-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Dàn ý + Bài văn mẫu phân tích Đồng Chí lớp 9
a. Đoạn thơ thứ nhất (Quê hương anh… Đồng chí!). Giới thiệu quê hương, xuất thân của mình và đồng đội: “nước mặn đồng chua, đất cày lên sỏi đá” → cùng chung cảnh ngộ nghèo khó, là những người nông dân chất phác, mộc mạc. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
I. Dàn ý phân tích bài thơ Đồng chí
Dàn ý phân tích bài thơ Đồng chí mẫu 1 1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Chính Hữu và bài thơ Đồng chí. 2. Thân bài
a. Đoạn thơ thứ nhất (Quê hương anh… Đồng chí!).
Giới thiệu quê hương, xuất thân của mình và đồng đội: “nước mặn đồng chua, đất
cày lên sỏi đá” → cùng chung cảnh ngộ nghèo khó, là những người nông dân chất phác, mộc mạc.
“chẳng hẹn quen nhau”: chiến tranh đã đưa những người nông dân này thành chiến
sĩ chiến đấu cùng nhau, thân quen nhau và trở thành đôi bạn thân thiết.
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”: sự kề vai sát cánh, song hành cùng nhau trên
khắp những ngả đường chiến đấu.
“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”: không chỉ bên nhau trong những chặng đường
chiến đấu, họ còn bên nhau trong cuộc sống thường nhật ở chiến trường, chia sẻ
với nhau những điều nhỏ nhặt nhất và trở thành người bạn tri kỉ của nhau.
“Đồng chí!”: hai tiếng đồng chí thiêng liêng vang lên để khẳng định cho tình bạn keo
sơn của hai người chiến sĩ từ sự thấu hiểu đến việc cùng chung lí tưởng.
→ Hình ảnh người chiến sĩ hiện lên chất phác, mộc mạc nhưng giàu tình cảm khiến
người đọc thêm thương mến, yêu thương.
b. Đoạn thơ tiếp theo (Ruộng nương… trán ướt mồ hôi)
Sự thấu hiểu cho hoàn cảnh của người đồng chí: Cuộc sống của họ còn nhiều khó
khăn nhưng, phải vất vả mưu sinh nhưng họ vẫn gửi lại phía sau để chiến đấu dành độc lập cho tổ quốc.
Quay lại thực tại chiến đấu: cơn sốt rét rừng → hoàn cảnh chiến đấu vô cùng khắc nghiệt, gian khổ.
c. Đoạn thơ tiếp theo (Áo anh rách vai… nắm lấy bàn tay)
Thực tế ở chiến trường: người chiến sĩ không có lấy một manh áo lành lặn để mặc,
chiếc quần cũng là từ chắp vá từ mảnh vải bỏ đi mà thành thế mà vẫn phải chống
chọi với cái rét. Sự lạc quan của người lính được thể hiện ở nụ cười tươi rói giữa mùa đông buốt giá.
Giữa nơi rừng núi hoang vu đầy gai góc, chưa kể đến bom đạn nguy hiểm, người
chiến sĩ không có lấy một đôi giày để đi bảo vệ đôi chân của mình, chính vì hoàn
cảnh khó khăn thế mà họ hiểu nhau hơn, họ trao nhau cái nắm tay thay cho tình
thương, sự đồng cảm, thấu hiểu. d. Khổ thơ cuối cùng
Không gian: ban đêm, nơi rừng hoang sương muốn.
Hình ảnh người lính: đứng canh gác cạnh nhau giữa trời đất để chờ giặc tới.
“Đầu súng trăng treo” hình ảnh liên tưởng thú vị, mũi súng ngửa lên trời giống như
chiếc giá đỡ ánh trăng tròn, tạo cảm giác thi vị, làm cho người đọc hiểu thêm về khung cảnh chiến đấu. 3. Kết bài
Nêu khái quát lại nội dung, nghệ thuật và giá trị của tác phẩm.
Dàn ý phân tích bài thơ Đồng chí mẫu 2 1, Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
● Chính Hữu là một tác giả lớn của nền thi ca cách mạng, vừa là nhà thơ,
vừa là chiến sĩ tham gia chiến dịch Việt Bắc.
● Bài thơ được sáng tác vào năm 1948, viết về người chiến sĩ, về tình đồng
đội, về khát vọng hòa bình. 2, Thân bài
a, Sự hình thành tình đồng chí
● Sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân của những người lính: đều là
những nông dân, những người con của vùng quê nghèo khó “nước mặn
đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”.
● Từ “đôi người xa lạ”, họ cùng đi lính, chung lí tưởng chiến đấu vì Tổ quốc,
“súng bên súng đầu sát bên đầu” sát cánh bên nhau trên chiến trường,
chia bùi sẻ ngọt “đêm rét chung chăn” mà thành “đôi tri kỷ”.
● Nghệ thuật: sử dụng hình ảnh gợi tả đặc sắc, thủ pháp sóng đôi.
● Từ “Đồng chí”: cách gọi vừa trang nghiêm vừa thân thuộc, đầy tình cảm,
mang hơi thở thời đại mới của cách mạng, kháng chiến. Giọng thơ chùng
xuống, lắng đọng, tạo cảm giác thiêng liêng.
b, Những kỉ niệm, sóng gió cùng trải qua:
- Cảm thông sâu sắc những tâm tư, nỗi niềm của nhau: vì mục đích chung mà gạt đi
niềm riêng tư, để lại sau lưng những gì yêu quý như “ruộng nương”, “gian nhà”,
“giếng nước gốc đa” – những hình ảnh đại diện cho quê hương.
⇒ Dù tư thế ra đi dứt khoát, “mặc kệ” nhưng họ vẫn nhớ quê hương da diết.
- So sánh mở rộng với bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi:
“Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”.
- Cùng chia sẻ những gian lao, thiếu thốn trên chiến trường:
● Bệnh sốt rét rừng: “biết từng cơn ớn lạnh”, “run người”, “trán ướt mồ hôi”.
● Khó khăn thiếu thốn: áo rách vai, quần vá, không giày, chịu đói rét. - Nghệ thuật:
● Liệt kê, tả thực: cụ thể hóa những vất vả trong cuộc sống của người lính
những năm kháng chiến chống Pháp, làm nổi bật lên sự sẻ chia, đoàn kết
“thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.
● Tiếp tục sử dụng thủ pháp sóng đôi: “anh” – “tôi” tạo sự song hành, gắn
bó giữa những người đồng đội.
- Liên hệ mở rộng với tình đồng đội trong truyện “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê.
c. Tình đồng chí và khát vọng hòa bình
Ba câu cuối kết thúc bài thơ bằng hình ảnh hai người đồng đội đứng gác trong đêm:
- Cảnh hoang vắng “rừng hoang sương muối” làm nổi bật hình ảnh “đứng cạnh bên
nhau chờ giặc tới”: hiên ngang, chủ động, “chờ” không sợ hãi.
- Hình ảnh đặc biệt: “Đầu súng trăng treo”
● Gợi tả: hai người lính đứng gác dưới ánh trăng, trăng lặn xuống thấp dần
khi trời gần sáng và như treo trên đầu súng.
● Đặt hai biểu tượng đối lập trong cùng một câu thơ: “súng” tượng trưng
cho chiến tranh, hiện thực; “trăng” tượng trưng cho vẻ đẹp hòa bình, lãng mạn.
⇒ Tạo nên một biểu tượng đẹp về cuộc đời người lính: chiến sĩ mà thi sĩ, thấu hiểu
hiện thực nhưng vẫn không ngừng hi vọng vào tương lai tươi đẹp.
- Nghệ thuật: sử dụng hình ảnh tả thực, cặp hình ảnh đối lập. 3, Kết bài
● Kết luận về tác phẩm: miêu tả chân thực những gian khổ thời chiến tranh,
ca ngợi tình cảm gắn bó, sẻ chia giữa những người lính, thể hiện khát vọng hòa bình.
● Liên hệ thực tiễn: tình đồng chí, tương thân tương ái đến nay vẫn còn
nguyên giá trị, những người còn sống luôn trăn trở, nhớ thương đồng đội
đã hi sinh ⇒ thế hệ trẻ cần luôn tôn trọng, biết ơn những người lính, phát
huy tinh thần tương trợ lẫn nhau trong cuộc sống.
● Mở bài Đồng Chí Chính Hữu
● Kết bài Đồng Chí Chính Hữu
II. Văn mẫu phân tích bài thơ đồng chí
Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu mẫu 1
"Đồng chí!" - Ôi tiếng gọi sao mà thân thương tha thiết quá. Nó biểu hiện thật đầy đủ
tình đồng đội của anh chiến sĩ cụ Hồ từ những năm 1948 của thời kì kháng Pháp.
