













Preview text:
lOMoAR cPSD| 59773091 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 2
NỘI DUNG ........................................................................................................... 2
1 . Khái niệm và ý nghĩa của việc xác định cha, mẹ, con .................................. 2
1.1 . Khái niệm xác định cha, mẹ, con ............................................................ 2
1.2 . Ý nghĩa của việc xác định cha, mẹ, con ................................................. 3
2 . Các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình về xác định cha, mẹ, con
trong trường hợp sinh con tự nhiên ................................................................... 4
2.1 . Quyền được nhận cha, mẹ, con ............................................................... 4
2.2 . Căn cứ xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con tự nhiên ........ 7
2.3 . Thẩm quyền giải quyết vụ việc xác định cha, mẹ, con ......................... 11
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................15 lOMoAR cPSD| 59773091 MỞ ĐẦU
Trong đời sống xã hội, việc người phụ nữ (dù có chồng hay không) mà sinh
con, đã là cơ sở làm phát sinh mối quan hệ giữa mẹ – con, cha – con. Đó là mối
liên hệ huyết thống tự nhiên theo quy luật sinh học. Quan hệ mẹ – con, cha – con
phát sinh không phụ thuộc vào hôn nhân của cha mẹ là hợp pháp hay không hợp
pháp. Nhà nước bằng pháp luật phải quy định nguyên tắc suy đoán pháp lý xác
định cha, mẹ, con vì đó là cơ sở nhằm xác thực mối quan hệ mẹ – con, cha – con,
từ đó mới phát sinh các quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản trong quan hệ
mẹ – con, cha – con. Đồng thời, nó còn là cơ sở pháp lý để Tòa án giải quyết các
tranh chấp về việc xác minh cha, mẹ, con trong thực tế, đảm bảo quyền và lợi ích của cha, mẹ, con.
Trong bài tập này, em xin phép được tìm hiểu các quy định của pháp luật hôn
nhân và gia đình hiện hành về việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh
con tự nhiên thông qua đề tài số 05: “Đánh giá quy định về việc xác định cha, mẹ,
con trong trường hợp sinh con tự nhiên theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014”. NỘI DUNG
1 . Khái niệm và ý nghĩa của việc xác định cha, mẹ, con
1.1 . Khái niệm xác định cha, mẹ, con
Xác định cha, mẹ, con nhằm định rõ cha đẻ, mẹ đẻ, con đẻ trong quan hệ
pháp luật giữa cha, mẹ và con. Xác định cha, mẹ, con dựa trên sự kiện sinh đẻ và quan hệ huyết thống.
Dưới góc độ sinh học, với các trường hợp sinh con tự nhiên (không áp dụng
các biện pháp hỗ trợ sinh sản) thì con sinh ra phải mang huyết thống, mã gen của
cha mẹ và cha mẹ phải là người trực tiếp sinh ra người con. Dưới góc độ pháp lý: 2 lOMoAR cPSD| 59773091
- Với tư cách là một sự kiện pháp lý, xác định cha, mẹ, con là sự kiện pháp
lý làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa cha, mẹ và con về mặt huyết thống.
- Với tư cách là một quan hệ pháp luật, xác định cha, me, con là các quan hệ
xã hội phát sinh trong quá trình tìm kiếm, nhận diện tư cách cha, mẹ, con về mặt
huyết thống của các chủ thể được quy phạm pháp luật điều chỉnh.
- Với tư cách là một chế định pháp lý, xác định cha, mẹ, con là tổng hợp các
quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành, quy định về quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể, căn cứ và thủ tục pháp lý nhằm nhận diện một người cha, một người
mẹ, một người con có mối quan hệ huyết thống trực hệ.
