lOMoARcPSD| 48599919
ĐẠI HỘI ĐẢNG LẦN THỨ IX
Niên biểu toàn khóa Đại hội đảng lần thứ IX
Đại hội IX của Đảng có ý nghĩa trọng đại mở đường cho đất nước ta nắm lấy cơ hội, vượt qua
thách thức tiến vào thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới, thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt
Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Địa điểm: Thủ đô Hà Nội
Số lượng đảng viên trong cả nước: 2.479.719
Số lượng tham dự Đại hội: 1.168 đại biểu
Tổng bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Nông Đức Mạnh
Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội: 150 uỷ viên
Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội: 15 uỷ viên
Nhiệm vụ chính: Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Dự Đại hội có 1.168 đại biểu, thay mặt cho hơn 2 triệu đảng viên trong cả nước. Có 34 đoàn
đại biểu quốc tế tham dự đại hội.
Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam là Đại hội "Trí tuệ, Dân chủ, Đoàn kết, Đổi
mới”, là Đại hội có ý nghĩa lịch sử trọng đại, thể hiện ý chí kiên cường và niềm hy vọng lớn
lao của cả dân tộc Việt Nam vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Đại hội đánh dấu chặng đường 15 năm đổi mới và 10 năm thực hiện Chiến lược
kinh tế - xã hội 1991-2000, là Đại hội đầu tiên của Đảng trong thế kỷ XXI.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 150 uỷ viên. Bộ Chính trị gồm có 15 uỷ viên. Đồng
chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã họp 14 lần để bàn và quyết định nhiều vấn đề
quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Trong đó có vấn đề tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung
ương 2 khóa VIII, phương hướng phát triển giáo dục đào tạo, khoa học và công nghệ từ nay
đến năm 2005 và đến 2010; Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa VII, Nghị
quyết Trung ương 3 và Nghị quyết Trung ương 7 khóa VIII về công tác tổ chức cán bộ; Về
chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và
nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước; Về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010; Về đổi mới và nâng cao hệ thống chính trị ở cơ sở xã,
phường, thị trấn; Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX diễn ra trong bối cảnh loài người đã kết thúc thế kỷ XX
và bước sang thế kỷ XXI, dân tộc ta đứng trước những thời cơ lớn đan xen với nhiều thách
thức lớn.
Đại hội nhận định: Khả năng duy trì hoà bình ổn định trên thế giới và khu vực cho phép chúng
ta tập trung vào nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, đồng thời đòi hỏi phải đề cao cảnh
giác, chủ động đối phó với các tình huống bất trắc, phức tạp có thể xảy ra.
lOMoARcPSD| 48599919
Cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt và công nghệ thông tin và công nghệ sinh học
tiếp tục có bước phát triển nhảy vọt, ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy
sự phát triển kinh tế tri thức, làm chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế và biến đổi sâu sắc các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Tri thức và sở hữu trí tuệ có vai trò ngày càng quan trọng.
Toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ. Đây là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, bao trùm hầu hết
các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các
nền kinh tế. Quan hệ song phương, đa phương giữa các quốc gia ngày càng sâu rộng cả trong
kinh tế, văn hoá và bảo vệ môi trường, phòng chống tội phạm, thiên tai và các đại dịch...
Tình hình đất nước ta sau 15 năm đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo thế và
lực để thúc đẩy công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu. Bên cạnh đó, chúng ta còn phải đối phó
với những thách thức: tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng quan liêu, “diễn biến hoà bình” do các
thế lực thù địch gây ra.
Nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ mới là vấn đề có ý
nghĩa sống còn của Đảng và nhân dân ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX diễn ra trong
hoàn cảnh đó, phải hoạch định đường lối đúng đắn cho sự phát triển của đất nước trong những
năm 2001- 2005 và 2001-2010.
Dự Đại hội có 1.168 đại biểu đại diện cho hơn hai triệu đảng viên ở các lĩnh vực hoạt động
khác nhau từ mọi miền của đất nước và đang công tác ở nước ngoài.
Đến dự Đại hội còn có đoàn đại biểu của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, đoàn đại biểu của
Đảng Cộng sản Liên Xô, đoàn đại biểu của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đoàn đại biểu của
Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia, đoàn đại biểu của Đảng Cộng sản Cuba, đoàn đại biểu
Đảng Cộng sản Pháp…, các vị trong đoàn ngoại giao, đại diện các tổ chức quốc gia và quốc
tế, đại diện các tổ chức phi chính phủ tại Hà Nội.
Đồng chí Trần Đức Lương, Uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị đọc diễn văn khai mạc. Đồng c
Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đọc Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII về các văn
kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng.
Đại hội IX của Đảng đã đánh giá về chặng đường 71 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tổng
kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, 15 năm đổi mới, 10 năm thực hiện chiến lược
kinh tế - xã hội, rút ra những bài học kinh nghiệm của công cuộc đổi mới, từ đó phát triển và
hoàn thiện đường lối, định ra chiến lược phát triển đất nước trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ
XXI. Đại hội IX có nhiệm vụ kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng, đề ra phương hướng, nhiệm
vụ xây dựng Đảng ta ngang tầm với đòi hỏi của dân tộc trong thời kỳ mới; sửa đổi, bổ sung
Điều lệ Đảng, bầu ra Ban Chấp hành Trung ương mới.
Báo cáo Chính trị “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hoá hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” đã trình bày 10
vấn đề:
- Việt Nam trong thế kỷ XX và triển vọng trong thế kỷ XXI;
- Tình hình đất nước 5 năm qua và những bài học chủ yếu của 15 năm đổi mới;
- Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta;
lOMoARcPSD| 48599919
- Đường lối và chính sách phát triển kinh tế - xã hội;
- Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc;
- Tăng cường quốc phòng và an ninh;
- Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế;
- Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân;
- Đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp
chế;
- Xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Đánh giá về nước ta trong thế kỷ XX, Đại hội IX khẳng định: Thế kỷ XX là thế k của những
biến đổi to lớn, thế kỷ đấu tranh oanh liệt giành lại độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc và xây
dựng chủ nghĩa xã hội, thế kỷ của những chiến công và thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời
đại.
“Với những thắng lợi giành được trong thế kỷ XX, nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong
kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có
quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân
dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ
một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá”.
Về triển vọng trong thế kỷ XXI: Thế k XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi, nhân dân ta có cả
cơ hội lớn và thách thức lớn.
Về đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch của 5 năm (1996-2000), Báo cáo Chính trị khẳng định
5 nhóm thành tựu quan trọng sau: kinh tế tăng trưởng khá; văn hoá, xã hội có những tiến bộ;
đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định; quốc
phòng và an ninh được tăng cường; công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng; hệ
thống chính trị được củng cố; quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế
quốc tế được tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt.
Bên cạnh khẳng định những thành tựu đó, Đại hội IX đánh giá quá trình thực hiện Nghị quyết
Đại hội VIII còn bộc lộ những yếu kém, khuyết điển: Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc,
hiệu quả và sức cạnh tranh thấp; Một số vấn đề văn hoá - xã hội bức xúc và gay gắt chậm
được giải quyết; Cơ chế, chính sách không đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát triển;
Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng.
Tổng kết 10 năm thực hiện “Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000”.
Đại hội đánh giá tổng quát: phần lớn các mục tiêu chủ yếu đề ra trong Chiến lược ổn định và
phát triển kinh tế - xã hội 1991-2000 đã được thực hiện. Nền kinh tế có bước phát triển mới về
lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và hội nhập kinh tế quốc tế; đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân được cải thiện rõ rệt, văn hoá xã hội không ngừng tiến bộ; thế và lực của đất
lOMoARcPSD| 48599919
nước hơn hẳn 10 năm trước, khả năng độc lập tự chủ được nâng lên, tạo thêm điều kiện đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đại hội IX khẳng định những kinh nghiệm, bài học đổi mới mà các Đại hội VI, VII, VIII của
Đảng đã đúc rút vẫn có giá trị lớn, nhất là các bài học chủ yếu sau:
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên
nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân phù hợp với thực tiễn, luôn
luôn sáng tạo.
Ba là, đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Bốn là, đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới.
Đại hội xác định mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa
công nhân với nông dân và trí thức, do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập
thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã
hội. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân gắn với việc phát huy dân chủ trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội ở tất cả các cấp, các ngành, thu hút trí tuệ và sức lực của toàn
dân vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đường lối kinh tế của Đảng được Đại hội thông qua là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu
tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định
hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng
kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường, kết hợp phát
triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh.
Cùng với lĩnh vực kinh tế, Đại hội IX đã xác định đường lối lãnh đạo đối với các lĩnh vực
khác: “Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xây dựng nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc”; “Tăng cường quốc phòng và an ninh”; “Mở rộng quan hệ đối ngoại
và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”; “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân”; “Đẩy
mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế”;
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”. Đại hội
khẳng định phải coi xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt, là yếu tố
quyết định đến sự tồn tại và phát triển của Đảng ta, là nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đại hội IX đã hoạch định Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 với mục tiêu tổng
quát là: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.
lOMoARcPSD| 48599919
Đi đôi với hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010, Đại hội IX đã thông
qua Phướng hướng, nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 2001-2005.
Đại hội đã thông qua Báo cáo Chính trị, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-
2010 và Phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005 của
Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII trình Đại hội. Đại hội đã thông qua toàn văn Điều lệ
Đảng bổ sung, sửa đổi.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương khoá IX gồm 150 u viên là: Nguyễn Văn An, Lê
Hồng Anh, Lê Thị Bân, Trịnh Long Biên, Đào Đình Bình, Nguyễn Thái Bình, Nguyễn Văn
Chi, Trần Thị Trung Chiến, Vũ Tiến Chiến, Nguyễn Văn Chiến, Hoàng Xuân Cừ, Nguyễn
Quốc Cường, Phan Diễn, Nguyễn Thị Loan, Ngô Văn Thụ, Lê Văn Dũng, Hồ Nghĩa Dũng,
Nguyễn Tấn Dũng, Đỗ Bình Dương, Mai Thế Dương, Huỳnh Đảm, Phan Tất Đạt, Nguyễn
Văn Đẳng, Nguyễn Khoa Điềm, Chama Léa Điêu, Nguyễn Văn Được, Trương Quang Được,
Lê Nam Giới, Hoàng Trung Hải, Lê Thanh Hải, Trần Mai Hạnh, Nguyễn Đức Hạt, Nguyễn
Thị Hằng, Cù Thị Hậu, Hà Văn Hiền, Vũ Văn Hiền, Vũ Văn Hiến, Nguyễn Minh Hiển,
Nguyễn Văn Hiện, Nguyễn Huy Hiệu, Trương Mỹ Hoa, Trần Hòa, Trần Đình Hoan, Hoàng
Công Hoan, Hoàng Văn Hon, Nguyễn Thị Kim Hồng, Lê Doãn Hợp, Bùi Văn Huấn, Nguyễn
Sinh Hùng, Vũ Quốc Hùng, Bùi Quang Huy, Bùi Quốc Huy, Võ Đức Huy, Đinh Thế Huynh,
Lê Minh Hương, Nguyễn Văn Hưởng, Huỳnh Hữu Kha, Phan Văn Khải, Nguyễn Tuấn
Khanh, Phạm Gia Khiêm, Hà Thị Khiết, Vũ Khoan, Nguyễn Đức Kiên, Phan Trung Kiên, Vũ
Trọng Kim, Hoàng Kỳ, Vũ Ngọc Kỳ, Phạm Văn Long, Nguyễn Hữu Luật, Trần Đức Lương,
Uông Chu Lưu, Hồ Xuân Mãn, Nông Đức Mạnh, Vũ Mão, Đặng Vũ Minh, Nguyễn Ánh
Minh, Nguyễn Tuấn Minh, Đỗ Hoài Nam, Mai Văn Năm, Nguyễn Thị Kim Nhân, Hồ Tiến
Nghị, Phạm Quang Nghị, Lê Hữu Nghĩa, Hoàng Văn Nghiên, Nguyễn Khắc Nghiên, Lê Huy
Ngọ, Tạ Quang Ngọc, Nguyễn Duy Niên, Tráng A Pao, Nguyễn Tấn Phát, Hoàng Văn Phong,
Tòng Thị Phóng, Phạm Đình Phú, Phùng Hữu Phú, Võ Hồng Phúc, Giàng Seo Phử, Ksor
Phước, Đỗ Nguyên Phương, Lê Hoàng Quân, Hoàng Bình Quân, Nguyễn Hồng Quân,
Nguyễn Văn Quân, Nguyễn Tấn Quyên, Trịnh Trọng Quyền, Nguyễn Văn Rinh, Tô Huy Rứa,
Trương Tấn Sang, Nguyễn Văn Son, Khuất Hữu Sơn, Sơn Song Sơn, Đỗ Trung Tá, Lê Thanh
Tâm, Lê Bình Thanh, Nguyễn Phúc Thanh, Phùng Quang Thanh, Quách Lê Thanh, Tạ Hữu
Thanh, Nguyễn Thế Thảo, Dương Mạc Thăng, Võ Thị Thắng, Đào Trọng Thi, Phạm Văn
Thọ, Nguyễn Thị Hoài Hoài Thu, Niê Thuật, Lê Đức Thúy, Lê Thế Tiệm, Bùi Sĩ Tiếu,
Nguyễn Văn Tình, Ma Thanh Toàn, Nguyễn Khánh Toàn, Phạm Văn Trà, Hà Mạnh Trí,
Nguyễn Thế Trị, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Đức Triều, Nguyễn Phú Trọng, Trương Vĩnh
Trọng, Đỗ Quang Trung, Mai Thế Trung, Trần Văn Truyền, Mai Ái Trực, Trần Văn Tuấn,
Phạm Minh Tuyên, Trương Đình Tuyển, Nguyễn Văn Tự, Y Vêng, Hồ Đức Việt, Lâm Chí
Việt, Hồng Vinh (Nguyễn Duy Lự), Nguyễn Văn Yểu.
Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) đã bầu Bộ Chính trị gồm
15 ủy viên: Nông Đức Mạnh, Trần Đức Lương, Phan Văn Khải, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn
Tấn Dũng, Lê Minh Hương, Nguyễn Phú Trọng, Phan Diễn, Lê Hồng Anh, Trương Tấn Sang,
Phạm Văn Trà, Nguyễn Văn An, Trương Quang Được, Trần Đình Hoan, Nguyễn Khoa Điềm.
Ban Bí thư Trung ương Đảng gồm 9 đồng chí: Nông Đức Mạnh, Nguyễn Văn An, Lê Hồng
Anh, Trần Đình Hoan, Nguyễn Khoa Điềm, Lê Văn Dũng, Tòng Thị Phóng, Trương Vĩnh
Trọng, Vũ Khoan. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng.
Thành công của Đại hội đánh dấu bước trưởng thành mới của Đảng, cột mốc mới trong tiến
trình cách mạng nước ta. Diễn văn bế mạc Đại hội của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã nêu
rõ: “Kết quả Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta có ý nghĩa rất to lớn, mở ra
lOMoARcPSD| 48599919
một thời kỳ mới phát triển đất nước trong những thập kỷ đầu của thế k XXI. Tương lai của
dân tộc ta rất sáng lạn, song con đường đi tới còn không ít khó khăn, thử thách. Thắng lợi của
sự nghiệp đổi mới trong thời kỳ mới tuỳ thuộc vào khả năng nhận rõ và chủ động nắm bắt thời
cơ, khắc phục nguy cơ của đất nước và của từng ngành, từng lĩnh vực và địa bàn cụ thể. Vì
vậy, trong nhận thức và trong hành động của mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân phải
quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm và các quyết sách do Đại hội IX đề ra, nêu cao tinh
thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường của dân tộc, đồng thời mở rộng quan hệ với bạn bè trên
thế giới; rèn luyện bản lĩnh, nắm vững thời cơ, khắc phục nguy cơ, bảo đảm ổn định và phát
triển đất nước. Vì vậy, các cấp uỷ và tổ chức đảng cần tập trung chỉ đạo quá trình tổ chức
nghiên cứu, quán triệt sâu sắc và quyết tâm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, biến Nghị quyết
Đại hội thành hiện thực..”.
Đại hội IX đã làm tròn được trách nhiệm trọng đại do toàn Đảng, toàn dân giao phó và sự
mong đợi của bạn bè quốc tế. Đó là: “Đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới, thể hiện
ý chí kiên cường và niềm hy vọng lớn lao của cả dân tộc ta trong thời điểm trọng đại bước vào
thế kỷ mới và thiên niên kỷ mới”.
Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX diễn ra trong hai ngày 9 và
10-6-2001, với mục đích đưa nhanh những nội dung của Nghị quyết Đại hội IX vào cuộc
sống. Hội nghị cũng đã góp ý kiến về dự án Thủy điện Sơn La, nhất trí với đề nghị của đồng
chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh thôi giữ chức Chủ tịch Quốc hội.
Hội nghị lần thứ ba của Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp từ ngày 13 đến ngày 22-82001
tại Hà Nội, đã thông qua quy chế làm việc của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Chương trình
làm việc toàn khóa của Ban Chấp hành Trung ương. Theo đó quy chế làm việc của Ban Chấp
hành Trung ương có sự đổi mới, sẽ dành nhiều thời gian xem xét, kiểm điểm việc thực hiện
các Nghị quyết đã ban hành, kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX vào giữa nhiệm
kỳ, bổ sung những chủ trương, giải pháp cần thiết nhằm đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc
sống.
Hội nghị đã thông qua nhiều quy định cụ thể về trách nhiệm, quyền hạn, phương thức công tác
của Ủy ban Kiểm tra Trung ương để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Ủy ban
Kiểm tra Trung ương trong việc kiểm tra và giữ gìn kỷ luật Đảng.
Hội nghị ban hành Nghị quyết về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu
quả doanh nghiệp nhà nước, với mục đích tạo bước phát triển mới đối với quá trình phát triển
của các doanh nghiệp nhà nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo thế
và lực cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp từ ngày 5 đến ngày 13-112001,
đã thảo luận và cho ý kiến về phương hướng chỉ đạo việc sửa đổi, bổ sung một số điều của
Hiến pháp năm 1992; phương hướng bầu cử Quốc hội khóa IX; kiểm điểm việc thực hiện kế
hoạch kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2001; xác định mục tiêu, phương hướng,
nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2002, cụ thể hóa
thêm phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch 5 năm 2001-2005; phương hướng, biện pháp tiếp tục
thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6
(lần 2) khóa VIII, ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí…
Về việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, Hội nghị nhấn mạnh: Tiếp tục khẳng định bản
chất và mô hình tổng thể của thể chế chính trị và bộ máy nhà nước đã được xác định trong
Cương lĩnh của Đảng và Hiến pháp năm 1992…Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong
lOMoARcPSD| 48599919
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Chỉ sửa đổi, bổ sung một số vấn đề
thực sự búc xúc, đã đủ cơ sở được kiểm nghiệm trong thực tiễn và có sự thống nhất cao.
Đồng thời sửa đổi, bổ sung một số điều thuộc các lĩnh vực khác cho phù hợp với các nội dung
mới đã được Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định.
Những nghị quyết quan trọng của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa IX
của Đảng, là tư tưởng chỉ đạo và những giải pháp thiết thực góp phần vào thực hiện nhiệm vụ
trung tâm phát triển kinh tế, nhiệm vụ then chốt xây dựng Đảng và cải cách bộ máy nhà nước,
cải cách hành chính.
Hội nghị lần thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương họp từ ngày 18-2 đến ngày 2-3-2002,
đã bàn và ra Nghị quyết về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể.
Để thực hiện tốt, Hội nghị đã đề ra nhiệm vụ cụ thể: Thống nhất nhận thức chung của toàn
Đảng, toàn dân về sự cần thiết trong phát triển kinh tế tập thể; xác lập môi trường thể chế và
tâm lý xã hội thuận lợi cho kinh tế tập thể phát triển; sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách;
nâng cao vai trò quản lý của nhà nước; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của
Liên minh hợp tác xã Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đổi với phát triển
kinh tế tập thể.
Hội nghị cũng đã thông qua Nghị quyết về tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, khuyến khích
và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân. Với tinh thần khuyến khích kinh tế tư nhân phát
triển, không ngừng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh trên thị trường.
Về tình hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong những năm đổi mới,
Hội nghị đã đưa ra chủ trương: phát triển lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn; xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp; phát triển kết cấu hạ tầng và đô thị
hóa nông thôn; xây dựng đời sống văn hóa - xã hội và phát triển nguồn nhân lực.
Hội nghị cũng đã thông qua Nghị quyết về đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010.
Nghị quyết về đổi mới nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn
cũng được Hội nghị thông qua với ba vấn đề cơ bản: Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của
từng tổ chức trong hệ thống chính trị và xây dựng mối quan hệ đoàn kết, phối hợp giữa các tổ
chức dưới sự lãnh đạo của đảng bộ, chi bộ cơ sở; thực hành dân chủ thực sự trong nội bộ các
tổ chức của hệ thống chính trị ở cơ sở theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân; xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở thực sự trong sạch, vững mạnh.
Cùng với việc thông qua Nghị quyết về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong
tình hình mới. Hội nghị cũng đã đưa ra phương hướng chung cho công tác tư tưởng, lý luận
trong tình hình mới, những nhiệm vụ chủ yếu và những giải pháp lớn nhằm tạo bước chuyển
biển mới trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng.
Từ ngày 4 đến ngày 15-7-2002 Hội nghị lần thứ sáu của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX
họp tại Hà Nội, đã tập trung thảo luận Báo cáo kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Trung
ương 2 về giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ từ nay đến năm 2005 và đến năm 2010.
Hội nghị đã phân tích những mặt đã làm được và những mặt còn hạn chế của công tác giáo
dục - đào tạo qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII). Từ thực tế đó, Hội
nghị nhấn mạnh: Ban Chấp hành Trung ương chủ trương từ nay đến năm 2010, toàn đảng toàn
dân mà nòng cốt là đội ngũ giáo viên và cán bộ giáo dục cần đặc biệt tập trung vào nâng cao
lOMoARcPSD| 48599919
chất lượng hiệu quả giáo dục và đào tạo nhân tài; Phát triển hợp lý quy mô giáo dục trên cơ sở
bảo đảm chất lượng và điều chỉnh cơ cấu đào tạo, gắn đào tạo với yêu cầu phát triển kinh tế -
xã hội, đào tạo và sử dụng; Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo cơ hội ngày càng
tốt hơn cho mọi cấp học và trình độ đào tạo, cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là vùng đồng
bào dân tộc thiểu số.
Về khoa học và công nghệ, Hội nghị khẳng định: “Trong 5 năm triển khai thực hiện Nghị
quyết Trung ương 2 khóa VIII, khoa học và công nghệ nước ta đã có những đóng góp thiết
thực cho việc phát triển kinh tế - xã hội”.
Bên cạnh đó, Hội nghị cũng nghe Báo cáo kiểm điểm việc thực hiện công tác tổ chức và cán
bộ theo ba Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương. Từ đó bổ sung, hoàn chỉnh và rút ra
kết luận về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 3
và Nghị quyết Trung ương 7 khóa VIII về công tác tổ chức cán bộ.
Từ ngày 7 đến ngày 9-11-2002, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) đã họp Hội nghị
lần thứ bảy (phần 1). Hội nghị đã nghe vào thảo luận các báo cáo về Đánh giá tình hình thực
hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2003. Hội nghị đồng ý với chủ trương xây dựng
cụm khí – điện – đạm Cà Mau và đồng ý giao Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo các cơ quan
có liên quan chuẩn bị trình Quốc hội về một số vấn đề cụ thể của dự án Thủy điện Sơn La.
Hội nghị lần thứ bảy (phần 2) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX được họp tại Hà
Nội từ ngày 13-1 đến 21-1-2003. Hội nghị đã tập trung đánh giá tình hình khối đại đoàn kết
toàn dân tộc từ sau Đại hội VI của Đảng, đồng thời khẳng định những thành tựu quan trọng đã
đạt được trong việc tập hợp khối đoàn kết toàn dân. Hội nghị cũng chỉ rõ: trước yêu cầu của
thời kỳ đổi mới, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân chưa thật bền chặt và đang
đứng trước những thách thức mới. Từ thực tế đó, Hội nghị đã ra Nghị quyết về phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Hội nghị phân tích tình hình các dân tộc thiểu số và thực trạng của công tác dân tộc sau hơn
15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng nhất là từ khi có Nghị quyết 22-NQ/TƯ ngày
27-11-1989 của Bộ Chính trị về một số chủ trương chính sách lớn phát triển kinh tế- xã hội
miền núi. Hội nghị đã nêu rõ những thành tựu cơ bản, đồng thời cũng chỉ ra những hạn chế,
yếu kém trong công tác dân tộc. Trên cơ sở phân tích những nguyên nhân khách quan, chủ
quan của những khuyết điểm, Hội nghị đã ra Nghị quyết về công tác dân tộc.
Công tác tôn giáo đã được Hội nghị nhận định là không chỉ có ý nghĩa chiến lược trong thời
kỳ đổi mới mà trong thời kỳ đổi mới mà trong mọi giai đoạn của cách mạng Việt Nam. Dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, công tác tôn giáo đã có những đóng góp tích cực
vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, trong thời k đổi mới, tình hình hoạt
động tôn giáo còn có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn
định. Hội nghị cho rằng, còn tình trạng trên là do nhiều nguyên nhân, trong đó quan trọng nhất
là do công tác tôn giáo chậm đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, một số cấp ủy,
chính quyền các cấp, một số cán bộ có trách nhiệm chưa nhận thức, quán triệt đầy đủ các chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về tôn giáo. Do vậy, để củng cố công tác tôn giáo
trong tình hình mới, hội nghị đã bàn và thông qua Nghị quyết về công tác tôn giáo.
Hội nghị cũng ra nghị quyết về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
lOMoARcPSD| 48599919
Đại đoàn kết toàn dân tộc, công tác dân tộc, công tác tôn giáo, vấn đề đất đai là những vấn đề
vừa có tính thời sự cấp bách, vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài trong quá trình phát triển đất
nước. Do vậy, những kết luận và nghị quyết được thông qua tại Hội nghị lần thứ bảy (phần 2)
đã đánh dấu một bước tiến mới trong việc cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội IX của Đảng. Đó
cũng là những vấn đề nhạy cảm, được Đảng, Nhà nước và nhân dân đặc biệt quan tâm. Việc
vụ thể hóa các nghị quyết, đưa các nghị quyết của Đảng vào cuộc sống sẽ tạo ra khí thế mới,
những chuyển biến quan trọng trong thời kỳ đất nước đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX họp từ ngày 2 đến ngày 12-
72003 đã bàn và ra Nghị quyết về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Hội nghị
diễn ra trong bối cảnh quốc tế và khu vực diễn biến phức tạp. Những vấn đề đặt ra trong
chương trình Hội nghị đều có ý nghĩa quan trọng đặc biệt, vừa mang tính thời sự trước mắt
vừa có tầm chiến lược lâu dài, đặc biệt là chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Để thực hiện chiến lược này Hội nghị đã đưa ra 6 nhiệm vụ cơ bản:
Một là, giữ vừng hòa bình, ổn định để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, xây dựng Đảng là nhiệm vụ theo chốt, kết hợp chặt chẽ với bảo vệ Đảng, bảo vệ vững
chắc an ninh chính trị nội bộ.
Ba là, nỗ lực thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế gắn với giải quyết tốt
các vấn đề xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; không ngừng nâng cao đời sống
nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đồng thời chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế.
