Dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - Chủ nghĩa khoa học xã hội | Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh

Dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - Chủ nghĩa khoa học xã hội | Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

MỤC LỤC
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN.............................................................................
LỜI CẢM ƠN............................................................................................................
LỜI CAM ĐOAN......................................................................................................
MỤC LỤC..................................................................................................................
PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.......................................................................................1
2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.........................2
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.......................................................................2
4. BỐ CỤC CỦA TIỂU LUẬN...............................................................................2
PHẦN NỘI DUNG..................................................................................................3
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
...................................................................................................................................3
1. Dân chủ.............................................................................................................3
1.1. Lịch sử ra đời và khái niệm của dân chủ.....................................................3
1.2. Khái niệm về dân chủ theo quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin................3
1.3. Sự ra đời và phát triển của dân chủ.............................................................6
2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa................................................................................8
2.1. Quá trình ra đời và phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa................8
2.2. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa...............................................10
2.2.1. Bản chất chính trị.................................................................................10
2.2.2. Bản chất kinh tế...................................................................................11
2.2.3. Bản chất tư tưởng văn hoá...................................................................11
CHƯƠNG 2: NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA. DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VÀ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM......................12
1. Nhà nước xã hội chủ nghĩa............................................................................12
1.1. Sự ra đời và khái niệm của nhà nước xã hội chủ nghĩa.............................12
1.2. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa...................................................14
1.3. Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa................................................15
2. Mối quan hệ giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa
.............................................................................................................................16
3. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.....................................................................................................................17
3.1. Sự ra đời và phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam......17
3.2. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam............................18
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM.
TRÁCH NHIỆM CỦA THANH NIÊN, SINH VIÊN TRONG VIỆC GÓP
PHẦN XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN
NAY........................................................................................................................19
1. Thực tiễn dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay...........................19
2. Phương hướng phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.................22
3. Trách nhiệm của thanh niên, sinh viên Việt Nam trong việc góp phần xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay...............................26
PHẦN KẾT LUẬN................................................................................................27
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................28
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Dân chủ giải pháp hữu hiệu để tạo nên sự nhất trí căn bản về lợi ích của
các thành phần kinh tế, các giai tầng và các cộng đồng dân tộc tronghội nước ta.
Sự nhất trí đó tổng hợp thành sức mạnh của dân tộc, tạo nên nội lực mạnh mẽ đưa
đất nước vượt qua tất cả khó khăn, thử thách. “Dân chủ” không phải khái niệm
bất biến một phạm trù chính trị, lịch sử, văn hóa, hội luôn gắn với sự
tồn tại của các kiểu nhà nước trong những điều cụ thể nhất định. Bởi vậy, khái niệm
“dân chủ” mối quan hệ chặt chẽ với khái niệm “chế độ dân chủ” “nền dân
chủ”. “Chế độ dân chủ” dùng để chỉ thiết chế hội nhằm thực hiện quyền lực của
nhân dân; còn khái niệm “nền dân chủ” dùng để chỉ hệ thống các thiết chế được xác
lập thực thi trong hiện thực hội theo mục tiêu thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân trong xã hội đó.
Trong lịch sử phát triển của hội loài người, dân chủ một phạm trù
quá trình phát sinh, phát triển rất phức tạp. Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, mỗi
thời đại, mỗi quốc gia, dân tộc, dân chủ luôn những nét đặc trưng trên sở kế
thừa biện chứng những điểm chung được nêu ở trên. Trong chế độ chiếm hữu nô lệ,
xét về bản chất chính dân chủ của giai cấp chủ nô. Trong chế độ phong kiến, các
tư tưởng và mô hình dân chủ bị hạn chế, cấm đoán bởi chế độ tập quyền chuyên chế
khi quyền lực tuyệt đối nằm trong tay một đấng quân vương. Nền dân chủ sản
được xác lập do cuộc cách mạng tư sản dựa trên cơ sở liên minh giữa giai cấp tư sản
với các giai cấp khác lật đổ chế độ phong kiến. Vì vậy, những thành tựu giành được
của nền dân chủ sản không chỉ do riêng giai cấp sản tạo ra, kết quả đấu
tranh của nhân dân lao động, kết quả của quá trình nhận thức tất yếu của tiến bộ
hội. Những tuyên bố về tự do, bình đẳng, bác ái, tưởng về nhà nước pháp
quyền và xã hội công dân là những nội dung đầu tiên của dân chủ tư sản. Tuy nhiên,
với bản chất của hội sản, nền dân chủ sản không tránh khỏi những hạn chế
khách quan. Dân chủ hội chủ nghĩa dân chủ của nhân dân lao động (dân chủ
nhân dân) được thể hiện trong mọi lĩnh vực chính trị - kinh tế, văn hóa - hội.
được hình thành phát triển bằng toàn bộ những giá trị văn hóa chân thực của
nhân loại. Xã hội càng phát triển, điều kiện vật chất, trí tuệ, tinh thần của con người
ngày càng phong phú thì xu hướng dân chủ càng mở rộng và được khẳng định mạnh
mẽ.
Nắm được sứ mệnh của dân chủ, hiểu được mục tiêu của nhà nước ta:
Nhà nước Việt Nam luôn xác định con người vừa mục tiêu, vừa động lực của
sự nghiệp xây dựng đất nước, trung tâm của các chính sách kinh tế - hội, em
xin chọn đề tài “Dân chủ hội chủ nghĩa V ht Nam trách nhiê hm của thanh
niên, sinh viên trong viê hc góp phần xây dựng nền dân chủ hội chủ nghĩa V ht
Nam hiê hn nay” để thực hiện nghiên cứu một cách tổng quan và toàn diện về dân chủ
xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm sự ra đời, khái niệm và bản chất của nó. Từ
đó, có thể đúc kết được trách nhiệm của thế hệ thanh niên, sinh viên trong viê hc góp
phần xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở V ht Nam.
2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu Dân chủ hội chủ nghĩa V ht Nam, trong đó bao
gồm: dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nhà nước dân
chủ hội chủ nghĩa. Qua đó đưa ra phương hướng, đường lối cho thế hệ thanh
thiếu niên được phụng sự Tổ quốc, thể hiện trách nhiệm của mình trong việc xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở V ht Nam.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài sử dụng phương pháp thu thập xử lí tài liệu: trên sở thu thập thông
tin tư liệu từ nhiều lĩnh vực như văn hóa, lịch sử…; nhiều nguồn liệu khác nhau
có liên quan đến đề tài như sách, báo, các trang web… Kết hợp cùng phương pháp
lịch sử phương pháp phân tích, tổng hợp: phương pháp này giúp định hướng,
thống kê, phân tích để có cách nhìn tương quan.
