, thế giới quan trong sáng tác 
Khi bước chân vào con ường sương gió, Nam Cao 
của Nam Cao chủ yếu là cuộc sống quẩn quanh, 
nhiều lần “tự phê bình” bản thân khi thấy mình còn 
nghèo túng, bế tắc của người trí thức tiểu tư sản và  ngườ
thiếu sót và thua kém. Đó có thể là những lúc “tự 
i nông dân nghèo thì giờ ây, tác giả khẳng ịnh:  “Chưa bao giờ
chế giễu” mình khi nhìn nhận lại một chặng ời ã qua 
 tôi thấy ời thanh xuân ến thế và  không khí ngon lành ế khi Nam Cao nhắc ến 
n thế” (Nam Cao, Vui dân 
“bệnh xê dịch”: “Chính tôi cũng chỉ là một trong 
công, trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 531 - 532). Thế 
bọn ó thôi. Tôi nhắc lại ây ể mà cười, như người ta 
giới quan của nhà văn bây giờ không còn bó hẹp 
cười khi nhắc ến những cái lầm lỗi, iên rồ của chính 
trong phạm vi một vài ối tượng riêng lẻ nào mà nhà  văn hướng ế
mình một thời ã qua rồi” (Nam Cao, Đường vô Nam, 
n một thế giới ấm áp tình người. Ở ó có  trong Hà Minh Đứ sự
c, 1999, tr. 349). Cái cười ó vừa 
 bình ẳng và thương yêu lẫn nhau: 
có vẻ quê quê, vừa có vẻ hối cãi nhưng cũng không 
Từ khi xảy ra kháng chiến, có dịp thay ổi chỗ ở 
kém hóm hỉnh bởi tự mình trêu ùa mình. 
rất nhiều, tôi mới tìm ra iều này thật ấm lòng, là 
ở bất cứ chỗ nào trên ất nước Việt Nam, chúng    lOMoAR cPSD| 47882337
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 111 – 120       
Nhưng không chỉ có thế, khi dấn thân sâu vào cuộc 
Đặc biệt hơn cả, trên trang viết của Nam Cao, ta bắt 
ời cách mạng, Nam Cao còn nhận ra nhiều yếu kém 
gặp những suy tư, trăn trở về vai trò của người cầm 
của bản thân, trong ó chủ yếu là nhà văn tự nhận 
bút ối với cuộc ấu tranh cách mạng: 
mình là “kẻ nhát”, “hèn” vì cảm thấy lo sợ khi sống 
Nhưng không hiểu sao tôi vẫn thấy tui tủi thế 
trong chiến tranh. Đó có thể là nỗi lo khi một thân 
nào ấy. Cây bút của tôi bất lực. Nó không khạc 
một mình bôn ba trong êm ngay sát trong lòng ịch. 
ra lửa và ạn như cây súng. Nó ì ạch chạy theo 
Tác giả cảm thấy mối nguy luôn chực chờ nên sợ hãi: 
phong trào mãi mà không kịp. Các bạn tôi cũng 
“Rõ thật là anh chàng nhát gan vừa ở một chỗ an 
ều thấy na ná như tôi. Họ thấy rằng bàn tay họ, 
toàn ến! Tôi tự cười tôi như vậy” (Nam Cao, Bốn cây 
nếu chưa cầm súng một phen thì cầm bút cũng 
số cách một căn cứ ịch, trong Hà Minh Đức, 1999, 
vụng về (Nam Cao, Đường vô Nam, trong Hà 
tr. 514), ể khi thấy dân chúng “lẻn” về làng ể lấy  Minh Đức, 1999, tr. 357). 
lương thực và hàng hóa i tản cư một cách thản 
Nam Cao tự cho mình là kẻ bất lực và vô dụng trong 
nhiên và vui vẻ thì “Tôi lại càng thấy tôi là hèn” 
cuộc chiến máu lửa của ất nước. Bởi lúc ấy, cuộc 
(Nam Cao, Bốn cây số cách một căn cứ ịch, trong 
sống vận ộng gấp gáp và sôi nổi, chỉ có cầm vũ khí 
Hà Minh Đức, 1999, tr. 514). Hay như cảm giác bản 
chiến ấu mới theo kịp những trang sử mới, còn ngòi 
thân “lạc hậu” so với thời cuộc khi từ miền ngược 
bút luôn i sau ể ghi chép lại một thời ã qua. Điều ó  trở về miền xuôi: 
thể hiện ược tấm lòng của con người năng ộng 
…về giữa họ, tôi thấy tôi là một thằng nhút nhát. 
muốn làm chủ cuộc sống, hăng hái hòa mình bắt kịp 
Và lạc hậu” bởi “Mới về ến Sơn, tôi ã hỏi người  nhịp sống mới. 
