Dàn ý 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang | Ngữ Văn 11

Giới thiệu tác giả: + Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới. + Thơ Huy Cận mang phong cách suy tư, triết lý đặc biệt là những sáng tác trước Cách Mạng tháng 8. + Điều đó thể hiện rõ qua tập thơ “Lửa thiêng”. - Giới thiệu tác phẩm + “Tràng giang” in trong tập “Lửa Thiêng” + Đây là tác phẩm đã đưa tên tuổi Huy Cận lên đỉnh cao trong văn học Việt Nam hiện đại + Tác phẩm được sáng tác khi nhà thơ lên Hà Nội học. Mỗi chiều nhớ nhà, ông thường ra bến Chèm, đứng trước sông Hồng để thả hồn vào cảnh sông nước bao la. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !

Chủ đề:

Văn mẫu 11 295 tài liệu

Môn:

Ngữ Văn 11 1.1 K tài liệu

Thông tin:
4 trang 1 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Dàn ý 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang | Ngữ Văn 11

Giới thiệu tác giả: + Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới. + Thơ Huy Cận mang phong cách suy tư, triết lý đặc biệt là những sáng tác trước Cách Mạng tháng 8. + Điều đó thể hiện rõ qua tập thơ “Lửa thiêng”. - Giới thiệu tác phẩm + “Tràng giang” in trong tập “Lửa Thiêng” + Đây là tác phẩm đã đưa tên tuổi Huy Cận lên đỉnh cao trong văn học Việt Nam hiện đại + Tác phẩm được sáng tác khi nhà thơ lên Hà Nội học. Mỗi chiều nhớ nhà, ông thường ra bến Chèm, đứng trước sông Hồng để thả hồn vào cảnh sông nước bao la. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !

12 6 lượt tải Tải xuống
Dàn ý: Phân tích hai khổ thơ đầu bài “Tràng Giang” của Huy Cận.
Bài làm
I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả:
+ Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới.
+ Thơ Huy Cận mang phong cách suy tư, triết lý đặc biệt là những sáng tác trước Cách
Mạng tháng 8.
+ Điều đó thể hiện rõ qua tập thơ “Lửa thiêng”.
- Giới thiệu tác phẩm
+ “Tràng giang” in trong tập “Lửa Thiêng
+ Đây là tác phẩm đã đưa tên tuổi Huy Cận lên đỉnh cao trong văn học Việt Nam hiện đại
+ Tác phẩm được sáng tác khi nhà thơ lên Hà Nội học. Mỗi chiều nhớ nhà, ông thường ra
bến Chèm, đứng trước sông Hồng để thả hồn vào cảnh sông nước bao la.
- Dẫn dắt vào luận đề : Điều đó thể hiện rõ nét qua hai khổ thơ đầu của bài.
- Đưa thơ (đưa tắt)
- Chuyển ý: Sau đây chúng ta cùng phân tích.
II. Thân bài:
1. Dẫn dắt: Phân tích nhan đề + câu thơ đề từ
- Ngay từ nhan đề, nhà thơ đã khéo gợi lên một vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại:
+ “Tràng giang” gợi hình ảnh một con sông dài, rộng lớn.
+ Tác giả đã sử dụng từ Hán Việt để gợi không khí cổ kính trang nghiêm.
+ Tác giả còn sử dụng từ biến âm “tràng giang” thay cho “trường Giang”, hai âm "ang" đi liền
nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng
mênh mông, bát ngát.
- Câu thơ đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” gợi nỗi buồn sâu lắng trong lòng người đọc.
Đồng thời cho người đọc thấy rõ hơn cảm xúc chủ đạo của tác giả xuyên suốt tác phẩm. Đó là
tâm trạng “bâng khuâng”; nỗi buồn mênh mang, không rõ nguyên cớ nhưng da diết, khôn nguôi.
Đó còn là không gian rộng lớn “trời rộng sông dài” khiến hình ảnh con người càng trở nên nhỏ
bé, lẻ loi, tội nghiệp.
Bài thơ diễn tả tâm trạng, cảm xúc của thi nhân khi đứng
trước cảnh sông nước bao la trong một buổi chiều đầy tâm sự.
2. Phân tích
a. Khổ 1: Bài thơ mở đầu bằng một khổ thơ mang vẻ đẹp thiên nhiên, đậm chất cổ
thi. Cảnh vật thiên nhiên ấy lại được cảm nhận qua tâm hồn “sầu vạn kỉ” của
nhà thơ:
“ Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
- Nhà thơ sử dụng một loạt các thi liệu trong thơ Đường như “thuyền, nước, sóng, …”. Đó là
một bức tranh đẹp như bức tranh thủy mặc nhưng buồn đến tê tái.
- “Sóng gợn” chỉ nhẹ thôi nhưng cứ “điệp điệp” kéo dài không dứt, đó chính là những cơn sóng lòng cứ
dâng lên khiến cho tác giả buồn bã không nguôi. Huy Cận đã sử dụng 2 từ láy liên tiếp nhau trong một
câu thơ “tràng giang”, “điệp điệp”. Cách dùng từ thật mới lạ, độc đáo, không phải là
buồn bã, da diết mà là buồn “điệp điệp”, nghĩa là một nỗi buồn tuy không mãnh liệt nhưng nó cứ
liên tục, không ngừng.
Liên hệ: Đại thi hào Nguyễn Du đã từng nói:
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.”
(Truyện Kiều)
- Cảnh vật ảm đạm như thế thì thử hỏi tâm trạng của con người làm sao mà
vuiđược? Liên hệ: Trong bài “Thuyền và biển” của Xuân Quỳnh:
“Chỉ có thuyền mới hiểu
Biển mênh mông nhường nào
Chỉ có biển mơi biết
Thuyền đi đâu về đâu”
- Trong thơ Xuân Quỳnh, thuyền và nước thấy hiểu nhau, đi đôi như hình với bóng thì ở bài “Tràng
giang” của Huy Cận ngược lại. Ở câu thơ thứ 2, hình ảnh “thuyền”, “nước” còn sóng đôi, “song
song” nhưng đến câu 3 thì ta thấy hai sự vật này đã chia ly tan tác “thuyền về nước lại sầu trăm
ngả”. Nghệ thuật đối giữa “Thuyền về” và “nước lại” nhằm nhấn mạnh sự chia ly, xa cách, thể
hiện sự nuối tiếc trong lòng tác giả.
- Nếu nỗi buồn ở câu 1 còn mơ hồ chưa định hình rõ ràng thì đến đây nó đã trở thành nỗi sầu lan
tỏa khắp không gian. Từ trước đến giờ ta thấy, “thuyền” và “nước” là hai hình ảnh không thể tách
rời nhau vậy mà Huy Cận lại chia rẽ chúng ra. Điều này chứng tỏ ông đã quá đau buồn, ông lúc
nào cũng mang trong mình một nỗi u hoài, một nỗi chia ly, chia xa.
- Gây ấn tượng nhất trong khổ thơ là hình ảnh ẩn dụ “củi một cành khô” từ thượng nguồn trôi dạt
trên dòng sông, đang phải chọn lựa sẽ xuôi theo dòng nước nào khiến tác giả liên tưởng đến cuộc
đời mình. Ông cũng như bao người dân mất nước mang thân phận bọt bèo giữa cuộc đời rộng lớn.
Hình ảnh cành củi kia còn tượng trưng cho kiếp người nhỏ bé, những văn nghệ sĩ đang băn khoăn,
ngơ ngác, lạc lõng trước nhiều trường phái văn học, ngã rẽ của cuộc đời. Câu thơ nhiều tầng ý
nghĩa, khiến cho ý thơ sâu sắc. Bằng bút pháp nghệ thuật đảo ngữ: đẩy từ “củi” lên đầu câu, tác
giả nhấn mạnh thân phận nhỏ bé, bọt bèo của kiếp người trong cuộc sống.