Bốn là, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa
đi đôi với việc tăng cường trật tự kỷ cương, chú trọng giải quyết các vấn đề dân tộc, tôn giáo,
nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc.
Năm là, tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ
trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và
Công an nhân dân là lực lượng lòng cốt.
Sáu là, đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, mở rộng hợp tác quốc tế, ưu tiên phát triển hợp tác vói
các nước láng giềng, chú trọng thúc đẩy quan hệ với các nước và trung tâm lớn.
Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX họp từ ngày 5 đến ngày 12-
1-2004. Đây là Hội nghị có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng. Hội nghị đã nghe báo cáo của Bộ Chính trị về
kiểm điểm nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Báo cáo
nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX về công tác xây dựng
và chỉnh đốn Đảng và ra Nghị quyết về một số chủ trương, chính sách, giải pháp lớn nhằm
thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng.
Từ ngày 5 đến ngày 10-7-2004 Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
lOMoARcPSD| 48599919
IX đã họp tại Hà Nội. Hội nghị đã thảo luận Báo cáo và Tờ trình của Bộ Chính trị kiểm điểm
5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về Xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Báo cáo tại Hội nghị đã khẳng định những thành tựu đã đạt được trong lĩnh vực văn hóa là rất
quan trọng. Đặc biệt văn hóa đã thực sự trở thành một nội dung quan trọng trong hoạt động
của cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp, từng bước gắn bó chặt
chẽ hơn với nhiệm vụ kinh tế - xã hội. Việc thể chế hóa Nghị quyết được coi trọng, tạo hành
lang pháp lý phù hợp và thông thoáng cho nhân dân và đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ hoạt động
và sáng tạo văn hóa.
Trên cơ sở đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, Hội nghị chỉ ra
nguyên nhân của những yếu kém và xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm và các giải
pháp chủ yếu để tiếp tục xây dựng và phát triển văn hóa trong thời kỳ mới.
Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX được tổ chức tại Hà Nội từ
ngày 17 đến ngày 25-1-2005. Hội nghị đã nghe thảo luận nội dung Báo cáo tổng kết một số số
vấn đề về lý luận và thực tiễn 20 năm đổi mới và các đề cương chi tiết Báo cáo chính trị; Báo
cáo bổ sung một số nội dung trong Cương lĩnh chính trị năm 1991; Báo cáo phương hướng
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010; Báo cáo xây dựng Đảng và Báo cáo bổ
sung, sửa đổi Điều lệ Đảng.
Hội nghị đã thảo luận và cho ý kiến về vấn đề Đảng và công tác xây dựng Đảng, nhất là tình
hình tư tưởng chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ đảng viên; tình hình công
tác tổ chức cán bộ của Đảng, đặc biệt là tình hình tổ chức đảng ở cơ sở; vấn đề đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng; công tác kiểm tra, kỷ luật đảng; xem xét nguyên nhân của
tình hình và rút ra bài học kinh nghiệm trong công tác xây dựng Đảng. Trên cơ sở đó, xác
định phương hướng, mục tiêu và nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng trong những năm tới
nhằm nâng cao chất lượng công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu
của giai đoạn cách mạng mới.
Hội nghị nhấn mạnh: Năm 2005 là năm cuối cùng thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng,
thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005, cũng là năm Đảng ta tiến
hành Đại hội Đảng các cấp tiến đến Đại hội X. Hội nghị kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân phát huy truyền thống anh hùng, bất khuất, vẻ vang của dân tộc ta, của Đảng ta, biến chủ
nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng thành sức mạnh tinh thần, vật chất to lớn;
thúc đẩy mạnh mẽ phong trào thi đua lao động sáng tạo nhằm hoàn thành và hoàn thành vượt
mức các chỉ tiêu kinh tế, xã hội năm 2005; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa; chuẩn bị mọi điều kiện thuận lợi cho các bước phát triển tiếp theo.
Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa IX diễn ra từ ngày 4 đến ngày 137-
2005, đã thảo luận và thông qua các dự thảo văn kiện sẽ trình Đại hội X của Đảng: Báo cáo
chính trị; Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010;
Báo cáo về công tác xây dựng Đảng và Báo cáo một số vấn đề bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng.
Đồng thời, Hội nghị đã thảo luận phương hướng công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương
khóa X.
Trên cơ sở đánh giá đúng tình hình, làm rõ những cơ hội và thách thức sắp tới, Hội nghị nhất
trí đề ra chủ đề của Đại hội X là: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát
huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển; Hội nghị đề ra các phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp nhằm tiếp
lOMoARcPSD| 48599919
tục đổi mới và chỉnh đốn Đảng trên tất cả các mặt, cả về tư tưởng, chính trị, tổ chức và cán bộ,
bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu; đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng; củng cố, tăng cường vai trò, vị trí của các tổ chức đảng và nhiều vấn đề quan trọng
khác. Hội nghị cũng đưa ra phương hướng công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khóa
X
Hội nghị Trung ương 12 đặc biệt quan tâm đến tình hình tư tưởng và công tác tư tưởng trong
tình hình hiện nay, đề ra những giải pháp cụ thể nhằm đấu tranh có hiệu quả chống lại các âm
mưu, thủ đoạn diễn biến hòa bình, kích động bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; kiên
quyết bác bỏ những luận điệu tuyên truyền, bịa đặt, xuyên tạc và vu khống, khắc phục những
biểu hiện dao động và thiếu ý thức tổ chức kỷ luật của một số cán bộ, đảng viên, củng cố
vững chắc sự đoàn kết, thống nhất của toàn Đảng chung quanh Ban Chấp hành Trung ương.
Phát biểu bế mạc Hội nghị, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã nêu rõ: Kết quả của Hội nghị lần
thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đánh dấu một bước tiến mới rất quan trọng trong
quá trình chuẩn bị Đại hội X trên cả hai mặt nội dung văn kiện và phương hướng công tác
nhân sự.
Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX được tiến hành từ ngày 11 đến
ngày 18 -1-2006, đã xem xét công tác chuẩn bị nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa X. Hội nghị cũng quyết định công bố toàn văn Dự thảo Báo cáo chính trị để lấy ý kiến
nhân dân vào dịp kỷ niệm 76 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phát biểu bế mạc Hội nghị, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã đề nghị với Trung ương tập trung
chỉ đạo việc chỉnh lý, hoàn chỉnh Báo cáo chính trị để lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân, tiến
hành khẩn trương các công việc chuẩn bị Đại hội X.
Từ ngày 20-3 đến ngày 24-3-2006, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã họp Hội
nghị lần thứ 14 tại Hà Nội để tiếp tục công việc chuẩn bị Đại hội X của Đảng. Hội nghị đã
nghe báo cáo về ý kiến đóng góp của nhân dân vào Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội X
của Đảng. Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận nghiêm túc, tiếp thu tối đa những ý kiến
hợp lý, xác đáng để làm cho các văn kiện Đại hội X thực sự là kết tinh trí tuệ của toàn Đảng,
toàn dân.
Hội nghị lần thứ 14 đã tiếp tục xem xét công tác chuẩn bị nhân sự Ban Chấp hành Trung ương
khóa X. Ban Chấp hành Trung ương đã biểu quyết thông qua danh sách giới thiệu ứng cử ủy
viên Ban Chấp hành Trung ương khóa X để trình Đại hội X. Hội nghị xũng đã quyết định
triệu tập Đại hội X của Đảng từ ngày 18-4 đến ngày 25-4-2006 tại Thủ đô Hà Nội.
Phát biểu bế mạc Hội nghị, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh nêu rõ: cùng với việc khẩn trương
hoàn chỉnh các văn hiện để trình đại hội X, toàn Đảng, toàn dân phải dành nhiều công sức cho
công tác tổ chức về mọi mặt để bảo đảm thành công của Đại hội. Đồng thời các cấp ủy đảng,
các cơ quan Nhà nước, các địa phương và cơ sở đều phải thúc đẩy mạnh mẽ hơn việc thực
hiện những nhiệm vụ của kế hoạch nhà nước năm 2006, tiếp tục đà thuận lợi của quý I, bước
sang quý II với nhiều cố gắng mới và thành tựu mới; phải tiếp tục giữ vững và tăng cường ổn
định chính trị - xã hội, giải quyết kịp thời và đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh về đối nội
và đối ngoại nhằm tạo nên sự phát triển hài hòa, vững chắc.
Đại hội IX của Đảng có ý nghĩa trọng đại mở đường cho đất nước ta nắm lấy cơ hội, vượt qua
thách thức tiến vào thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới, thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt
Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
lOMoARcPSD| 48599919
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoa đất
nước 2001-2006 Đại hội IX của Đảng họp tại Hà Nội, từ ngày 19 đến ngày 22-4-2001, là Đại
hội mở đầu thế kỷ XXI, cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hoá diễn
ra mạnh mẽ. Sau sự kiện 11-9-2001 ở Mỹ, một nước lớn lợi dụng chống khủng bố, tăng cường
can thiệp vào công việc nội bộ của nhiều nước. Khu vực Đông Nam Á, châu Á-Thái Bình
Dương trở thành khu vực phát triển kinh tế năng động nhưng tiềm ẩn những nhân tổ gây mất
ổn định. Sau 15 năm đổi mới, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo thế và lực
mới nhưng nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Chỉ tiêu
tăng trưởng kinh tế bình quân trong 5 năm mà Đại hội VIII đề ra là 9-10% đã không đạt. Các
nguy cơ mà Hội nghị giữ nhiệm kỳ của Đảng (1-1994) đã nêu ra vẫn là những thách thức lớn
của cách mạng nước ta. Dự Đại hội IX có 1.168 đại biểu, thay mặt cho hơn 2,2 triệu đảng viên
trong cả nước. Đại hội đã thông qua các văn kiện chính trị quan trọng, trong đó có Chiến lược
phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010; xác định rõ những nội dung cơ bản Tư tưởng Hồ Chi
Mình và đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 150 ủy viên, Bộ Chính trị có 15 Đại
hội IX của Đàng họp tại Hà Nội, tir ngây 19 đến ngày 22-4-2001, là Đại hội md đầu thế ký
XXI, cách mạng khoa học và công nghệ, toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ. Sau sự kiện 11-92001
MS, một nước lớn lợi dụng chóng khủng bố, tăng ogA cường can thiệp vào công việc nội bộ
ca nhiều nước. Khu vực Đông Nam Á, châu A- Thái Bình Dương trở thành khu vực phát triền
kinh năng động nhưng tiềm ẩn những nhân tổ gây mất ổn định. Sau 15 năm đỗi mới, Việt
Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo thế và lực mới nhưng nên kình tế phát triển
chưa vũng chắc, hiệu quả và ons cạnh tranh thấp. Chitiêu tăng trưởng kinh tế bình quân trong
5 năm mà Đại hội VIII đè ra là 9-10% da không dạt. Các nguy cơ mà Hội nghị giữ nhiệm ký
cia Đảng (1-1994) da nêu ra vẫn là những thách thức lớn của cách mạng nước ta, Dự Đại hội
IX có 1.168 đại biểu, thay mặt cho hơn 2,2 triệu đảng viên trong cá nước. Đại hội đã thông
qua các văn kiện chính trị quan trọng, trong đó có Chiến hrợc phát triền kình tế-xã hội 2001-
2010; xác định rỡ nhữĩng nội dung bản Tr tòng Hồ Chí 8 Minh và đã bầu ra Ban Chấp hành
Trung ương mới gồm 150 ủy viên, Bộ Chính trị có 15 đồng chí; đồng chí Nông Đức Mạnh
được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Ngoài những nội dung tiếp tục đổi mới toàn diện, các
văn kiện của Đại hội IX nổi bật với những nhận thức mới về con đường xã hội ở nước ta: Thế
kỷ XX ghi đậm trong lịch sử loài người ba dầu ẩn cực kỳ sâu sắc: Khoa học và công nghệ tiến
nhanh chưa từng thấy, diễn ra hai cuộc chiến tranh thế giới đẫm máu; đầu thế ký phong trào
cách mạng phát triển rộng toàn thế giới, cuối thế kỷ, chủ nghĩa xã hội hiện thực tạm thời lâm
vào thoái trào. Đối với nước ta, thế kỷ XX là thế kỷ của những biến đổi to lớn, thế kỷ của
những chiến công và thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
mở ra bước ngoặt của cách mạng Việt Nam, thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và
việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; thắng lợi của các cuộc kháng chiến
oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, từng bước
đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kết quả thực hiện Chiến lược ổn định phát triển
kinh tế-xã hội 1991-2000 đã đưa GDP của nước ta từ 15, 5 tỷ USD năm 1991 tăng vượt hơn
gấp đôi vào năm 2000, đạt trên 35 tỷ USD. Đại hội đã đề ra Chiến lược phát triển kinh tế-xã
hội 10 năm tiếp theo (2001-2010) với mục tiêu tổng quát là đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại; tiếp tục đưa GDP năm 2010 lên gấp đôi so với năm 2000. Đại hội khẳng định
những bài học đổi mới do các Đại hội VI, VII, VIII của Đàng nêu lên mục vẫn tiêu còn có giá
trị lớn, nhất là những bài học: Trong quá trình đổi mới phải kiên trì độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới phải dựa
vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo. Đổi mới phải
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố
quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới. Đảng và nhân dân quyết tâm xây dựng đất nước
Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. "Tư tưởng Hồ Chỉ Mình là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
lOMoARcPSD| 48599919
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dã dân tộc, tiếp thu tỉnh hoa văn hoá nhân loại". Tư tưởng Hồ Chí Minh soi
đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tỉnh thần to lớn của Đảng
và dân tộc ta. Khẳng định lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý
luận của Đảng ta. Con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã
đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển
nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa là sự nghiệp rất khỏ khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ
quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá
độ. Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần
kinh tế. Quan hệ các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ
nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nội dung
chủ yếu của đấu tranh giai cấp hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển;
thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những
tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động
chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước
xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc. Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là
đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng
lãnh đạo, kết hợp hải hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và
nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội. Đảng, Nhà nước chủ trương thực hiện
nhất quản và lâu dài nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; coi đây là mô hình
kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình
thức phân phối, chủ yếu phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân
phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và phân phối
thông qua phúc lợi xã hội. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
là nền tảng tỉnh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh
tế-xã hội; làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời
sống tỉnh thần của nhân dân; góp phần xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về
chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, về năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng
nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tỉnh, lối sống văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình,
cộng đồng và xã hội. Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thực
hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các
quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Đại hội lần thứ IX của Đàng tiếp tục đẩy
mạnh công cuộc đổi mới, đánh dấu bước trưởng thành về nhận thức vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ ChíMình, phát triển và cụ thể hoá Cương lĩnh chính trị năm
1991 của Đàng trong những năm đầu của thế kỷ XXI. Trong toàn khóa IX, Trung ương Đảng
đã hợp nhiều lần, chỉ đạo đổi mới toàn diện, nổi bật nhất là những nhiệm vụ trọng tâm sau:
Đến năm 2001, Đảng và Nhà nước đã thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp tích cực đổi mới
và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước và đã đạt nhiều kết quả lâm tăng thế và lực của
đất nước. Tuy nhiên, doanh nghiệp nhà nước cũng còn những mặt hạn chế, yếu kém, có mặt
rất nghiêm trọng. Hội nghị Trung ương 3 (9-2001) đã chỉ đạo sắp xếp, đổi mới, phát triển và
nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, tạo bước phát triển mới, tạo thế và lực cho các
doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
lOMoARcPSD| 48599919
hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Qua 5 năm 19962001, kinh tế tập thể mà nòng cốt là
hợp tác xã kiểu mới dưới nhiều hình thức, trình độ khác nhau trong các ngành, lĩnh vực, nhất
là trong nông nghiệp, nông thôn đã có đổi mới, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế xã
hội của đất nước. Tuy nhiên, kinh tế tập thể hiện nay còn nhiều mặt yếu kém, năng lực nội tại
hạn chế; hiệu quả ít; kinh tế tập thể chiếm tỷ trọng thấp trong GDP, chưa đủ sức đâm nhiệm
tốt vai trò của mình. Hội nghị Trung ương 5 (3-2002) đã thống nhất nhận thức về sự cần thiết
phát triển kinh tế tập thể và chủ trương xác lập môi trường thể chế và tâm lý xã hội thuận lợi,
sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách; nâng cao vai trò quản lý của nhà nước; tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Liên mình hợp tác xã Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân đối với phát triển kinh tế tập thể. Qua 10 năm 1991-2001, kinh tế tư
nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân đã phát triển rộng khắp trong cả
nước, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế. Tuy vậy, kinh tế tư nhân nước ta hiện nay
còn nhiều hạn chế, yếu kém: quy mô nhỏ, vốn ít, công nghệ sản xuất lạc hậu, trình độ quản lý
kém, hiệu quả và sức cạnh tranh yếu và gặp nhiều khó khăn, vướng mắc về cơ chế hoạt động.