Cảm nhận được những tình cảm vừa thân quen vừa mới lạ trong cuộc sống chiến
đấu ấy, Chính Hữu, một nhà thơ – người chiến sĩ cách mạng đã xúc động viết bài
thơ Đồng chí. Với những lời thơ dạt dào tình cảm, bài thơ đã để lại bao cảm xúc trong lòng người đọc.
Cả bài thơ thể hiện rõ tình đồng đội keo sơn gắn bó giữa những người chiến sĩ quân
đội nhân dân trong cuộc sống chiến đấu gian khổ của thời kì kháng chiến chín năm.
Họ là những người xuất thân từ nhân dân lao động chỉ quen việc “cuốc cày" ở
những vùng quê hẻo lánh khác nhau, vì có chung tấm lòng yêu nước, họ đã gặp
nhau, từ xa lạ bỗng trở thành thân quen. Chính Hữu đã kể về những con người ấy
bằng những lời thơ thật cảm động:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Ở đây, tác giả đã phát hiện được hiện tượng tình cảm kì lạ ở những người chiến sĩ.
Đó là sự phát triển của tình cảm cách mạng trong quân đội ta. Từ những con người
rất “xa lạ" trong đời sống lại trở thành những đồng chí rất thân thương trong chiến
đấu. Nhà thơ đã chọn lựa những chi tiết, những hình ảnh thơ rất chân thực để gợi tả
về cuộc sống của người chiến sĩ. Họ đều xuất thân từ những vùng đất khô cằn,
nghèo khó “nước mặn đồng chua", “đất cày lên sỏi đá". Và họ đã gặp nhau từ “xa
lạ". Thật là thú vị, nhà thơ không nói hai người xa lạ mà là “đôi người xa lạ". “Đôi" là
chỉ hai đối tượng cùng đi với nhau. “Đôi người xa lạ" nghĩa là hai người cùng đi với
nhau mà lại là xa lạ. Vì thế ý thơ được nhấn mạnh thêm. Hình ảnh những phương
trời xa cách, những con người “chẳng hẹn quen nhau" nói lên cả một sự xa lạ trong
không gian và tình cảm. Nhưng khi tham gia kháng chiến, những con người xa lạ ấy
đã cùng nhau chiến đấu, cùng chịu đựng gian khổ, chung lưng đấu cật bên nhau. Vì
thế, họ trở thành thân nhau, hiểu nhau, thương nhau và gọi nhau là “đồng chí".
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí!
Câu thơ vừa tả thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng “súng bên súng, đầu sát bên
đầu". Tác giả đã tả thực những giờ phút bên nhau cùng chiến đấu đồng thời hình
ảnh ấy còn tượng trưng cho sự nghiệp chiến đấu chung, lí tưởng cách mạng chung
của quân đội ta. Câu thơ giúp ta hiểu thêm “đôi người xa lạ" ấy đã nảy nở một tình
cảm mới khi họ cùng chiến đấu cùng một lý tưởng lớn lao. Tình cảm ấy thật thân
thương, thật tha thiết. Giọng thơ đang tuôn liền mạch nhẹ nhàng bỗng bị ngắt nhịp
đột ngột. Từ “đồng chí” lại được tách thành một câu riêng, một đoạn riêng. Với cấu
trúc thơ khác thường ấy, tác giả làm nổi bật ý thơ. Nó như một nốt nhấn của bản
nhạc, bật lên âm hưởng gây xúc động lòng người. Câu thơ chỉ có một từ: “Đồng chí"
– một tiếng nói thiêng liêng. “Đồng chí", một sự cảm kích về nhiều đổi thay kì lạ
trong quan hệ tình cảm. Thế là thành “đồng chí!".
Tình cảm ấy lại được biểu hiện cụ thể trong cuộc sống chiến đấu. Những lúc kề cận
bên nhau, họ lại kể nhau nghe chuyện quê nhà, chuyện “ruộng nương gửi bạn thân
cày", “gian nhà không mặc kệ gió lung lay", cả chuyện “giếng nước, gốc đa nhớ
người ra lính…". Từ những lời tâm tình ấy cho ta hiểu rằng các anh chiến sĩ mỗi
người đều có một quê hương, có những kỉ niệm thân thiết gắn bó với quê nhà và khi
ra đi hình bóng quê hương đều mang theo trong lòng họ. Các anh lại cùng chia ngọt
sẻ bùi, cùng chịu gian khổ bên nhau. Trong gian lao vất vả họ lại tìm được niềm vui,
niềm hạnh phúc trong mối tình đồng chí. Làm sao các anh có thể quên được những
lúc cùng nhau chịu đựng gian khổ “từng cơn ớn lạnh", những lúc “sốt run người
vầng trán ướt mồ hôi". Cuộc sống bộ đội nghèo, vất vả nhưng không thiếu niềm vui.
Dẫu “áo anh" có “rách vai", “quần tôi' có “vài mảnh vá”, dẫu trời có “buốt giá" thì
miệng vẫn cười tươi. Bằng những chi tiết rất thực, nhà thơ đã miêu tả rõ nét cuộc
sống chiến đấu gian khổ và sự gắn bó của tình đồng đội keo sơn. Tình cảm chân
thành tha thiết ấy không diễn tả bằng lời mà lại thể hiện bằng cách “nắm lấy bàn
tay", “thương nhau tay nắm lấy bàn tay". Thật giản dị và cảm động. Không phải là
những vật chất của cải, không phải là những lời hoa mĩ phô trương. Những người
chiến sĩ biểu hiện tình đồng chí bằng cách “tay nắm lấy bàn tay". Chính đôi tay nắm
chặt ấy đã nói lên tất cả những ý nghĩa thiêng liêng, cao đẹp của mối tình đồng chí.
Đoạn thơ với nhiều nét tả thực mà không trần trụi, vẫn gợi cảm nhờ hình ảnh “anh
với tôi" gắn bó dọc bài thơ và hình ảnh cảm động “thương nhau" nhưng không biết
làm sao, chỉ biết lặng lẽ “tay nắm lấy bàn tay". Chỉ có những con người cùng chung
ý chí và lí tưởng cao cả mới có những biểu hiện tình cảm đáng quý như thế.
Mối tình đồng chí lại được lắng đọng bằng hình ảnh đẹp rực sáng ở khổ cuối bài thơ:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Câu thơ vừa tả thực vừa mang nét tượng trưng. Tác giả tả cảnh những người lính
canh giặc trong đêm trăng đầy sương muối. Súng hướng mũi lên trời, có ánh trăng
lơ lửng giữa trời như treo trên đầu ngọn súng. Đồng thời hình ảnh “Đầu súng trăng
treo" còn mang ý nghĩa tượng trưng. Đó là sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và
lãng mạn, vừa thực vừa mơ, vừa xa lại vừa gần, vừa mang tính chiến đấu lại vừa
mang tính trữ tình. Vừa chiến sĩ vừa thi sĩ. Đây là hình ảnh đẹp tượng trưng cho tình
cảm trong sáng của người chiến sĩ. Mối tình đồng chí đang nảy nở, vươn cao, tỏa
sáng từ cuộc đời chiến đấu. Hình ảnh thơ thật độc đáo, gây xúc động bất ngờ, thú vị
cho người đọc. Nó nói lên đầy đủ ý nghĩa cao đẹp của mục đích lí tưởng chiến đấu
và mối tình đồng chí thiêng liêng của anh bộ đội Cụ Hồ.
Toàn bộ bài thơ bằng ngôn ngữ cô đọng, hình ảnh chân thực gợi tả có sức khái quát
cao, Chính Hữu đã cho ta thấy rõ quá trình phát triển của một tình cảm cách mạng
trong quân đội. Ở đây, nhà thơ đã xây dựng hình ảnh thơ từ những chi tiết thực của
cuộc sống đời thường ở những người chiến sĩ, không phô trương, không lãng mạn
hóa, thi vị hóa. Và chính những nét thực đó tạo nên sự thành công cho tác phẩm.
Bài thơ đánh dấu một bước ngoặt mới trong phương pháp sáng tác về cách xây
dựng hình tượng người chiến sĩ trong giai đoạn chống Pháp.
Đồng chí! Đọc xong bài thơ trong mỗi chúng ta đều lắng lại những cảm xúc dạt dào.
