











Preview text:
TIỂU LUẬN PHÂN TÍCH NHỮNG ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ NỔI BẬT CỦA PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Từ xưa đến nay, phụ nữ bao giờ cũng là một lực lượng quan trọng và đông đảo trong đội ngũ những
người lao động tạo dựng nên xã hội. Phụ nữ thể hiện vai trò quan trọng của mình trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Có thể nói rằng, trong cuộc sống hiện đại, người phụ nữ có vai trò rất lớn. Nếu gia đình
được coi là tế bào của xã hội thì người phụ nữ được coi là hạt nhân của tế bào này. Gia đình là nơi thể
hiện thực chất sự bình đẳng và nâng cao địa vị của người phụ nữ. Bên cạnh đó, người phụ nữ của thời
hiện đại càng không thể tách rời với thực tế gia đình và xã hội. Phụ nữ ở bất cứ thời đại nào, quốc gia,
dân tộc nào cũng giữ vai trò trọng yếu trong việc sáng tạo, giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc.
Trong suốt chiều dài lịch sử, phụ nữ Việt Nam đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, xây dựng đất nước ngàn năm văn hiến, tạo dựng nên truyền thống bản sắc của người
Việt nói chung và truyền thống riêng của phụ nữ Việt Nam “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.
Người phụ nữ trong xã hội phong kiến đã đứng lên lãnh đạo khởi nghĩa giải phóng dân tộc trong đó có
cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (Trưng Trắc và Trưng Nhị) nổ ra vào mùa xuân năm Canh Tý (40 Công
nguyên) là cuộc khởi nghĩa đầu tiên của nhân dân Âu Lạc toàn diện và rộng khắp, chống lại thế lực phong
kiến phương Bắc ở đầu Công nguyên. Ở đây người phụ nữ đã thể hiện được vai trò lãnh đạo toàn diện
và phát huy được phẩm chất năng lực của mình. Phụ nữ luôn có vai trò quan trọng trong suốt lịch sử
chống ngoại xâm của dân tộc ta.
Trong thời đại hiện nay so với các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc phụ nữ Việt Nam được xã hội nhìn
nhận một cách nhẹ nhàng và tích cực hơn. Điều này được quy định bởi nhiều yếu tố khác nhau, trong đó
văn hóa là một yếu tố nền tảng. Được xã hội thừa nhận dù không được công bằng như nam giới song
phụ nữ Việt Nam đã từng bước định hình vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng, góp phần to lớn vào quá
trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Ngày nay, phụ nữ Việt Nam tiếp
tục vượt qua mọi thành kiến và thử thách, vươn lên đóng góp tích cực vào đời sống kinh tế - xã hội, duy
trì ảnh hưởng rộng rãi và phát huy vai trị của mình trên nhiều lĩnh vực như: tham gia quản lý nhà nước;
hoạt động nghiên cứu khoa học; đẩu tư phát triển sản xuất, quản trị doanh nghiệp; tham gia cơng tác
xóa đói giảm nghèo; phòng chống tệ nạn xã hội; thúc đẩy hoạt động đối ngoại… Ngày càng có nhiều
người trở thành chính trị gia, nhà khoa học nổi tiếng, nhà quản lý năng động, nhà hoạt động xã hội uy
tín… Phụ nữ Việt Nam thật xứng đáng với danh hiệu “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”. Phụ nữ là “một nửa
của thế giới”, được nhân loại trân trọng vinh danh là “phái đẹp” - đẹp trong mọi hành động, đẹp cả tâm
hồn và đức hy sinh, đã được thực tế khẳng định. Đúng như đại văn hào người Pháp Victor Hugo đã từng
ca ngợi: “Bên cạnh ánh sáng lung linh của các vì sao cịn có ánh sáng êm dịu và huyền bí của tâm hồn người phụ nữ”.
2. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu và phân tích những đặc điểm nổi bật của phụ nữ Việt Nam qua đó nêu
lên những cách thức truyền thông đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay. 3. Nhiệm vụ
- Phân tích những đặc điểm tâm lý của phụ nữ Việt Nam hiện nay.
- Nêu những cách thức truyền thông đối với phụ nữ Việt Nam.
3. Kết cấu của tiểu luận:
- Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo ra thì tiểu luận được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về sự hình thành tâm lý phụ nữ Việt Nam.
Chương 2: Đặc điểm tâm lý phụ nữ Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Cách thức truyền thông với phụ nữ.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ HÌNH THÀNH TÂM LÝ PHỤ NỮ VIỆT NAM
1.1 Khái niệm tâm lý phụ nữ.
- Tâm lý học là khoa học nghiên cứu về đời sống tinh thần của con người. Nhiệm vụ của tâm lý học là
nghiên cứu sự nảy sinh, phát triển, diễn biến của các hiện tượng, quá trình, trạng thái, thuộc tính,
quy luật tâm lý của con người.
- Tâm lý là tất cả các hiện tượng tinh thần xảy ra trong đầu óc con người, nó gắn liền và điều hành
mọi hành vi, hoạt động của con người.
- Đặc điểm tâm lý là tất cả những hiện tượng tinh thần nảy sinh trong đầu óc chúng ta, nó tham gia
điều khiển, điều chỉnh những hành vi, hành động, hoạt động của con người. Những đặc điểm của
hiện tượng tâm lý con người vô cùng phong phú, đa dạng, bí ẩn và tiềm tàng, các hiện tượng
tâm lý rất đa dạng, nhưng chúng có quan hệ với nhau rất chặt chẽ tâm lý là hiện tượng tinh thần,
tồn tại trong đầu óc chúng ta. Chúng ta không thể nhìn thấy, cân, đong, đo, đếm nó một cách trực tiếp.
- Phụ nữ, Nữ giới hay đàn bà là từ chỉ giống cái của loài người. Phụ nữ thường được dùng để chỉ một người trưởng thành.