Hội nghị Trung ương 5 (3-2002) đã thảo luận, thống nhất nhận thức coi kinh tế tư nhân là bộ
phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến
lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Trung
ương quyết định tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển
kinh tế tư nhân. Kể từ Luật đất đai sửa đổi năm 1988, những đổi mới trong chính sách, pháp
luật về đất đai hơn 15 năm qua đã đưa đến những kết quả tích cực, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Tuy nhiên, công tác quản lý và sử dụng đất đai hiện nay còn nhiều hạn chế, yếu kém và nhiều
vấn đề bức xúc. Đất đai chưa được chuyển dịch hợp lý, hiệu quả sử dụng còn thấp. Tình trạng
người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai và tình hình khiếu kiện về đất dai diễn ra
nghiêm trọng và phổ biến; việc thu hồi đất, đền bù giải toá mặt bằng thực hiện hết sức khó
khăn. Hội nghị Trung ương 7 (32003) đã thống nhất nhận thức coi đất đai là tải nguyên quốc
gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là nguồn nội lực và nguồn vốn to lớn của đất
nước; quyền sử dụng đất là hàng hoá đặc biệt. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại
diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Trung ương chủ trương tiếp tục đổi mới chính sách,
pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng
Nhà nước giao đất, cho thuê đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu
dài hoặc có thời hạn theo pháp luật. Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được Nhà
nước giao cho cá nhân. Qua 15 năm đổi mới, tỉnh hình tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân
nhìn chung có nhiều mặt tích cực và tiêu cực đan xen nhau, trong đó mặt tích cực là cơ bản.
Tuy vậy, mặt tiêu cực có lúc, có nơi cũng rất nghiêm trọng, thực sự là nguy cơ tiềm ẩn, liên
quan đến sự mất còn của Đảng, của chế độ. Hội nghị Trung ương 5 (3-2002) đã đưa ra những
nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận của Đảng trong tình hình mới. Trung ương
nhấn mạnh cần đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, tiếp tục làm sáng tỏ hơn lý
luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, năng cao chất lượng
và hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục lý luận chính trị; chủ động tiến công, làm thất bại
chiến lược “diễn biến hòa bình", âm mưu bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch Qua 10 năm
công tác nghiên cứu tư tưởng Hồ ChíMinh đã đạt được những kết quả quan trọng. Tuy vậy,
việc tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh còn một số hạn chế, yếu kém. Nội dung
giáo dục tư tưởng Hồ ChíMinh chưa thống nhất và chưa đạt được chiều sâu tư tưởng, lý luận.
Chậm đưa tư tưởng Hồ Chí Minh thành môn học trong các trường thuộc hệ thống giáo dục
quốc dân. Nội dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh thiếu sinh
động; chưa gắn với giải quyết những vấn đề thực tiễn, việc đấu tranh bảo vệ tư tưởng Hồ Chí
Minh chưa chủ động, kịp thời và sắc bén. Ngày 27-3-2003, Ban Bí thư đã ra Chỉ thị số 23-
CT/TW về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai
đoạn mới nhằm làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức sâu sắc nguồn gốc, nội
dung, giá trị, vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định và làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tỉnh thần của xã hội ta.
lOMoARcPSD| 48599919
Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị về tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân
dân, về đại đoàn kết toàn dân tộc, về dân tộc, tôn giáo, về Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
Nhìn chung, khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng thúc nước. Tuy
thách vững tình phép an rất thức chắc, trạng nước đẩy sự phát nhiên, mới. khối Lòng phần
tham triển đại kinh đoàn tin vào vì đời nhũng, nhiều lúc, toàn xã hội còn còn sống quan tế-xã
kết Đảng, còn liêu, toàn Nhà khó lãng nhiều nơi không hội, dân giữ tộc nước khăn, phívững
chưa và chế vì bất còn nghiêm, phức tạp. Các vụ khiếu kiện gay gắt. Việc tập hợp khá đạo ổn
thật độ bình phổ đức đông nhân dân vào Mặt trận và định bền của chỉnh chặt một trước biến
xã người các và trị-xã đứng bộ phận những và bất nghiêm hội có mặt vẫn còn đoàn thể, hội
của trước nhân công trọng, xuống nhiều, các có đất những dân chưa xã kỷ cấp, hội và cương
trật tự lúc, có nơi tổ chức xã hội nhiều hạn chế. Hội nghị Trung ương 7 (3-2003) đã ban hành
ba Nghị quyết quan trọng. Nghị quyết về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì “Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Trung ương khẳng định: Đại đoàn
kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động
lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm phát triển bền vững đất nước. Đại
đoàn kết toàn dân tộc lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng, xoá bỏ mặc cảm,
định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần, giai cấp, xây dựng tỉnh thần cởi mở, tin
cậy lẫn nhau, cùng hưởng tới tương lai. Nghị quyết đề cập toàn diện và tổng thể vấn đề tập
trung vào những nội dung chủ yếu và cấp bách của công tác dân tộc dân tộc ở nước ta trong
thời kỳ mới, bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng,
hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; thực hiện dân chủ gần liền với giữ gìn kỷ
cương, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, không ngưng bồi dưỡng, nâng cao tỉnh thần
yêu nước, ý thức độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tỉnh thần tự lực, tự cường xây dựng đất
nước. Nghị quyết về công tác dân tộc khẳng định, trải qua các thời kỳ cách mạng, công tác
dân tộc đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp cách mạng
chung của đất nước. Tuy nhiên do tác động của tỉnh hình thế giới và hoạt động của các thế lực
thù địch cả trong và ngoài nước, tỉnh hình dân tộc ở nước ta có những diễn biến phức tạp hơn.
Cần nhận thức rõ vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài,
đồng thời là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam, Các dân tộc trong đại gia
đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trung ương đã đã đưa ra các nhiệm vụ, giải pháp thực hiện
công tác dân tộc trong thời kỳ mới. Nghị quyết về công tác tôn giáo khẳng định, Đảng và Nhà
nước ta luôn xác định công tác tôn giáo là vấn đề chiến lược có ý nghĩa rất quan trọng. Tín
ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân
tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán
chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo
nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Giữ gìn và phát huy những giá
trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc.
Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời,
nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp
luật và chính sách của Nhà nước. Đến năm 2002, có khoảng 2,7 triệu người Việt Nam đang
sống ở gần 90 nước và vùng lãnh thổ, ngoài ra, còn hàng trăm nghìn người Việt Nam ra nước
ngoài lao động, học tập, tu nghiệp, đoàn tụ gia đình, hình thành các cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài. Đa số họ có đời sống ổn định, có tiềm lực kinh tế nhất định, có vị trí và
quan hệ nhất định ở nước sở tại, luôn nuôi dưỡng tỉnh thần yêu nước, tự tôn dân tộc, giữ gìn
truyền thống văn hóa, hướng về cội nguồn, gia đình, dòng tộc, quê hương, có những đóng góp
nhất định về các mặt cho đất nước. Tuy nhiên, người Việt Nam ở một số nước còn nhiều khó
khăn trong việc ổn định cuộc sống, ở một số nơi còn bị kỳ thị. Một số người chưa có dịp về
lOMoARcPSD| 48599919
thăm đất nước, chưa thấy những thành tựu của công cuộc đổi mới, vẫn còn thành kiến, mặc
cảm, thậm chí chống phá đất nước. Trong bối cảnh đó, Bộ Chính trị khóa IX (3-2004) đã ban
hành Nghị quyết số 36 chủ trương coi người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách
rời, là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường
quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước. Nhà nước có trách nhiệm thoả thuận với
các nước hữu quan về khuôn khổ pháp lý để đồng bào ổn định cuộc sống và bảo vệ quyền lợi
chính đáng của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài theo luật pháp, công ước và thông lệ
quốc tế. Sau biến Đại rất quốc Trung hội mau tế và IX, lẹ, bảo nhất phức vệ Tổ là sau tạp;
quốc ương 8 (7-2003) đã sự sự ở ra kiện nghiệp nước kịp ta ngày đẩy đang thời 11-9-2001
mạnh thảo đặt ra luận ở nước Mỹ, tình hình thế giới công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội những
vấn và ban đề hành mới Chiến rất cấp lược thiết. Bảo Hội vệ Tổ diễn nhập nghị quốc trong
tỉnh hình mới. Sau khi chỉ rõ những thành tựu, khuyết điểm, yếu kém của Đăng trong thực
hiện nhiệm vụ Bảo vệ Tổ Quốc, dự báo tình hình quốc tế, khu vực, tỉnh hình đất nước những
năm tới, Chiến lược xác định: Mục tiêu bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp
đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại lợi ích quốc gia dân tộc; bảo vệ an ninh văn hoá; giữ vững
an ninh chính trị và hưởng xã hội chủ nghĩa. Quan chính trị, quốc gia, trật tự hoá đất nước;
bảo vệ an toàn xã hội và nền môi trường hòa bình, phát triển đất nước theo định điểm chỉ đạo
của Đảng là: Giữ vững đổi, trực tiếp về mọi mặt của Đảng độc để lập phát dân tộc triển gắn
với công kinh tế-xã nhân đối với sự nghiệp Bảo vệ Tổ xã hội là lợi ích vụ chiến lược xây dựng
thành công hội; cao lấy việc nhất và bảo của giữ Tổ vững Quốc. môi vai trò lãnh đạo tuyệt
quốc. Kiên định mục tiêu trường Kết hợp hòa chặt bình, chẽ ổn hai định nhiệm vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xây dựng sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh
tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... ra sức phát huy nội lực, đồng thời tranh
thủ tối đa và khai thác mọi thuận lợi ở bên ngoài; Chủ động phòng ngừa và triệt tiêu những
nhân tố bên trong có thể dẫn đến những đột biến bất lợi. Nhiệm vụ cơ bản về bảo vệ Tổ quốc:
Giữ vững hòa bình, ổn định để thực hiện thắng lợi sự nghiệp Xây chắc dựng an công nghiệp
hóa, hiện đại Đảng là nhiệm vụ theo ninh chốt, chính trị nội bộ. Nỗ lực hóa đất kết hợp thực
hiện nước chặt theo chẽ định với hướng xã hội chủ nghĩa. bảo vệ Đảng, bảo vệ vững thắng lợi
nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế gắn với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm công bằng
xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đồng thời chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Phát
huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa di đôi với
việc tăng cường trật tự kỷ cương, chú trọng giải quyết các vấn đề dân tộc, tôn giáo, nâng cao
vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Tăng
cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu
thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an
nhân dân là lực lượng lòng cốt. Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, mở rộng hợp tác quốc tế, ưu
tiên phát triển hợp tác với các nước láng giềng, chú trọng thúc đẩy quan hệ với các nước và
trung tâm lớn. Trên cơ sở đó, Trung ương đã nêu các nhiệm vụ cơ bản và giải pháp chủ yếu
Bảo vệ Tổ quốc trong tỉnh hình mới.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 48599 919
ĐẠI HỘI ĐẢNG LẦN THỨ IX
Niên biểu toàn khóa Đại hội đảng lần thứ IX
Đại hội IX của Đảng có ý nghĩa trọng đại mở đường cho đất nước ta nắm lấy cơ hội, vượt qua
thách thức tiến vào thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới, thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt
Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Địa điểm: Thủ đô Hà Nội
Số lượng đảng viên trong cả nước: 2.479.719
Số lượng tham dự Đại hội: 1.168 đại biểu
Tổng bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Nông Đức Mạnh
Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội: 150 uỷ viên
Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội: 15 uỷ viên
Nhiệm vụ chính: Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Dự Đại hội có 1.168 đại biểu, thay mặt cho hơn 2 triệu đảng viên trong cả nước. Có 34 đoàn
đại biểu quốc tế tham dự đại hội.
Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam là Đại hội "Trí tuệ, Dân chủ, Đoàn kết, Đổi
mới”, là Đại hội có ý nghĩa lịch sử trọng đại, thể hiện ý chí kiên cường và niềm hy vọng lớn
lao của cả dân tộc Việt Nam vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Đại hội đánh dấu chặng đường 15 năm đổi mới và 10 năm thực hiện Chiến lược
kinh tế - xã hội 1991-2000, là Đại hội đầu tiên của Đảng trong thế kỷ XXI.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 150 uỷ viên. Bộ Chính trị gồm có 15 uỷ viên. Đồng
chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã họp 14 lần để bàn và quyết định nhiều vấn đề
quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Trong đó có vấn đề tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung
ương 2 khóa VIII, phương hướng phát triển giáo dục đào tạo, khoa học và công nghệ từ nay
đến năm 2005 và đến 2010; Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa VII, Nghị
quyết Trung ương 3 và Nghị quyết Trung ương 7 khóa VIII về công tác tổ chức cán bộ; Về
chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và
nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước; Về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010; Về đổi mới và nâng cao hệ thống chính trị ở cơ sở xã,
phường, thị trấn; Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX diễn ra trong bối cảnh loài người đã kết thúc thế kỷ XX
và bước sang thế kỷ XXI, dân tộc ta đứng trước những thời cơ lớn đan xen với nhiều thách thức lớn.
Đại hội nhận định: Khả năng duy trì hoà bình ổn định trên thế giới và khu vực cho phép chúng
ta tập trung vào nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, đồng thời đòi hỏi phải đề cao cảnh
giác, chủ động đối phó với các tình huống bất trắc, phức tạp có thể xảy ra. lOMoAR cPSD| 48599919
Cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt và công nghệ thông tin và công nghệ sinh học
tiếp tục có bước phát triển nhảy vọt, ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy
sự phát triển kinh tế tri thức, làm chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế và biến đổi sâu sắc các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Tri thức và sở hữu trí tuệ có vai trò ngày càng quan trọng.
Toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ. Đây là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, bao trùm hầu hết
các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các
nền kinh tế. Quan hệ song phương, đa phương giữa các quốc gia ngày càng sâu rộng cả trong
kinh tế, văn hoá và bảo vệ môi trường, phòng chống tội phạm, thiên tai và các đại dịch...
Tình hình đất nước ta sau 15 năm đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo thế và
lực để thúc đẩy công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu. Bên cạnh đó, chúng ta còn phải đối phó
với những thách thức: tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng quan liêu, “diễn biến hoà bình” do các
thế lực thù địch gây ra.
Nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ mới là vấn đề có ý
nghĩa sống còn của Đảng và nhân dân ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX diễn ra trong
hoàn cảnh đó, phải hoạch định đường lối đúng đắn cho sự phát triển của đất nước trong những
năm 2001- 2005 và 2001-2010.
Dự Đại hội có 1.168 đại biểu đại diện cho hơn hai triệu đảng viên ở các lĩnh vực hoạt động
khác nhau từ mọi miền của đất nước và đang công tác ở nước ngoài.
Đến dự Đại hội còn có đoàn đại biểu của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, đoàn đại biểu của
Đảng Cộng sản Liên Xô, đoàn đại biểu của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đoàn đại biểu của
Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia, đoàn đại biểu của Đảng Cộng sản Cuba, đoàn đại biểu
Đảng Cộng sản Pháp…, các vị trong đoàn ngoại giao, đại diện các tổ chức quốc gia và quốc
tế, đại diện các tổ chức phi chính phủ tại Hà Nội.
Đồng chí Trần Đức Lương, Uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị đọc diễn văn khai mạc. Đồng chí
Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đọc Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII về các văn
kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng.
Đại hội IX của Đảng đã đánh giá về chặng đường 71 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tổng
kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, 15 năm đổi mới, 10 năm thực hiện chiến lược
kinh tế - xã hội, rút ra những bài học kinh nghiệm của công cuộc đổi mới, từ đó phát triển và
hoàn thiện đường lối, định ra chiến lược phát triển đất nước trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ
XXI. Đại hội IX có nhiệm vụ kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng, đề ra phương hướng, nhiệm
vụ xây dựng Đảng ta ngang tầm với đòi hỏi của dân tộc trong thời kỳ mới; sửa đổi, bổ sung
Điều lệ Đảng, bầu ra Ban Chấp hành Trung ương mới.
Báo cáo Chính trị “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hoá hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” đã trình bày 10 vấn đề:
- Việt Nam trong thế kỷ XX và triển vọng trong thế kỷ XXI;
- Tình hình đất nước 5 năm qua và những bài học chủ yếu của 15 năm đổi mới;
- Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; lOMoAR cPSD| 48599 919
- Đường lối và chính sách phát triển kinh tế - xã hội;
- Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
- Tăng cường quốc phòng và an ninh;
- Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế;
- Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân;
- Đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế;
- Xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Đánh giá về nước ta trong thế kỷ XX, Đại hội IX khẳng định: Thế kỷ XX là thế kỷ của những
biến đổi to lớn, thế kỷ đấu tranh oanh liệt giành lại độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc và xây
dựng chủ nghĩa xã hội, thế kỷ của những chiến công và thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại.
“Với những thắng lợi giành được trong thế kỷ XX, nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong
kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có
quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân
dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ
một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”.
Về triển vọng trong thế kỷ XXI: Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi, nhân dân ta có cả
cơ hội lớn và thách thức lớn.
Về đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch của 5 năm (1996-2000), Báo cáo Chính trị khẳng định
5 nhóm thành tựu quan trọng sau: kinh tế tăng trưởng khá; văn hoá, xã hội có những tiến bộ;
đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định; quốc
phòng và an ninh được tăng cường; công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng; hệ
thống chính trị được củng cố; quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế
quốc tế được tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt.
Bên cạnh khẳng định những thành tựu đó, Đại hội IX đánh giá quá trình thực hiện Nghị quyết
Đại hội VIII còn bộc lộ những yếu kém, khuyết điển: Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc,
hiệu quả và sức cạnh tranh thấp; Một số vấn đề văn hoá - xã hội bức xúc và gay gắt chậm
được giải quyết; Cơ chế, chính sách không đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát triển;
Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng.
Tổng kết 10 năm thực hiện “Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000”.
Đại hội đánh giá tổng quát: phần lớn các mục tiêu chủ yếu đề ra trong Chiến lược ổn định và
phát triển kinh tế - xã hội 1991-2000 đã được thực hiện. Nền kinh tế có bước phát triển mới về
lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và hội nhập kinh tế quốc tế; đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân được cải thiện rõ rệt, văn hoá xã hội không ngừng tiến bộ; thế và lực của đất lOMoAR cPSD| 48599919
nước hơn hẳn 10 năm trước, khả năng độc lập tự chủ được nâng lên, tạo thêm điều kiện đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đại hội IX khẳng định những kinh nghiệm, bài học đổi mới mà các Đại hội VI, VII, VIII của
Đảng đã đúc rút vẫn có giá trị lớn, nhất là các bài học chủ yếu sau:
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên
nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo.
Ba là, đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Bốn là, đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới.
Đại hội xác định mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa
công nhân với nông dân và trí thức, do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập
thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã
hội. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân gắn với việc phát huy dân chủ trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội ở tất cả các cấp, các ngành, thu hút trí tuệ và sức lực của toàn
dân vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đường lối kinh tế của Đảng được Đại hội thông qua là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu
tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định
hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng
kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường, kết hợp phát
triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh.
Cùng với lĩnh vực kinh tế, Đại hội IX đã xác định đường lối lãnh đạo đối với các lĩnh vực
khác: “Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xây dựng nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc”; “Tăng cường quốc phòng và an ninh”; “Mở rộng quan hệ đối ngoại
và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”; “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân”; “Đẩy
mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế”;
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”. Đại hội
khẳng định phải coi xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt, là yếu tố
quyết định đến sự tồn tại và phát triển của Đảng ta, là nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đại hội IX đã hoạch định Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 với mục tiêu tổng
quát là: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. lOMoAR cPSD| 48599 919
Đi đôi với hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010, Đại hội IX đã thông
qua Phướng hướng, nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 2001-2005.
Đại hội đã thông qua Báo cáo Chính trị, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-
2010 và Phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005 của
Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII trình Đại hội. Đại hội đã thông qua toàn văn Điều lệ
Đảng bổ sung, sửa đổi.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương khoá IX gồm 150 uỷ viên là: Nguyễn Văn An, Lê
Hồng Anh, Lê Thị Bân, Trịnh Long Biên, Đào Đình Bình, Nguyễn Thái Bình, Nguyễn Văn
Chi, Trần Thị Trung Chiến, Vũ Tiến Chiến, Nguyễn Văn Chiến, Hoàng Xuân Cừ, Nguyễn
Quốc Cường, Phan Diễn, Nguyễn Thị Loan, Ngô Văn Thụ, Lê Văn Dũng, Hồ Nghĩa Dũng,
Nguyễn Tấn Dũng, Đỗ Bình Dương, Mai Thế Dương, Huỳnh Đảm, Phan Tất Đạt, Nguyễn
Văn Đẳng, Nguyễn Khoa Điềm, Chama Léa Điêu, Nguyễn Văn Được, Trương Quang Được,
Lê Nam Giới, Hoàng Trung Hải, Lê Thanh Hải, Trần Mai Hạnh, Nguyễn Đức Hạt, Nguyễn
Thị Hằng, Cù Thị Hậu, Hà Văn Hiền, Vũ Văn Hiền, Vũ Văn Hiến, Nguyễn Minh Hiển,
Nguyễn Văn Hiện, Nguyễn Huy Hiệu, Trương Mỹ Hoa, Trần Hòa, Trần Đình Hoan, Hoàng
Công Hoan, Hoàng Văn Hon, Nguyễn Thị Kim Hồng, Lê Doãn Hợp, Bùi Văn Huấn, Nguyễn
Sinh Hùng, Vũ Quốc Hùng, Bùi Quang Huy, Bùi Quốc Huy, Võ Đức Huy, Đinh Thế Huynh,
Lê Minh Hương, Nguyễn Văn Hưởng, Huỳnh Hữu Kha, Phan Văn Khải, Nguyễn Tuấn
Khanh, Phạm Gia Khiêm, Hà Thị Khiết, Vũ Khoan, Nguyễn Đức Kiên, Phan Trung Kiên, Vũ
Trọng Kim, Hoàng Kỳ, Vũ Ngọc Kỳ, Phạm Văn Long, Nguyễn Hữu Luật, Trần Đức Lương,
Uông Chu Lưu, Hồ Xuân Mãn, Nông Đức Mạnh, Vũ Mão, Đặng Vũ Minh, Nguyễn Ánh
Minh, Nguyễn Tuấn Minh, Đỗ Hoài Nam, Mai Văn Năm, Nguyễn Thị Kim Nhân, Hồ Tiến
Nghị, Phạm Quang Nghị, Lê Hữu Nghĩa, Hoàng Văn Nghiên, Nguyễn Khắc Nghiên, Lê Huy
Ngọ, Tạ Quang Ngọc, Nguyễn Duy Niên, Tráng A Pao, Nguyễn Tấn Phát, Hoàng Văn Phong,
Tòng Thị Phóng, Phạm Đình Phú, Phùng Hữu Phú, Võ Hồng Phúc, Giàng Seo Phử, Ksor
Phước, Đỗ Nguyên Phương, Lê Hoàng Quân, Hoàng Bình Quân, Nguyễn Hồng Quân,
Nguyễn Văn Quân, Nguyễn Tấn Quyên, Trịnh Trọng Quyền, Nguyễn Văn Rinh, Tô Huy Rứa,
Trương Tấn Sang, Nguyễn Văn Son, Khuất Hữu Sơn, Sơn Song Sơn, Đỗ Trung Tá, Lê Thanh
Tâm, Lê Bình Thanh, Nguyễn Phúc Thanh, Phùng Quang Thanh, Quách Lê Thanh, Tạ Hữu
Thanh, Nguyễn Thế Thảo, Dương Mạc Thăng, Võ Thị Thắng, Đào Trọng Thi, Phạm Văn
Thọ, Nguyễn Thị Hoài Hoài Thu, Niê Thuật, Lê Đức Thúy, Lê Thế Tiệm, Bùi Sĩ Tiếu,
Nguyễn Văn Tình, Ma Thanh Toàn, Nguyễn Khánh Toàn, Phạm Văn Trà, Hà Mạnh Trí,
Nguyễn Thế Trị, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Đức Triều, Nguyễn Phú Trọng, Trương Vĩnh
Trọng, Đỗ Quang Trung, Mai Thế Trung, Trần Văn Truyền, Mai Ái Trực, Trần Văn Tuấn,
Phạm Minh Tuyên, Trương Đình Tuyển, Nguyễn Văn Tự, Y Vêng, Hồ Đức Việt, Lâm Chí
Việt, Hồng Vinh (Nguyễn Duy Lự), Nguyễn Văn Yểu.
Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) đã bầu Bộ Chính trị gồm
15 ủy viên: Nông Đức Mạnh, Trần Đức Lương, Phan Văn Khải, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn
Tấn Dũng, Lê Minh Hương, Nguyễn Phú Trọng, Phan Diễn, Lê Hồng Anh, Trương Tấn Sang,
Phạm Văn Trà, Nguyễn Văn An, Trương Quang Được, Trần Đình Hoan, Nguyễn Khoa Điềm.
Ban Bí thư Trung ương Đảng gồm 9 đồng chí: Nông Đức Mạnh, Nguyễn Văn An, Lê Hồng
Anh, Trần Đình Hoan, Nguyễn Khoa Điềm, Lê Văn Dũng, Tòng Thị Phóng, Trương Vĩnh
Trọng, Vũ Khoan. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Thành công của Đại hội đánh dấu bước trưởng thành mới của Đảng, cột mốc mới trong tiến
trình cách mạng nước ta. Diễn văn bế mạc Đại hội của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã nêu
rõ: “Kết quả Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta có ý nghĩa rất to lớn, mở ra lOMoAR cPSD| 48599919
một thời kỳ mới phát triển đất nước trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI. Tương lai của
dân tộc ta rất sáng lạn, song con đường đi tới còn không ít khó khăn, thử thách. Thắng lợi của
sự nghiệp đổi mới trong thời kỳ mới tuỳ thuộc vào khả năng nhận rõ và chủ động nắm bắt thời
cơ, khắc phục nguy cơ của đất nước và của từng ngành, từng lĩnh vực và địa bàn cụ thể. Vì
vậy, trong nhận thức và trong hành động của mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân phải
quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm và các quyết sách do Đại hội IX đề ra, nêu cao tinh
thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường của dân tộc, đồng thời mở rộng quan hệ với bạn bè trên
thế giới; rèn luyện bản lĩnh, nắm vững thời cơ, khắc phục nguy cơ, bảo đảm ổn định và phát
triển đất nước. Vì vậy, các cấp uỷ và tổ chức đảng cần tập trung chỉ đạo quá trình tổ chức
nghiên cứu, quán triệt sâu sắc và quyết tâm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, biến Nghị quyết
Đại hội thành hiện thực..”.
Đại hội IX đã làm tròn được trách nhiệm trọng đại do toàn Đảng, toàn dân giao phó và sự
mong đợi của bạn bè quốc tế. Đó là: “Đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới, thể hiện
ý chí kiên cường và niềm hy vọng lớn lao của cả dân tộc ta trong thời điểm trọng đại bước vào
thế kỷ mới và thiên niên kỷ mới”.
Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX diễn ra trong hai ngày 9 và
10-6-2001, với mục đích đưa nhanh những nội dung của Nghị quyết Đại hội IX vào cuộc
sống. Hội nghị cũng đã góp ý kiến về dự án Thủy điện Sơn La, nhất trí với đề nghị của đồng
chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh thôi giữ chức Chủ tịch Quốc hội.
Hội nghị lần thứ ba của Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp từ ngày 13 đến ngày 22-82001
tại Hà Nội, đã thông qua quy chế làm việc của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Chương trình
làm việc toàn khóa của Ban Chấp hành Trung ương. Theo đó quy chế làm việc của Ban Chấp
hành Trung ương có sự đổi mới, sẽ dành nhiều thời gian xem xét, kiểm điểm việc thực hiện
các Nghị quyết đã ban hành, kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX vào giữa nhiệm
kỳ, bổ sung những chủ trương, giải pháp cần thiết nhằm đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống.
Hội nghị đã thông qua nhiều quy định cụ thể về trách nhiệm, quyền hạn, phương thức công tác
của Ủy ban Kiểm tra Trung ương để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Ủy ban
Kiểm tra Trung ương trong việc kiểm tra và giữ gìn kỷ luật Đảng.
Hội nghị ban hành Nghị quyết về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu
quả doanh nghiệp nhà nước, với mục đích tạo bước phát triển mới đối với quá trình phát triển
của các doanh nghiệp nhà nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo thế
và lực cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp từ ngày 5 đến ngày 13-112001,
đã thảo luận và cho ý kiến về phương hướng chỉ đạo việc sửa đổi, bổ sung một số điều của
Hiến pháp năm 1992; phương hướng bầu cử Quốc hội khóa IX; kiểm điểm việc thực hiện kế
hoạch kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2001; xác định mục tiêu, phương hướng,
nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2002, cụ thể hóa
thêm phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch 5 năm 2001-2005; phương hướng, biện pháp tiếp tục
thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6
(lần 2) khóa VIII, ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí…
Về việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, Hội nghị nhấn mạnh: Tiếp tục khẳng định bản
chất và mô hình tổng thể của thể chế chính trị và bộ máy nhà nước đã được xác định trong
Cương lĩnh của Đảng và Hiến pháp năm 1992…Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong lOMoAR cPSD| 48599 919
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Chỉ sửa đổi, bổ sung một số vấn đề
thực sự búc xúc, đã đủ cơ sở được kiểm nghiệm trong thực tiễn và có sự thống nhất cao.
Đồng thời sửa đổi, bổ sung một số điều thuộc các lĩnh vực khác cho phù hợp với các nội dung
mới đã được Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định.
Những nghị quyết quan trọng của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa IX
của Đảng, là tư tưởng chỉ đạo và những giải pháp thiết thực góp phần vào thực hiện nhiệm vụ
trung tâm phát triển kinh tế, nhiệm vụ then chốt xây dựng Đảng và cải cách bộ máy nhà nước, cải cách hành chính.
Hội nghị lần thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương họp từ ngày 18-2 đến ngày 2-3-2002,
đã bàn và ra Nghị quyết về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể.
Để thực hiện tốt, Hội nghị đã đề ra nhiệm vụ cụ thể: Thống nhất nhận thức chung của toàn
Đảng, toàn dân về sự cần thiết trong phát triển kinh tế tập thể; xác lập môi trường thể chế và
tâm lý xã hội thuận lợi cho kinh tế tập thể phát triển; sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách;
nâng cao vai trò quản lý của nhà nước; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của
Liên minh hợp tác xã Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đổi với phát triển kinh tế tập thể.
Hội nghị cũng đã thông qua Nghị quyết về tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, khuyến khích
và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân. Với tinh thần khuyến khích kinh tế tư nhân phát
triển, không ngừng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh trên thị trường.
Về tình hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong những năm đổi mới,
Hội nghị đã đưa ra chủ trương: phát triển lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn; xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp; phát triển kết cấu hạ tầng và đô thị
hóa nông thôn; xây dựng đời sống văn hóa - xã hội và phát triển nguồn nhân lực.
Hội nghị cũng đã thông qua Nghị quyết về đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010.
Nghị quyết về đổi mới nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn
cũng được Hội nghị thông qua với ba vấn đề cơ bản: Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của
từng tổ chức trong hệ thống chính trị và xây dựng mối quan hệ đoàn kết, phối hợp giữa các tổ
chức dưới sự lãnh đạo của đảng bộ, chi bộ cơ sở; thực hành dân chủ thực sự trong nội bộ các
tổ chức của hệ thống chính trị ở cơ sở theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân; xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở thực sự trong sạch, vững mạnh.
Cùng với việc thông qua Nghị quyết về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong
tình hình mới. Hội nghị cũng đã đưa ra phương hướng chung cho công tác tư tưởng, lý luận
trong tình hình mới, những nhiệm vụ chủ yếu và những giải pháp lớn nhằm tạo bước chuyển
biển mới trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng.
Từ ngày 4 đến ngày 15-7-2002 Hội nghị lần thứ sáu của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX
họp tại Hà Nội, đã tập trung thảo luận Báo cáo kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Trung
ương 2 về giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ từ nay đến năm 2005 và đến năm 2010.
Hội nghị đã phân tích những mặt đã làm được và những mặt còn hạn chế của công tác giáo
dục - đào tạo qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII). Từ thực tế đó, Hội
nghị nhấn mạnh: Ban Chấp hành Trung ương chủ trương từ nay đến năm 2010, toàn đảng toàn
dân mà nòng cốt là đội ngũ giáo viên và cán bộ giáo dục cần đặc biệt tập trung vào nâng cao lOMoAR cPSD| 48599919
chất lượng hiệu quả giáo dục và đào tạo nhân tài; Phát triển hợp lý quy mô giáo dục trên cơ sở
bảo đảm chất lượng và điều chỉnh cơ cấu đào tạo, gắn đào tạo với yêu cầu phát triển kinh tế -
xã hội, đào tạo và sử dụng; Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo cơ hội ngày càng
tốt hơn cho mọi cấp học và trình độ đào tạo, cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Về khoa học và công nghệ, Hội nghị khẳng định: “Trong 5 năm triển khai thực hiện Nghị
quyết Trung ương 2 khóa VIII, khoa học và công nghệ nước ta đã có những đóng góp thiết
thực cho việc phát triển kinh tế - xã hội”.
Bên cạnh đó, Hội nghị cũng nghe Báo cáo kiểm điểm việc thực hiện công tác tổ chức và cán
bộ theo ba Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương. Từ đó bổ sung, hoàn chỉnh và rút ra
kết luận về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 3
và Nghị quyết Trung ương 7 khóa VIII về công tác tổ chức cán bộ.
Từ ngày 7 đến ngày 9-11-2002, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) đã họp Hội nghị
lần thứ bảy (phần 1). Hội nghị đã nghe vào thảo luận các báo cáo về Đánh giá tình hình thực
hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2003. Hội nghị đồng ý với chủ trương xây dựng
cụm khí – điện – đạm Cà Mau và đồng ý giao Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo các cơ quan
có liên quan chuẩn bị trình Quốc hội về một số vấn đề cụ thể của dự án Thủy điện Sơn La.
Hội nghị lần thứ bảy (phần 2) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX được họp tại Hà
Nội từ ngày 13-1 đến 21-1-2003. Hội nghị đã tập trung đánh giá tình hình khối đại đoàn kết
toàn dân tộc từ sau Đại hội VI của Đảng, đồng thời khẳng định những thành tựu quan trọng đã
đạt được trong việc tập hợp khối đoàn kết toàn dân. Hội nghị cũng chỉ rõ: trước yêu cầu của
thời kỳ đổi mới, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân chưa thật bền chặt và đang
đứng trước những thách thức mới. Từ thực tế đó, Hội nghị đã ra Nghị quyết về phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Hội nghị phân tích tình hình các dân tộc thiểu số và thực trạng của công tác dân tộc sau hơn
15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng nhất là từ khi có Nghị quyết 22-NQ/TƯ ngày
27-11-1989 của Bộ Chính trị về một số chủ trương chính sách lớn phát triển kinh tế- xã hội
miền núi. Hội nghị đã nêu rõ những thành tựu cơ bản, đồng thời cũng chỉ ra những hạn chế,
yếu kém trong công tác dân tộc. Trên cơ sở phân tích những nguyên nhân khách quan, chủ
quan của những khuyết điểm, Hội nghị đã ra Nghị quyết về công tác dân tộc.
Công tác tôn giáo đã được Hội nghị nhận định là không chỉ có ý nghĩa chiến lược trong thời
kỳ đổi mới mà trong thời kỳ đổi mới mà trong mọi giai đoạn của cách mạng Việt Nam. Dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, công tác tôn giáo đã có những đóng góp tích cực
vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, trong thời kỳ đổi mới, tình hình hoạt
động tôn giáo còn có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn
định. Hội nghị cho rằng, còn tình trạng trên là do nhiều nguyên nhân, trong đó quan trọng nhất
là do công tác tôn giáo chậm đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, một số cấp ủy,
chính quyền các cấp, một số cán bộ có trách nhiệm chưa nhận thức, quán triệt đầy đủ các chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về tôn giáo. Do vậy, để củng cố công tác tôn giáo
trong tình hình mới, hội nghị đã bàn và thông qua Nghị quyết về công tác tôn giáo.
Hội nghị cũng ra nghị quyết về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. lOMoAR cPSD| 48599 919
Đại đoàn kết toàn dân tộc, công tác dân tộc, công tác tôn giáo, vấn đề đất đai là những vấn đề
vừa có tính thời sự cấp bách, vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài trong quá trình phát triển đất
nước. Do vậy, những kết luận và nghị quyết được thông qua tại Hội nghị lần thứ bảy (phần 2)
đã đánh dấu một bước tiến mới trong việc cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội IX của Đảng. Đó
cũng là những vấn đề nhạy cảm, được Đảng, Nhà nước và nhân dân đặc biệt quan tâm. Việc
vụ thể hóa các nghị quyết, đưa các nghị quyết của Đảng vào cuộc sống sẽ tạo ra khí thế mới,
những chuyển biến quan trọng trong thời kỳ đất nước đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX họp từ ngày 2 đến ngày 12-
72003 đã bàn và ra Nghị quyết về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Hội nghị
diễn ra trong bối cảnh quốc tế và khu vực diễn biến phức tạp. Những vấn đề đặt ra trong
chương trình Hội nghị đều có ý nghĩa quan trọng đặc biệt, vừa mang tính thời sự trước mắt
vừa có tầm chiến lược lâu dài, đặc biệt là chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Để thực hiện chiến lược này Hội nghị đã đưa ra 6 nhiệm vụ cơ bản:
Một là, giữ vừng hòa bình, ổn định để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, xây dựng Đảng là nhiệm vụ theo chốt, kết hợp chặt chẽ với bảo vệ Đảng, bảo vệ vững
chắc an ninh chính trị nội bộ.
Ba là, nỗ lực thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế gắn với giải quyết tốt
các vấn đề xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; không ngừng nâng cao đời sống
nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đồng thời chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế.