Chúng ta đã cảm nhận được mối tình đồng chí đậm đà ấy qua những lời thơ nhẹ
nhàng tha thiết như bài hát tâm tình của Chính Hữu. Cuộc kháng chiến chống Pháp
đã thắng lợi vẻ vang, trang sử vàng đã sang qua bao nhiêu giai đoạn mới, thế
nhưng mỗi lần đọc lại bài thơ Đồng chí ta như thấy rõ hình ảnh của anh bộ đội cụ
Hồ hiện lên sáng rực thật cao đẹp, thật thân thương trong những lời thơ của Chính Hữu.
Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu mẫu 2
Hình ảnh người lính từ lâu đã đi vào thơ ca với nguồn cảm hứng sáng tác bất tận
cho bao nhà thơ, nhà văn. Một trong số đó chúng ta phải kể đến chính là nhà thơ
Chính Hữu cùng bài thơ Đồng chí. Bài thơ khắc họa tình cảm đồng chí, đồng đội
gắn bó keo sơn vô cùng tốt đẹp.
Mở đầu bài thơ là hoàn cảnh quen nhau của tình bạn tri kỷ:
Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ Đồng chí!
Người lính trong thơ Chính Hữu là những người nông dân nghèo, có chung xuất
thân từ nơi: “nước mặn đồng chua, đất cày lên sỏi đá” vô cùng chất phác, mộc mạc.
Chính chiến tranh đã đưa những người nông dân này thành chiến sĩ chiến đấu cùng
nhau, thân quen nhau và trở thành đôi bạn thân thiết. Bởi ở họ đều có chung lòng
yêu nước, lòng căm thù giặc và ý chí chiến đấu để thoát khỏi sự nô lệ của thực dân
Pháp, cùng nhau tự nguyện vào quân đội để rồi quen nhau, cùng kề vai sát cánh,
song hành cùng nhau trên khắp những ngả đường chiến đấu và trong cuộc sống
thường nhật ở chiến trường, chia sẻ với nhau những điều nhỏ nhặt nhất như chiếc
chăn để cùng nhau trở thành người bạn tri kỉ của nhau. “Đồng chí!” hai tiếng đồng
chí thiêng liêng vang lên để khẳng định cho tình bạn keo sơn của hai người chiến sĩ
từ sự thấu hiểu đến việc cùng chung lí tưởng. Hình ảnh người chiến sĩ hiện lên chất
phác, mộc mạc nhưng giàu tình cảm khiến người đọc thêm thương mến, yêu thương.
Những người lính này ra trận bỏ lại phía sau lưng là quê hương, là cuộc sống thường nhật:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.
Giọng thủ thỉ tâm tình cùng những hình ảnh giản dị quen thuộc cho thấy những
người lính vốn là những người nông dân quen chân lấm tay bùn, gắn bó với căn nhà
thửa ruộng. Nhưng khi tổ quốc cần, các anh sẵn sàng từ bỏ những gì thân thuộc
nhất để ra đi làm nhiệm vụ. Từ "mặc kệ" cho thấy tư thế ra đi dứt khoát của người
lính. Nhưng sâu xa trong lòng, họ vẫn da diết nhớ quê hương. Ở ngoài mặt trận, họ
vẫn hình dung thấy gian nhà không đang lung lay trong cơn gió nơi quê nhà xa xôi.
Khi người chiến sĩ quay lại thực tại chiến đấu cũng là lúc họ phải đối diện với những
cơn sốt rét rừng (từng cơn ớn lạnh, sốt run người, trán đẫm mồ hôi) vô cùng hiểm
ác trong cái hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt, gian khổ.
Không chỉ dừng lại ở những cơn sốt rét rừng mà người lính còn phải đối mặt với
nhiều khó khăn, thiếu thốn khác: Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!
Chiến đấu ở vùng rừng núi Tây Bắc,những người lính đã chịu rất nhiều khó khăn và
gian khổ. Khi mà bệnh tật, thiếu thốn thuốc men, lương thực vô cùng trầm trọng.
Người chiến sĩ không có lấy một manh áo lành lặn để mặc, chiếc quần cũng là từ
chắp vá từ mảnh vải bỏ đi mà thành thế mà vẫn phải chống chọi với cái rét. Sự lạc
quan của người lính được thể hiện ở nụ cười tươi rói giữa mùa đông buốt giá. Giữa
nơi rừng núi hoang vu đầy gai góc, chưa kể đến bom đạn nguy hiểm, người chiến sĩ
không có lấy một đôi giày để đi bảo vệ đôi chân của mình, chính vì hoàn cảnh khó
khăn thế mà họ hiểu nhau hơn, họ trao nhau cái nắm tay thay cho tình thương, sự đồng cảm, thấu hiểu.
Khép lại bài thơ là bức tranh nơi núi rừng hoang sơ nơi người lính can đảm đang
canh giữ, sẵn sàng chiến đấu:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo.
Không gian của bức tranh hiện lên là buổi ban đêm trong nơi rừng hoang sương
muốn và hình ảnh người lính đứng canh gác cạnh nhau giữa trời đất để chờ giặc
tới. Hình ảnh: “Đầu súng trăng treo” gợi ra nhiều liên tưởng thú vị, mũi súng ngửa
lên trời giống như chiếc giá đỡ ánh trăng tròn, tạo cảm giác thi vị, làm cho người đọc
hiểu thêm về khung cảnh chiến đấu. Nổi lên trên cảnh rừng đêm hoang vắng, lạnh
lẽo là hình ảnh người lính "đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới". Đó là hình ảnh cụ thể
của tình đồng chí sát cánh bên nhau trong chiến đấu. Họ đã đứng cạnh bên nhau
giữa cái giá rét của rừng đêm, giữa cái căng thẳng của những giây phút "chờ giặc
tới". Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ, giúp họ vượt lên tất cả.
Đồng chí là bài thơ tiêu biểu trong phong trào chống Pháp ca ngợi sự dũng cảm
cũng như tình đồng chí khăng khít của những người chiến sĩ nơi chiến trường. Bài
thơ đã mang đến cho bạn đọc những sự rung cảm nhất định và khơi gợi lòng yêu
nước thông qua ngòi bút tài hoa của nhà thơ Chính Hữu.
Phân tích Đồng chí mẫu 3
Kho tàng văn học Việt Nam đa dạng về thể loại và chủ đề sáng tác với nhiều tác giả,
nhiều thời kì khác nhau. Chính Hữu là một nhà thơ có những bài thơ đặc sắc, cảm
xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, hàm súc. Tiêu biểu trong những sáng
tác của ông chính là bài thơ Đồng chí.
Mở đầu bài thơ, người lính giới thiệu về quê hương và xuất thân của mình:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí!
Những người lính ra đi từ những miền quê chân chất, mộc mạc “nước mặn đồng
chua, đất cày lên sỏi đá”, họ cùng có chung cảnh ngộ nghèo khó, là những người
nông dân chất phác, mộc mạc “chẳng hẹn quen nhau”. Chiến tranh đã đưa những
người nông dân này thành chiến sĩ chiến đấu cùng nhau, thân quen nhau và trở
thành đôi bạn thân thiết. Họ kề vai sát cánh, song hành cùng nhau trên khắp những
ngả đường chiến đấu. Họ còn bên nhau trong cuộc sống thường nhật ở chiến
trường, chia sẻ với nhau những điều nhỏ nhặt nhất và trở thành người bạn tri kỉ của
nhau. Hai tiếng “Đồng chí!” thiêng liêng vang lên để khẳng định cho tình bạn keo
sơn của hai người chiến sĩ từ sự thấu hiểu đến việc cùng chung lí tưởng. Đoạn thơ
khắc họa thành công hình ảnh người chiến sĩ chất phác, mộc mạc nhưng giàu tình
cảm khiến người đọc thêm thương mến, yêu thương.
Ở đoạn thơ thứ hai, người chiến sĩ nói lên sự thấu hiểu của mình với người đồng chí:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người, vầng trán đẫm mồ hôi.
Người chiến sĩ ra chiến trường đành ngậm ngùi gửi lại ruộng nương cho người bạn
ở quê hương cày bừa, chăm sóc hộ. Gian nhà để trống mặc kệ gió có lay động,
giếng nước gốc đa trống trải vì thiếu đi bóng dáng con người. Cuộc sống của họ còn
nhiều khó khăn, phải vất vả mưu sinh nhưng họ vẫn để lại nó ở phía sau để chiến
đấu dành độc lập cho tổ quốc. Khi người chiến sĩ quay lại thực tại chiến đấu cũng là
lúc họ phải đối diện với những cơn sốt rét rừng (từng cơn ớn lạnh, sốt run người,
trán đẫm mồ hôi) vô cùng hiểm ác trong cái hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt, gian khổ.