Tóm lại, xác định cha, mẹ, con là việc nghiên cứu, tìm kiếm, nhận diện mối
quan hệ huyết thống giữa hai thế hệ kế tiếp nhau thông qua sự kiện sinh đẻ, dựa
trên quan hệ huyết thống hoặc dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định1
1.2 . Ý nghĩa của việc xác định cha, mẹ, con
Việc xác định cha, mẹ, con có ý nghĩa rất thiêng liêng trong việc xác định,
hình thành mối quan hệ trong gia đình. Quyết định của Tòa án về việc xác định
cha, mẹ, con có ý nghĩa quan trọng đối với việc thay đổi, bổ sung, cải chính hộ
tịch của các thành viên trong gia đình, trong đó thay đổi nhiều nhất là đối với hộ
tịch của người được xác định là con. Cụ thể:
Hộ tịch là những sự kiện, thông tin cơ bản xác định tình trạng nhân thân của
cá nhân từ khi sinh ra cho đến khi chết đi như dân tộc, cha, mẹ, con…
Bản án, quyết định của Tòa án về việc xác định cha, mẹ, con là sự thừa nhân,
sự nhìn nhận của chính quyền về mối quan hệ cha, mẹ, con của những người được
xác định và chấm dứt tranh chấp liên quan đến xác định cha, mẹ, con. Bản án,
quyết định của Tòa án về xác định cha, mẹ, con là cơ sở pháp lý để bổ sung, thay
đổi, cải chính hộ tịch của những người được xác định cha, mẹ, con hoặc không
phải là cha, mẹ, con và ngườ thân của họ, qua đó xác định quan hệ nhân thân giữa
1 Nguyễn Thị Lan, Xác định cha, mẹ, con trong pháp luật Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học
Luật Hà Nội, 2008, tr.20. 3 lOMoAR cPSD| 59773091
cha, mẹ, con, xác lập quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình như cấp
dưỡng, chăm sóc, nuôi dưỡng… và là một trong những cơ sở pháp lý để giải quyết
tranh chấp khác (tranh chấp về thừa kế, về cấp dưỡng…).
2 . Các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình về xác định cha,
mẹ, con trong trường hợp sinh con tự nhiên
2.1 . Quyền được nhận cha, mẹ, con
2.1.1. Quyền nhận cha, mẹ của con
Một người sinh ra không thể không có cha mẹ, đây là một lẽ tự nhiên đã hình
thành từ khi có loài người. Trên thực tế, vì nhiều hoàn cảnh khác nhau con không
thể biết rõ ai là cha, mẹ của mình (chẳng hạn trẻ bị bỏ rơi từ bé).
Điều 90 LHNGĐ 2014 quy định về quyền nhận cha, mẹ của con như sau:
“1. Con có quyền nhận cha, mẹ của mình, kể cả trong trường hợp cha, mẹ đã chết.
2 . Con đã thành niên nhận cha, không cần phải có sự đồng ý của mẹ; nhận
mẹ, không cần phải có sự đồng ý của cha.”
Vì vậy, luật đã ghi nhận đây là một quyền (quyền dân sự) tạo cơ sở pháp lý
để một người có điều kiện tìm ra cha mẹ của mình và xác lập mối quan hệ gia đình với họ.
Việc nhận cha mẹ không chỉ giới hạn khi cha mẹ còn sống mà ngay cả khi
cha mẹ đã chết thì con vẫn có quyền nhận cha mẹ. Việc con nhận cha mẹ là quyền
được luật quy định và bảo đảm thực hiện, vì vậy ngay cả khi cha hoặc mẹ không
đồng ý thì con đã thành niên vẫn có thể tự mình thực hiện mà không cần phải xin
ý kiến hay sự đồng ý của cha hoặc mẹ.
Việc nhận cha, mẹ của con là việc làm mang tính nhân văn, để xác lập mối
quan hệ gia đình, quan hệ huyết thống giữa cha mẹ và con.
2.1.2. Quyền nhận con của cha, mẹ 4 lOMoAR cPSD| 59773091
Tương tự như quyền nhận cha mẹ của con, điều luật cũng quy định quyền
nhận con của cha mẹ. Đây là quyền chính đáng của cha mẹ được luật ghi nhận
và bảo vệ. Điều 91 LHNGĐ 2014 quy định về quyền nhận con của cha, mẹ như sau:
“1. Cha, mẹ có quyền nhận con, kể cả trong trường hợp con đã chết.
2 . Trong trường hợp người đang có vợ, chồng mà nhận con thì việc nhận
con không cần phải có sự đồng ý của người kia.”
Trong thực tiễn đời sống thì có nhiều trường hợp vì những lý do khác nhau
người sinh ra con (mẹ hoặc cha) không nhận con hoặc từ bỏ con lúc mới sinh ra
hoặc con riêng của vợ hoặc chồng nhưng họ vẫn có quyền nhận lại con bất cứ lúc
nào và được luật bảo vệ quyền này.