4. BỐ CỤC CỦA TIỂU LUẬN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài kiệu tham khảo thì phần nội dung bao gồm:
Chương 1: Lý luận về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa
Chương 2: Nhà nước hội chủ nghĩa. Dân chủ hội chủ nghĩa nhà nước
hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Chương 3: Thực tiễn dân chủ hội chủ nghĩa Việt Nam. Trách của thanh niên,
sinh viên trong viê hc góp phần xây dựng nền n chủ xã hội chủ nghĩa V ht Nam
hiê hn nay
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Dân chủ
1.1. Lịch sử ra đời và khái niệm của dân chủ
Lịch sử loài người hàng nghìn năm về trước, con người đã biết hình thành
những bộ tộc, thị tộc để cùng nhau sinh sống và tiến hành hoạt động sản xuất, chống
lại thiên tai hoặc tổ chức các hoạt động chung mang tính tập thể. Trong các thị tộc
đó, họ bầu ra người đứng đầu nắm giữ quyền lực là các lãnh đạo thị tộc. Tuy nhiên,
nếu người tộc trưởng không làm tốt sẽ bị phế bỏ quyền lực theo ý nguyện và lợi ích
chung của cộng đồng. thể xem đó hình thức đầu tiên của dân chủ khi quyền
lực nằm trong tay những thành viên trong thị tộc, họ chính là chủ thể của quyền lực
và đưa ra các quyết định vì cộng đồng chung.
Từ thời Hy Lạp cổ, việc bầu cử và truất quyền những người đứng đầu thuộc vào
quyền lực sức mạnh của nhân dân. Thuật ngữ dân chủ ra đời vào khoảng thế kỷ
VII VI trước Công nguyên. Những nhà tưởng Hy Lạp cổ dụng cụm từ
“demoskratos” với dụng ý về dân chủ. “Demos” mang ý nghĩa là nhân dân, “kratos”
có nghĩa cai trị. Vậy nên “demonskratos” được hiểu là nhân dân cai trị sở hữu
quyền lực, đó cũng khái niệm của dân chủ. Sau này, dân chủ được các nhà chính
trị gọi là quyền lực của nhân dân hoặc quyền lực thuộc về nhân dân. Điểm khác biệt
cơ bản giữa dân chủ thời cổ đạihiện nay là ở tính chất trực tiếp của mối quan hệ
sở hữu quyền lực công cộng và cách hiểu về nội hàm của khái niệm nhân dân.
1.2. Khái niệm về dân chủ theo quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin
Dân chủ thuộc về phạm trù lịch sử, sản phẩm của quan hệ giai cấp đấu
tranh giai cấp. Chỉ khi giai cấp, có nhà nước thì mới xuất hiện phạm trù dân chủ.
Khi giai cấp mất đi hoặc nhà nước bị tiêu vong, dân chủ cũng không tồn tại (hình
thức của hội chủ nghĩa cộng sản). Khi xuất hiện chế độ hữu, hội bắt đầu
phân chia giai cấp, sự phân hoá giàu nghèo, phân biệt giữa địa chủ lệ,
người bóc lột và người bị bóc lột. Từ đó hình thành nên dân chủ trong xã hội khi
sự xuất hiện của các giai cấp. vậy trong suốt tiến trình lịch sử luôn diễn ra
các cuộc đấu tranh đòi độc lập, đòi quyền tự do, dân chủ trong cuộc xung đột của
các giai cấp.
Qua nghiên cứu về các chế độ dân chủ trong dòng chảy lịch sử và thực tiễn lãnh
đạo cách mạng hội chủ nghĩa, các nhà kinh điển sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin
cho rằng dân chủ là thành quả của quá trình đấu tranh giai cấp cho những giá trị tiến
bộ của loài người. được xem một hình thức tổ chức nhà nước của giai cấp
cầm quyền, một trong những nguyên tắc hoạt động của các tổ chức chính trị -
hội. Một số nội dung về dân chủ theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin:
1. Về phương diện quyền lực: dân chủ quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân là
chủ thể sở hữu của quyền lực nhà nước, chủ nhân của nhà nước. Nói cách khác,
dân chủ quyền lợi bản của nhân dân. Quyền lợi ấy chính quyền lực nhà
nước nằm trong tay của nhân dân, của hội. Hoạt động của bộ máy nhà nước phải
vì nhân dân, phục vụ cho cộng đồng các mục đích hội. Vì vậy, chỉ khi mọi
quyền lực nhà nước thuộc về quyền sở hữu của nhân dân thì mới có thể đảm bảo về
việc nhân dân được hưởng quyền làm chủ với tư cách là một quyền lợi.
2. Về phương diện chế độ hội trong lĩnh vực chính trị: dân chủ hình thức
hoặc hình thái nhà nước, là chính thể dân chủ hay chế độ dân chủ. Điều này gắn liền
với xã hội có giai cấp, có nhà nước.
3. Về phương diện tổ chức quản hội: dân chủ được xem một nguyên tắc
quản hội. Nguyên tắc dân chủ này kết hợp với nguyên tắc tập trung để hình
thành nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và quản hội. Tồn tại nguyên
tắc dân chủ nguyên tắc tập trung, khi hai nguyên tắc này kết hợp hình thành nên
nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện cho mối quan hệ biện chứng.
Chủ nghĩa Mác Lênin nhấn mạnh: dân chủ phải được coi mục tiêu, tiền
đề, là phương tiện để hướng đến sự tự do bao gồm giải phóng con người, giải phóng
giai cấp giải phóng hội. Dân chủ với cách một hình thức tổ chức thiết chế
chính trị, một hình thức hay hình thái nhà nước, ra đời và phát triển gắn liền với nhà
nước mất đi khi nhà nước tiêu vong. Mỗi chế độ dân chủ sẽ gắn với nhà nước
mang bản chất giai cấp thống trị hội. Khi ở tư cách là một giá trị xã hội, dân chủ
là một phạm trù mang tính chất vĩnh viễn, tồn tại. phát triển cùng với sự tồn tại
phát triển của loài người hội loài người. Nếu con người hội loài
người còn tồn tại, nếu các nền văn minh vẫn còn tiếp tục ra đời và chưa bị diệt vong
thì dân chủ vẫn tồn tại với tư cách một giá trị nhân loại chung.