Hoàn cảnh chiến đấu của người lính ở chiến trường được khắc họa rõ nét: Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Thực tế ở chiến trường người chiến sĩ không có lấy một manh áo lành lặn để mặc,
chiếc quần cũng là từ chắp vá từ mảnh vải bỏ đi mà thành thế mà vẫn phải chống
chọi với cái rét. Tuy nhiên, sự lạc quan của họ được thể hiện rõ nét ở nụ cười tươi
rói giữa mùa đông buốt giá. Giữa nơi rừng núi hoang vu đầy gai góc, chưa kể đến
bom đạn nguy hiểm, người chiến sĩ không có lấy một đôi giày để đi bảo vệ đôi chân
của mình, chính vì hoàn cảnh khó khăn thế mà họ hiểu nhau hơn, họ trao nhau cái
nắm tay thay cho tình thương, sự đồng cảm, thấu hiểu.
Tình cảm ấy được thể hiện rõ nét trong đêm canh gác của đôi “tri kỉ”:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo.
Chính Hữu mở ra cho bạn đọc một không gian ban đêm khuya khoắt giữa nơi rừng
hoang sương muốn với hình ảnh người lính đứng canh gác cạnh nhau giữa trời đất
để chờ giặc tới. “Đầu súng trăng treo” hình ảnh liên tưởng thú vị, mũi súng ngửa lên
trời giống như chiếc giá đỡ ánh trăng tròn, tạo cảm giác thi vị, làm cho người đọc
hiểu thêm về khung cảnh chiến đấu. Hình ảnh đó còn tượng trưng cho thế nước ta
lúc bấy giờ “ngàn cân treo sợi tóc” với gánh nặng là quân giặc nhưng ta vẫn hiên ngang giữa trời đất.
Bài thơ đã khép lại nhưng hình ảnh người lính với vẻ đẹp giản dị, mộc mạc nhưng
tinh thần chiến đấu kiên cường trong điều kiện vật chất thiếu thốn, gian khổ đã trở
thành bức tượng đài về lòng quả cảm. Nhiều năm tháng qua đi nhưng Đồng chí vẫn
giữ nguyên vẹn giá trị tốt đẹp ban đầu và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.
Phân tích Đồng chí mẫu 4
Đồng chí là bài thơ tiêu biểu viết về người lính trong thời kì đầu của kháng chiến
chống Pháp. Tình đồng chí trong bài thơ là tình cảm rất chân thật, giản dị. Bài thơ
không chỉ thể hiện cơ sở xuất phát của tình đồng chí mà còn thể hiện tình đồng chí
đó trong những gian khổ, thiếu thốn nơi chiến trường, trong chiến đấu khó khăn.
Cơ sở của tình đồng chí xuất phát từ những con người cùng chí hướng, cùng đích
là cầm súng đứng lên bảo vệ độc lập của đất nước. Không chỉ có vậy, tình đồng chí
của những người lính còn xuất phát từ những người cùng cánh ngộ, những người cùng tầng lớp nhân dân:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Tuy mỗi người ở một nơi khác nhau, người đến từ miền ven biển, đất chiêm trũng,
người lại đến từ vùng trung du đất cằn nhưng họ đều sát cánh bên nhau, cùng đứng
trong hàng ngũ chiến sĩ cách mạng. Tình đồng chí của họ còn có cơ sở từ tình bạn
gắn bó, cùng nhau chia sẻ.
Chỉ đơn giản là đêm rét chung chăn thôi nhưng cũng đủ để trở thành tri kỉ. Tình
đồng chí của những chiến sĩ cách mạng là tình cảm gắn bó bền chặt bởi cơ sở của
nó là tình bạn của những người cùng chí hướng, cùng hoàn cảnh xuất thân, cùng giai cấp, cùng hàng ngũ.
Tình đồng chí của những người chiến sĩ cách mạng được thể hiện trong những gian
khổ, thiếu thốn nơi chiến trường. Họ phải trải qua những cơn sốt rét rừng rất khắc
nghiệt, rét đến run người nhưng trán vẫn đổ mồ hôi. Họ phải chia sẻ nỗi nhớ nhà,
nỗi nhớ quê hương. Mỗi người lính khi ra trận đều có một điểm tựa, một nơi để
hướng về, đó là nỗi nhớ nhà, nhớ người mẹ, người vợ nơi quê nhà.
Hình ảnh giếng nước gốc đa là hình ảnh gần gũi, quen thuộc của quê hương, của
những người thân nơi quê nhà. Những người lính thấu hiểu hoàn cảnh của nhau và
chia sẻ với nhau nỗi nhớ nhà. Những người lính còn chia sẻ với nhau cả những
chiếc áo vá, chiếc quần rách. Những thiếu thốn nơi chiến trường gian khổ như cái
áo, cái quần, đôi giày không làm vơi đi ý chí chiến đấu của người lính.
Họ chấp nhận gian khổ một cách vui vẻ và dường như, hình ảnh chân không giày
chỉ gợi lên cho chúng ta hình ảnh của những người nông dân chân chất chứ không
nhấn mạnh lắm sự thiếu thốn nơi chiến trường. Tình đồng chí của những người lính
chỉ đơn giản là cử chỉ tay nắm lấy bàn tay, nhưng chỉ hành động nhỏ bé ấy thôi cũng
đủ quý giá hơn mọi lời nói.
Cái siết chặt tay ấy là sự chia sẻ, xóa đi mọi gian khổ' vất vả và mang bao ý nghĩa.
Cái siết tay ấy cũng có thể so sánh với cái bắt tay qua ô cửa kính đã vỡ của những
người chiến sĩ lái xe trong thơ Phạm Tiến Duật, cái siết tay truyền thêm, tiếp thêm
nghị lực. Tình đồng chí, đồng đội của những người lính không chỉ thể hiện trong
những khó khăn, thiếu thốn nơi chiến trường mà còn thể hiện trong cuộc sống chiến đấu gian khổ:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Ba câu thơ cuối của bài thơ vừa thể hiện tình đồng chí của người lính trong chiến
đấu vừa gợi lên hình ảnh người lính rất đẹp, rất lãng mạn. Trong đêm sương muối
rét buốt, những người lính phải đứng gác nơi rừng hoang. Trong thời tiết, hoàn cảnh
khắc nghiệt, khó khăn như vậy, những người lính vẫn luôn sẵn sàng chiến đấu, sẵn
sàng chờ giặc tới, Trong cuộc kháng chiến gian khổ ấy, những người lính lại sát
cánh bên nhau, đứng cạnh bên nhau sẵn sàng chiến đấu, không quản ngại khó khăn gian khổ.
Hình ảnh những người lính hiện lên rất chân thực, rất đẹp. Hình ảnh đầu súng trăng
treo vừa là hình ảnh tả thực lại vừa mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Đêm đứng
gác về khuya, trăng xuống thấp, những người lính lại đeo súng trên vai nên ta có
cảm giác như trăng treo nơi đầu súng.
Nhưng cây súng cũng là biểu tượng cho lực lượng chiến đấu bảo vệ hòa bình, trăng
là biểu tượng của hòa bình. Hình ảnh đầu súng trăng treo là hình ảnh thơ đẹp và
lãng mạn, thể hiện hình ảnh của người lính cách mạng, và qua đó cũng chính là thể
hiện tình đồng chí, đồng đội của người lính cách mạng trong chiến đấu gian khổ.
Bằng ngôn ngữ thơ rất giản dị, chân thực, Chính Hữu đã thể hiện chân thực và sinh
động tình đồng chí, đồng đội của những người lính cách mạng qua những tình
huống rất bình dị. Tình đồng chí của những người lính được thể hiện trong bài thơ
rất sâu sắc, thiêng liêng, là tình cảm đẹp của những người lính cách mạng, tạo nên
vẻ đẹp và sức mạnh tinh thần của người lính cách mạng.
Phân tích bài đồng chí mẫu 5
Chính Hữu quê ở Hà Tĩnh là nhà thơ chiến sĩ viết về người lính và hai cuộc chiến
tranh, đặc biệt tình cảm cao đẹp của người lính như tình đồng chí, đồng đội và tình
yêu quê hương. Tác phẩm ''Đồng Chí'' được viết vào năm 1948, in trong tập ''Đầu
súng trăng treo'', là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất viết về người lính cách
mạng của văn học thời kháng chiến chống Pháp. Ở bảy câu thơ đầu, tác giả đã cho
chúng ta thấy cơ sở để hình thành nên tình đồng chí đồng đội của những người lính cách mạng :
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí !''