- Tâm lý phụ nữ là những hiện tượng tinh thần xảy ra trong đầu óc phụ nữ, nó vô cùng phong phú,
đa dạng và chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
1.2 Cơ sở hình thành tâm lý phụ nữ Việt Nam.
1.2.1 Vai trò người phụ nữ Việt Nam từ xưa đến nay.
Từ thời đại nguyên thuỷ cho đến ngày nay, các thế hệ phụ nữ từ đời này qua đời khác nối tiếp nhau đã
sống trên giải đất Việt Nam. Chính những người phụ nữ nguyên thuỷ ở Việt Nam - bằng lao động và tổ
chức lao động, bằng việc gây dựng và điều khiển các cộng đồng thân tộc của họ, bằng việc gây dựng và
điều khiển các cộng đồng thân tộc của họ, bằng các hoạt động xã hội mà họ là người quản lý – đã đảm
bảo cho sự khẳng định của con người trở thành hiện thực ở Việt Nam thời nguyên thuỷ.
Nếu ở thời đại nguyên thuỷ, phụ nữ là người chủ yếu giữ việc hái lượm, tham gia cả vào việc săn bắt, rồi
làm nghề nông nguyên thuỷ, chăn nuôi, thủ công cùng với những việc trong nhà, thì đến thời đại xã hội
có giai cấp, ở Việt Nam, người phụ nữ vẫn là người tham gia đầy đủ vào tất cả các khâu lao động trong
xã hội và gia đình, trong khi ở nhiều nơi trên thế giới cổ đại, diện hoạt động của người phụ nữ chỉ còn
thu lại trong các công việc gia đình mà thôi. Nếu ở hầu hết thời đại nguyên thuỷ, phụ nữ là người đứng
đầu cộng đồng thân tộc của họ, thì đến thời đại xã hội có giai cấp, trong khi ở nơi này nơi khác, gia đình
là do người đàn ông làm chủ nhưng ở Việt Nam, điều đó chỉ có trên danh nghĩa, còn trong thực tế, người
phụ nữ vẫn là người điều khiển hầu hết công việc gia đình. Nếu ở hầu hết thời đại nguyên thuỷ, phụ nữ
là người lãnh đạo và tham gia vào tất cả các hoạt động xã hội, thì đến thời đại xã hội có giai cấp, trong
khi ở nơi này nơi khác, phụ nữ mất hẳn chức năng ấy, thì ở Việt Nam, đông đảo phụ nữ vẫn là những
“công dân chính trị” rất độc đáo.
Trong hàng vạn năm của xã hội nguyên thuỷ, rồi hàng nghìn năm của xã hội có giai cấp ở Việt Nam, vai
trò của người phụ nữ trong lao động sản xuất, trong tổ chức gia đình và trong các công việc xã hội là có
tính chất truyền thống, liên tục. Chỉ có tuỳ nơi, tuỳ lúc, mới có những biến thiên giảm sát nhất định,
nhưng nhiều nhất vẫn chỉ là ở vấn đề tham chính – do bị chế độ phong kiến ra sức gò bó, chèn ép mà thôi.
Chính là nhờ đó mà, nếu vấn đề lớn nhất của thời đại các xã hội có giai cấp ngày xưa ở Việt Nam là việc
dựng nước và giữ nước, thì chính người phụ nữ Việt Nam, bằng việc là lao động sản xuất, bằng việc điểu
khiển công việc gia đình, bằng các hoạt động xã hội - chủ yếu là việc tham gia đánh giặc và đấu tranh xã
hội – đã góp phần cống hiến rất lớn trong suốt bốn nghìn năm lịch sử của dân tộc.
Đến thời cận đại, trong gần một thế kỷ dưới ách thống trị thực dân, vai trò truyền thống của những
người phụ nữ Việt-nam vẫn được duy trì. Và đây là nét nổi bật nhất ở thời gian này: trong khi vẫn thực
hiện chức năng lao động sản xuất và quán xuyến việc nhà, người phụ nữ đã tham gia mạnh mẽ hơn vào
các phong trào yêu nước và các hoạt động cứu nước, đặt biệt là từ khi có sự lãnh đạo của Đảng tiền
phong. Nếu vấn đề lờn nhất của lịch sử thời kỳ này là sự giải phóng dân tộc, làm cách mạng dân tộc –
dân chủ, thì chính những người phụ nữ đã giữ một vai trò xứng đáng góp phần giải quyết vấn đề đó.
Bước sang thời kỳ cách mạng hiện đại, giành chính quyền về tay nhân dân, kháng chiến lần thứ nhất
chống thực dân Pháp để bảo vệ độc lập rồi xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất đất nước,
đặc biệt là kháng chiến lần thứ hai, chống Mỹ cứu nước, tất cả những nhiệm vụ đó của cách mạng, được
thực hiện thắng lợi, đều nhờ có những cống hiến to lớn của phụ nữ.
Như thế, liên tục, đều đặn trong hàng nghìn năm của lịch sử, người phụ nữ Việt Nam đã đảm nhiệm vai
trò truyền thống của họ trên các lĩnh vực sản xuất, chiến đấu một cách xuất sắc. Từ những điều cụ thể
đó, đã nói lên đặc điểm có tính cách bao trùm và nhất quán của người phụ nữ Việt Nam. Ấy là vai trò to
lớn của họ trong lịch sử Việt Nam xuyên suốt các thời đại. Chính hiện thực lịch sử này đã góp phần làm
sáng tỏ một đặc điểm quan trọng mà nhiều nhà nghiên cứu đã nói đến, là vai trò to lớn của quần chúng
nhân dân trong tất cả các thời đại ở Việt Nam trong đó có vai trò to lớn của phụ nữ Việt Nam.
Vậy thì có thể hình dung ra ba con người khác nhau, nhưng thống nhất, tập trung ở người phụ nữ Việt
Nam, tương ứng với ba vai trò truyền thống của họ trong động sản xuất, trong đấu tranh xã hội và trong
xây dựng gia đình. Nhìn vào người phụ nữ Việt Nam, chúng ta sẽ thấy hiện ra ba con người rõ nét nhất:
Người lao động, Người nội trợ và Người chiến sĩ đã tạo nên những tâm lý đặc biệt trong con người
người phụ nữ Việt Nam. Những hình ảnh khác - Người nghệ sĩ, Nhà chính trị ... mờ nhạt hơn, hoặc đồng
nhất hoá vào đấy, hoặc tách riêng ra. Và đó là những hình ảnh, những tâm lý đặc bệt của người phụ nữ
Việt Nam xưa cũng như nay.