Chủ nghĩa Mác - Lênin thừa nhận những nhân tố hợp lý nhận thức của khái
niệm về dân chủ. Dân chủ suy cho cùng quyền lực của dân, sức mạnh nằm
trong tay dân. Dân phải thực sự chủ thể của hội, được nhân dân làm chủ một
cách toàn diện bao gồm: làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội, làm chủ chính bản thân,
làm chủ và sở hữu mọi năng lực sáng tạo của bản thân với tư cách chủ thể đích thực
của hội. Bên cạnh đó, dân chủ phải bao hàm được tất cả các lĩnh vực trong đời
sống kinh tế - hội như: dân chủ trong kinh tế, dân chủ trong chính trị, dân chủ
trong xã hội, dân chủ trong đời sống văn hóa - tinh thần, tưởng. Trong số đó, hai
lĩnh vực về dân chủ tầm quan trọng hàng đầu công cuộc xây dựng phát triển
đất nước dân chủ trong kinh tế dân chủ trong chính trị. quy định quyết
định đến hai lĩnh vực còn lại: dân chủ trong hội dân chủ trong đời sống văn
hóa – tinh thần, tưởng. Hơn hết, dân chủ trong kinh tế dân chủ trong chính trị
còn thể hiện trực tiếp nhân quyền dân quyền của người dân, khi nhân dân là chủ
thể hội làm chủ hội. vậy, dân chủ mang giá trị hội loài người
muốn hướng tới.
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin vận dụng vào trong quá
trình qua độ đi lên chủ nghĩa hội Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh không sử
dụng những khái niệm trừu tượng tập trung diễn giải các vấn đề cùng cụ thể
gần gũi với đại đa số nhân dân, khẳng định “Dân chủ dân chủ dân làm
chủ”
1
. Khi xem dân chủ với cách là một thể chế chính trị hay một chế độ hội
thì Hồ Chí Minh khẳng định rằng “Chế độ ta chế độ dân chủ, tứcnhân dân
người chủ Chính phủ người đầy tớ trung thành của nhân dân.” . Luận điểm
2
của Hồ Chí Minh: “Chính quyền dân chủ có nghĩa là chính quyền do người dân làm
chủ. Và một khi nước ta đã trở thành một nước dân chủ, “chúng ta dân chủ” thì
dân chủ làdân làm chủ” thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này khác làm
đầy tớ cho nhân dân, chứ không phải quan cách mạng.” Chủ tịch Hồ Chí Minh
3
đã hiểu về vấn đề dân chủ rất sâu sắc, đúng theo nghĩa khởi thuỷ của “quyền
1 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. CTQG, H.1996, tập.6. tr.515.
2 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. CTQG, H.1996, tập.7, tr.499.
3 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb.CTQG, H. 1996, tập.6, tr.365; tập.8, tr.375.
lực thuộc về nhân dân”. Quyền lực ấy được nhân dân giao phó cho người đại diện
để thực thi quyền lực của họ.
Đảng khẳng định: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt
tưởng , xây dựng phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao“lấy dân làm gốc”
động”. Trên sở kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, kế thừa tưởng
Hồ Chí Minh, kế thừa giá trị chung của lịch sử nhân loại trong vấn đề dân chủ
đặc biệt trong quá trình xây dựng chủ nghĩa hội tại Việt Nam, Đảng Cộng sản
Việt Nam quan niệm “Dân chủ gắn liền với công bằng”. Dân chủ công bằng
hai phạm trù khác nhau nhưng lại mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu dân chủ
không gắn liền với công bằng, bình đẳng thì dân chủ này sẽ trở thành dân chủ hình
thức. Dân chủ gắn với công bằng hội trên tất cả các lĩnh vực trước hết lợi
ích. Lợi ích đầu tiên lợi ích về kinh tế, về chính trị, văn hoá, hội thông qua
hoạt động nhà nước do nhân dân bầu cử và các hình thức dân chủ trực tiếp. Dân chủ
phải đi đôi với kỷ luật, kỷ cương. Quan điểm cuối của Đảng về dân chủ “Dân chủ
phải được thể chế hoá bằng pháp luật, bằng quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm và được
pháp luật bảo đảm.”
Kết luận lại, có thể hiểu “Dân chủ một giá trị hội phản ánh những quyền
cơ bản của con người; là phạm trù chính trị gắn với hình thức tổ chức nhà nước của
giai cấp cầm quyền; là phạm trù lịch sử gắn với quá trình ra đời, phát triển cùng với
lịch sử xã hội nhân loại.”
1.3. Sự ra đời và phát triển của dân chủ
Loài người hình thành xuất hiện từ khoảng hai trăm thiên niên kỷ về trước.
Trong quá trình phát triển, họ hình thành những bộ lạc, thị tộc. Trong hội sớm
nhất là xã hội công xã nguyên thuỷ, xuất hiện hình thức manh nha của dân chủ. Nhu
cầu dân chủ xuất hiện trong hội tự quản của cộng đồng các thị tộc, bộ lạc của
người nguyên thuỷ. Hình thứcn chủ đầu tiên được gọi “dân chủ nguyên thủy”
hay còn được gọi bằng một cái tên khác là “dân chủ quân sự”. Đặc trưng cơ bản của
hình thức dân chủ này nhân dân bầu ra thủ lĩnh quân sự thông qua “Đại hội nhân
dân”. Trong “Đại hội nhân dân”, mọi người đều quyền phát biểu tham gia
quyết định bằng cách giơ tay hoặc hoan hô. “Đại hội nhân dân”, nhân dân
quyền lực thật sự (nghĩa dân chủ), mặc trình độ sản xuất còn kém phát
triển.
Lịch sử xã hội loài người tới nay đã và đang trải qua 5 hình thái xã hội và 3 nền
dân chủ bao gồm nền dân chủ chủ nô, nền dân chủ sản nền dân chủ sai nghĩa.
“Dân chủ nguyên thuỷ” chưa phải là nền dân chủ, không phải là một chế độ dân chủ
vì xã hội này chưa hình thành nhà nước và giai cấp. Nhưng trong hội này tồn tại
những biểu hiện dân chủ “quyền lực thuộc về nhân dân”. Khi trình độ của lực lượng
sản xuất phát triển dẫn tới sra đời của chế độ hữu giai cấp đã làm cho hình
thức “dân chủ nguyên thủy” tan thì giai cấp chủ xuất hiện, dẫn đến nền dân
chủ chủ ra đời. Nền dân chủ chủ được tổ chức thành nhà nước với đặc trưng
dân tham gia bầu ra Nhà nước. “Dân” nền dân chủ chủ theo quy định của
giai cấp cầm quyền, trong hội chiếm hữu lệ chỉ gồm giai cấp chủ phần
nào thuộc về các côngn tự do (tăng lữ, thương gia, trí thức). Đa số số lượng còn
lại không phải là “dân” mà là “nô lệ”. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ ấy, nô lệ không
được xem là người, không được tham gia vào công việc nhà nước mà chỉ được xem
là món hàng hoá, vật thuộc sở hữu của chủ nô. Vì vậy về thực chất, dân chủ chủ
cũng chỉ thực hiện quyền dân chủ cho thiểu số, quyền lực của dân chỉ hẹp
trong một đối tượng xã hội nhất định.