Đầu tiên tác giả cho ta thấy tình đồng chí của họ bắt nguồn từ sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân :
''Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá''
Hai câu thơ có kết cấu sóng đôi, đối ứng với nhau :''quê hương anh-làng tôi'', ''nước
mặn đồng chua-đất cày lên sỏi đá'', cách giới thiệu thật bình dị, chân thật về xuất
thân của hai người lính họ là những người nông dân nghèo. Thành ngữ : ''nước
mặn đồng chua'',''đất cày lên sỏi đá'' gợi ra sự nghèo khó của những vùng ven biển
bị nhiễm mặn, đất khô cằn không trồng trọt và khó canh tác được. Qua đó, ta có thể
thấy đất nước đang trong cảnh nô lệ, chiến tranh triền miên dẫn đến cuộc sống của
những người nông dân rất nghèo khổ, khó khăn nhiều thứ. Từ hai miền đất xa lạ,
''đôi người xa lạ'' nhưng cùng giống nhau ở cái ''nghèo'':
''Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.''
Từ ''đôi'' đã gợi lên một sự thân thiết, chung nhau nhưng chưa thể bộc bạch đấy
thôi. Nói là ''chẳng hẹn''nhưng thật sự họ đã có hẹn với nhau. Bởi anh với tôi đều có
chung lòng yêu nước, lòng căm thù giặc và ý chí chiến đấu để thoát khỏi sự nô lệ
của thực dân Pháp, cùng nhau tự nguyện vào quân đội để rồi ''quen nhau''. Đó
chẳng phải là đã có hẹn hay sao? Một cái hẹn không lời nhưng mà mang bao ý
nghĩa cao cả từ trong sâu thẳm tâm hồn của những chiến sĩ.
Tình đồng chí còn được nảy nở từ sự cùng chung nhiệm vụ, cùng chung lý tưởng
sát cánh bên nhau trong hàng ngũ chiến đấu :
''Súng bên súng, đầu sát bên đầu''
Câu thơ là bức tranh tả thực tư thế sẵn sàng, sát cánh bên nhau của người lính khi
thi hành nhiệm vụ. Vẫn là hình ảnh sóng đôi, nhịp nhàng trong cấu trúc ''Súng bên
súng, đầu sát bên đầu''.''Súng'' biểu tượng cho sự chiến đấu, ''đầu'' biểu tượng cho lí
trí, suy nghĩ của người lính. Phép điệp từ (súng, đầu, bên) tạo âm điệu khỏe, chắc,
nhấn mạnh sự gắn kết, cùng chung nhiệm vụ, cùng chung chí hướng và lí tưởng. Và
tình đồng chí, đồng đội càng trở nên bền chặt và nảy nở hơn khi họ cùng nhau chia
sẽ mọi khó khăn, vất vả ở cuộc sống chiến trường :
''Đêm rét chung chăn thành đôi chi kỷ''
Ở núi rừng Việt Bắc thì những cái lạnh giá buốt làm cho những chiến sĩ của chúng
ta rất lạnh, đôi khi họ còn bị sốt rất cao do phải sống trong một môi trường khắc
nghiệt như vậy. Nhưng vượt lên trên tất cả những khó khăn, thiếu thốn, khắc nghiệt
của thời tiết thì họ đã chia sẽ chăn cho nhau để giữ ấm. Chăn không đủ thì những
đêm rét buốt họ đắp chung nhau một chiếc chăn để giữ ấm. Chính cái ''chung chăn''
ấy đã trở thành niềm vui, thắt chặt tình cảm của những người đồng đội để rồi họ trở
thành ''đôi tri kỷ''. ''Tri kỷ'' thân thiết, gắn bó, hiểu tâm tư tình cảm của nhau. Mà là
''đôi tri kỷ'' thì lại càng gắn bó, thân thiết với nhau hơn. Chính vì thế câu thơ nói đến
sự khắc nghiệt của thời tiết, của chiến tranh nhưng sao ta vẫn cảm nhận được cái
ấm của tình đồng chí, bởi cái rét đã tạo nên cái tình của hai anh lính chung chăn.
Câu thơ cuối là một câu thơ đặc biệt chỉ với hai tiếng ''Đồng chí'' khi nghe ta cảm
nhận được sự sâu lắng chỉ với hai chữ ''Đồng chí'' và dấu chấm cảm, tạo một nét
nhấn như một điểm tựa, điểm chốt, như đòn gánh, gánh hai đầu là những câu thơ
đồ sộ. Nó vang lên như một phát hiện, một lời khẳng định, một tiếng gọi trầm xúc
động từ trong tim, lắng đọng trong lòng người về hai tiếng mới mẻ, thiêng liêng ấy.
Câu thơ như một bản lề gắn kết hai phần bài thơ làm nổi rõ một kết luận : cùng hoàn
cảnh xuất thân, cùng lí tưởng thì trở thành đồng chí của nhau.
Tình đồng chí của những người lính cách mạng dựa trên cơ sở cùng chung cảnh
ngộ và lí tưởng chiến đấu được thể hiện thật tự nhiên, bình dị mà sâu sắc trong mọi
hoàn cảnh, nó góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh và vẻ đẹp tinh thần của
những người lính các mạng,
Bài thơ ''Đồng chí'' của Chính Hữu thể hiện hình tượng người lính cách mạng và sự
gắn bó keo sơn của họ thông qua những chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, chân
thực, cô đọng, giàu sức biểu cảm.
Bài thơ mở ra những suy nghĩ mới trong lòng người đọc. Bài thơ đã làm sống lại
một thời khổ cực của cha anh ta, làm sống lại chiến tranh ác liệt. Bài thơ khơi gợi lại
những kỉ niệm đẹp, những tình cảm tha thiết gắn bó yêu thương mà chỉ có những
người đã từng là lính mới có thể hiểu và cảm nhận hết được.
Phân tích bài đồng chí mẫu 6
Văn chương giống như một cây bút đa màu, nó vẽ lên bức tranh cuộc sống bằng
những gam màu hiện thực. Văn chương không bao giờ tìm đến những chốn xa hoa
mĩ lệ để làm mãn nhãn người đọc, nó tiếp cận hiện thực và tiếp nhận thứ tình cảm
chân thật không giả dối. Người nghệ sĩ đã dùng cả trái tim mình để đưa bạn đọc trở
lại với đời thực để cùng lắng đọng, cùng sẻ chia. Phân tích bài thơ Đồng Chí, Chính
Hữu đã dẫn bạn đọc vào bức tranh hiện thực nơi núi rừng biên giới nhưng thấm
đẫm tình đồng chí đồng đội bằng thứ văn giản dị, mộc mạc.
Khi nhắc đến Chính Hữu, ta thường nhắc đến một nhà thơ chiến sĩ trưởng thành
trong kháng chiến chống Pháp.Tác phẩm của ông thường viết về chiến tranh và
hình ảnh người lính với những ngôn từ hàm súc, giản dị. Bài thơ “Đồng chí” là một
trong những tiêu biểu và thành công nhất của ông. Bài thơ được viết và in lần đầu
trên một tờ báo đại đội ở chiến khu Việt Bắc (1948), dựa trên những trải nghiệm của
Chính Hữu cùng đồng chí đồng đội trong chiến dịch Việt Bắc thu đông (1947), đánh
bại cuộc tấn công quy mô lớn của thực dân Pháp vào cơ quan đầu não của ta.
Bằng những câu thơ tự do, ngôn từ giản dị, bài thơ thể hiện ấn tượng hình ảnh
người lính thời kì đầu chống Pháp và tình đồng chí đồng đội thắm thiết, keo sơn giữa các anh.
Ngòi bút tài hoa của chính hữu cùng với những câu thơ tự do, giọng thủ thỉ tâm tình,
ngôn ngữ giản dị, một cách tự nhiên Chính hữu đã từ từ dẫn người đọc đến với cơ
sở hình thành tình đồng chí:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày sỏi đá”
Hai câu đầu với cấu trúc câu thơ song hành, thành ngữ dân gian “nước mặn đồng
chua”, cách nói sáng tạo từ tục ngữ “đất cày lên sỏi đá”, giọng thơ thủ thỉ tâm tình
gợi cảnh hai người lính đang ngồi kể cho nhau nghe về quê hương mình. Đó là
những vùng quê nghèo khó, lam lũ: một người ở miền biển “nước mặn đồng chua”,
một người ở miền trung du “đất cày lên sỏi đá”. Phải chăng chính nguồn gốc xuất
thân của các anh đã làm nên bệ phóng cho tình đồng chí?
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí!”