1. Con người lao động hình thành nên tâm lý phụ nữ Việt Nam
Con người lao động trong người phụ nữ Việt Nam có những phẩm chất đặc sắc nhất định, kết tinh từ
trong vai trò của nó trên tiến trình của lịch sử Việt Nam. Làm nên những thuộc tính ấy, có vai trò quan
trong hàng đầu của những người phụ nữ nông dân trong hàng nghìn năm của thời đại dựng nước và giữ
nước. Đấy là những người đã kế thừa những truyền thống tốt đẹp đầu tiên do những người phụ nữ lao
động từ thời nguyên thuỷ gây dựng, phát huy và truyền tới những người phụ nữ nông dân trong thời
cận đại và hiện đại – những người đang cùng với những nữ công nhân, viên chức và phụ nữ lao động trí
óc, họp thành đội ngũ những người lao động ngày nay.
Đấy là những người từ hàng nghìn năm xưa và cho mãi đến bây giờ, vẫn gắn bó với một nền kinh tế
nông nghiệp nhiệt đới, mà hoạt động quan trọng nhất là nghề trồng lúa nước. Chỉ cho đến gần đây, vấn
đề công nghiệp hoá mới được đặt ra ở Việt Nam, nhưng nhịp độ và đặc tính của nó cũng vẫn phản ánh vị
trí và qui mô của nền sản xuất nông nghiệp, trong hệ thống kinh tế chung.
Nói đến người phụ nữ lao động Việt Nam chủ yếu là nói đến những người phụ nữ nông dân ấy. Không
phải ngẫu nhiên mà ở tất cả các trường hợp cần biểu hiện người phụ nữ Việt Nam một cách cô đúc, điển
hình nhất, việc lựa chọn hình tượng người phụ nữ nông dân lại chiếm một tỉ số cao ở Việt Nam. Cho nên
trước khi tính toán đến sự cải tiến, biến đổi cốt cách của con người lao động trong người phụ nữ Việt
Nam, cần trước tiên xem xét một số thuộc tính đặc sắc đã hình thành và ổn định, trên cơ sở những
phong thái làm ăn của người phụ nữ nông dân, trong con người phụ nữ lao động Việt Nam.
Cùng với hiện tượng thường xuyên của lịch sử hàng nghìn năm cũ là người đàn ông phải rời tay cày bừa
để cầm lấy vũ khí, với một tinh thần hoàn toàn chủ động, một thái độ bình thản như không có gì tự
nhiên hơn, người phụ nữ đã đảm nhiện lấy công việc sản xuất nông nghiệp của xã hội:
“Tháng Chạp là tiết trồng khoai,
Tháng Giêng trồng đậu, tháng Hai trồng cà.
Tháng Ba cày vỡ ruộng ra,
Tháng Tư gieo mạ thuận hòa mọi nơi.
Tháng Năm gặt hái vừa rồi,
Giời đổ mưa xuống nước trôi đầy đồng. Anh ơi giữ lấy việc công,
Để em cày cấy mặc lòng em đây”.
Việc trồng lúa nước ở Việt Nam trong điều kiện thiên nhiên và kỹ thuật từ trước đến nay, vẫn là một thứ
lao động phức tạp và vất vả. Chân lấm tay bùn, giãi nắng dầm mưa, đời này qua đời khác, người phụ nữ
Việt Nam là người rất giỏi chịu đựng gian khổ, khó khăn và hết sức cần cù, tỉ mỉ. Sống chết với quê
hương làng xóm, bám chặt lấy ruộng vườn, nghề nghiệp, người phụ nữ lao động Việt Nam còn là những
người làm việc rất bền bỉ, dẻo dai, có tinh thần kiên trì, nhẫn nại rất cao. Bị thống trị và bóc lột nặng nề,
lại gặp hoàn cảnh chiến tranh và thiên nhiên phá phách, trong cuộc sống cơ hàn dai dẳng, những người
phụ nữ Việt Nam đã có một tinh thần làm chủ, một ý thức cộng đồng, đồng thời họ cũng là những người
rất căn cơ tằn tiện, tính toán cẩn thận, chi ly.
Đấy là những người lao động đảm đang. Và chúng ta hiểu tinh thần đảm đang ở đây có nội dung thiên
về mặt ráo riết đối phó với những khó khăn, gắng sức khai thác, vẫy vùng trong một hoàn cảnh chật hẹp
để tạo ra những của cải vật chất và tinh thần, để vươn lên trên những điều kiện phần lớn có ý nghĩa tiêu
cực. Ở đây, không có những sức bao quát rộng rãi, không có những sáng tạo hàng loạt, to lớn. Không có
phong thái ung dung đĩnh đạc mà khẩn trương của một lối làm ăn qui mô, với nhiều thuận lợi về tự
nhiên và kỹ thuật. Sự sắc sảo ở đây mang tính chất đối phó trong hoàn cảnh vượt khó nhiều hơn. Hoàn
cảnh lao động của những người phụ nữ dưới chế độ phong kiến hàng nghìn năm, dưới thời Pháp thống
trị gần trăm năm là như thế. Mà hoàn cảnh lao động của những người phụ nữ xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở một nước khôngqua thời kỳ chủ nghĩa tư bản cũng có những điều gần giống như thế.
2. Con người nội trợ hình thành nên tâm lý người phụ nữ Việt Nam
Con người nội trợ (quán xuyến việc nhà) trong người phụ nữ cũng có những thuộc tính đặc biệt. Và đây
là những điều chủ yếu làm nên cái dáng vẻ riêng của người phụ nữ Việt Nam mà nhiều người đã chú ý.
Bởi vì, bình thường, mọi người phụ nữ đều là những thành viên trong các gia đình, gắn bó chặt chẽ với
gia đình. Và kể từ thời kỳ mẫu quyền trong lịch sử nguyên thuỷ cho tới bây giờ, trong hàng nghìn, hàng
vạn năm, chức năng hiển nhiên của các thành viên nữ trong các gia đình, chính là nội trợ.