Đến đây, ta nhận ra nỗi buồn của Huy Cận là nỗi buồn của một kiếp người bởi cuộc đời
vốn có nhiều thay đổi, bất ngờ, không báo trước mà con người thì rất nhỏ nhoi và cô độc, lẻ
loi. Khổ thơ đầu gợi một cảm giác bâng khuâng, lo lắng , lạc lõng, chơi vơi của tác giả giữa
dòng đời vô định, không biết sẽ đi đâu về đâu.
b. Khổ 2: Nỗi lòng nhà thơ được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của
không gian lạnh lẽo:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”
- Lúc này, góc nhìn của nhân vật trữ tình đã thay đổi, bao quát hơn, rộng hơn khi từ cảnh sông
Hồng chuyển sang không gian bao la của trời đất, bến bờ. Đó là một không gian vắng lặng, yên
tĩnh: Có cảnh vật (cồn, gió, làng, chợ…) nhưng cảnh vật lại quá ít ỏi, nhỏ nhoi (cồn nhỏ, làng xa,
chợ vãn... )
- Từ láy “lơ thơ” diễn tả sự thưa thớt, rời rạc của những cồn đất nhỏ nhoi mọc lên giữa dòng tràng
giang. Trên những cồn đất nhỏ đó, mọc lên những cây lau, sậy, khi gió thổi qua thì âm thanh
phát ra nghe man mác, nghe “đìu hiu” não ruột.
- Có âm thanh nhưng âm thanh ấy lại phát ra từ ngôi “chợ chiều” đã “vãn” mà làng lại xa nên
không đủ sức làm cho cảnh vật sinh động, có hồn.
Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái gợi lên âm thanh xa xôi, không rõ rệt. “Đâu tiếng
làng xa” có thể là câu hỏi "đâu" như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một
chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là "đâu có", một sự phủ
định hoàn toàn,vì chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của
thiên nhiên. Tất cả vẫn chỉ là sự im lặng bao trùm lên dòng chảy tràng giang.
- Đến hai câu thơ tiếp theo thì không gian được mở ra bát ngát:
“Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót.”
Sông dài trời rộng bến cô liêu
- Huy Cận đã vẽ nên một khung cảnh không gian ba chiều rộng lớn: có chiều cao (nắng xuống, trời
lên), có chiều rộng (trời rộng) và cả chiều dài (sông dài), thậm chí là có cả độ “sâu”. Vũ trụ thì
bao la, vô tận, còn con người thì quá nhỏ bé, cô độc lẻ loi.
- Nhà thơ nhìn lên bầu trời và thấy bầu trời “sâu chót vót”. Cách dùng từ thật độc đáo vì nhà thơ
không dùng từ “cao” mà dùng từ “sâu”. “Cao” chỉ độ cao vật lý của bầu trời. Còn “sâu” không chỉ
diễn tả được độ cao vật lý mà còn diễn tả được sự rợn ngợp trước không gian ấy. Đó chính là sự
rợn ngợp trong tâm hồn của thi nhân trước cái vô cùng của vũ trụ. Cách sử dụng từ hết sức mới lạ
bởi tác giả đã lồng chiều cao vào chiều sâu; ông đang ngắm cảnh bầu trời cao “chót vót” dưới mặt
nước “sâu” thăm thẳm. Không gian càng rộng, hình ảnh con người lại càng nhỏ bé, cô độc, lẻ loi
đến tội nghiệp.
- Hình ảnh “bến cô liêu” với âm hưởng man mác của hai chữ “cô liêu” ấy, một lần nữa lại gợi ra
một nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn về sự sống quá nhỏ nhoi, rất hữu hạn trong thiên nhiên, mà vũ
trụ thì cứ mở ra mãi đến vô tận, vô cùng. Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen
thuộc trong Đường thi như: „sông, trời, nắng…”; cuộc sống con người thì buồn tẻ, chán chường
với "vãn chợ chiều", mọi thứ đã tan rã, chia lìa.
Không gian càng vắng lặng rộng lớn bao la thì hình ảnh con người càng cô đơn đến
tột cùng. Nỗi buồn lan tỏa khắp không gian, bao trùm lên cảnh vật.
3. Đánh giá
a. Nội dung:
- Hai khổ thơ cho ta thấy được tâm trạng buồn bã, băn khoăn, ngơ ngác trước những ngã rẽ của
cuộc đời. Thi nhân cảm nhận rõ sự nhỏ bé, lẻ loi, cô độc của một kiếp người giữa dòng đời rộng
lớn. Đây không phải là nỗi buồn của cá nhân ông mà là cảm xúc chung của cả một thế hệ, đặc biệt
là giới văn nghệ sĩ đầu thế kỉ XX.
b. Nghệ thuật
- Bài thơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp cổ điển và hiện đại: +
Cổ điển ở thể thơ, cách đặt nhan đề, bút pháp “tả cảnh ngụ tình”.
+ Còn hiện đại trong việc xây dựng thi liệu, đặc biệt là hình ảnh “cành củi khô” gây ấn tượng,
cách dùng từ mới lạ “sâu chót vót”.
III. Kết bài
- Đánh giá tác phẩm: “Tràng giang” quả là một tuyệt phẩm trong nền văn học hiện đại Việt
Nam. Tác phẩm không chỉ tiêu biểu cho phong cách thơ của Huy Cận mà còn đại diện cho
khuynh hướng thơ văn lãng mạn gian đoạn 1930 – 1945.
- Đánh giá tác giả: Huy Cận quả xứng đáng nhà thơ tiêu biểu cho phong trào Thơ Mới. Ông
đã góp phần làm cho khu vườn VHVN thêm tỏa sắc. Tên tuổi của Huy Cận sẽ sống mãi trong
lòng người đọc.
- Đánh giá, cảm nhận của bản thân.
| 1/4