Việc ghi nhận quyền nhận con trở thành quy định của luật là nhằm khuyến
khích xây dựng các mối quan hệ gia đình, xây dựng gia đình hành phúc. Đây là
quy định mang tính nhân văn, góp phần xây dựng và đề cao các gía trị đạo đức của gia đình Việt Nam.
2.1.3. Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp người có yêu cầu chết
Điều 92 LHNGĐ 2014 quy định về trường hợp xác định cha, mẹ, con trong
trường hợp người có yêu cầu chết như sau:
“Trong trường hợp có yêu cầu về việc xác định cha, mẹ, con mà người có
yêu cầu chết thì người thân thích của người này có quyền yêu cầu Tòa án xác định
cha, mẹ, con cho người yêu cầu đã chết.”
Điều luật quy định việc xử lý tính huống khi người đang có yêu cầu về việc
xác định cha, mẹ, con tại Tòa án và đang trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết thì người đó chết.
Đối với trường hợp này thì điều luật trao quyền cho người thân thích của
người này được (có quyền) yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ, con cho người có yêu cầu đã chết. 5 lOMoAR cPSD| 59773091
Người thân thích là người có quan hệ hôn nhân, nuôi dưỡng, người có cùng
dòng máu về trực hệ và người có họ trong phạm vi 3 đời.
Đây là quy định mang tính ngoại lệ, trao quyền yêu cầu xác định cha, mẹ,
con cho người không phải là cha mẹ con. Tuy nhiên cũng chỉ giới hạn trong phạm
vi những người thân thích của người chết mà thôi.
Quy định này thể hiện tính nhân văn, nhằm tôn trọng và bảo vệ quyền lợi
chính đáng của thành viên gia đình là cha, mẹ, con cả khi họ đã chết.
2.1.4. Người có quyền yêu cầu xác định cha, mẹ, con
Cơ sở pháp lý đầu tiên của việc xác định cha mẹ con là yêu cầu (đơn yêu
cầu) của chủ thể có quyền, lợi ích hoặc của những chủ thể khác được luật quy
định. Điều 102 LHNGĐ quy định về các chủ thể có quyền yêu cầu xác định cha, mẹ, con như sau:
“1. Cha, mẹ, con đã thành niên không bị mất năng lực hành vi dân sự có
quyền yêu cầu cơ quan đăng ký hộ tịch xác định con, cha, mẹ cho mình trong
trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 101 của Luật này. 2.
Cha, mẹ, con, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có
quyền yêu cầu Tòa án xác định con, cha, mẹ cho mình trong trường hợp được quy
định tại khoản 2 Điều 101 của Luật này. 3.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về
tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ cho con chưa thành
niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự; xác định con cho cha, mẹ
chưa thành niên hoặc mất năng lực hành vi dân sự trong các trường hợp được
quy định tại khoản 2 Điều 101 của Luật này:
a) Cha, mẹ, con, người giám hộ;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
d) Hội liên hiệp phụ nữ.” 6 lOMoAR cPSD| 59773091
Điều này có nghĩa là không phải bất kỳ ai và bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân
nào cũng có thể yêu cầu xác định cha, mẹ, con mà quyền này do pháp luật hôn
nhâ và gia đình quy định cho những chủ thể nhất định. Và chỉ những chủ thể là cá
nhân, cơ quan, tổ chức quy định có quyền mới có thể thực hiện việc yêu cầu xác
định cha mẹ con. Đồng thời cơ quan hộ tịch và tòa án chỉ nhận và xét đơn yêu cầu
của những chủ thể do luật này quy định mà thôi.
Điều luật quy định có 3 nhóm chủ thể quy định tại các khoản 1, 2, 3 tại Điều 102.
2.2 . Căn cứ xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con tự nhiên
2.2.1. Xác định cha, mẹ
Trong quan hệ hôn nhân gia đình thì quan hệ cha, mẹ, con là phức tạp hơn
cả và thường nảy sinh những vấn đề dẫn đến các tranh chấp. Vì vậy để tạo cơ sở
pháp lý cho việc giải quyết các vấn đề nêu trên, luật quy định cụ thể các nguyên
tắc về xác định cha, mẹ, con và các quy định khác liên quan.