Trong sự phát triển của hội loài người cùng với sự tan của chế độ chiếm
hữu lệ, lịch sử hội loài người bước vào thời kỳ phong kiến với sự thống trị
của nhà nước chuyên chế phong kiến. Trong hội phong kiến không tồn tại nền
dân chủ thay vào đó sự ra đời của chế độ độc tài chuyên chế phong kiến với
chế độ quân chủ để thống trị hội. Khác với nền dân chủ chủ nô, thời kỳ phong
kiến do vua đứng đầu nắm mọi quyền hành thay dân. Dân xem việc tuân theo
ý chí của giai cấp thống trị bổn phận của mình trước sức mạnh của đấng tối cao.
vậy, ý thức về dân chủ đấu tranh để thực hiện quyền làm chủ của người dân
đã không có bước tiến đáng kể nào.
Vào cuối thế kỷ XIV - đầu XV, giai cấpsản với những tư tưởng tiến bộ về tự
do, công bằng, dân chủ đã mở đường cho sự ra đời của nền dân chủ tư sản. Dân chủ
tư sản ra đời được đánh dấu một bước tiến lớn của nhân loại với những giá trị về
quyền tự do, bình đẳng, dân chủ. Tuy nhiên, do được xây dựng trên nền tảng kinh tế
là chế độ hữu về liệu sản xuất nên nền dân chủ sản vẫn là nền dân chủ của
thiểu số người nắm giữ tư liệu sản xuất đối với đại đa số nhân dân lao động. Khi các
cuộc cách mạng sản nổ ra, thành công dân đạt được họ giải phóng con
người khỏi ách lệ, đem lại quyền tự do về thân thể cho con người. Nền dân chủ
tư sản hướng đến giá trị nổi bật của nhân loại, đó quyền bình đẳng quyền dân
chủ. Trong bản tuyên ngôn về nhân quyền dân quyền của cách mạng Pháp đã
khẳng định: Mọi người sinh ra đều quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những
quyền không ai có thể phủ nhận được, đó là quyền được sống, quyền tự do và quyền
mưu cầu hạnh phúc. Đây những giá trị nền dân chủ sản đã mang lại cho
lịch sử dân tộc.
Cách mạng hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga thắng lợi (1917) cũng lúc mở
ra một thời đại mới mở – thời đại quá độ từ chủ nghĩa bản lên chủ nghĩa hội.
Nhân dân lao động giành được quyền làm chủ nhà nước, làm chủ hội, thiết lập
Nhà nước công nông, thiết lập nền dân chủ sản để thực hiện quyền lực của
nhân dân. Đặc trưng bản của nền dân chủ hội chủ nghĩa thực hiện quyền
lực của nhân dân, bảo vệ quyền lợi cho đại đa số nhân dân.
Mỗi chế độ dân chủ đều mang bản chất giai cấp thống trị hội. Với cách
một hình thái nhà nước, trong lịch sử nhân loại đã chứng minh sự tồn tại của ba chế
độ dân chủ: chế độ dân chủ chủ nô, gắn với chế độ chiếm hữu nô lệ; chế độ dân chủ
tư sản, gắn với chế độ bản chủ nghĩa; nền dân chủ hội chủ nghĩa, gắn với chế
độ xã hội chủ nghĩa.
2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa
2.1. Quá trình ra đời và phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Các nhà kinh điển sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng việc đấu tranh cho
dân chủ là một quá trình dài và phức tạp. Giá trị của nền dân chủ tư sản chưa phải là
hoàn thiện nhất. Vì vậy mà đã xuất hiện một nền dân chủ mới, cao hơn nền dân chủ
tư sản, đó là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (dân chủ vô sản).
Sự thành công của Cách Mạng Tháng 10 Nga năm 1917 đã làm xuất hiện nhà
nước hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, nền dân chủ hội chủ nghĩa mới
chính thức được xác lập. Khi xuất hiện nhà nước dân chủ hội chủ nghĩa này,
nhân dân lao động đã giành lại được quyền lực thực sự của mình.
Quá trình phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa xuất phát từ thấp đến cao,
từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Tồn tại sự kế thừa những giá trị của nền dân chủ
trước đó, trước hết nền dân chủ sản. Sau đó bắt đầu bổ sung làm sâu sắc
thêm những giá trị của nền dân chủ mới. Để ra đời được chế độ hội chủ nghĩa
quá trình đấu tranh lâu dài của giai cấp công nhân quần chúng nhân dân lao
động. Nó bắt nguồn từ trong lòng chủ nghĩa tư bản. Mâu thuẫn trong lòng chủ nghĩa
tư bản và trong nền dân chủ tư sản buộc nổ ra các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
(cách mạng vô sản). Các cuộc cách mạng trên giành được thắng lợi dẫn đến giai cấp
công nhân nhân dân lao động giành được chính quyền, từ đó thực thi quyền dân
chủ trên lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, tưởng. Điều đó đồng nghĩa với việc
dân chủ hội chủ nghĩa được ra đời, được hình thành phát triển. Khi giai cấp
công nhân nhân dân lao động giành được chính quyền, họ nắm trong tay liệu
sản xuất chủ yếu của hội thì giai cấp công nhân nhân dân lao động phải bắt
tay vào công cuộc cải tạo hội cũ, xây dựng hội mới trên tất cả các lĩnh vực.
Để xây dựng được hội như vậy đòi hỏi nhà nước chế độ đó phải nhân dân,
do nhân dân. đó phải huy động được nhân dân, phải thực hiện ban bố các
quyền dân chủ đối với nhân dân. Nhân dân trong chế độ hội chủ nghĩa phải thực
hiện được quyền lực của mình.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, giai cấp sản không thể hoàn
thành cuộc cách mạnh hội chủ nghĩa nếu không được thông qua đấu tranh cho
dân chủ. Chủ nghĩa hội sẽ không thể duy trì thắng lợi nếu không thực hiện
đầy đủ dân chủ. Nguyên tắc bản của nền dân chủ hội chủ nghĩa không
ngừng mở rộng dân chủ, nâng cao mức độ giải phóng cho những người lao động,
thu hút họ tham gia tự giác vào công việc quản nhà nước, quản hội. Càng
hoàn thiện thì nền dân chủ hội chủ nghĩa càng tự tiêu vong. Nguyên nhân do
tính chính trị của dân chủ sẽ mất đi trên sở không ngừng mở rộng dân chủ đối
với nhân dân, xác lập địa vị chủ thể quyền lực của nhân dân, tạo điều kiện để họ
tham gia ngày càng đông đảo ngày càng ý nghĩa quyết định vào sự quản
nhà nước, quản xã. Quá trình đó làm cho dân chủ trở thành thói quen trong sinh
hoạt xã hội để không còn tồn tại như một thể chế nhà nước mất đi tính chính
trị. Khi hội không còn phân chia giải cấp, hình thành hội cộng sản chủ nghĩa
đỉnh cao thì dân chủ xã hội chủ nghĩa với tư cách là chế độ nhà nước sẽ tiêu vong.