Preview text:

Dàn ý: Phân tích hai khổ thơ đầu bài “Tràng Giang” của Huy Cận. Bài làm I. M ở bài: - Giớ i thiệu tác giả:
+ Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới.
+ Thơ Huy Cận mang phong cách suy tư, triết lý đặc biệt là những sáng tác trước Cách Mạng tháng 8.
+ Điều đó thể hiện rõ qua tập thơ “Lửa thiêng”. - Giớ i thiệu tác phẩm
+ “Tràng giang” in trong tập “Lửa Thiêng”
+ Đây là tác phẩm đã đưa tên tuổi Huy Cận lên đỉnh cao trong văn học Việt Nam hiện đại
+ Tác phẩm được sáng tác khi nhà thơ lên Hà Nội học. Mỗi chiều nhớ nhà, ông thường ra
bến Chèm, đứng trước sông Hồng để thả hồn vào cảnh sông nước bao la. - Dẫ
n dắt vào luận đề : Điều đó thể hiện rõ nét qua hai khổ thơ đầu của bài. - Đư a thơ (đưa tắt) - C
huyển ý: Sau đây chúng ta cùng phân tích. II. T hân bài: 1. Dẫ
n dắt: Phân tích nhan đề + câu thơ đề từ -
Ngay từ nhan đề, nhà thơ đã khéo gợi lên một vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại:
+ “Tràng giang” gợi hình ảnh một con sông dài, rộng lớn.
+ Tác giả đã sử dụng từ Hán Việt để gợi không khí cổ kính trang nghiêm.
+ Tác giả còn sử dụng từ biến âm “tràng giang” thay cho “trường Giang”, hai âm "ang" đi liền
nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát.
- Câu thơ đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” gợi nỗi buồn sâu lắng trong lòng người đọc.
Đồng thời cho người đọc thấy rõ hơn cảm xúc chủ đạo của tác giả xuyên suốt tác phẩm. Đó là
tâm trạng “bâng khuâng”; nỗi buồn mênh mang, không rõ nguyên cớ nhưng da diết, khôn nguôi.
Đó còn là không gian rộng lớn “trời rộng sông dài” khiến hình ảnh con người càng trở nên nhỏ bé, lẻ loi, tội nghiệp.
Bài thơ diễn tả tâm trạng, cảm xúc của thi nhân khi đứng
trước cảnh sông nước bao la trong một buổi chiều đầy tâm sự. 2. P hân tích a. Kh
ổ 1: Bài thơ mở đầu bằng một khổ thơ mang vẻ đẹp thiên nhiên, đậm chất cổ
thi. Cảnh vật thiên nhiên ấy lại được cảm nhận qua tâm hồn “sầu vạn kỉ” của nhà thơ:

“ Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
- Nhà thơ sử dụng một loạt các thi liệu trong thơ Đường như “thuyền, nước, sóng, …”. Đó là
một bức tranh đẹp như bức tranh thủy mặc nhưng buồn đến tê tái. -
“Sóng gợn” chỉ nhẹ thôi nhưng cứ “điệp điệp” kéo dài không dứt, đó chính là những cơn sóng lòng cứ
dâng lên khiến cho tác giả buồn bã không nguôi. Huy Cận đã sử dụng 2 từ láy liên tiếp nhau trong một
câu thơ “tràng giang”, “điệp điệp”. Cách dùng từ thật mới lạ, độc đáo, không phải là
buồn bã, da diết mà là buồn “điệp điệp”, nghĩa là một nỗi buồn tuy không mãnh liệt nhưng nó cứ liên tục, không ngừng.
 Liên hệ: Đại thi hào Nguyễn Du đã từng nói:
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.” (Truyện Kiều)
- Cảnh vật ảm đạm như thế thì thử hỏi tâm trạng của con người làm sao mà
vuiđược?  Liên hệ: Trong bài “Thuyền và biển” của Xuân Quỳnh:
“Chỉ có thuyền mới hiểu
Biển mênh mông nhường nào Chỉ có biển mơi biết
Thuyền đi đâu về đâu”
- Trong thơ Xuân Quỳnh, thuyền và nước thấy hiểu nhau, đi đôi như hình với bóng thì ở bài “Tràng
giang” của Huy Cận ngược lại. Ở câu thơ thứ 2, hình ảnh “thuyền”, “nước” còn sóng đôi, “song
song” nhưng đến câu 3 thì ta thấy hai sự vật này đã chia ly tan tác “thuyền về nước lại sầu trăm
ngả”. Nghệ thuật đối giữa “Thuyền về” và “nước lại” nhằm nhấn mạnh sự chia ly, xa cách, thể
hiện sự nuối tiếc trong lòng tác giả.
- Nếu nỗi buồn ở câu 1 còn mơ hồ chưa định hình rõ ràng thì đến đây nó đã trở thành nỗi sầu lan
tỏa khắp không gian. Từ trước đến giờ ta thấy, “thuyền” và “nước” là hai hình ảnh không thể tách
rời nhau vậy mà Huy Cận lại chia rẽ chúng ra. Điều này chứng tỏ ông đã quá đau buồn, ông lúc
nào cũng mang trong mình một nỗi u hoài, một nỗi chia ly, chia xa.
- Gây ấn tượng nhất trong khổ thơ là hình ảnh ẩn dụ “củi một cành khô” từ thượng nguồn trôi dạt
trên dòng sông, đang phải chọn lựa sẽ xuôi theo dòng nước nào khiến tác giả liên tưởng đến cuộc
đời mình. Ông cũng như bao người dân mất nước mang thân phận bọt bèo giữa cuộc đời rộng lớn.
Hình ảnh cành củi kia còn tượng trưng cho kiếp người nhỏ bé, những văn nghệ sĩ đang băn khoăn,
ngơ ngác, lạc lõng trước nhiều trường phái văn học, ngã rẽ của cuộc đời. Câu thơ nhiều tầng ý
nghĩa, khiến cho ý thơ sâu sắc. Bằng bút pháp nghệ thuật đảo ngữ: đẩy từ “củi” lên đầu câu, tác
giả nhấn mạnh thân phận nhỏ bé, bọt bèo của kiếp người trong cuộc sống.
Đến đây, ta nhận ra nỗi buồn của Huy Cận là nỗi buồn của một kiếp người bởi cuộc đời
vốn có nhiều thay đổi, bất ngờ, không báo trước mà con người thì rất nhỏ nhoi và cô độc, lẻ
loi. Khổ thơ đầu gợi một cảm giác bâng khuâng, lo lắng , lạc lõng, chơi vơi của tác giả giữa
dòng đời vô định, không biết sẽ đi đâu về đâu. b. Kh
ổ 2: Nỗi lòng nhà thơ được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”
- Lúc này, góc nhìn của nhân vật trữ tình đã thay đổi, bao quát hơn, rộng hơn khi từ cảnh sông
Hồng chuyển sang không gian bao la của trời đất, bến bờ. Đó là một không gian vắng lặng, yên
tĩnh: Có cảnh vật (cồn, gió, làng, chợ…) nhưng cảnh vật lại quá ít ỏi, nhỏ nhoi (cồn nhỏ, làng xa, chợ vãn... )
- Từ láy “lơ thơ” diễn tả sự thưa thớt, rời rạc của những cồn đất nhỏ nhoi mọc lên giữa dòng tràng
giang. Trên những cồn đất nhỏ đó, mọc lên những cây lau, sậy, khi gió thổi qua thì âm thanh
phát ra nghe man mác, nghe “đìu hiu” não ruột.