Đồng hoàn cảnh, chung lý tưởng đánh giặc cứu nước, các anh đã tham gia đội ngũ
bộ đội kháng chiến. Cuộc kháng chiến chống Pháp trường kì của dân tộc chính là
nơi hội tụ trái tim những người con yêu nước, đã đưa các anh từ lạ thành quen “anh
với tôi đôi người xa lạ, tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Có lẽ chung cuộc sống chiến đấu gian khổ bên chiến hào vì độc lập tự do của dân
tộc, đã từ khi nào các anh trở thành tri kỉ của nhau :
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Hai câu thơ vừa mang ý nghĩa tả thực vừa mang ý nghĩa biểu trưng. Câu thơ: “súng
bên súng, đầu sát bên đầu” đã gợi lên tư thế của người lính trong đêm phục kích.
Họ luôn sát cánh bên nhau trong mọi khó khăn, nguy hiểm. “Súng bên súng” là
chung nhiệm vụ, chung hành động; “đầu sát bên đầu” là chung chí hướng, chung lí
tưởng. Chính Hữu đã dùng các từ “sát, bên, chung” gợi sự chia sẻ của người lính, ý
hợp tâm giao. Hình ảnh “đêm rét chung chăn” là một hình ảnh đẹp, đầy ý nghĩa, đã
cho ta thấy được sự sẻ chia những thiếu thốn gian lao trong cuộc đời người lính.
Cũng sự sẻ chia ấy, Tố Hữu từng viết:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng"
Tấm chăn tuy mỏng nhưng ấm tình đồng chí, đồng đội mà người lính không thể nào
quên. Nó đã vun đắp lên tình đồng chí của các anh, cái tình ấy ngày một thắm thiết,
càng đậm sâu. Các anh giờ đây không chỉ là tri kỉ thân thiết của nhau mà đã trở
thành những người “đồng chí”.
“Đồng chí!” Là một câu đặc biệt như một bản lề khép mở: khép lại cơ sở hình thành
tình đồng chí và mở ra biểu hiện sức mạnh của tình đồng chí. Nó như nốt nhấn trên
bản đàn, buộc người đọc phải dừng lại suy nghĩ về ý nghĩa mà nó gợi ra. Đó là tiếng
gọi thiêng liêng của những người có chung chí hướng lí tưởng vang lên từ sâu thẳm
tâm hồn người lính. Tình đồng chí là đỉnh cao của tình bạn, tình người, là kết tinh
của mọi tình cảm, là cội nguồn sức mạnh để người lính vượt qua những tháng ngày
khó khăn gian khổ. Hai tiếng “đồng chí” đơn sơ mà cảm động đến nao lòng, làm
bừng sáng ý nghĩa của cả đoạn thơ và bài thơ.
Mười câu thơ tiếp theo vẫn là những câu thơ tự do, ngôn từ giản dị, mộc mạc cho
người đọc thấy được biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí.
Trải qua những khó khăn nơi chiến trường, tình đồng chí đã giúp các anh có được
sự cảm thông, thấu hiểu nỗi lòng, tình cảm của nhau .Những lúc ngồi cận kề bên
nhau, các anh đã kể cho nhau nghe chuyện quê nhà đầy bâng khuâng, thương nhớ :
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
Ba câu thơ với giọng thủ thỉ tâm tình cùng những hình ảnh giản dị quen thuộc cho
thấy những người lính vốn là những người nông dân quen chân lấm tay bùn, gắn bó
với căn nhà thửa ruộng. Nhưng khi tổ quốc cần, các anh sẵn sàng từ bỏ những gì
thân thuộc nhất để ra đi làm nhiệm vụ: ruộng nương gửi bạn thân cày, để mặc căn
nhà trống trải đang cần người sửa mái “mặc kệ” vốn chỉ thái độ thờ ơ vô tâm của
con người, nhưng trong lời thơ của Chính Hữu lại thể hiện được sự quyết tâm của
người lính khi ra đi. Các anh ra đi để lại tình yêu quê hương trong tim mình, để nâng
lên thành tình yêu Tổ quốc. Đó cũng là sự quyết tâm chung của cả dân tộc, của cả
thời đại. Tuy quyết tâm ra đi nhưng trong sâu thẳm tâm hồn các anh, hình ảnh quê
hương vẫn in đậm, vẫn hằn lên nỗi nhớ thân thương: “giếng nước gốc đa nhớ người
ra lính”. Hình ảnh hoán dụ cũng với nghệ thuật nhân hóa, Chính Hữu đã tạo ra nỗi
nhớ hai chiều: quê hương – nơi có cha mẹ, dân làng luôn nhớ và đợi chờ các anh,
các anh – những người lính luôn hướng về quê hương với bao tình cảm sâu nặng.
Có lẽ chính nỗi nhớ ấy đã tiếp thêm cho các anh sức mạnh để các anh chiến đấu
giành lại độc lập cho dân tộc.
Không chỉ thấu hiểu, cảm thông, các anh còn sẻ chia những thiếu thốn, gian lao và
niềm vui bên chiến hào chiến đấu:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Rét run người vầng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Đoạn thơ với bút pháp hiện thực, hình ảnh sóng đôi đối xứng “anh – tôi”, “áo anh –
quần tôi” tạo được sự gắn kết của những người đồng chí luôn kề vai sát cánh, đồng
cam cộng khổ bên nhau. Trong thiếu thốn, các anh đã cùng chia sẻ ốm đau bệnh tật,
cũng trải qua những cơn sốt rét rừng ghê gớm, cùng chia sẻ những thiếu thốn về
vật chất, bằng niềm lạc quan “miệng cười buốt giá”, bằng tình yêu thương gắn bó
“thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Hình ảnh “miệng cười buốt giá” gợi nụ cười lạc
quan bừng lên trong giá lạnh xua tan đi sự khắc nghiệt của chiến trường. Các anh
nắm tay nhau để chuyền cho nhau hơi ấm, để động viên nhau vượt qua khó khăn
gian khổ. Thật hiếm khi thấy cái bắt tay nào nồng hậu đến vậy!
Chính Hữu bằng những nét vẻ giản dị mộc mạc đã vẽ lên bức tranh tuyệt đẹp ngay
giữa một hoàn cảnh đầy khắc nghiệt: bức tranh người lính đứng gác giữa núi rừng
biên giới trong đêm khuya:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.”
Đêm nay cũng như bao đêm khác, các anh phục kích chờ giặc, chuẩn bị cho trận
đánh giành thắng lợi cuối cùng trong chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, một đêm đã
đi vào lịch sử khiến người lính không thể nào quên. Các anh phục kích chủ động
chờ giặc trong hoàn cảnh đầy khắc nghiệt: “rừng hoang sương muối”
“Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Các anh chờ giặc tới là chờ giây phút hồi hộp
căng thẳng khi ranh giới của sự sống cái chết rất mong manh. Từ “chờ” đã thể hiện
được tư thế chủ động của người lính trong đêm phục kích cũng là tư thế chủ động
của toàn dân ta sau chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947.
Khép lại bài thơ là hình ảnh tuyệt đẹp và thi vị, một phát hiện của người lính trong
chính đêm phục kích của mình: “đầu súng trăng treo”. Câu thơ gợi từ hiện thực: đêm
về khuya, người lính đứng gác trong tư thế chủ động, súng chĩa lên trời, trăng lên
cao, ánh trăng trên đầu súng khiến các anh tưởng như trăng đang treo trên đầu
súng của mình. Súng là biểu tượng của cuộc chiến đấu đầy gian khổ, hi sinh mà
người lính đang trải qua, trăng là biểu tượng của cuộc sống hòa bình trong tương lai
mà người lính đang hướng tới. Súng là biểu tượng của người chiến sĩ, trăng là biểu
tượng của thi sĩ. Súng – trăng là gần và xa, thực tại và mơ mộng, chất chiến đấu và
chất trữ tình, chất chiến sĩ và chất thi sĩ, hiện thực và lãng mạn cũng tồn tại, bổ sung
tô điểm cho vẻ đẹp cuộc đời người chiến sĩ. Ánh trăng dường như đang ngập tràn
khắp núi rừng chiến khu, trên bầu trời và chiếu cả trong làn sương huyền ảo. Tâm
hồn các anh, những người chiến sĩ cũng như ánh trăng ấy nồng hậu, lấp lánh ánh
sáng lạc quan, luôn hướng về một ngày mai tươi sáng.