Kết luận chung, “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cao hơn về chất so
với nền dân chủ có trong lịch sử nhân loại, là nền dân chủ mà ở đó, mọi quyền lực
thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ; dân chủ và pháp luật nằm trong sự
thống nhất biện chứng; được thực hiện bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.”
4
4 [ CITATION GST192 \l 1033 ]
| 1/12

Preview text:

MỤC LỤC
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN.............................................................................
LỜI CẢM ƠN............................................................................................................
LỜI CAM ĐOAN......................................................................................................
MỤC LỤC..................................................................................................................
PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.......................................................................................1
2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.........................2
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.......................................................................2
4. BỐ CỤC CỦA TIỂU LUẬN...............................................................................2
PHẦN NỘI DUNG..................................................................................................3
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
...................................................................................................................................3
1. Dân chủ.............................................................................................................3
1.1. Lịch sử ra đời và khái niệm của dân chủ.....................................................3
1.2. Khái niệm về dân chủ theo quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin................3
1.3. Sự ra đời và phát triển của dân chủ.............................................................6
2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa................................................................................8
2.1. Quá trình ra đời và phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa................8
2.2. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa...............................................10
2.2.1. Bản chất chính trị.................................................................................10
2.2.2. Bản chất kinh tế...................................................................................11
2.2.3. Bản chất tư tưởng văn hoá...................................................................11
CHƯƠNG 2: NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA. DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VÀ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM......................12
1. Nhà nước xã hội chủ nghĩa............................................................................12
1.1. Sự ra đời và khái niệm của nhà nước xã hội chủ nghĩa.............................12
1.2. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa...................................................14
1.3. Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa................................................15
2. Mối quan hệ giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa
.............................................................................................................................16
3. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.....................................................................................................................17
3.1. Sự ra đời và phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam......17
3.2. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam............................18
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM.
TRÁCH NHIỆM CỦA THANH NIÊN, SINH VIÊN TRONG VIỆC GÓP
PHẦN XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN
NAY........................................................................................................................19
1. Thực tiễn dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay...........................19
2. Phương hướng phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.................22
3. Trách nhiệm của thanh niên, sinh viên Việt Nam trong việc góp phần xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay...............................26
PHẦN KẾT LUẬN................................................................................................27
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................28 PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Dân chủ là giải pháp hữu hiệu để tạo nên sự nhất trí căn bản về lợi ích của
các thành phần kinh tế, các giai tầng và các cộng đồng dân tộc trong xã hội nước ta.
Sự nhất trí đó tổng hợp thành sức mạnh của dân tộc, tạo nên nội lực mạnh mẽ đưa
đất nước vượt qua tất cả khó khăn, thử thách. “Dân chủ” không phải là khái niệm
bất biến mà là một phạm trù chính trị, lịch sử, văn hóa, xã hội và luôn gắn với sự
tồn tại của các kiểu nhà nước trong những điều cụ thể nhất định. Bởi vậy, khái niệm
“dân chủ” có mối quan hệ chặt chẽ với khái niệm “chế độ dân chủ” và “nền dân
chủ”. “Chế độ dân chủ” dùng để chỉ thiết chế xã hội nhằm thực hiện quyền lực của
nhân dân; còn khái niệm “nền dân chủ” dùng để chỉ hệ thống các thiết chế được xác
lập và thực thi trong hiện thực xã hội theo mục tiêu thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân trong xã hội đó.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, dân chủ là một phạm trù có
quá trình phát sinh, phát triển rất phức tạp. Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, mỗi
thời đại, mỗi quốc gia, dân tộc, dân chủ luôn có những nét đặc trưng trên cơ sở kế
thừa biện chứng những điểm chung được nêu ở trên. Trong chế độ chiếm hữu nô lệ,
xét về bản chất chính là dân chủ của giai cấp chủ nô. Trong chế độ phong kiến, các
tư tưởng và mô hình dân chủ bị hạn chế, cấm đoán bởi chế độ tập quyền chuyên chế
khi quyền lực tuyệt đối nằm trong tay một đấng quân vương. Nền dân chủ tư sản
được xác lập do cuộc cách mạng tư sản dựa trên cơ sở liên minh giữa giai cấp tư sản
với các giai cấp khác lật đổ chế độ phong kiến. Vì vậy, những thành tựu giành được
của nền dân chủ tư sản không chỉ do riêng giai cấp tư sản tạo ra, mà là kết quả đấu
tranh của nhân dân lao động, kết quả của quá trình nhận thức và tất yếu của tiến bộ
xã hội. Những tuyên bố về tự do, bình đẳng, bác ái, tư tưởng về nhà nước pháp
quyền và xã hội công dân là những nội dung đầu tiên của dân chủ tư sản. Tuy nhiên,
với bản chất của xã hội tư sản, nền dân chủ tư sản không tránh khỏi những hạn chế
khách quan. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ của nhân dân lao động (dân chủ
nhân dân) được thể hiện trong mọi lĩnh vực chính trị - kinh tế, văn hóa - xã hội. Nó
được hình thành và phát triển bằng toàn bộ những giá trị văn hóa chân thực của
nhân loại. Xã hội càng phát triển, điều kiện vật chất, trí tuệ, tinh thần của con người
ngày càng phong phú thì xu hướng dân chủ càng mở rộng và được khẳng định mạnh mẽ.
Nắm rõ được sứ mệnh của dân chủ, hiểu rõ được mục tiêu của nhà nước ta:
Nhà nước Việt Nam luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
sự nghiệp xây dựng đất nước, là trung tâm của các chính sách kinh tế - xã hội, em
xin chọn đề tài “Dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Viê h t Nam và trách nhiê h m của thanh niên, sinh viên trong viê h
c góp phần xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Viê h t Nam hiê h
n nay” để thực hiện nghiên cứu một cách tổng quan và toàn diện về dân chủ
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam bao gồm sự ra đời, khái niệm và bản chất của nó. Từ
đó, có thể đúc kết được trách nhiệm của thế hệ thanh niên, sinh viên trong viê h c góp
phần xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Viê h t Nam.
2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu là Dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Viê h t Nam, trong đó bao
gồm: dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nhà nước dân
chủ xã hội chủ nghĩa. Qua đó đưa ra phương hướng, đường lối cho thế hệ thanh
thiếu niên được phụng sự Tổ quốc, thể hiện trách nhiệm của mình trong việc xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Viê h t Nam.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài sử dụng phương pháp thu thập và xử lí tài liệu: trên cơ sở thu thập thông
tin tư liệu từ nhiều lĩnh vực như văn hóa, lịch sử…; nhiều nguồn tư liệu khác nhau
có liên quan đến đề tài như sách, báo, các trang web… Kết hợp cùng phương pháp
lịch sử và phương pháp phân tích, tổng hợp: phương pháp này giúp định hướng,
thống kê, phân tích để có cách nhìn tương quan.