Vai trò của những người phụ nữ Việt Nam trong gia đình, như đã thấy, là một vai trò rất đặc biệt. Đó là
vai trò thực tế của người chủ gia đình, vài trò thực tế của những trụ cột gia đình - mặc dù về hình thức
và trên danh nghĩa, đấy là vai trò của người đàn ông. Là một người vợ, gắn bó chữ tình với chữ nghĩa,
người phụ nữ xưa, ngoài nghĩa vụ đối với bản thân người chồng, còn gánh vác luôn cả phần nghĩa vụ của
người chồng đối với gia đình và xã hội.
Trong vai trò thực tế ấy, người phụ nữ như thế nào thì gia đình như thế. Ngược lại, tình trạng và hoàn
cảnh của các gia đình Việt Nam như thế thế nào, tất nhiên cũng ảnh hưởng đến người phụ nữ: họ cũng
phải tạo ra những bản lĩnh cần thiết để có thể thích ứng với vai trò của họ.
Các gia đình Việt Nam với chế độ phụ quyền gia trưởng, hình thành và ổn định lâu dài trên tiến trình lịch
sử Việt Nam, trở nên có một cấu trúc độc đáo với đặc điểm kỳ lạ của nó: đấy là nơi giam hãm trói buộc
người phụ nữ, nhưng lại do phụ nữ thực tế làm chủ và làm trụ cột! Từ đặc điểm này, chúng ta thấy phụ
nữ là người sống chết gắn bó rất chặt chẽ với gia đình về mọi mặt, và đấy là những người nội trợ có tinh
thần đảm nhiệm, phụ trách rất cao. Đảm nhiệm, phụ trách nền kinh tế của gia đình, họ có chung những
phẩm chất tinh thần với những người phụ nữ lao động, như đã thấy. Đảm nhiệm, phụ trách giường mối
của gia đình, toàn bộ thể chế và nội dung tinh thần của gia đình, đây mới là lĩnh vực kết tinh những
thuộc tính đặc sắc của người phụ nữ nội trợ Việt Nam. Ở đây, những người vợ Việt Nam là những người
thuỷ chung trọn vẹn với chồng. Ở đây, những người mẹ Việt Nam hy sinh trọn vẹn cho con cái. Ở đây,
những người con gái, con dâu, nết na, thảo hiền đối với bậc trên và rèn luyện những đức tính của người
mẹ đối với lớp tuổi dưới, cũng như chờ dịp thể hiện những đức tính của người vợ đối với người yêu,
người chồng tương lai của mình.
Trong tình hình nghèo khó chung của các xã hội có giai cấp cũ, “cái khó bó cái khôn”, người phụ nữ đã
phải rất tích cực “giật gấu vá vai” để đảm nhiệm chức năng “nội tướng” của mình. Tần tảo là đức tính đi
kèm với tinh thần đảm đam của các thế hệ phụ nữ Việt Nam xưa, chịu thương chịu khó, sớm tối lam
làm, suốt đời cần kiệm để gánh vác gia đình. Để có thể đảm đương một khối lượng công việc lớn và
phức tạp, người phụ nữ xưa còn rất khéo léo và thông minh, có đầu óc thực tiễn và khéo chân khéo tay.
Tính khiêm nhường, lòng vị tha, đức hy sinh và lòng yêu thương rộng lớn của người phụ nữ tỏa ra trong
các gia đình, khiến cho người phụ nữ xưa có một vị trí rất đặc biệt giữa chồng con của họ. Người chồng
gọi vợ mình là “nội tướng”. Con cái nhận rằng “phúc đức tại mẫu”. Người ngoài khẳng định “lệnh ông
không bằng cồng bà”. Và dân tộc thì, trong khi xây dựng hình tượng anh hùng đầu tiên của mình về
Thánh Dóng, cũng kèm ngay hình tượng mẹ Dóng – người mẹ bao tháng này mang nặng đẻ đau, chịu
đựng tai tiếng, để rồi suốt ba năm kiên trì thương yêu nuôi nấng, chăm sóc đứa con tật nguyền, cho đến
lúc tự tay mình mở đường cho con đi cứu nước.
Đấy là những người nội trợ trung hậu. Và chúng ta hiểu rằng sự trung hậu ở đây có phần được tạo rèn
tự sự đấu tranh, khi âm thầm, lúc quyết liệt, của người phụ nữ trong hàng nghìn năm liên tục đối với
giáo lý và sự ràng buộc gò bó phong kiến, để cố gắng cải tạo nó, biến những tín điều khe khắt trở thành
đức hạnh, nết na. Nhưng đây chỉ là vấn đề phụ. Điều chủ yếu ở đây là vai trò lịch sử của người phụ nữ
đối với vấn đề gia đình ở Việt Nam, mà họ đã đảm nhiệm lấy một cách tự nhiên bình dị. Điều chủ yếu ở
đây cũng là sự thiệt thòi, chịu đựng của họ tronmg khi gánh vác và quản lý gia đình. Đó là một nghĩa vụ
cao cả. Sự cao cả này có ý nghĩa đạo đức lớn, nhưng chính cũng vì đạo đức mà cần phải tiếp sức và đền
bù xứng đáng cho sự cao cả đó, không thể coi là một khổ hạnh tất yếu của con người nội trợ trong người phụ nữ Việt-nam.
3.Con người chiến sĩ hình thành nên tâm lý người phụ nữ Việt Nam
Con người chiến sĩ trong người phụ nữ Việt Nam là một hiện tượng độc đáo nhất. “Giặc đến nhà, đàn bà
phải đánh”, đấy là truyền thống đặc biệt của phụ nữ Việt Nam. Chỉ tính từ thời các vua Hùng dựng nước
cho đến nay, 24 cuộc chiến tranh ái quốc với quy mô cả nước đã nổ ra để giữ nước! Biết bao thế hệ phụ
nữ đã trở thành chiến sĩ trong những lần vận nước gặp nguy nạn. Nhưng không phải chỉ có thế. Trong
cuộc đấu tranh giai cấp thường xuyên làm nền cho sự tiến hoá của xã hội, tất cả các thế hệ phụ nữ - với
đặc điểm là “công dân chính trị” của họ, cũng đều trở thành những chiến sĩ, tham gia đấu tranh dưới
mọi hình thức. Từ những người phụ nữ đã nổi dậy dưới lá cờ Hai Bà Trưng, những vợ ba Cai Vàng, vợ ba
Đề Thám... thậm chí cả những người vô danh:
“Gái goá lo việc triều đình
Lo Nam, lo Bắc việc mình không lo”
và những mẹ Đốp luôn luôn sẵn sàng tấn công bọn hào lý ở khắp nơi, cho đến những Võ Thị Sáu, Nguyễn
Thị Chiêm, Út Tịch và mẹ Suốt ngày nay – hàng trăm thế hệ phụ nữ đã truyền đi và nhân lên những
thuộc tính đặc sắc của người chiến sĩ trong người phụ nữ Việt Nam.