Căn cứ pháp lý xác định cha, mẹ, con đó là thời kỳ hôn nhân, quy định tại
khoản 1 Điều 88 LHNGĐ 2014 quy định như sau:
“1. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời
kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng.
Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân
được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân.
Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con
chung của vợ chồng.”
Về việc xác định cha, mẹ, con, điều luật quy định các nguyên tắc chung là:
Thứ nhất, con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong
thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng.
Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng hợp pháp.
Thời kỳ hôn nhân được coi là một căn cứ quan trọng nhất để xác định tính đương
nhiên hoặc không đương nhiên trong việc xác định cha, mẹ, con. Khi hai bên nam 7 lOMoAR cPSD| 59773091
nữ xác lập quan hệ hôn nhân thì việc xác định cha, mẹ, con được căn cứ trước hết
trên cơ sở pháp lý, tức căn cứ thời kỳ hôn nhân. Trong trường hợp này thì huyết
thống không còn mang ý nghĩa quyết định trong việc xác định cha, mẹ, con nữa.
Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại của quan hệ vợ chồng, tính từ
ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân (ly hôn hoặc một bên chết).
Theo thủ tục đăng ký kết hôn, ngày đăng ký kết hôn sẽ được tính từ ngày hai
bên nam nữ ký vào giấy chứng nhận kết hôn, cán bộ tư pháp hộ tịch ghi vào Sổ
đăng ký kết hôn và Giấy chứng nhận kết hôn.
Tuy nhiên, trong trường hợp có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật thì
thời kỳ hôn nhân được xác định theo Thông tư liên tịch số
01/2016/TTLTTANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06 tháng 01 năm 2016 hướng
dẫn thi hành một số quy định của Luật HNGĐ 2014 như sau:
“Trường hợp tại thời điểm kết hôn, hai bên kết hôn không có đủ điều kiện kết
hôn nhưng sau đó có đủ điều kiện kết hôn theo quy định pháp luật thì Tòa án xử
lý như sau: Nếu hai bên kết hôn cùng yêu cầu Tòa án công nhân quan hệ hôn nhân
thì Tà án quyết định công nhận quan hệ hôn nhân đó kể từ thời điểm các bên kết
hôn có đủ điều kiện kết hôn.”
Như vậy, thời điểm bắt đầu thời kỳ hôn nhân được tính từ ngày đăng ký kết
hôn hoặc được tính từ thời điểm các bên kết hôn trái pháp luật nhưng Tòa án công
nhận quan hệ hôn nhân. Thời điểm chấm dứt hôn nhân khi vợ, chồng chết được
xác định theo ngày thực tế vợ hoặc chồng chết ghi trong giấy chứng tử. Trường
hợp chấm dứt hôn nhân khi có quyết định của Tòa án tuyên bố vợ hoặc chồng chết
thì ngày chết xác định theo quyết định của Tòa án và đó cũng là ngày chấm dứt
hôn nhân. Trường hợp chấm dứt hôn nhân do ly hôn thì ngày chấm dứt hôn nhân
là ngày bản án hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Pháp luật quy định biện pháp suy đoán pháp lý để xác định cha, mẹ, con như
vậy là hợp lý bởi hai bên nam nữ kết hôn với nhau là nhằm mục đích chung sống,
xây dụng gia đình nên việc sinh con được suy đoán là đương nhiên. 8 lOMoAR cPSD| 59773091
Thứ hai, con được sinh ra trong thời gian 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt
hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân.
Do vậy, khi giữa nam nữ có mối quan hệ hôn nhân thì con sinh ra kể từ ngày
hai bên nam nữ kết hôn cho đến 300 ngày sau ngày chấm dứt hôn nhân thì được
xác định là con chung của hai vợ chồng.