Như vậy, “Đồng chí” giống như một lời ca nhẹ nhàng trong trẻo về tình đồng chí
đồng đội. Chính Hữu đã mang đến cho thơ ca cách mạng một giai điệu mới mẻ, một
bức tranh đẹp về người lính chống Pháp. Nhà thơ đã khéo léo vận dụng ngôn ngữ
bình dị, tự nhiên, những tục ngữ, thành ngữ dân gian làm cho lời thơ trở nên thi vị,
mộc mạc, đi thẳng đến trái tim người đọc. Bên cạnh đó với những hình ảnh biểu
trưng, những câu văn sóng đôi, ngòi bút hiện thực lãng mạn của ông đã tô điểm
thêm vẻ đẹp sáng ngời của tình đồng chí.
Văn chương nghệ thuật cần đến những con người biết nhìn hiện thực bằng trái tim.
Chính Hữu đã đem hiện thực vào trang viết của mình một cách tự nhiên nhưng đồng
thời cũng đặt vào bức tranh ấy một viên ngọc sáng thuần khiết nhất, đó là tình đồng
chí đồng đội keo sơn thắm thiết. Để rồi khi thời gian trôi qua, tác phẩm trở thành bài
ca không quên trong lòng bạn đọc.
Phân tích bài đồng chí mẫu 7
Phải chăng chất lính đã thấm dần vào chất thi ca, tạo nên dư vị tuyệt vời cho tình
Đồng chí. Nói đến thơ trước hết là nói đến cảm xúc và sự chân thành. Không có
cảm xúc, thơ sẽ không thể có sức lay động hồn người, không có sự chân thành chút
hồn của thơ cũng chìm vào quên lãng. Một chút chân thành, một chút lãng mạn, một
chút âm vang mà Chính Hữu đã gieo vào lòng người những cảm xúc khó quên. Bài
thơ Đồng chí với nhịp điệu trầm lắng mà như ấm áp tươi vui; với ngôn ngữ bình dị
dường như đã trở thành những vần thơ của niềm tin yêu, sự hi vọng, lòng cảm
thông sâu sắc của một nhà thơ cách mạng.
Phải chăng, chất lính đã thấm dần vào chất thơ, sự mộc mạc đã hòa dần vào cái thi
vị của thơ ca tạo nên những vần thơ nhẹ nhàng và đầy cảm xúc?
Trong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp gian lao, lẽ đương
nhiên, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội sẽ trở thành linh hồn của cuộc
kháng chiến, trở thành niềm tin yêu và hi vọng của cả dân tộc. Mở đầu bài thơ Đồng
chí, Chính Hữu đã nhìn nhận, đã đi sâu vào cả xuất thân của những người lính:
Quê hương anh đất mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Sinh ra ở một đất nước vốn có truyền thống nông nghiệp, họ vốn là những người
nông dân mặc áo lính theo bước chân anh hùng của những nghĩa sĩ Cần Giuộc năm
xưa. Đất nước bị kẻ thù xâm lược, Tổ quốc và nhân dân đứng dưới một tròng áp
bức. Anh và tôi, hai người bạn mới quen, đều xuất thân từ những vùng quê nghèo
khó. hai câu thơ vừa như đối nhau, vừa như song hành, thể hiện tình cảm của
những người lính. Từ những vùng quê nghèo khổ ấy, họ tạm biệt người thân, tạm
biệt xóm làng, tạm biệt những bãi mía, bờ dâu, những thảm cỏ xanh mướt màu, họ
ra đi chiến đấu để tìm lại, giành lại linh hồn cho Tổ quốc. Những khó khăn ấy dường
như không thể làm cho những người lính chùn bước:
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Họ đến với cách mạng cũng vì lí tưởng muốn dâng hiến cho đời. Sống là cho đâu
chỉ nhận riêng mình. Chung một khát vọng, chung một lí tưởng, chung một niềm tin
và khi chiến đấu, họ lại kề vai sát cánh chung một chiến hào... Dường như tình đồng
đội cũng xuất phát từ những cái chung nhỏ bé ấy. Lời thơ như nhanh hơn, nhịp thơ
dồn dập hơn, câu thơ cũng trở nên gần gũi hơn:
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí!
Một loạt từ ngữ liệt kê với nghệ thuật điệp ngữ tài tình, nhà thơ không chỉ đưa bài
thơ lên tận cùng của tình cảm mà sự ngắt nhịp đột ngột, âm điệu hơi trầm và cái âm
vang lạ lùng cũng làm cho tình đồng chí đẹp hơn, cao quý hơn. Câu thơ chỉ có hai
tiếng nhưng âm điệu lạ lùng đã tạo nên một nốt nhạc trầm ấm, thân thương trong
lòng người đọc. Trong muôn vàn nốt nhạc của tình cảm con người phải chăng tình
đồng chí là cái cung bậc cao đẹp nhất, lí tưởng nhất, nhịp thở của bài thơ như nhẹ
nhàng hơn, hơi thơ của bài thơ cũng như mảnh mai hơn. Dường như Chính Hữu đã
thổi vào linh hồn của bài thơ tình đồng chí keo sơn, gắn bó và một âm vang bất diệt
làm cho bài thơ mãi trở thành một phần đẹp nhất trong thơ Chính Hữu. Hồi ức của
những người lính, những kỉ niệm riêng tư quả là bất tận:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Cái chất nông dân thuần phác của những anh lính mới đáng quý làm sao! Đối với
những người nông dân, ruộng nương, nhà cửa những thứ quý giá nhất. Họ sống
nhờ vào đồng ruộng, họ lớn lên theo câu hát ầu ơ của bà của mẹ. Họ lớn lên trong
những gian nhà không mặc kệ gió lung lay. Tuy thế, họ vẫn yêu, yêu lắm chứ những
mảnh đất thân quen, những mái nhà thân thuộc. Nhưng họ đã vượt qua chân trời
của cái tôi bé nhỏ để đến với chân trời của tất cả. Đi theo con đường ấy là đi theo
khát vọng, đi theo tiếng gọi yêu thương của trái tim yêu nước. Bỏ lại sau lưng tất cả
những bóng hình của quê hương vẫn trở thành nỗi nhớ khôn nguôi của mỗi người
lính. Dầu rằng mặc kệ nhưng trong lòng họ vị trí của quê hương vẫn bao trùm như
muốn ôm ấp tất cả mọi kỉ niệm. Không liệt kê, cũng chẳng phải lối đảo ngữ thường
thấy trong thơ văn, nhưng hai câu thơ cũng đủ sức lay động hồn thơ, hồn người:
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
Sự nhớ mong chờ đợi của quê hương với những chàng trai ra đi tạo cho hồn quê có
sức sống mãnh liệt hơn. Nhà thơ nhân hóa giếng nước gốc đa cũng có nỗi nhớ
khôn nguôi với những người lính. Nhưng không kể những vật vô tri, tác giả còn sử
dụng nghệ thuật hoán dụ để nói lên nỗi nhớ của những người ở nhà, nỗi ngóng
trông của người mẹ đối với con, những người vợ đối với chồng và những đôi trai gái
yêu nhau... Bỏ lại nỗi nhớ, niềm thương, rời xa quê hương những người lính chiến đấu trong gian khổ:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá Chân không giày
Câu thơ chầm chậm vang lên nhưng lại đứt quãng, phải chăng sự khó khăn vất vả
thiếu thốn của những người lính đã làm cho nhịp thơ Chính Hữu sâu lắng hơn. Đất
nước ta còn nghèo, những người lính còn thiếu thốn quân trang, quân dụng, phải
đối mặt với sốt rét rừng, cái lạnh giá của màn đêm. Chỉ đôi mảnh quần vá, cái áo
rách vai, người lính vẫn vững lòng theo kháng chiến, mặc dù nụ cười ấy là nụ cười
giá buốt, lặng câm. Tình đồng đội quả thật càng trong gian khổ lại càng tỏa sáng, nó
gần gũi mà chân thực, không giả dối, cao xa. Tình cảm ấy lan tỏa trong lòng của tất
cả những người lính. Tình đồng chí:
Là hớp nước uống chung, nắm cơm bẻ nửa,
Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa,
Chia khắp anh em một mẩu tin nhà,
Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết (Nhớ - Hồng Nguyên)
Một nụ cười lạc quan, một niềm tin tất thắng, một tình cảm chân thành đã được
Chính Hữu cô lại chỉ với nụ cười - biểu tượng của người lính khi chiến đấu, trong
hòa bình cũng như khi xây dựng Tổ quốc, một nụ cười ngạo nghễ yêu thương, một
nụ cười lạc quan chiến thắng...