“Túi gấm cho lẫn túi hồng
Têm trầu cánh kiếm cho chồng đi quân”.
Câu hát cổ trên cũng là một hình thức ghi nhớ của nhân dân đối với tiết bao người vợ đảm xưa đã góp
vào cuộc chiến chung, và không têm trầu “cánh phượng” nữa, mà têm trầu “cánh kiếm”, nô nức, hồ hởi
tiễn đưa người thân của mình ra đi. Đó là những con người có một lòng yêu nước rộng lớn và một tinh
thần lo toan rất tích cực đến việc chung. Đó là con người sẵn sàng chịu đựng với một sức bền kỳ diệu
những gay go gian khổ, những hy sinh to lớn nhất. Đó là những con người bất khuất, không sức mạnh
thống trị nào có thể đè bẹp nổi, những con người rất mực kiên cường, không sức mạnh xâm lược nào có thể bẻ gãy được.
Đấy là những chiến sĩ dũng cảm. Và chúng ta hiểu rằng, đối với người phụ nữ Việt Nam, đấy là phẩm
chất của những người chiến sĩ có sức mạnh sở trường ở phương diện tinh thần, tình cảm. Trong hoàn
cảnh khó khăn gò bó thường xuyên, khả năng vât chất và kỹ thuật của những chiến ở đây không nhiều.
Nhưng những cơ sở và điều kiện để tạo ra những khả năng đó, lúc nào cũng có. Đó là những phẩm chất
của người lao động và người nội trợ ở trong con người phụ nữ Việt Nam. Khi cần thiết, chỉ cần thời gian,
sự tổ chức và tập hợp. Và đấy là điều đặc sắc, thuân lợi và may mắn cho người phụ nữ và cho dân tộc:
lúc nào cũng có con người chiến sĩ với những phẩm chất rất tốt nằm trong những người phụ nữ Việt Nam.
Con người lao động đảm đang, con người nội trợ trung hậu, con người chiến sĩ dũng cảm - những con
người ấy cùng với những thuộc tính, phẩm chất tinh thần của nó đã hợp thành tính cách cơ bản của
người phụ nữ Việt-nam. Ở một tính cách đa dạng và phong phú như thế, có thể lọc ra, tìm lấy điều gì
chung nhất, điều gì bao trùm, tiêu biểu cho người phụ nữ Việt-nam?
Trong những lúc vận nước gặp cơn sóng gió, con người chiến sĩ trong người phụ nữ Việt Nam vụt trội
lên. Hiện nay, đây là điều đang thu hút sự chăm chú của nhiều người. Nhưng hãy tìm đọc cuốn sổ tay tác
chiến của đại đội trưởng pháo bờ biển nữ dân quân xã N. (Quảng Bình), chi tiết kỹ thuật và tình hình
chiến sĩ với vũ khí, khí tài, tự nhiên có những dòng rõ ràng không đúng điều lệnh quân sự: “Nếu nạp lên,
trên không nhận, sẽ cho giữ vỏ đạn lại, chờ đánh xong giặc Mỹ, sẽ đem đúc nồi đồng”! Con người lao
động và nội trợ trong người chiến sĩ Ngô Thị The ấy đang để lộ tính cách cơ bản của mình. Và hình ảnh
quen thuộc, gần gũi về vị Phó Tư lệnh các lực lượng vũ trang miền Nam Nguyễn Thị Định, cũng là hình
ảnh một người mẹ, một người chị, ngồi trên chiếc võng đã chiến, kim chỉ và chiếc áo trong tay, trìu mến
nhìn và chăm chú nghe chiến sĩ. Đấy chính là một phụ nữ:
“Lúc tiến lệnh đều trăm đội ngũ,
Đêm về ngồi vá áo chiến binh!”
Như thế, con người lao động và con người nội trợ ở trong mỗi người phụ nữ Việt Nam mới chính là hình
ảnh thường hằng về họ, Con người chiến sĩ, lúc nổi lên thật rạng rỡ, nhưng nhiều lúc vẫn lẩn vào con
người lao động và nội trợ, có khi ngay cả vào dịp đang xuất hiện rõ rệt nhất, nó cũng mang cốt cách của
hai con người kia. Người phụ nữ nông dân Cao Thị Thả ở Tĩnh Gia (Thanh Hoá), chèo thuyền xông ra biển
dưới bom đạn của máy bay Mỹ, diệt cả bọn giặc lái nhảy dù lẫn máy bay đậu trên nước và máy bay lên
thẳng của giặc, nhưng vẫn nói rất đúng: “Phải nói công bằng rằng không có thằng giặc Mỹ thì đàn bà
chúng tôi mới không phải cầm đến khẩu súng này”. Và bà mẹ Suốt, lập nên kỳ tích trong phục vụ chiến
đấu: hàng chục, hàng trăm lần chèo thuyền đưa cán bộ, bộ đội vượt sông trước mưa bom bão đạn, khi
được nhà thơ Tố Hữu thán phục hỏi: “Gan chi gan rứa mẹ nờ?”, vẫn chỉ coi trận chiến đấu của mình như
là những lần làm ăn bình thường của ông lão ở nhà: “Ra khơi ông còn dám, tui chẳng liều bằng ông!”.