4. BỐ CỤC CỦA TIỂU LUẬN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài kiệu tham khảo thì phần nội dung bao gồm:
Chương 1: Lý luận về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa
Chương 2: Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Chương 3: Thực tiễn dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trách của thanh niên, sinh viên trong viê h
c góp phần xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Viê h t Nam hiê h n nay PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 1. Dân chủ
1.1. Lịch sử ra đời và khái niệm của dân chủ
Lịch sử loài người hàng nghìn năm về trước, con người đã biết hình thành
những bộ tộc, thị tộc để cùng nhau sinh sống và tiến hành hoạt động sản xuất, chống
lại thiên tai hoặc tổ chức các hoạt động chung mang tính tập thể. Trong các thị tộc
đó, họ bầu ra người đứng đầu nắm giữ quyền lực là các lãnh đạo thị tộc. Tuy nhiên,
nếu người tộc trưởng không làm tốt sẽ bị phế bỏ quyền lực theo ý nguyện và lợi ích
chung của cộng đồng. Có thể xem đó là hình thức đầu tiên của dân chủ khi quyền
lực nằm trong tay những thành viên trong thị tộc, họ chính là chủ thể của quyền lực
và đưa ra các quyết định vì cộng đồng chung.
Từ thời Hy Lạp cổ, việc bầu cử và truất quyền những người đứng đầu thuộc vào
quyền lực và sức mạnh của nhân dân. Thuật ngữ dân chủ ra đời vào khoảng thế kỷ
VII – VI trước Công nguyên. Những nhà tư tưởng Hy Lạp cổ sư dụng cụm từ
“demoskratos” với dụng ý về dân chủ. “Demos” mang ý nghĩa là nhân dân, “kratos”
có nghĩa là cai trị. Vậy nên “demonskratos” được hiểu là nhân dân cai trị và sở hữu
quyền lực, đó cũng là khái niệm của dân chủ. Sau này, dân chủ được các nhà chính
trị gọi là quyền lực của nhân dân hoặc quyền lực thuộc về nhân dân. Điểm khác biệt
cơ bản giữa dân chủ thời cổ đại và hiện nay là ở tính chất trực tiếp của mối quan hệ
sở hữu quyền lực công cộng và cách hiểu về nội hàm của khái niệm nhân dân.
1.2. Khái niệm về dân chủ theo quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin
Dân chủ thuộc về phạm trù lịch sử, là sản phẩm của quan hệ giai cấp và đấu
tranh giai cấp. Chỉ khi có giai cấp, có nhà nước thì mới xuất hiện phạm trù dân chủ.
Khi giai cấp mất đi hoặc nhà nước bị tiêu vong, dân chủ cũng không tồn tại (hình
thức của xã hội chủ nghĩa cộng sản). Khi xuất hiện chế độ tư hữu, xã hội bắt đầu
phân chia giai cấp, có sự phân hoá giàu nghèo, phân biệt giữa địa chủ và nô lệ,
người bóc lột và người bị bóc lột. Từ đó hình thành nên dân chủ trong xã hội khi có
sự xuất hiện của các giai cấp. Vì vậy mà trong suốt tiến trình lịch sử luôn diễn ra
các cuộc đấu tranh đòi độc lập, đòi quyền tự do, dân chủ trong cuộc xung đột của các giai cấp.
Qua nghiên cứu về các chế độ dân chủ trong dòng chảy lịch sử và thực tiễn lãnh
đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, các nhà kinh điển sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin
cho rằng dân chủ là thành quả của quá trình đấu tranh giai cấp cho những giá trị tiến
bộ của loài người. Nó được xem là một hình thức tổ chức nhà nước của giai cấp
cầm quyền, là một trong những nguyên tắc hoạt động của các tổ chức chính trị - xã
hội. Một số nội dung về dân chủ theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin:
1. Về phương diện quyền lực: dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân là
chủ thể sở hữu của quyền lực nhà nước, là chủ nhân của nhà nước. Nói cách khác,
dân chủ là quyền lợi cơ bản của nhân dân. Quyền lợi ấy chính là quyền lực nhà
nước nằm trong tay của nhân dân, của xã hội. Hoạt động của bộ máy nhà nước phải
vì nhân dân, vì phục vụ cho cộng đồng và các mục đích xã hội. Vì vậy, chỉ khi mọi
quyền lực nhà nước thuộc về quyền sở hữu của nhân dân thì mới có thể đảm bảo về
việc nhân dân được hưởng quyền làm chủ với tư cách là một quyền lợi.
2. Về phương diện chế độ xã hội và trong lĩnh vực chính trị: dân chủ là hình thức
hoặc hình thái nhà nước, là chính thể dân chủ hay chế độ dân chủ. Điều này gắn liền
với xã hội có giai cấp, có nhà nước.
3. Về phương diện tổ chức và quản lý xã hội: dân chủ được xem là một nguyên tắc
quản lý xã hội. Nguyên tắc dân chủ này kết hợp với nguyên tắc tập trung để hình
thành nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và quản lý xã hội. Tồn tại nguyên
tắc dân chủ và nguyên tắc tập trung, khi hai nguyên tắc này kết hợp hình thành nên
nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện cho mối quan hệ biện chứng.
Chủ nghĩa Mác – Lênin nhấn mạnh: dân chủ phải được coi là mục tiêu, là tiền
đề, là phương tiện để hướng đến sự tự do bao gồm giải phóng con người, giải phóng
giai cấp và giải phóng xã hội. Dân chủ với tư cách một hình thức tổ chức thiết chế
chính trị, một hình thức hay hình thái nhà nước, ra đời và phát triển gắn liền với nhà
nước và mất đi khi nhà nước tiêu vong. Mỗi chế độ dân chủ sẽ gắn với nhà nước
mang bản chất giai cấp thống trị xã hội. Khi ở tư cách là một giá trị xã hội, dân chủ
là một phạm trù mang tính chất vĩnh viễn, tồn tại. Nó phát triển cùng với sự tồn tại
và phát triển của loài người và xã hội loài người. Nếu con người và xã hội loài
người còn tồn tại, nếu các nền văn minh vẫn còn tiếp tục ra đời và chưa bị diệt vong
thì dân chủ vẫn tồn tại với tư cách một giá trị nhân loại chung.