- Có âm thanh nhưng âm thanh ấy lại phát ra từ ngôi “chợ chiều” đã “vãn” mà làng lại xa nên
không đủ sức làm cho cảnh vật sinh động, có hồn.
Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái gợi lên âm thanh xa xôi, không rõ rệt. “Đâu tiếng
làng xa” có thể là câu hỏi "đâu" như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một
chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là "đâu có", một sự phủ
định hoàn toàn,vì chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của
thiên nhiên. Tất cả vẫn chỉ là sự im lặng bao trùm lên dòng chảy tràng giang.
-
Đến hai câu thơ tiếp theo thì không gian được mở ra bát ngát:
“Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót.”
Sông dài trời rộng bến cô liêu
- Huy Cận đã vẽ nên một khung cảnh không gian ba chiều rộng lớn: có chiều cao (nắng xuống, trời
lên), có chiều rộng (trời rộng) và cả chiều dài (sông dài), thậm chí là có cả độ “sâu”. Vũ trụ thì
bao la, vô tận, còn con người thì quá nhỏ bé, cô độc lẻ loi.
- Nhà thơ nhìn lên bầu trời và thấy bầu trời “sâu chót vót”. Cách dùng từ thật độc đáo vì nhà thơ
không dùng từ “cao” mà dùng từ “sâu”. “Cao” chỉ độ cao vật lý của bầu trời. Còn “sâu” không chỉ
diễn tả được độ cao vật lý mà còn diễn tả được sự rợn ngợp trước không gian ấy. Đó chính là sự
rợn ngợp trong tâm hồn của thi nhân trước cái vô cùng của vũ trụ. Cách sử dụng từ hết sức mới lạ
bởi tác giả đã lồng chiều cao vào chiều sâu; ông đang ngắm cảnh bầu trời cao “chót vót” dưới mặt
nước “sâu” thăm thẳm. Không gian càng rộng, hình ảnh con người lại càng nhỏ bé, cô độc, lẻ loi đến tội nghiệp.
- Hình ảnh “bến cô liêu” với âm hưởng man mác của hai chữ “cô liêu” ấy, một lần nữa lại gợi ra
một nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn về sự sống quá nhỏ nhoi, rất hữu hạn trong thiên nhiên, mà vũ
trụ thì cứ mở ra mãi đến vô tận, vô cùng. Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen
thuộc trong Đường thi như: „sông, trời, nắng…”; cuộc sống con người thì buồn tẻ, chán chường
với "vãn chợ chiều", mọi thứ đã tan rã, chia lìa.
Không gian càng vắng lặng rộng lớn bao la thì hình ảnh con người càng cô đơn đến
tột cùng. Nỗi buồn lan tỏa khắp không gian, bao trùm lên cảnh vật. 3. Đá nh giá a. Nội dung:
- Hai khổ thơ cho ta thấy được tâm trạng buồn bã, băn khoăn, ngơ ngác trước những ngã rẽ của
cuộc đời. Thi nhân cảm nhận rõ sự nhỏ bé, lẻ loi, cô độc của một kiếp người giữa dòng đời rộng
lớn. Đây không phải là nỗi buồn của cá nhân ông mà là cảm xúc chung của cả một thế hệ, đặc biệt
là giới văn nghệ sĩ đầu thế kỉ XX. b. Ngh ệ thuật -
Bài thơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp cổ điển và hiện đại: +
Cổ điển ở thể thơ, cách đặt nhan đề, bút pháp “tả cảnh ngụ tình”.
+ Còn hiện đại trong việc xây dựng thi liệu, đặc biệt là hình ảnh “cành củi khô” gây ấn tượng,
cách dùng từ mới lạ “sâu chót vót”. III. Kết bài
- Đánh giá tác phẩm: “Tràng giang” quả là một tuyệt phẩm trong nền văn học hiện đại Việt
Nam. Tác phẩm không chỉ tiêu biểu cho phong cách thơ của Huy Cận mà còn đại diện cho
khuynh hướng thơ văn lãng mạn gian đoạn 1930 – 1945.
- Đánh giá tác giả: Huy Cận quả xứng đáng là nhà thơ tiêu biểu cho phong trào Thơ Mới. Ông
đã góp phần làm cho khu vườn VHVN thêm tỏa sắc. Tên tuổi của Huy Cận sẽ sống mãi trong lòng người đọc.
- Đánh giá, cảm nhận của bản thân.