Phong thái bao trùm cốt cách và tâm hồn cơ bản của người phụ nữ Việt-nam đã được tìm thấy ở trong
những trường hợp đó. Đấy là sự bình dị, là lòng nhân ái, là ân tình và yêu thương đằm thắm. Chính
những điều đó đã làm cho người phụ nữ Việt Nam cần cù, tỉ mỉ, nhẫn nại, dẻo dai, căn cơ, tần tiện, chịu
khổ, chịu khó mà lao động đảm đang. Bản thân người phụ nữ dường như không còn thấy đặt ra nhu cầu
hưởng thụ gì to tát, nhưng chính là vì chồng con, họ hàng rồi xóm làng, rồi là vì đất nước, vì tình thương
yêu tất cả mà họ đã lao động. Cũng chính là với tấm lòng trung hậu, với tình thương yêu mênh mông đối
với người thân của mình, rồi với đồng bào chân chính của mình mà người phụ nữ đã thuỷ chung hy sinh,
quán xuyến, trong khi làm nghĩa vụ nội trợ. Và cũng chính là vì tấm lòng nhân ái bao trùm mà người phụ
nữ đã chiến đấu kiên cường, bất khuất, sẵn sàng chịu đựng và hy sinh oanh liệt.
Khi nhà thơ Chế Lan Viên hỏi một nữ anh hùng: “Vì sao em chiến đấu?” thì thật cảm động là câu trả lời:
“Em thương. Em thương các anh quá, nên em liều. Em thấy máu đổ là em thương...”. Cũng thế, hỏi cô
Cam Thị Thưng vì sao 17 tuổi, với người bé nhỏ nhưng đã vượt qua bom đạn, cõng bổng được một đồng
chí bộ đội bị thương về nơi cứu chữa an toàn; chúng ta cũng được nghe câu trả lời của cô qua nụ cười
ngượng nghịu: “Em nghĩ thương các anh mà cõng thấy nhẹ...”. Trái tim nhân ái của phụ nữ Việt Nam là
một trái tim lớn. Trái tim đó mang nặng tình thương yêu chính nghĩa nên có lòng căm giận kẻ thù bất
nhân mà chiến đấu. “Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương” - Nguyễn Đình Chiểu xưa đã phát hiện và
khẳng định đặc điểm tâm lý ấy của Việt Nam, của phụ nữ Việt Nam.
Lòng nhân ái có thể xem như là hạt nhân cơ bản trong tính cách người phụ nữ Việt Nam. Lòng nhân ái
đó lớn mênh mông trong suốt tiến trình lịch sử đấu tranh của dân tộc, làm nền cho những phẩm chất
tinh thần phong phú, đặc sắc, những khả năng và vai trò thực tế to lớn của họ.
Chúng ta cũng biết rằng sức mạnh và vẻ đẹp Việt Nam, xưa và nay, cũng có nguồn gốc từ lòng nhân ái.
Từ Hùng Vương, Nguyễn Trãi đến Hồ Chí Minh, tinh thần ấy là một sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình lịch
sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam. Phải chăng, tinh thần ấy chính là từ người phụ nữ Việt Nam
mà truyền đi và được nhân lên gấp bội? Bởi vì ở đây, hơn ở đâu hết, có vai trò của những người mẹ Việt
Nam, những người mẹ xứng đáng với lời biểu dương của Hồ Chủ tịch: “Nhân dân ta rất biết ơn các bà
mẹ cả hai miền Nam Bắc đã sinh ra và nuôi dạy nên những thế hệ anh hùng của nước ta”.
CHƯƠNG II: ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ PHỤ NỮ VIỆT NAM HIỆN NAY
Do đặc điểm về giới tính, tính chất lao động và vai trị của phụ nữ trong gia đình, xã hội mà trong tâm lý
của người phụ nữ, bên cạnh những đặc điểm tâm lý chung của người Việt Nam, vẫn có những đặc điểm
riêng cần lưu ý trong cơng tác tuyên truyền. Những đặc điểm ấy được biêu hiện trong hoạt động nhận
thức, tình cảm và trong nhân cách của người phụ nữ Việt Nam:
1. Đặc điểm tâm lý phụ nữ Việt Nam hiện nay:
1.1. Một số đặc điểm về nhận thức của phụ nữ:
- Theo các nhà nghiên cứu, nhận thức của phụ nữ Việt Nam có chung nhận xét: trình độ nhận thức của
phụ nữ nói chung vẫn còn thấp hơn nam giới.
Trình độ nhận thức của phụ nữ Việt Nam mang nặng dấu ân của xã hội, lịch sử. Trình độ nhận thức của
phụ nữ chịu sự chi phối của nhiều yếu tố như:
+ Trình độ phát triển văn hóa- xã hội
+ Quan niệm của xã hội về vị trí, vai trị của phụ nữ trong gia đình, xã hội
+ Nhận thức của phụ nữ về nghĩa vụ, vị trí của mình đối với gia đình và xã hội.
Nhận thức có vai trò rất quan trọng trong hoạt động và trong cuộc sống của phụ nữ, đó là cơ sở quan
trọng cho thái độ và hành vi. Nhận thức thấp, hoặc nhận thức sai sẽ là nguyên nhân đầu tiên dẫn đến sai lầm trong hành động.
Trước đây dưới chế độ phong kiến, do quan niệm lạc hậu, phụ nữ không được học hành đầy đủ lại bị trói
buộc bởi lễ giao phong kiến, bởi quan niệm khắc nghiệt của xã hội. Phụ nữ khơng được học hành, không
có cơ hội tham gia hoạt động xã hội, cũng như khơng có quyền quyết định những vấn đề có liên quan
đến sinh mệnh của mình. Vì thế, nhận thức của phụ nữ vốn đã hạn hẹp thì nay càng trở nên hạn hẹp hơn.
Sự vận động và phát triển tất yếu của lịch sử từ truyền thống xưa lên xã hội hiện đại, mà cách mạng
tháng Tám năm 1945 thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới, một thời đại mới. Thân phận người phụ
nữ Việt Nam từ đây được đổi đời, được chuyển hướng phát triển; người phụ nữ được giải phóng, được
xã hội mới coi trọng, đề cao, người phụ nữ có cơ hội thể hiện tài năng, sự cống hiến, đóng góp. Vì vậy
phạm trù cái đẹp cũng vận động, biến đối theo. Nét đẹp của người phụ nữ hôm nay được kế thừa các
giá trị đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, chọn lọc, tiếp thu các giá trị đẹp của thời đại, biết
đi làm đẹp, chăm sóc thẩm mỹ… và sáng tạo ra các giá trị đẹp mới, cách chăm sóc mới, rèn luyện, nuôi
dưỡng thể chất, tinh thần, hình thể phù hợp với thị hiếu, cách nhìn thẩm mỹ về cái đẹp của xã hội hiện
đại. Cơ hội để phụ nữ nâng cao hiểu biết và khẳng định vai trị của mình đối với xã hội ngày càng rộng
mở. Ví dụ như: Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là một tổ chức chính trị, xã hội của phụ nữ Việt Nam, mục
đích hoạt động vì sự bình đẳng, phát triển của phụ nữ.