Chủ nghĩa Mác - Lênin thừa nhận những nhân tố hợp lý và nhận thức của khái
niệm về dân chủ. Dân chủ suy cho cùng là quyền lực của dân, là sức mạnh nằm
trong tay dân. Dân phải thực sự là chủ thể của xã hội, được nhân dân làm chủ một
cách toàn diện bao gồm: làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội, làm chủ chính bản thân,
làm chủ và sở hữu mọi năng lực sáng tạo của bản thân với tư cách chủ thể đích thực
của xã hội. Bên cạnh đó, dân chủ phải bao hàm được tất cả các lĩnh vực trong đời
sống kinh tế - xã hội như: dân chủ trong kinh tế, dân chủ trong chính trị, dân chủ
trong xã hội, dân chủ trong đời sống văn hóa - tinh thần, tư tưởng. Trong số đó, hai
lĩnh vực về dân chủ có tầm quan trọng hàng đầu công cuộc xây dựng và phát triển
đất nước là dân chủ trong kinh tế và dân chủ trong chính trị. Nó quy định và quyết
định đến hai lĩnh vực còn lại: dân chủ trong xã hội và dân chủ trong đời sống văn
hóa – tinh thần, tư tưởng. Hơn hết, dân chủ trong kinh tế và dân chủ trong chính trị
còn thể hiện trực tiếp nhân quyền và dân quyền của người dân, khi nhân dân là chủ
thể xã hội và làm chủ xã hội. Vì vậy, dân chủ mang giá trị xã hội mà loài người muốn hướng tới.
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và vận dụng nó vào trong quá
trình qua độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh không sử
dụng những khái niệm trừu tượng mà tập trung diễn giải các vấn đề vô cùng cụ thể
và gần gũi với đại đa số nhân dân, khẳng định “Dân chủ là dân là chủ và dân làm
chủ”1. Khi xem dân chủ với tư cách là một thể chế chính trị hay một chế độ xã hội
thì Hồ Chí Minh khẳng định rằng “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là
người chủ mà Chính phủ là người đầy tớ trung thành của nhân dân.” .2 Luận điểm
của Hồ Chí Minh: “Chính quyền dân chủ có nghĩa là chính quyền do người dân làm
chủ. Và một khi nước ta đã trở thành một nước dân chủ, “chúng ta là dân chủ” thì
dân chủ là “dân làm chủ” thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này khác làm
đầy tớ cho nhân dân, chứ không phải là quan cách mạng.”3 Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã hiểu về vấn đề dân chủ rất sâu sắc, đúng theo nghĩa khởi thuỷ của nó là “quyền
1 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. CTQG, H.1996, tập.6. tr.515.
2 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. CTQG, H.1996, tập.7, tr.499.
3 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb.CTQG, H. 1996, tập.6, tr.365; tập.8, tr.375.
lực thuộc về nhân dân”. Quyền lực ấy được nhân dân giao phó cho người đại diện
để thực thi quyền lực của họ.
Đảng khẳng định: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư
tưởng “lấy dân làm ,
gốc” xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao
động”. Trên cơ sở kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, kế thừa tư tưởng
Hồ Chí Minh, kế thừa giá trị chung của lịch sử nhân loại trong vấn đề dân chủ và
đặc biệt trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam, Đảng Cộng sản
Việt Nam quan niệm “Dân chủ gắn liền với công bằng”. Dân chủ và công bằng là
hai phạm trù khác nhau nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu dân chủ
không gắn liền với công bằng, bình đẳng thì dân chủ này sẽ trở thành dân chủ hình
thức. Dân chủ gắn với công bằng xã hội trên tất cả các lĩnh vực mà trước hết là lợi
ích. Lợi ích đầu tiên là lợi ích về kinh tế, về chính trị, văn hoá, xã hội thông qua
hoạt động nhà nước do nhân dân bầu cử và các hình thức dân chủ trực tiếp. Dân chủ
phải đi đôi với kỷ luật, kỷ cương. Quan điểm cuối của Đảng về dân chủ “Dân chủ
phải được thể chế hoá bằng pháp luật, bằng quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm và được pháp luật bảo đảm.”
Kết luận lại, có thể hiểu “Dân chủ là một giá trị xã hội phản ánh những quyền
cơ bản của con người; là phạm trù chính trị gắn với hình thức tổ chức nhà nước của
giai cấp cầm quyền; là phạm trù lịch sử gắn với quá trình ra đời, phát triển cùng với
lịch sử xã hội nhân loại.”
1.3. Sự ra đời và phát triển của dân chủ
Loài người hình thành và xuất hiện từ khoảng hai trăm thiên niên kỷ về trước.
Trong quá trình phát triển, họ hình thành những bộ lạc, thị tộc. Trong xã hội sớm
nhất là xã hội công xã nguyên thuỷ, xuất hiện hình thức manh nha của dân chủ. Nhu
cầu dân chủ xuất hiện trong xã hội tự quản của cộng đồng các thị tộc, bộ lạc của
người nguyên thuỷ. Hình thức dân chủ đầu tiên được gọi là “dân chủ nguyên thủy”
hay còn được gọi bằng một cái tên khác là “dân chủ quân sự”. Đặc trưng cơ bản của
hình thức dân chủ này là nhân dân bầu ra thủ lĩnh quân sự thông qua “Đại hội nhân
dân”. Trong “Đại hội nhân dân”, mọi người đều có quyền phát biểu và tham gia
quyết định bằng cách giơ tay hoặc hoan hô. Ở “Đại hội nhân dân”, nhân dân có
quyền lực thật sự (nghĩa là có dân chủ), mặc dù trình độ sản xuất còn kém phát triển.
Lịch sử xã hội loài người tới nay đã và đang trải qua 5 hình thái xã hội và 3 nền
dân chủ bao gồm nền dân chủ chủ nô, nền dân chủ tư sản và nền dân chủ sai nghĩa.
“Dân chủ nguyên thuỷ” chưa phải là nền dân chủ, không phải là một chế độ dân chủ
vì xã hội này chưa hình thành nhà nước và giai cấp. Nhưng trong xã hội này tồn tại
những biểu hiện dân chủ “quyền lực thuộc về nhân dân”. Khi trình độ của lực lượng
sản xuất phát triển dẫn tới sự ra đời của chế độ tư hữu và giai cấp đã làm cho hình
thức “dân chủ nguyên thủy” tan rã thì giai cấp chủ nô xuất hiện, dẫn đến nền dân
chủ chủ nô ra đời. Nền dân chủ chủ nô được tổ chức thành nhà nước với đặc trưng
là dân tham gia bầu ra Nhà nước. “Dân” ở nền dân chủ chủ nô theo quy định của
giai cấp cầm quyền, trong xã hội chiếm hữu nô lệ chỉ gồm giai cấp chủ nô và phần
nào thuộc về các công dân tự do (tăng lữ, thương gia, trí thức). Đa số số lượng còn
lại không phải là “dân” mà là “nô lệ”. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ ấy, nô lệ không
được xem là người, không được tham gia vào công việc nhà nước mà chỉ được xem
là món hàng hoá, là vật thuộc sở hữu của chủ nô. Vì vậy về thực chất, dân chủ chủ
nô cũng chỉ thực hiện quyền dân chủ cho thiểu số, quyền lực của dân chỉ bó hẹp
trong một đối tượng xã hội nhất định.