Quy định này xuất phát từ thực tế khoa học đã chứng minh thời kỳ mang thai
của người phụ nữ bao giờ cũng giới hạn trong 300 ngày. Có thể mọi người đã
quen với cách nói “mang thai 9 tháng 10 ngày” ( tương đương 280 ngày ) nhưng
trên thực tế, có không ít trường hợp người mẹ mạng thai nhiều hơn thời gian 9
tháng 10 ngày, thậm chí đến tháng thứ 10 mới sinh. Chính vì vậy, để đảm bảo tối
đa quyền vè lợi ích cho đứa trẻ, quy định con được sinh ra trong thời gian sinh
con trong vòng 300 ngày kể từ sau ngày chấm dứt hôn nhân vẫn là con do người
vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là hoàn toàn hợp lý và mang tính nhân đạo.
Thứ ba, con sinh ra trước thời kỳ hôn nhân, tức trước ngày đăng ký kết hôn
thì cũng là con chung nếu được cha mẹ thừa nhận là con chung.
Khi hôn nhân của hai bên nam nữ được hình thành sau khi đứa con sinh ra
nhưng được vợ chồng thừa nhận thì để bảo vệ lợi ích của đứa trẻ, pháp luật quy
định đứa trẻ là con chung của vợ chồng.
Mặt khác, pháp luật cũng đặt ra nhiều cơ chế để đảm bảo cho việc xác định
cha, mẹ, con được chính xác. Pháp luật hôn nhân và gia đình đã quy định nguyên
tắc hôn nhân một vợ một chồng, quy định những chế tài đối với việc kết hôn vi
phạm nguyên tắc này, chế tài trong pháp luật hôn nhân và gia đình, chế tài trong
pháp luật hành chính, pháp luật hình sự… điều đó làm tăng thêm ý thức trách
nhiệm của vợ chồng đối với nhau và đối với gia đình.
Nguyên tắc suy đoán pháp lý xác định cha, mẹ, con được đặt ra nhằm ổn định
mối quan hệ cha, mẹ, con cũng như quan hệ giữa các thành viên trong gia đình.
Do vậy, mỗi khi người vợ mang thai hoặc sinh con, người vợ không cần phải
chứng mình chồng mình là cha cửa đứa trẻ mà pháp luật mặc nhiên thừa nhận đứa
trẻ đó là con chung của hai vợ chồng. 9 lOMoAR cPSD| 59773091
Tuy nhiên, việc xác định thời điểm thụ thai và mang thai chỉ mang tính tương
đối. Trong đời sống hiện đại ngày nay, với sự đa dạng và phức tạp của các mối
quan hệ xã hội nên thực tế có nhiều trường hợp người vợ có thai hoặc sinh con
trong thời kỳ hôn nhân chưa chắc đã là con có cùng huyết thống với chồng. Đó là
lý do việc xác định cha, mẹ, con chỉ được coi là một nguyên tắc suy đoán pháp lý
và tư cách cha, me, con có thể bị xem xét lại. Khi tư cách cha, mẹ, con bị xem xét
lại, tức là các chủ thể trong quan hệ này muốn hướng tới việc xác định cha, mẹ,
con dựa trên căn cứ về mặt huyết thống.
Với việc quy định có tính nguyên tắc như trên đã tạo ra sự ràng buộc trách
nhiệm giữa vợ và chồng trong việc sinh con và buộc họ phải chịu trách nhiệm về
mối quan hệ của mình trong thời kỳ hôn nhân, tránh được việc đùn đẩy trách
nhiệm chứng minh cho người khác, làm mất tính ổn định cũng như gắn kết của gia đình truyền thống.
Đồng thời điều luật cũng quy định cho họ có quyền không thừa nhận con
nhưng họ phải có trách nhiệm chứng minh và phải do Tòa án xác định thông qua
việc chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của họ. Khoản 2 Điều 88 LHNGĐ 2014 quy định như sau :
“2. Trong trường hợp cha, mẹ không nhận con thì phải có chứng cứ và phải
được Tòa án xác định.”
2.2.2. Xác định con
“Điều 89. Xác định con 1.
Người không được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu
Tòa án xác định người đó là con mình. 2.
Người được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án
xác định người đó không phải là con mình.”
Điều luật quy định quyền của người không được nhận là cha mẹ và người
được nhận cha mẹ đối với việc xác định con mình hoặc xác định một người không phải là con mình. 10 lOMoAR cPSD| 59773091
Căn cứ vào cơ sở pháp lý này thì một người có thể yêu cầu Tòa án giải quyết
việc xác định con hoặc không phải là con mình.