1.2 Một số đặc điểm về tình cảm của phụ nữ:
- Người Việt Nam rất coi trọng tình nghĩa ; dù trong lúc khó khăn, nguy hiểm hay lúc hiển vinh họ đều
trọng tình, trọng nghĩa ,Người Việt Nam rất trọng tình cảm như: tình cha con, mẹ con, tình vợ chồng,
tình anh em, tình hàng xóm, tình đồng hương.. Trong tục ngữ , ca dao Việt Nam chúng ta tìm thấy rất
nhiều chữ tình. Vì thế, các nhà khoa học cho rằng người Việt Nam duy tình. Đặc biệt là người phụ nữ, với
chức phận làm mẹ thì tình cảm lại càng trở nên đậm đà hơn, sâu sắc hơn. Những tình cảm đó được thể hiện như sau:
- Tình cảm gia đình, đặc biệt là lịng u thương chồng con của người phụ nữ Việt Nam thể hiện rất rõ nét.
- Tình cảm quê hương ở phụ nữ Việt Nam rất sâu đậm và gắn liền với tình yêu Tổ quốc. Biết bao nhiêu
người mẹ, người chị đã dâng hiến chồng, con và tuổi thanh xuân của chính mình cho các cuộc chiến
tranh giải phóng dân tộc. Mảnh đất Việt Nam thấm đẫm mồ hôi, cả máu và nước mắt của những người
đi trước. Vì thế, mỗi tấc đất của Tổ quốc đều có máu thịt của người Việt Nam nói chung và người phụ nữ nói riêng.
- Yêu lao đông cũng là một đặc điểm đáng quan tâm trong tình cảm của người phụ nữ. Người phụ nữ
Việt Nam với sức vóc nhỏ bé, cuộc sống, sinh hoạt còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, nhưng nhờ tình u đối
với lao động mà nhiều phụ nữ đã làm việc tới 12-16 tiếng một ngày. Như nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng
định: ngồi cơng việc lao động kiếm sống, người phụ nữ lại trở về nhà với trăm cơng nghìn việc. Cả cuộc
đời họ là như vậy, hết lòng vì gia đình, vì chồng, vì con.
1.3 Một số đặc điểm về nhân cách, phẩm chất của phụ nữ Việt Nam:
Một trong những phẩm chất đạo đức quý giá của người phụ nữ là tự tin. Phụ nữ ngày nay tự tin vào bản
thân, bình đẳng với nam giới, biết tự đánh giá ưu nhược điểm của bản thân, dám nhận những nhiệm vụ
khó để rồi từ đónỗ lực và vượt khó để hồn thành tốt nhiệm vụ được giao. Để có được thành quả đó, các
chị đã phải nỗ lực rất nhiều trong học tập, lao động sáng tạo, không ngừng học hỏi, bồi dưỡng trí tuệ,
tích lũy tri thức để ngày càng hoàn thiện chính mình.
- Tự trọng chính là một yếu tố nền tảng quan trọng nhất để làm nên giá trị và nhân cách của con người
chân chính. Nói đến phẩm chất tự trọng của người phụ nữ Việt Nam thì đó chính là việc coi trọng và giữ
gìn phẩm cách, danh dự của mình. Người phụ nữ trong thời kì mới luôn có phẩm chất tự trọng để yêu
nước, thực hiện tốt nghĩa vụ của công dân và không làm ảnh hưởng xấu đến đất nước, cơ quan, đoàn
thể. Đồng thời, vẻ đẹp đằm thắm, giàu nữ tính cũng tạo nên bản lĩnh riêng cho mỗi người phụ nữ, trí tuệ
được nâng cao tỏa ra từ lòng nhân hậu, khoan dung của mỗi người.
Với tư cách là nhân cách, con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của hoạt động trong quá trình biến
đổi và phát triển của xã hội lồi người. Từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới (1986) , những chuyển biến của
xã hội, đặcbiệt về kinh tế đã tác động mạnh mẽ, làm biến đổi tâm lý người Việt Nam nói chung và nhân
cách người phụ nữ nói riêng. Nhân cách phụ nữ Việt Nam hình thành và phát triển theo con đường từ
ngồi vào trong nội tâm, từ các quan hệ về thế giới đồ vật do các thế hệ trước đã tạo ra , với các quan hệ
xã hội mà họ gắn bó. Nhân cách phụ nữ là tổ hợp những thuộc tính tâm lý cá nhân thể hiện bản sắc và
giá trị xã hội của phụ nữ. Nhân cách phụ nữ được hình thành và phát triển trong hoạt động dưới ảnh
hưởng của nhiều yếu tố, song điều kiện kinh tế xã hội có vai trị rất quan trọng. Nhân cách người phụ nữ
Việt Nam có một số phẩm chất đáng chú ý sau:
- Cần cù trong lao động, tiết kiệm trong sinh hoạt. Phụ nữ Việt Nam phần lớn là nông dân ( 80%), còn lại,
dù là thành phần xã hội khác, nhưng chủ yếu họ cũng xuất thân từ nông dân, nên tính cần cù, tiết kiệm
chắt chiu, chịu thương chịu khó là đặc điểm nổi bật. Chỉ một việc đi cấy thôi, người phụ nữ cũng phải:
“Trong trời, trơng đất, trong mây.
Trong mưa, trong gió, trong ngày, trong đêm”.
Trong quy trình làm nông nghiệp đời này qua đời khác, ý thức lao động dần dần đi vào tình cảm trở
thành bản chất tốt đẹp của người phụ nữ. Lao động kiên trì, nhẫn nại trở thành lẽ sống của phụ nữ vì
chồng con, vì gia đình, vì đất nước. Vì phải sống trong những điều kiện khắc nghiệt, thiên tai, dịch họa
liên miên, với trách nhiệm chăm sóc chồng con và gánh nặng gia đình , người phụ nữ Việt Nam luôn phải
vượt qua mọi khó khăn thử thách. Những khó khăn nối tiếp khó khăn đã rèn luyện cho người phụ nữ
tinh thần vượt gian khó và tính kiên trì chịu đựng gian khổ, nguy nan. Đây là phẩm chất rất quý giá của
người phụ nữ Việt Nam.