Trong sự phát triển của xã hội loài người cùng với sự tan rã của chế độ chiếm
hữu nô lệ, lịch sử xã hội loài người bước vào thời kỳ phong kiến với sự thống trị
của nhà nước chuyên chế phong kiến. Trong xã hội phong kiến không tồn tại nền
dân chủ mà thay vào đó là sự ra đời của chế độ độc tài chuyên chế phong kiến với
chế độ quân chủ để thống trị xã hội. Khác với nền dân chủ chủ nô, thời kỳ phong
kiến do vua đứng đầu và nắm mọi quyền hành thay vì dân. Dân xem việc tuân theo
ý chí của giai cấp thống trị là bổn phận của mình trước sức mạnh của đấng tối cao.
Vì vậy, ý thức về dân chủ và đấu tranh để thực hiện quyền làm chủ của người dân
đã không có bước tiến đáng kể nào.
Vào cuối thế kỷ XIV - đầu XV, giai cấp tư sản với những tư tưởng tiến bộ về tự
do, công bằng, dân chủ đã mở đường cho sự ra đời của nền dân chủ tư sản. Dân chủ
tư sản ra đời được đánh dấu là một bước tiến lớn của nhân loại với những giá trị về
quyền tự do, bình đẳng, dân chủ. Tuy nhiên, do được xây dựng trên nền tảng kinh tế
là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất nên nền dân chủ tư sản vẫn là nền dân chủ của
thiểu số người nắm giữ tư liệu sản xuất đối với đại đa số nhân dân lao động. Khi các
cuộc cách mạng tư sản nổ ra, thành công mà dân đạt được là họ giải phóng con
người khỏi ách nô lệ, đem lại quyền tự do về thân thể cho con người. Nền dân chủ
tư sản hướng đến giá trị nổi bật của nhân loại, đó là quyền bình đẳng và quyền dân
chủ. Trong bản tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp đã
khẳng định: Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những
quyền không ai có thể phủ nhận được, đó là quyền được sống, quyền tự do và quyền
mưu cầu hạnh phúc. Đây là những giá trị mà nền dân chủ tư sản đã mang lại cho lịch sử dân tộc.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga thắng lợi (1917) cũng là lúc mở
ra một thời đại mới mở – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Nhân dân lao động giành được quyền làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội, thiết lập
Nhà nước công – nông, thiết lập nền dân chủ vô sản để thực hiện quyền lực của
nhân dân. Đặc trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực hiện quyền
lực của nhân dân, bảo vệ quyền lợi cho đại đa số nhân dân.
Mỗi chế độ dân chủ đều mang bản chất giai cấp thống trị xã hội. Với tư cách là
một hình thái nhà nước, trong lịch sử nhân loại đã chứng minh sự tồn tại của ba chế
độ dân chủ: chế độ dân chủ chủ nô, gắn với chế độ chiếm hữu nô lệ; chế độ dân chủ
tư sản, gắn với chế độ tư bản chủ nghĩa; nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, gắn với chế độ xã hội chủ nghĩa.
2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa
2.1. Quá trình ra đời và phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Các nhà kinh điển sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng việc đấu tranh cho
dân chủ là một quá trình dài và phức tạp. Giá trị của nền dân chủ tư sản chưa phải là
hoàn thiện nhất. Vì vậy mà đã xuất hiện một nền dân chủ mới, cao hơn nền dân chủ
tư sản, đó là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (dân chủ vô sản).
Sự thành công của Cách Mạng Tháng 10 Nga năm 1917 đã làm xuất hiện nhà
nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mới
chính thức được xác lập. Khi xuất hiện nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa này,
nhân dân lao động đã giành lại được quyền lực thực sự của mình.
Quá trình phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa xuất phát từ thấp đến cao,
từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Tồn tại sự kế thừa những giá trị của nền dân chủ
trước đó, trước hết là nền dân chủ tư sản. Sau đó bắt đầu bổ sung và làm sâu sắc
thêm những giá trị của nền dân chủ mới. Để ra đời được chế độ xã hội chủ nghĩa là
quá trình đấu tranh lâu dài của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao
động. Nó bắt nguồn từ trong lòng chủ nghĩa tư bản. Mâu thuẫn trong lòng chủ nghĩa
tư bản và trong nền dân chủ tư sản buộc nổ ra các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
(cách mạng vô sản). Các cuộc cách mạng trên giành được thắng lợi dẫn đến giai cấp
công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền, từ đó thực thi quyền dân
chủ trên lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng. Điều đó đồng nghĩa với việc
dân chủ xã hội chủ nghĩa được ra đời, được hình thành và phát triển. Khi giai cấp
công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền, họ nắm trong tay tư liệu
sản xuất chủ yếu của xã hội thì giai cấp công nhân và nhân dân lao động phải bắt
tay vào công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trên tất cả các lĩnh vực.
Để xây dựng được xã hội như vậy đòi hỏi nhà nước và chế độ đó phải vì nhân dân,
do nhân dân. Dó đó nó phải huy động được nhân dân, phải thực hiện ban bố các
quyền dân chủ đối với nhân dân. Nhân dân trong chế độ xã hội chủ nghĩa phải thực
hiện được quyền lực của mình.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, giai cấp vô sản không thể hoàn
thành cuộc cách mạnh xã hội chủ nghĩa nếu không được thông qua đấu tranh cho
dân chủ. Chủ nghĩa xã hội sẽ không thể duy trì và thắng lợi nếu không thực hiện
đầy đủ dân chủ. Nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là không
ngừng mở rộng dân chủ, nâng cao mức độ giải phóng cho những người lao động,
thu hút họ tham gia tự giác vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Càng
hoàn thiện thì nền dân chủ xã hội chủ nghĩa càng tự tiêu vong. Nguyên nhân là do
tính chính trị của dân chủ sẽ mất đi trên cơ sở không ngừng mở rộng dân chủ đối
với nhân dân, xác lập địa vị chủ thể quyền lực của nhân dân, tạo điều kiện để họ
tham gia ngày càng đông đảo và ngày càng có ý nghĩa quyết định vào sự quản lý
nhà nước, quản lý xã. Quá trình đó làm cho dân chủ trở thành thói quen trong sinh
hoạt xã hội để nó không còn tồn tại như một thể chế nhà nước và mất đi tính chính
trị. Khi xã hội không còn phân chia giải cấp, hình thành xã hội cộng sản chủ nghĩa
đỉnh cao thì dân chủ xã hội chủ nghĩa với tư cách là chế độ nhà nước sẽ tiêu vong.
Kết luận chung, “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cao hơn về chất so
với nền dân chủ có trong lịch sử nhân loại, là nền dân chủ mà ở đó, mọi quyền lực
thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ; dân chủ và pháp luật nằm trong sự
thống nhất biện chứng; được thực hiện bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.”4 4 [ CITATION GST192 \l 1033 ]