Bốn là, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa
đi đôi với việc tăng cường trật tự kỷ cương, chú trọng giải quyết các vấn đề dân tộc, tôn giáo,
nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Năm là, tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ
trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và
Công an nhân dân là lực lượng lòng cốt.
Sáu là, đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, mở rộng hợp tác quốc tế, ưu tiên phát triển hợp tác vói
các nước láng giềng, chú trọng thúc đẩy quan hệ với các nước và trung tâm lớn.
Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX họp từ ngày 5 đến ngày 12-
1-2004. Đây là Hội nghị có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng. Hội nghị đã nghe báo cáo của Bộ Chính trị về
kiểm điểm nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Báo cáo
nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX về công tác xây dựng
và chỉnh đốn Đảng và ra Nghị quyết về một số chủ trương, chính sách, giải pháp lớn nhằm
thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng.
Từ ngày 5 đến ngày 10-7-2004 Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa lOMoAR cPSD| 48599919
IX đã họp tại Hà Nội. Hội nghị đã thảo luận Báo cáo và Tờ trình của Bộ Chính trị kiểm điểm
5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về Xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Báo cáo tại Hội nghị đã khẳng định những thành tựu đã đạt được trong lĩnh vực văn hóa là rất
quan trọng. Đặc biệt văn hóa đã thực sự trở thành một nội dung quan trọng trong hoạt động
của cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp, từng bước gắn bó chặt
chẽ hơn với nhiệm vụ kinh tế - xã hội. Việc thể chế hóa Nghị quyết được coi trọng, tạo hành
lang pháp lý phù hợp và thông thoáng cho nhân dân và đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ hoạt động và sáng tạo văn hóa.
Trên cơ sở đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, Hội nghị chỉ ra
nguyên nhân của những yếu kém và xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm và các giải
pháp chủ yếu để tiếp tục xây dựng và phát triển văn hóa trong thời kỳ mới.
Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX được tổ chức tại Hà Nội từ
ngày 17 đến ngày 25-1-2005. Hội nghị đã nghe thảo luận nội dung Báo cáo tổng kết một số số
vấn đề về lý luận và thực tiễn 20 năm đổi mới và các đề cương chi tiết Báo cáo chính trị; Báo
cáo bổ sung một số nội dung trong Cương lĩnh chính trị năm 1991; Báo cáo phương hướng
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010; Báo cáo xây dựng Đảng và Báo cáo bổ
sung, sửa đổi Điều lệ Đảng.
Hội nghị đã thảo luận và cho ý kiến về vấn đề Đảng và công tác xây dựng Đảng, nhất là tình
hình tư tưởng chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ đảng viên; tình hình công
tác tổ chức cán bộ của Đảng, đặc biệt là tình hình tổ chức đảng ở cơ sở; vấn đề đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng; công tác kiểm tra, kỷ luật đảng; xem xét nguyên nhân của
tình hình và rút ra bài học kinh nghiệm trong công tác xây dựng Đảng. Trên cơ sở đó, xác
định phương hướng, mục tiêu và nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng trong những năm tới
nhằm nâng cao chất lượng công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu
của giai đoạn cách mạng mới.
Hội nghị nhấn mạnh: Năm 2005 là năm cuối cùng thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng,
thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005, cũng là năm Đảng ta tiến
hành Đại hội Đảng các cấp tiến đến Đại hội X. Hội nghị kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân phát huy truyền thống anh hùng, bất khuất, vẻ vang của dân tộc ta, của Đảng ta, biến chủ
nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng thành sức mạnh tinh thần, vật chất to lớn;
thúc đẩy mạnh mẽ phong trào thi đua lao động sáng tạo nhằm hoàn thành và hoàn thành vượt
mức các chỉ tiêu kinh tế, xã hội năm 2005; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa; chuẩn bị mọi điều kiện thuận lợi cho các bước phát triển tiếp theo.
Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa IX diễn ra từ ngày 4 đến ngày 137-
2005, đã thảo luận và thông qua các dự thảo văn kiện sẽ trình Đại hội X của Đảng: Báo cáo
chính trị; Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010;
Báo cáo về công tác xây dựng Đảng và Báo cáo một số vấn đề bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng.
Đồng thời, Hội nghị đã thảo luận phương hướng công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khóa X.
Trên cơ sở đánh giá đúng tình hình, làm rõ những cơ hội và thách thức sắp tới, Hội nghị nhất
trí đề ra chủ đề của Đại hội X là: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát
huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển; Hội nghị đề ra các phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp nhằm tiếp lOMoAR cPSD| 48599 919
tục đổi mới và chỉnh đốn Đảng trên tất cả các mặt, cả về tư tưởng, chính trị, tổ chức và cán bộ,
bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu; đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng; củng cố, tăng cường vai trò, vị trí của các tổ chức đảng và nhiều vấn đề quan trọng
khác. Hội nghị cũng đưa ra phương hướng công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khóa X
Hội nghị Trung ương 12 đặc biệt quan tâm đến tình hình tư tưởng và công tác tư tưởng trong
tình hình hiện nay, đề ra những giải pháp cụ thể nhằm đấu tranh có hiệu quả chống lại các âm
mưu, thủ đoạn diễn biến hòa bình, kích động bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; kiên
quyết bác bỏ những luận điệu tuyên truyền, bịa đặt, xuyên tạc và vu khống, khắc phục những
biểu hiện dao động và thiếu ý thức tổ chức kỷ luật của một số cán bộ, đảng viên, củng cố
vững chắc sự đoàn kết, thống nhất của toàn Đảng chung quanh Ban Chấp hành Trung ương.
Phát biểu bế mạc Hội nghị, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã nêu rõ: Kết quả của Hội nghị lần
thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đánh dấu một bước tiến mới rất quan trọng trong
quá trình chuẩn bị Đại hội X trên cả hai mặt nội dung văn kiện và phương hướng công tác nhân sự.
Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX được tiến hành từ ngày 11 đến
ngày 18 -1-2006, đã xem xét công tác chuẩn bị nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa X. Hội nghị cũng quyết định công bố toàn văn Dự thảo Báo cáo chính trị để lấy ý kiến
nhân dân vào dịp kỷ niệm 76 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phát biểu bế mạc Hội nghị, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã đề nghị với Trung ương tập trung
chỉ đạo việc chỉnh lý, hoàn chỉnh Báo cáo chính trị để lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân, tiến
hành khẩn trương các công việc chuẩn bị Đại hội X.
Từ ngày 20-3 đến ngày 24-3-2006, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã họp Hội
nghị lần thứ 14 tại Hà Nội để tiếp tục công việc chuẩn bị Đại hội X của Đảng. Hội nghị đã
nghe báo cáo về ý kiến đóng góp của nhân dân vào Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội X
của Đảng. Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận nghiêm túc, tiếp thu tối đa những ý kiến
hợp lý, xác đáng để làm cho các văn kiện Đại hội X thực sự là kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân.
Hội nghị lần thứ 14 đã tiếp tục xem xét công tác chuẩn bị nhân sự Ban Chấp hành Trung ương
khóa X. Ban Chấp hành Trung ương đã biểu quyết thông qua danh sách giới thiệu ứng cử ủy
viên Ban Chấp hành Trung ương khóa X để trình Đại hội X. Hội nghị xũng đã quyết định
triệu tập Đại hội X của Đảng từ ngày 18-4 đến ngày 25-4-2006 tại Thủ đô Hà Nội.
Phát biểu bế mạc Hội nghị, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh nêu rõ: cùng với việc khẩn trương
hoàn chỉnh các văn hiện để trình đại hội X, toàn Đảng, toàn dân phải dành nhiều công sức cho
công tác tổ chức về mọi mặt để bảo đảm thành công của Đại hội. Đồng thời các cấp ủy đảng,
các cơ quan Nhà nước, các địa phương và cơ sở đều phải thúc đẩy mạnh mẽ hơn việc thực
hiện những nhiệm vụ của kế hoạch nhà nước năm 2006, tiếp tục đà thuận lợi của quý I, bước
sang quý II với nhiều cố gắng mới và thành tựu mới; phải tiếp tục giữ vững và tăng cường ổn
định chính trị - xã hội, giải quyết kịp thời và đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh về đối nội
và đối ngoại nhằm tạo nên sự phát triển hài hòa, vững chắc.
Đại hội IX của Đảng có ý nghĩa trọng đại mở đường cho đất nước ta nắm lấy cơ hội, vượt qua
thách thức tiến vào thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới, thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt
Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. lOMoAR cPSD| 48599919
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoa đất
nước 2001-2006 Đại hội IX của Đảng họp tại Hà Nội, từ ngày 19 đến ngày 22-4-2001, là Đại
hội mở đầu thế kỷ XXI, cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hoá diễn
ra mạnh mẽ. Sau sự kiện 11-9-2001 ở Mỹ, một nước lớn lợi dụng chống khủng bố, tăng cường
can thiệp vào công việc nội bộ của nhiều nước. Khu vực Đông Nam Á, châu Á-Thái Bình
Dương trở thành khu vực phát triển kinh tế năng động nhưng tiềm ẩn những nhân tổ gây mất
ổn định. Sau 15 năm đổi mới, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo thế và lực
mới nhưng nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Chỉ tiêu
tăng trưởng kinh tế bình quân trong 5 năm mà Đại hội VIII đề ra là 9-10% đã không đạt. Các
nguy cơ mà Hội nghị giữ nhiệm kỳ của Đảng (1-1994) đã nêu ra vẫn là những thách thức lớn
của cách mạng nước ta. Dự Đại hội IX có 1.168 đại biểu, thay mặt cho hơn 2,2 triệu đảng viên
trong cả nước. Đại hội đã thông qua các văn kiện chính trị quan trọng, trong đó có Chiến lược
phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010; xác định rõ những nội dung cơ bản Tư tưởng Hồ Chi
Mình và đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 150 ủy viên, Bộ Chính trị có 15 Đại
hội IX của Đàng họp tại Hà Nội, tir ngây 19 đến ngày 22-4-2001, là Đại hội md đầu thế ký
XXI, cách mạng khoa học và công nghệ, toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ. Sau sự kiện 11-92001
MS, một nước lớn lợi dụng chóng khủng bố, tăng ogA cường can thiệp vào công việc nội bộ
ca nhiều nước. Khu vực Đông Nam Á, châu A- Thái Bình Dương trở thành khu vực phát triền
kinh năng động nhưng tiềm ẩn những nhân tổ gây mất ổn định. Sau 15 năm đỗi mới, Việt
Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo thế và lực mới nhưng nên kình tế phát triển
chưa vũng chắc, hiệu quả và ons cạnh tranh thấp. Chitiêu tăng trưởng kinh tế bình quân trong
5 năm mà Đại hội VIII đè ra là 9-10% da không dạt. Các nguy cơ mà Hội nghị giữ nhiệm ký
cia Đảng (1-1994) da nêu ra vẫn là những thách thức lớn của cách mạng nước ta, Dự Đại hội
IX có 1.168 đại biểu, thay mặt cho hơn 2,2 triệu đảng viên trong cá nước. Đại hội đã thông
qua các văn kiện chính trị quan trọng, trong đó có Chiến hrợc phát triền kình tế-xã hội 2001-
2010; xác định rỡ nhữĩng nội dung bản Tr tòng Hồ Chí 8 Minh và đã bầu ra Ban Chấp hành
Trung ương mới gồm 150 ủy viên, Bộ Chính trị có 15 đồng chí; đồng chí Nông Đức Mạnh
được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Ngoài những nội dung tiếp tục đổi mới toàn diện, các
văn kiện của Đại hội IX nổi bật với những nhận thức mới về con đường xã hội ở nước ta: Thế
kỷ XX ghi đậm trong lịch sử loài người ba dầu ẩn cực kỳ sâu sắc: Khoa học và công nghệ tiến
nhanh chưa từng thấy, diễn ra hai cuộc chiến tranh thế giới đẫm máu; đầu thế ký phong trào
cách mạng phát triển rộng toàn thế giới, cuối thế kỷ, chủ nghĩa xã hội hiện thực tạm thời lâm
vào thoái trào. Đối với nước ta, thế kỷ XX là thế kỷ của những biến đổi to lớn, thế kỷ của
những chiến công và thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
mở ra bước ngoặt của cách mạng Việt Nam, thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và
việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; thắng lợi của các cuộc kháng chiến
oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, từng bước
đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kết quả thực hiện Chiến lược ổn định phát triển
kinh tế-xã hội 1991-2000 đã đưa GDP của nước ta từ 15, 5 tỷ USD năm 1991 tăng vượt hơn
gấp đôi vào năm 2000, đạt trên 35 tỷ USD. Đại hội đã đề ra Chiến lược phát triển kinh tế-xã
hội 10 năm tiếp theo (2001-2010) với mục tiêu tổng quát là đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại; tiếp tục đưa GDP năm 2010 lên gấp đôi so với năm 2000. Đại hội khẳng định
những bài học đổi mới do các Đại hội VI, VII, VIII của Đàng nêu lên mục vẫn tiêu còn có giá
trị lớn, nhất là những bài học: Trong quá trình đổi mới phải kiên trì độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới phải dựa
vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo. Đổi mới phải
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố
quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới. Đảng và nhân dân quyết tâm xây dựng đất nước
Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. "Tư tưởng Hồ Chỉ Mình là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những lOMoAR cPSD| 48599 919
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dã dân tộc, tiếp thu tỉnh hoa văn hoá nhân loại". Tư tưởng Hồ Chí Minh soi
đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tỉnh thần to lớn của Đảng
và dân tộc ta. Khẳng định lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý
luận của Đảng ta. Con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã
đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển
nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa là sự nghiệp rất khỏ khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ
quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá
độ. Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần
kinh tế. Quan hệ các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ
nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nội dung
chủ yếu của đấu tranh giai cấp hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển;
thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những
tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động
chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước
xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc. Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là
đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng
lãnh đạo, kết hợp hải hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và
nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội. Đảng, Nhà nước chủ trương thực hiện
nhất quản và lâu dài nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; coi đây là mô hình
kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình
thức phân phối, chủ yếu phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân
phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và phân phối
thông qua phúc lợi xã hội. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
là nền tảng tỉnh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh
tế-xã hội; làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời
sống tỉnh thần của nhân dân; góp phần xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về
chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, về năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng
nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tỉnh, lối sống văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình,
cộng đồng và xã hội. Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thực
hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các
quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Đại hội lần thứ IX của Đàng tiếp tục đẩy
mạnh công cuộc đổi mới, đánh dấu bước trưởng thành về nhận thức vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ ChíMình, phát triển và cụ thể hoá Cương lĩnh chính trị năm
1991 của Đàng trong những năm đầu của thế kỷ XXI. Trong toàn khóa IX, Trung ương Đảng
đã hợp nhiều lần, chỉ đạo đổi mới toàn diện, nổi bật nhất là những nhiệm vụ trọng tâm sau:
Đến năm 2001, Đảng và Nhà nước đã thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp tích cực đổi mới
và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước và đã đạt nhiều kết quả lâm tăng thế và lực của
đất nước. Tuy nhiên, doanh nghiệp nhà nước cũng còn những mặt hạn chế, yếu kém, có mặt
rất nghiêm trọng. Hội nghị Trung ương 3 (9-2001) đã chỉ đạo sắp xếp, đổi mới, phát triển và
nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, tạo bước phát triển mới, tạo thế và lực cho các
doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, lOMoAR cPSD| 48599919
hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Qua 5 năm 19962001, kinh tế tập thể mà nòng cốt là
hợp tác xã kiểu mới dưới nhiều hình thức, trình độ khác nhau trong các ngành, lĩnh vực, nhất
là trong nông nghiệp, nông thôn đã có đổi mới, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế xã
hội của đất nước. Tuy nhiên, kinh tế tập thể hiện nay còn nhiều mặt yếu kém, năng lực nội tại
hạn chế; hiệu quả ít; kinh tế tập thể chiếm tỷ trọng thấp trong GDP, chưa đủ sức đâm nhiệm
tốt vai trò của mình. Hội nghị Trung ương 5 (3-2002) đã thống nhất nhận thức về sự cần thiết
phát triển kinh tế tập thể và chủ trương xác lập môi trường thể chế và tâm lý xã hội thuận lợi,
sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách; nâng cao vai trò quản lý của nhà nước; tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Liên mình hợp tác xã Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân đối với phát triển kinh tế tập thể. Qua 10 năm 1991-2001, kinh tế tư
nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân đã phát triển rộng khắp trong cả
nước, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế. Tuy vậy, kinh tế tư nhân nước ta hiện nay
còn nhiều hạn chế, yếu kém: quy mô nhỏ, vốn ít, công nghệ sản xuất lạc hậu, trình độ quản lý
kém, hiệu quả và sức cạnh tranh yếu và gặp nhiều khó khăn, vướng mắc về cơ chế hoạt động.