Điều này có nghĩa là chỉ các chủ thể được điều luật quy định như trên mới
có thể thực hiện quyền yêu cầu tại Tòa án và những người khác (chủ thể khác) thì
không có các quyền nêu trên. Trong trường hợp những chủ thể không có quyền
vẫn thực hiện việc nộp đơn yêu cầu giải quyết thì Tòa án sẽ từ chối không thụ lý giải quyết.
2.3 . Thẩm quyền giải quyết vụ việc xác định cha, mẹ, con
Điều 101 LHNGĐ 2014 quy định về cơ quan có thẩm quyền giải quyết việc
xác định cha, mẹ, con như sau:
“1. Cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền xác định cha, mẹ, con theo quy
định của pháp luật về hộ tịch trong trường hợp không có tranh chấp.
2. Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con trong trường
hợp có tranh chấp hoặc người được yêu cầu xác định là cha, mẹ, con đã chết và
trường hợp quy định tại Điều 92 của Luật này.
Quyết định của Tòa án về xác định cha, mẹ, con phải được gửi cho cơ quan
đăng ký hộ tịch để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch; các bên trong
quan hệ xác định cha, mẹ, con; cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan theo quy
định của pháp luật về tố tụng dân sự.”
Để đảm bảo tính hợp pháp trong giải quyết các yêu cầu về xác định cha, mẹ,
con điều luật quy định thẩm quyền của các cơ quan nhà nước gồm:
Thứ nhất, cơ quan đăng ký hộ tịch. Cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền
xác định cha mẹ con theo quy định của pháp luật về hộ tịch trong trường hợp không có tranh chấp.
Thứ hai, Tòa án nhân dân. Tòa án có thẩm quyền xác định cha, mẹ, con trong
trường hợp có tranh chấp hoặc người được yêu cầu xác định là cha mẹ con đã chết
và trường hợp quy định tại Điều 92 LHNGĐ 2014. 11 lOMoAR cPSD| 59773091
Việc phân định và giao thẩm quyền như trên là cụ thể hóa chức năng, nhiệm
vụ của cơ quan có thẩm quyền của cơ quan nhà nước trong giải quyết các quan hệ
về gia đình mà cụ thể là việc xác định cha, mẹ, con. 12 lOMoAR cPSD| 59773091 KẾT LUẬN
Việc xác định cha, mẹ, con còn là một trong những cơ sở đảm bảo quyền
bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng, đặc biệt là quyền làm cha, làm mẹ
gắn liền với thiên chức tự nhiên của người đàn ông và người phụ nữ. Trong mối
quan hệ với các chế định pháp lý khác thì việc xác định cha, mẹ, con đóng vai trò
quan trọng, trong nhiều trường hợp là cơ sở pháp lý để cơ quan nhà nước có thẩm
quyền giải quyết các vụ việc như ly hôn, cấp dưỡng, hủy kết hôn trái pháp luật…
Nhìn chung, các quy định pháp luật về vấn đề xác định cha, mẹ, con trong
trường hợp sinh con tự nhiên hiện nay khá đầy đủ và toàn diện từ xác định quyền
được nhận cha, mẹ, con, nguyên tắc uy đoán xác định đến cơ quan có thẩm quyền
giải quyết. Mỗi quy định đều mang tính nhân văn, củng cố và ổn định tính gắn kết
của gia đình truyền thống, đảm bảo quyền lợi của các thành viên trong gia đình. 13 lOMoAR cPSD| 59773091
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
Luật hôn nhân và gia đình 2014. 2.
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình
Việt Nam, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội, 2013, tr.163-180. 3.
Lại Ngọc Lan, Xác định cha, mẹ, con tại Tòa án nhân dân và thực
tiễn áp dụng, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2019 , tr. 6-43. 4.
Nguyễn Ngọc Quyên, Nguyễn tắc xác định cha, mẹ cho con trong hệ
thống pháp luật Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2010, tr.3-42. 5.
Nguyễn Thị Ngọc Hân, Xác định cha, mẹ, con theo pháp luật Việt
Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2012, tr.19-34. 6.
Nguyễn Thị Lan, Bàn về thời gian mang thai tối đa và tối thiểu trong
việc xác định cha, mẹ, con, Tạp chí Luật học, số 8/2007, tr.30-35. 14