ta ủ thứ. Đêm ngủ ở ây có ược không? Chúng nó 
Việc thể hiện cảm xúc của tác giả trong bút ký là một 
tiến thế nào? Nếu gặp chúng nó thì nên chạy  iề như thế
u hiển nhiên, nhưng việc phơi bày những hạn chế 
 nào? Nên i bộ hay i ò? Đi êm hay i ngày?  (Nam Cao, 
của mình một cách chân thành trên trang viết thì 
Từ ngược về xuôi, trong Hà Minh  Đứ
mấy ai ã làm ược. Nhưng Nam Cao ã làm ược. Ông  c, 1999, tr. 503). 
không ngần ngại “vạch áo cho người xem lưng” bởi 
Nhưng âu biết rằng “Đồng bào miền xuôi ã i sâu 
theo nhà văn, ó không phải là một iều gì xấu mà nó 
vào kháng chiến. Tàu bay, tiếng súng, giặc cướp 
thể hiện quan niệm cũng như nhận thức về sai lầm 
làng… ã thành chuyện hàng ngày” (Nam Cao, Từ 
và sửa ổi. Có thể nói, nói lên ược khuyết iểm của 
ngược về xuôi, trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 503). 
người khác ã là dũng cảm, nhưng nói lên ược hạn 
Đó như là một tiếng cười trêu ùa hóm hỉnh của nhà 
chế của chính mình là một sự dũng cảm hơn. Nam 
văn ối với bản thân. Nhưng thực chất ó là cảm giác 
Cao ã chiến thắng ược tư tưởng hạn hẹp. Điều ó thể 
chân thật nhất của tác giả khi trải qua những 
hiện bản lĩnh của con người dám nghĩ, dám làm, 
khoảnh khắc sống ộng như thế. Đó là một iều có thể 
dám ấu tranh với cái xấu dù cho nó tồn tại trong 
cảm thông và chia sẻ ược. Bản thân Nam Cao ã 
chính bản thân mình. Những biểu hiện “tự vấn” trên 
không tự “tâng bốc” hay “vẽ vời” thêm về bản thân 
thể hiện úng bản chất của giai oạn nhận ường, ể 
khi ứng trước những khó khăn, nguy hiểm trong 
thấy ược cuộc ời thay ổi, trước hết phải thấy ược sự 
cuộc chiến. Từ ó, cho ta cái nhìn về nhà văn ở góc ộ 
thay ổi trong bản thân mình. 
ời tư thật hơn, gần gũi hơn mà không phải thi vị hóa  3. KẾT LUẬN  hình ảnh tác giả. 
“Sống ã rồi hãy viết” (Nam Cao, Đường vô Nam, 
trong Hà Minh Đức, 1999, tr. 357), ó là tuyên ngôn 
nghệ thuật của Nam Cao giai oạn sau Cách mạng    lOMoAR cPSD| 47882337
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 111 – 120       
tháng Tám. Bản thân nhà văn ã tuân thủ theo quan 
niệm này khi viết những trang bút ký. Đó là những 
trải nghiệm mà bản thân tác giả ã nếm trải trên con 
ường ấu tranh cách mạng. Nhờ ó, nhà văn mới thấu 
hiểu thêm những mảng hiện thực mà trước ây bản 
thân chưa ược biết ến. Đó là những trang viết chân 
thật, sinh ộng, những rung ộng trong trái tim và tâm 
hồn của một con người mới trước thời cuộc mới, 
những suy nghĩ chín chắn hơn và cách nhìn ời tin 
yêu, lạc quan hơn. Tất cả ã góp phần thể hiện chủ 
nghĩa anh hùng và tư tưởng lạc quan cách mạng 
trong văn học Việt Nam giai oạn sau Cách mạng 
tháng Tám. Đó là óng góp quan trọng của bút ký nói 
riêng và sáng tác của Nam Cao nói chung trong giai 
oạn ầu của văn học cách mạng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu 
& Trần Hữu Tá (chủ biên). (2004). Từ iển Văn học 
(bộ mới). TP HCM: Nhà xuất bản Thế giới. 
Hà Minh Đức. (1961). Nam Cao nhà văn hiện thực 
xuất sắc. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn hóa. 
Hà Minh Đức (sưu tầm, giới thiệu). (1999). Nam  
Cao toàn tập, tập III. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn  học. 
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử & Nguyễn Khắc Phi 
( ồng chủ biên). (2000). Từ iển thuật ngữ văn 
học. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà  Nội. 
Nguyễn Đăng Mạnh. (2006). Nhà văn Việt Nam 
hiện ại, Chân dung & phong cách. Hà Nội: Nhà  xuất bản Văn học. 
Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn 
Hoành Khung, Lê Chí Dũng & Hà Văn Đức. 
(1999). Văn học Việt Nam 1900 - 1945. Hà Nội: 
Nhà xuất bản Giáo dục.