Hội nghị Trung ương 5 (3-2002) đã thảo luận, thống nhất nhận thức coi kinh tế tư nhân là bộ
phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến
lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Trung
ương quyết định tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển
kinh tế tư nhân. Kể từ Luật đất đai sửa đổi năm 1988, những đổi mới trong chính sách, pháp
luật về đất đai hơn 15 năm qua đã đưa đến những kết quả tích cực, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Tuy nhiên, công tác quản lý và sử dụng đất đai hiện nay còn nhiều hạn chế, yếu kém và nhiều
vấn đề bức xúc. Đất đai chưa được chuyển dịch hợp lý, hiệu quả sử dụng còn thấp. Tình trạng
người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai và tình hình khiếu kiện về đất dai diễn ra
nghiêm trọng và phổ biến; việc thu hồi đất, đền bù giải toá mặt bằng thực hiện hết sức khó
khăn. Hội nghị Trung ương 7 (32003) đã thống nhất nhận thức coi đất đai là tải nguyên quốc
gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là nguồn nội lực và nguồn vốn to lớn của đất
nước; quyền sử dụng đất là hàng hoá đặc biệt. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại
diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Trung ương chủ trương tiếp tục đổi mới chính sách,
pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng
Nhà nước giao đất, cho thuê đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu
dài hoặc có thời hạn theo pháp luật. Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được Nhà
nước giao cho cá nhân. Qua 15 năm đổi mới, tỉnh hình tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân
nhìn chung có nhiều mặt tích cực và tiêu cực đan xen nhau, trong đó mặt tích cực là cơ bản.
Tuy vậy, mặt tiêu cực có lúc, có nơi cũng rất nghiêm trọng, thực sự là nguy cơ tiềm ẩn, liên
quan đến sự mất còn của Đảng, của chế độ. Hội nghị Trung ương 5 (3-2002) đã đưa ra những
nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận của Đảng trong tình hình mới. Trung ương
nhấn mạnh cần đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, tiếp tục làm sáng tỏ hơn lý
luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, năng cao chất lượng
và hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục lý luận chính trị; chủ động tiến công, làm thất bại
chiến lược “diễn biến hòa bình", âm mưu bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch Qua 10 năm
công tác nghiên cứu tư tưởng Hồ ChíMinh đã đạt được những kết quả quan trọng. Tuy vậy,
việc tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh còn một số hạn chế, yếu kém. Nội dung
giáo dục tư tưởng Hồ ChíMinh chưa thống nhất và chưa đạt được chiều sâu tư tưởng, lý luận.
Chậm đưa tư tưởng Hồ Chí Minh thành môn học trong các trường thuộc hệ thống giáo dục
quốc dân. Nội dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh thiếu sinh
động; chưa gắn với giải quyết những vấn đề thực tiễn, việc đấu tranh bảo vệ tư tưởng Hồ Chí
Minh chưa chủ động, kịp thời và sắc bén. Ngày 27-3-2003, Ban Bí thư đã ra Chỉ thị số 23-
CT/TW về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai
đoạn mới nhằm làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức sâu sắc nguồn gốc, nội
dung, giá trị, vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định và làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tỉnh thần của xã hội ta. lOMoAR cPSD| 48599 919
Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị về tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân
dân, về đại đoàn kết toàn dân tộc, về dân tộc, tôn giáo, về Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
Nhìn chung, khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng thúc nước. Tuy
thách vững tình phép an rất thức chắc, trạng nước đẩy sự phát nhiên, mới. khối Lòng phần
tham triển đại kinh đoàn tin vào vì đời nhũng, nhiều lúc, toàn xã hội còn còn sống quan tế-xã
kết Đảng, còn liêu, toàn Nhà khó lãng nhiều nơi không hội, dân giữ tộc nước khăn, phívững
chưa và chế vì bất còn nghiêm, phức tạp. Các vụ khiếu kiện gay gắt. Việc tập hợp khá đạo ổn
thật độ bình phổ đức đông nhân dân vào Mặt trận và định bền của chỉnh chặt một trước biến
xã người các và trị-xã đứng bộ phận những và bất nghiêm hội có mặt vẫn còn đoàn thể, hội
của trước nhân công trọng, xuống nhiều, các có đất những dân chưa xã kỷ cấp, hội và cương
trật tự lúc, có nơi tổ chức xã hội nhiều hạn chế. Hội nghị Trung ương 7 (3-2003) đã ban hành
ba Nghị quyết quan trọng. Nghị quyết về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì “Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Trung ương khẳng định: Đại đoàn
kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động
lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm phát triển bền vững đất nước. Đại
đoàn kết toàn dân tộc lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng, xoá bỏ mặc cảm,
định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần, giai cấp, xây dựng tỉnh thần cởi mở, tin
cậy lẫn nhau, cùng hưởng tới tương lai. Nghị quyết đề cập toàn diện và tổng thể vấn đề tập
trung vào những nội dung chủ yếu và cấp bách của công tác dân tộc dân tộc ở nước ta trong
thời kỳ mới, bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng,
hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; thực hiện dân chủ gần liền với giữ gìn kỷ
cương, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, không ngưng bồi dưỡng, nâng cao tỉnh thần
yêu nước, ý thức độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tỉnh thần tự lực, tự cường xây dựng đất
nước. Nghị quyết về công tác dân tộc khẳng định, trải qua các thời kỳ cách mạng, công tác
dân tộc đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp cách mạng
chung của đất nước. Tuy nhiên do tác động của tỉnh hình thế giới và hoạt động của các thế lực
thù địch cả trong và ngoài nước, tỉnh hình dân tộc ở nước ta có những diễn biến phức tạp hơn.
Cần nhận thức rõ vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài,
đồng thời là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam, Các dân tộc trong đại gia
đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trung ương đã đã đưa ra các nhiệm vụ, giải pháp thực hiện
công tác dân tộc trong thời kỳ mới. Nghị quyết về công tác tôn giáo khẳng định, Đảng và Nhà
nước ta luôn xác định công tác tôn giáo là vấn đề chiến lược có ý nghĩa rất quan trọng. Tín
ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân
tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán
chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo
nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Giữ gìn và phát huy những giá
trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc.
Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời,
nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp
luật và chính sách của Nhà nước. Đến năm 2002, có khoảng 2,7 triệu người Việt Nam đang
sống ở gần 90 nước và vùng lãnh thổ, ngoài ra, còn hàng trăm nghìn người Việt Nam ra nước
ngoài lao động, học tập, tu nghiệp, đoàn tụ gia đình, hình thành các cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài. Đa số họ có đời sống ổn định, có tiềm lực kinh tế nhất định, có vị trí và
quan hệ nhất định ở nước sở tại, luôn nuôi dưỡng tỉnh thần yêu nước, tự tôn dân tộc, giữ gìn
truyền thống văn hóa, hướng về cội nguồn, gia đình, dòng tộc, quê hương, có những đóng góp
nhất định về các mặt cho đất nước. Tuy nhiên, người Việt Nam ở một số nước còn nhiều khó
khăn trong việc ổn định cuộc sống, ở một số nơi còn bị kỳ thị. Một số người chưa có dịp về lOMoAR cPSD| 48599919
thăm đất nước, chưa thấy những thành tựu của công cuộc đổi mới, vẫn còn thành kiến, mặc
cảm, thậm chí chống phá đất nước. Trong bối cảnh đó, Bộ Chính trị khóa IX (3-2004) đã ban
hành Nghị quyết số 36 chủ trương coi người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách
rời, là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường
quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước. Nhà nước có trách nhiệm thoả thuận với
các nước hữu quan về khuôn khổ pháp lý để đồng bào ổn định cuộc sống và bảo vệ quyền lợi
chính đáng của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài theo luật pháp, công ước và thông lệ
quốc tế. Sau biến Đại rất quốc Trung hội mau tế và IX, lẹ, bảo nhất phức vệ Tổ là sau tạp;
quốc ương 8 (7-2003) đã sự sự ở ra kiện nghiệp nước kịp ta ngày đẩy đang thời 11-9-2001
mạnh thảo đặt ra luận ở nước Mỹ, tình hình thế giới công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội những
vấn và ban đề hành mới Chiến rất cấp lược thiết. Bảo Hội vệ Tổ diễn nhập nghị quốc trong
tỉnh hình mới. Sau khi chỉ rõ những thành tựu, khuyết điểm, yếu kém của Đăng trong thực
hiện nhiệm vụ Bảo vệ Tổ Quốc, dự báo tình hình quốc tế, khu vực, tỉnh hình đất nước những
năm tới, Chiến lược xác định: Mục tiêu bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp
đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại lợi ích quốc gia dân tộc; bảo vệ an ninh văn hoá; giữ vững
an ninh chính trị và hưởng xã hội chủ nghĩa. Quan chính trị, quốc gia, trật tự hoá đất nước;
bảo vệ an toàn xã hội và nền môi trường hòa bình, phát triển đất nước theo định điểm chỉ đạo
của Đảng là: Giữ vững đổi, trực tiếp về mọi mặt của Đảng độc để lập phát dân tộc triển gắn
với công kinh tế-xã nhân đối với sự nghiệp Bảo vệ Tổ xã hội là lợi ích vụ chiến lược xây dựng
thành công hội; cao lấy việc nhất và bảo của giữ Tổ vững Quốc. môi vai trò lãnh đạo tuyệt
quốc. Kiên định mục tiêu trường Kết hợp hòa chặt bình, chẽ ổn hai định nhiệm vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xây dựng sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh
tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... ra sức phát huy nội lực, đồng thời tranh
thủ tối đa và khai thác mọi thuận lợi ở bên ngoài; Chủ động phòng ngừa và triệt tiêu những
nhân tố bên trong có thể dẫn đến những đột biến bất lợi. Nhiệm vụ cơ bản về bảo vệ Tổ quốc:
Giữ vững hòa bình, ổn định để thực hiện thắng lợi sự nghiệp Xây chắc dựng an công nghiệp
hóa, hiện đại Đảng là nhiệm vụ theo ninh chốt, chính trị nội bộ. Nỗ lực hóa đất kết hợp thực
hiện nước chặt theo chẽ định với hướng xã hội chủ nghĩa. bảo vệ Đảng, bảo vệ vững thắng lợi
nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế gắn với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm công bằng
xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đồng thời chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Phát
huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa di đôi với
việc tăng cường trật tự kỷ cương, chú trọng giải quyết các vấn đề dân tộc, tôn giáo, nâng cao
vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Tăng
cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu
thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an
nhân dân là lực lượng lòng cốt. Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, mở rộng hợp tác quốc tế, ưu
tiên phát triển hợp tác với các nước láng giềng, chú trọng thúc đẩy quan hệ với các nước và
trung tâm lớn. Trên cơ sở đó, Trung ương đã nêu các nhiệm vụ cơ bản và giải pháp chủ yếu
Bảo vệ Tổ quốc trong tỉnh hình mới.