2. Nét đẹp của phụ nữ Việt Nam hiện đại
Nét đẹp của người phụ nữ hôm nay được kế thừa các giá trị đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền
thống, chọn lọc, tiếp thu các giá trị đẹp của thời đại, biết đi làm đẹp, chăm sóc thẩm mỹ… và sáng tạo ra
các giá trị đẹp mới, cách chăm sóc mới, rèn luyện, nuôi dưỡng thể chất, tinh thần, hình thể phù hợp với
thị hiếu, cách nhìn thẩm mỹ về cái đẹp của xã hội hiện đại.
“Công” không còn giới hạn người phụ nữ chỉ giỏi làm các công việc trong phạm vi gia đình mà đã vươn ra
ngoài xã hội. Hiện nay, người phụ nữ Việt Nam vừa giỏi việc nhà vừa đảm việc nước. Vị trí, vai trò của
người phụ nữ trong gia đình và xã hội được coi trọng, được phát huy . Người phụ nữ ở xã hội hiện đại –
xã hội chủ nghĩa, được gia đình và xã hội tạo điều kiện học tập, phấn đấu, Nhà nước, pháp luật bảo vệ.
Cho nên, người phụ nữ không còn tự ti, mặc cảm như người phụ nữ truyền thống mà đã mạnh dạn vươn
lên trở thành các nhà lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà doanh nghiệp giỏi trong thời kỳ đổi mới. Với phong
cách sống năng động, sáng tạo, tự chủ, tự tin, dám nghĩ, dám làm. Người phụ nữ không chỉ là chỗ dựa
cho chồng, con mà họ còn là niềm hi vọng, sự tin tưởng của toàn xã hội. Góp phần thực hiện thắng lợi
sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế.
“Dung” là dung nhan, nhan sắc, biết làm đẹp thì ngày ngay nội dung này vẫn được coi trọng yêu cầu
người phụ nữ phải biết làm đẹp, biết chăm sóc hình thức – nhan sắc. Bên cạnh đó, hàng năm các cuộc
thi hoa hậu, thi tuyển người mẫu thời trang, được ban tổ chức cuộc thi và công chúng bình chọn người
đẹp, để vinh danh, đăng quang trong phạm vi quốc gia và trên thế giới. Cái đẹp của người phụ nữ hiện
đại được bình chọn dựa trên tỷ lệ hài hòa, cân đối của cấu trúc cơ thể theo quan điểm về cái đẹp của
nền văn hóa phục hưng. Cái đẹp hình thể của người phụ nữ Việt Nam hôm nay về chiều cao, cân nặng,
tỷ lệ cơ thể cân đối các số đo, do cuộc sống tốt hơn từ thành quả phát triển của xã hội mang lại nên đã
có sự thay đổi so với người phụ nữ truyền thống. Bên cạnh đó cái đẹp cũng được gắn với cái thiện (hạnh
kiểm – đạo đực) và với trí tuệ, như vậy, quan niệm về “Dung” hôm nay, nhan sắc đẹp đòi hỏi phải đẹp cả về trí tuệ.
“Ngôn” là ngôn ngữ, lời nói của người phụ nữ hiện đại, là nói nhanh, nói rõ, nhẹ nhàng, đủ nghe, ứng xử
linh hoạt, mềm dẻo, phù hợp, đủ sức thuyết phục đối tác, đối tượng trong qua trình giao tiếp, đàm phán
trong kinh doanh, mua bán, hợp đồng, v.v. và yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngôn ngữ, lời nói
của người phụ nữ hôm nay không còn giống y nguyên ngôn ngữ của phụ nữ truyền thống đó là sự nhẹ
nhàng, chậm rãi, theo kiểu phu xướng phụ tùy, gọi dạ bảo vâng do quan điểm trọng nam kinh nữ, sống
trong gia đình lớn gia trưởng, áp đặt ngự trị, tạo cho phụ nữ tâm lý mặc cảm, tự ti, thấp cổ bé họng, không dám lớn tiếng.
“Hạnh” là hạnh kiểm, đạo đức, người phụ nữ Việt Nam hiện đại hôm nay có nét đẹp toàn diện về đạo
đức như: có suy nghĩ, lời nói thiện, sống thiện, làm việc thiện, sống có ước mơ, có hoài bão, yêu nước,
yêu chủ nghĩa xã hội, biết yêu thương, chia sẻ với con người với cộng đồng, là người vợ hiền, người công
dân kiểu mẫu, yêu lao động, làm việc hết trách nhiệm, ứng xử văn hóa, có tình nghĩa, chia sẻ, đồng cảm.
Có thể thấy, “Công, Dung, Ngôn, Hạnh” là những tiêu chuẩn, những giá trị khuôn thước về cái đẹp được
xã hội từ xưa đến nay tôn vinh, thừa nhận và trao tặng cho người phụ nữ Việt Nam. Ngày xưa, “tứ đức”
là khuôn vàng thước ngọc, ngày nay “tứ đức” vẫn là chuẩn mực của người phụ nữ nhưng đã được bổ
sung thêm nhiều nét mới; đồng thời cũng đã hình thành, phát triển thêm những phẩm chất mới, góp
phần tạo dựng nét đẹp và những đặc điểm tâm lý của người người phụ nữ Việt Nam hiện đại.
CHƯƠNG 3: CÁCH THỨC TRUYỀN THÔNG VỚI PHỤ NỮ Link tham khảo:
https://btgtu.lamdong.dcs.vn/tin-tuc-su-kien/type/detail/id/31089/task/1696
https://hnmu.edu.vn/vi-su-tien-bo-cua-phu-nu/vai-tro-cua-phu-nu-trong-xa-hoi-hien-nay.html
https://hoilhpn.org.vn/tin-chi-tiet/-/chi-tiet/nhung-pham-chat-%C4%91ao-%C4%91uc-truyen-thong-
cua-phu-nu-viet-nam-17011-10.html