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Nhịp thơ đều đều 2/2/2 - 2/2/3 cô đọng tất cả nét đẹp của những người lính. Đó
cũng chính là vẻ đẹp ngời sáng trong gian khổ của người lính. Vượt lên trên tất cả,
tình đồng đội, đồng chí như được sưởi ấm bằng những trái tim người lính đầy nhiệt
huyết, vẫn đứng canh giữ cho bầu trời Việt Nam dù đêm đầy khuya, sương đã
xuống, màn đêm cũng chìm vào quên lãng. Hình ảnh người lính bỗng trở nên đẹp
hơn, thơ mộng hơn. Đứng cạnh bên nhau sẵn sàng chiến đấu. Xem vào cái chân
thực của cả bài thơ, câu thơ cuối cùng vẫn trở nên rất nên thơ:
Đầu súng trăng treo
Ánh trăng gần như gắn liền với người lính:
Chiến tranh ở rừng Trăng thành tri kỉ (Ánh trăng - Nguyễn Duy)
Một hình ảnh nên thơ, lãng mạn nhưng cũng đậm chất chân thực, trữ tình. Một sự
quyện hòa giữa không gian, thời gian, ánh trăng và người lính. Cái thực đan xen vào
cái mộng, cái dũng khí chiến đấu đan xen vào tình yêu làm cho biểu tượng người
lính không những chân thực mà còn rực rỡ đến lạ kì. Chất lính hòa vào chất thơ,
chất trữ tình hòa vào chất Cách mạng, chất thép hòa vào chất thi ca. Độ rung động
và xao xuyến của cả bài thơ có lẽ chỉ nhờ vào hình ảnh ánh trăng này. Tình đồng chí
cũng thế, lan tỏa trong không gian, xoa dịu nỗi nhớ, làm vơi đi cái giá lạnh của màn
đêm. Nụ cười chiến sĩ như cất cao tiếng hát ngợi ca tình đồng chí. Thiêng liêng biết
nhường nào, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội cụ Hồ sát cạnh vai nhau
kề vai sát cánh cùng chiến hào đấu tranh giành độc lập.
Quả thật, một bài thơ là một xúc cảm thiêng liêng, là một tình yêu rộng lớn, trong cái
lớn lao nhất của đời người. Gặp nhau trên cùng một con đường Cách mạng, tình
đồng chí như được thắt chặt hơn bằng một sợi dây yêu thương vô hình.
Bài thơ Đồng chí với ngôn ngữ chân thực, hình ảnh lãng mạn, nụ cười ngạo nghễ
của các chiến sĩ đã lay động biết bao trái tim con người. Tình đồng chí ấy có lẽ sẽ
sống mãi với quê hương, với Tổ quốc, với thế hệ hôm nay, ngày mai hay mãi mãi về sau.
Phân tích bài đồng chí mẫu 8
Bài thơ "Đồng chí" là một trong những bài thơ hay nhất về tình đồng đội, đồng chí
của các anh bộ đội cụ hồ trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Với cảm nhận tinh
tế, tác giả Chính Hữu – một nhà thơ, chiến sĩ đã xúc động mà sáng tác ra bài thơ.
Tình đồng chí đồng đội sâu nặng dù trong hoàn cảnh khó khăn và thiếu thốn được
thể hiện rõ nhất trong bảy câu thơ đầu của bài thơ.
Mở đầu đoạn thơ là tác giả đã miêu tả rõ nét nguồn gốc xuất thân của những người
lính cách mạng trong kháng chiến chống Pháp:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Họ là những người xuất thân từ nông dân, hình ảnh đó được tác giả mô tả rất chân
thực, giản dị mà đầy cao đẹp. Với giọng điệu thủ thỉ, tâm tình như đang kể chuyện,
giới thiệu về quê hương của anh và tôi. Họ đều là những người con của vùng quê
nghèo khó, nơi “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”. Dù cuộc sống nơi quê
nhà còn nhiều khó khăn, đói nghèo nhưng vì tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc mà
họ sẵn sàng tham gia chiến đấu bảo vệ đất nước. Đó là sự đồng cảnh ngộ, là niềm
đồng cảm sâu sắc giữa những người lính ngày đầu gặp mặt.
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Mỗi người một quê hương, một miền đất khác nhau, họ là những người xa lạ của
nhau nhưng họ đã về đây đứng chung hàng ngũ, có cùng lí tưởng và mục đích
chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Tình đồng chí đã nảy nở và bền chặt trong sự chan hòa,
chia sẻ những gian khổ của cuộc sống chiến trường, tác giả đã sử dụng một hình
ảnh rất cụ thể, giản dị và gợi cảm để nói lên tình gắn bó đó:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Hoàn cảnh chiến đấu nơi khu rừng Việt Bắc quá khắc nghiệt, đêm trong rừng rét
đến thấu xương. Cái chăn quá nhỏ, loay hoay mãi cũng không đủ ấm, chính từ hoàn
cảnh khó khăn, thiếu thốn ấy họ đã trở thành tri kỉ với nhau. Những vất vả, khắc
nghiệt và nguy nan đã gắn kết họ lại với nhau, khiến cho những người đồng chí trở
thành người bạn tâm giao gắn bó. Chính tác giả cũng đã từng là một người lính, nên
câu thơ đã chan chứa, tràn đầy tình cảm trìu mến sâu nặng với đồng đội.
Câu thơ cuối cùng, chỉ 2 tiếng đơn giản “Đồng chí” được đặt riêng, tuy ngắn gọn
nhưng ngân vang, thiêng liêng. Tình đồng chí không chỉ là chung chí hướng, cùng
mục đích mà hơn hết đó là tình tri kỉ đã được đúc kết qua bao gian khổ, khó khăn.
Chẳng còn sự ngăn cách giữa những người đồng chí, họ đã trở thành một khối
thống nhất, đoàn kết và gắn bó.
Chi với bảy câu thơ đầu của bài “Đồng chí”, Chính Hữu đã sử dụng những hình ảnh
chân thực, gợi tả và khái quát cao đã thể hiện được một tình đồng chí chân thực,
không phô trương nhưng lại vô cùng lãng mạn và thi vị. Tác giả đã thổi hồn vào bài
thơ tình đồng chí tri kỉ, keo sơn và gắn bó, trở thành một âm vang bất diệt trong tâm
hồn những người lính cũng như con người Việt Nam.
Phân tích bài đồng chí mẫu 9
Giới thiệu - phân tích bài thơ "Đồng chí" của Chính Hữu và nói lên cảm xúc của em.
I. Giới thiệu một vài nét về Chính Hữu, về xuất xứ và chủ thể để bài thơ "Đồng chí". 1. Tác giả
Họ tên là Trần Đình Đắc, bút danh là Chính Hữu, sinh năm 1928. quê ở huyện Can
Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Là chiến sĩ của Trung đoàn Thủ đô trong những ngày đầu toàn
quốc kháng chiến chống Pháp. 2. Xuất xứ, chủ đề
Ông là nhà thơ chiến sĩ trong suốt những năm dài khói lửa chống Pháp và chống Mỹ
xâm lược. Chính Hữu làm thơ không nhiều và hầu như chỉ viết về người lính và
chiến tranh. Thơ ông bình dị, cảm xúc dồn nén, vừa thiết tha vừa trầm hùng:
"Nhớ đêm ra đi đất trời bộc lửa
Cả Đô thành nghi ngút cháy sau lưng
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng" (Ngày về)
Bài thơ "Đồng chí là một trong những bài thơ đặc sắc viết về anh bộ đội Cụ Hồ trong
9 năm kháng chiến chống Pháp. Chính Hữu viết "Đồng chí' vào đầu mùa xuân năm
1948 tại chiến khu Việt Bắc. Bài thơ ca ngợi tình đồng chí cao cả và thiêng liêng,
gian khổ có nhau, vào sinh ra tử có nhau của những người nông dân mặc áo lính giữa thời khói lửa.
II. Phân tích bài thơ "Đồng chí" của Chính Hữu và nói lên cảm xúc của em.
"Đồng chí" là bài thơ hay nhất của Chính Hữu viết về người nông dân mặc áo lính
trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Bài thơ
được viết vào đầu xuân 1948, sau chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947. Nó đã đi qua
một hành trình nửa thế kỉ, làm sang trọng một hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu.
Hai mươi dòng thơ, với ngôn ngữ bình dị, giọng điệu thủ thỉ tâm tình, cảm xúc dồn
nén. Hình tượng thơ phát sáng, có một vài câu thơ để lại nhiều ngỡ ngàng cho bạn đọc trẻ ngày nay.
Bài thơ "Đồng chí" ca ngợi tình đồng đội gian khổ có nhau, vào sinh ra tử có nhau
của các anh bộ đội Cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi bộ đội đánh giặc
trong những năm đầu gian khổ thời 9 năm kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954).